Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phẩm 01: Kinh Diêm Phù Ðề

12/03/201211:11(Xem: 6236)
Phẩm 01: Kinh Diêm Phù Ðề

KINH TRƯỜNG A HÀM

Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ

PHẦNIV


30.KINH THẾ KÝ
(bao gồm toàn bộ các phẩm nhỏ liệt kê dưới đây)
Phẩm01: Kinh Diệm Phù Ðề
Phẩm02: Kinh Uất-Ðan-Viết
Phẩm03: Kinh Chuyến Luân Thánh Vương
Phẩm04: Kinh Ðịa Ngục
Phẩm05: Kinh Long Ðiểu
Phẩm06: Kinh A-Tu-Luân
Phẩm07. Kinh Tứ Thiên Vương
Phẩm08: Kinh Ðao-Lợi Thiên
Phẩm09: Kinh Tam Tai
Phẩm10: Kinh Chiến Ðấu
Phẩm11: Kinh Ba Trung Kiếp
Phẩm12: Kinh Thế Bản Duyên

PHẨM1: CHÂU DIÊM-PHÙ-ĐỀ

Tôinghe như vầy:

Mộtthời, Phật ở trong hang Câu-lỵ, rừng Kỳ thọ, vườn Cấpcô độc, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm nămmươi người.

Bấygiờ, số đông Tỳ-kheo, sau bữa ăn, tập trung trên giảngđường cùng bàn luận rằng:

“ChưHiền! Thật chưa từng có, nay đây trời đất này do đâumà tan hoại? Do đâu mà hình thành? Quốc độ mà chúng sanhở là như thế nào?”

Khiấy, Thế Tôn ở chỗ thanh vắng, bằng thiên nhĩ nghe suốt,nghe các Tỳ-kheo, sau bữa ăn, tập trung tại giảng đường,bàn luận như thế. Rồi thì, Thế Tôn rời tĩnh thất, điđến giảng đường và ngồi xuống. Tuy đã biết nhưng ThếTôn vẫn hỏi các Tỳ-kheo:

“Vừarồi các thầy đang bàn luận về vấn đề gì?”

CácTỳ-kheo bạch Phật:

“Saubữa ăn, chúng con tập trung tại pháp giảng đường bàn luậnrằng: Chư Hiền! Thật chưa từng có, nay đây trời đất nàydo đâu mà tan hoại? do đâu mà hình thành? Quốc độ mà chúngsanh ở là như thế nào? Chúng con tập trung tại giảng đườngbàn luận vấn đề như thế.”

Phậtbảo các Tỳ-kheo:

“Lànhthay! Lành thay! Phàm người xuất gia nên hành hai pháp: mộtlà sự im lặng của Hiền thánh, hai là giảng luận pháp ngữ.Các thầy tập trung tại giảng đường cũng nên hành sự imlặng của Hiền thánh hoặc giảng luận Chánh pháp. Này cácTỳ-kheo! Các thầy muốn nghe Như Lai nói về việc trời đấtthành, hoại và quốc độ mà chúng sanh ở chăng?”

Khiấy, các Tỳ-kheo bạch Phật:

“Kínhvâng, bạch Thế Tôn! Nay thật là phải thời. Chúng con mongước được nghe. Thế Tôn nói xong, chúng con sẽ phụng trì!”

Phậtnói:

“Nàycác Tỳ-kheo! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Hãy suy nghĩ chínhchắn. Ta sẽ nói cho các thầy nghe.”

Phậtbảo các Tỳ-kheo:

“Nhưtrong chỗ mà một mặt trời, mặt trăng vận hành khắp bốnthiên hạ, tỏa ánh sáng chiếu; có một ngàn thế giới nhưvậy. Trong ngàn thế giới có một ngàn mặt trời, mặt trăng;có một ngàn núi chúa Tu-di; có bốn ngàn thiên hạ, bốn ngànđại thiên hạ, bốn ngàn biển, bốn ngàn biển lớn, bốnngàn rồng, bốn ngàn rồng lớn, bốn ngàn chim cánh vàng, bốnngàn chim cánh vàng lớn, bốn ngàn đường ác, bốn ngàn đườngác lớn, bốn ngàn vị vua, bốn ngàn vị vua lớn, bảy ngàncây lớn, tám ngàn địa ngục lớn, mười ngàn núi lớn, ngànDiêm-la vương, ngàn Tứ thiên vương, ngàn trời Đao-lợi, ngàntrời Diệm-ma, ngàn trời Đâu-suất, ngàn trời Hóa tựtại, ngàn trời Tha hóa tự tại, ngàn trời Phạm ; đó làtiểu thiên thế giới. Như một tiểu thiên thế giới, ngàntiểu thiên thế giới như thế là một trung thiên thế giới.Như một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giớinhư vậy là một tam thiên đại thiên thế giới. Phạm vi thếgiới thành hoại như thế là nơi chúng sanh cư trú, gọi làmột cõi Phật.”

Phậtbảo các Tỳ-kheo:

“Cõiđất này dày mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, biên giớivô hạn. Đất nương trên nước. Nước sâu ba ngàn ba mươido-tuần, biên giới vô hạn. Nước ở trên gió; gió dày sáungàn bốn mươi do-tuần, biên giới vô hạn.

“Nàycác Tỳ-kheo! Nước của biển lớn ấy sâu tám vạn bốn ngàndo-tuần, biên giới vô hạn. Núi chúa Tu-di, phần chìm xuốngbiển là tám vạn bốn ngàn do-tuần; phần trên mặt nướccao tám vạn bốn ngàn do-tuần; chân núi sát đất, phần lớnlà phần đất cứng chắc. Núi ấy thẳng đứng, không cólồi lõm, sanh các loại cây; cây tỏa ra các mùi hương, thơmkhắp núi rừng, là nơi mà phần nhiều các Hiền thánh, cáctrời đại thần diệu. Móng chân núi toàn là cát vàng ròng.Bốn phía núi có bốn mô đất rắn doi ra, cao bảy trăm do-tuần,nhiều màu đan xen, được tạo thành bởi bảy báu. Bốn môđất thoai thoải, uốn cong sát mặt biển.

“Núichúa Tu-di có đường cấp bằng bảy báu; đường cấp ởdưới núi rộng sáu mươi do-tuần; sát hai bên đường cóbảy lớp tường báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng,bảy lớp hàng cây; tường vàng thì cửa bạc, tường bạcthì cửa vàng; tường thủy tinh thì cửa lưu ly, tường lưuly thì cửa thủy tinh; tường xích châu thì cửa mã não; tườngmã não thì cửa xích châu; tường xa cừ thì cửa các báu.Còn lan can thì cây ngang vàng thì cây dọc bạc, cây ngang bạcthì cây dọc vàng; cây ngang thủy tinh thì cây dọc lưu ly,cây ngang lưu ly thì cây dọc thủy tinh; cây ngang xích châuthì cây dọc mã não, cây ngang mã não thì cây dọc xích châu;cây ngang xa cừ thì cây dọc các báu. Trên lan can ấy, có lướibáu. Ở dưới lưới vàng ấy có treo linh bạc. Dưới lướibạc, treo linh vàng. Dưới lưới lưu ly treo linh thủy tinh.Dưới lưới thủy tinh treo linh lưu ly. Dưới lưới xích châutreo linh mã não. Dưới lưới mã não treo linh xích châu. Dướilưới xa cừ treo linh các báu. Còn cây vàng thì rễ vàng, nhánhvàng, lá, hoa, quả bạc. Còn cây bạc thì rễ bạc, cành bạc,lá hoa quả vàng. Còn cây thủy tinh thì rễ, nhánh thủy tinh;hoa, lá, lưu ly. Còn cây lưu ly thì rễ, nhánh lưu ly; hoa, láthủy tinh. Còn cây xích châu thì rễ, nhánh xích châu; hoa,lá mã não. Còn cây mã não thì rễ nhánh mã não; hoa, lá xíchchâu. Còn cây xa cừ thì rễ, nhánh xa cừ; hoa lá các báu.

“Vềbảy lớp tường ấy, tường có bốn cửa; cửa có lan can.Trên bảy lớp tường đều có lầu, gác, đài, quán; bao bọcchung quanh là vườn cảnh, ao tắm, mọc các loài hoa lá báu.Cây báu sắp thành hàng. Hoa quả tốt tươi. Gió hương tỏabốn phía làm vui lòng người. Chim le le, nhạn, uyên ương,các loại chim kỳ lạ, có hàng ngàn giống loại không kểxiết, cùng hòa âm kêu hót. Lại nữa, đường cấp ở giữanúi chúa Tu-di rộng bốn mươi do-tuần, sát hai bên đườngcó bảy lớp tường báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới,bảy lớp hàng cây báu... cho đến vô số các loài chim cùngnhau ca hót, cũng như đường cấp ở dưới núi. Còn đườngcấp ở trên rộng hai mươi do-tuần, sát hai bên đường cóbảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớphàng cây báu... cho đến vô số các loài chim, cùng nhau ca hót,cũng như đường cấp ở giữa.”

Phậtbảo Tỳ-kheo:

“Đườngcấp ở dưới có quỷ thần tên là Già-lâu-la Túc ở. Đườngcấp ở giữa có quỷ thần tên là Trì Man ở. Đường cấpở trên có quỷ thần tên là Hỷ Lạc ở. Bốn doi đất caobốn vạn hai ngàn do-tuần. Ở đó có cung điện, chỗ ở củaTứ thiên vương; có bảy hàng thành, bảy hàng lan can, bảyhàng lưới, bảy hàng cây báu, các linh báu... cho đến vôsố các loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế.

“Trênđảnh núi Tu-di có cung trời Tam thập tam, có bảy vòng thành,bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây báu...cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại nhưthế.

“Vượtlên trời Tam thập tam một do-tuần, lại có cung trời Diệm-ma;qua khỏi cung trời Diệm-ma một do-tuần, lại có cung trờiĐâu-suất; qua khỏi cung trời Đâu-suất một do-tuần, lạicó cung trời Hóa tự tại; qua khỏi cung trời Hóa tự tạimột do-tuần, lại có cung trời Tha hóa tự tại; qua khỏitrời Tha hóa tự tại một do-tuần, lại có cung trời Phạm-gia-di.

“Khoảnggiữa trời Tha hóa tự tại và trời Phạm-gia-di có cung điệnMa thiên, cao rộng sáu ngàn do-tuần, có bảy lớp tường cung,bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây... chođến vô số các loài chim cùng nhau ca hót cũng lại như thế.Qua khỏi cung trời Phạm-gia-di một do-tuần, lại có cung trờiQuang âm; qua khỏi cung trời Quang âm một do-tuần lại cócung trời Biến tịnh; qua khỏi cung trời Biến tịnh mộtdo-tuần, lại có cung trời Quả thật; qua khỏi cung trờiQuả thật một do-tuần, lại có cung trời Vô tưởng ; quakhỏi cung trời Vô tưởng một do-tuần, lại có cung trờiVô tạo; qua khỏi cung trời Vô tạo một do-tuần, lại cócung trời Vô nhiệt; qua khỏi cung trời Vô nhiệt một do-tuần,lại có cung trời Thiện hiện; qua khỏi cung trời Thiện hiệnmột do-tuần, lại có cung trời Đại thiện hiện; qua khỏicung trời Đại thiện hiện một do-tuần, lại có cung trờiSắc cứu cánh, qua khỏi trời Sắc cứu cánh, trên có trờiKhông xứ trí, trời Thức xứ trí, trời Vô sở hữu xứ trí,trời Hữu tưởng vô tưởng xứ trí, ngang đây gọi là giớihạn của chúng sanh, thế giới chúng sanh, tất cả chúng sanhsanh, lão, bệnh, tử, thọ ấm, thọ hữu ngang đây, không vượtqua.

Phậtbảo các Tỳ-kheo: Phía Bắc núi Tu-di có một thiên hạ tênlà Uất-đan-viết . Lãnh thổ vuông vức, ngang rộng một vạndo-tuần; mặt người cũng vuông, giống như hình đất.

“PhíaĐông núi Tu-di có một thiên hạ tên là Phất-vu-đãi ; lãnhthổ tròn trịa, ngang rộng chín ngàn do-tuần. Mặt ngườicũng tròn, giống như hình đất.

“PhíaTây núi Tu-di có thiên hạ tên là Câu-da-ni, địa hình nhưnửa mặt trăng, ngang rộng tám ngàn do-tuần; mặt người cũngvậy, giống như hình đất.

“PhíaNam núi Tu-di có thiên hạ tên là Diêm-phù-đề, đất đai phíaNam hẹp, phía Bắc rộng, ngang rộng bảy ngàn do-tuần, mặtngười cũng vậy, giống như hình đất.

“MặtBắc núi Tu-di có ánh sáng được tạo thành do bởi vàng chiếusáng phương Bắc. Mặt Đông núi Tu-di có ánh sáng tạo thànhbởi bạc chiếu sáng phương Đông. Mặt Tây núi Tu-di có ánhsáng tạo thành bởi thủy tinh chiếu sáng phương Tây. MặtNam núi Tu-di có ánh sáng tạo thành bởi lưu ly chiếu sángphương Nam.

“ỞUất-đan-viết có một đại thọ chúa tên gọi là Am-bà-la,vòng thân bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá tỏara bốn phía năm mươi do-tuần. Cõi Phất-vu-đãi có một đạithọ, tên là Gia-lam-phù, vòng thân bảy do-tuần, cao một trămdo-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần. Cõi Câu-da-nicó một đại thọ, tên là Cân-đề, vòng thân bảy do-tuần,cao một trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần;dưới cây ấy, có tảng thạch ngưu tràng, cao một do-tuần.Cõi Diêm-phù-đề có một đại thọ tên là Diêm-phù, vòngthân bảy do-tuần, cao trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phíanăm mươi do-tuần. Điểu vương cánh vàng và Long vương cócây tên là Câu-lợi-thiểm-bà-la, vòng thân bảy do-tuần, caotrăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần.A-tu-la vương có cây tên là Thiện-trú, vòng thân bảy do-tuần,cao trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần.Trời Đao-lợi có cây tên là Trú-độ, vòng thân bảy do-tuần,cao trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươi do-tuần.

“Bênnúi Tu-di có núi tên là Già-đà-la, cao bốn vạn hai ngàn do-tuần,ngang dọc bốn vạn hai ngàn do-tuần, hai bên rất rộng, nhiềumàu đan xen, do bảy báu tạo thành; núi này cách núi Tu-di támvạn bốn ngàn do-tuần, khoảng giữa mọc toàn hoa Ưu-bát-la,hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lỵ, lau, tùng,trúc mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi thơm lan khắp.Cách núi Khư-đà-la không xa, có núi tên là Y-sa-đà-la, caohai vạn một ngàn do-tuần, ngang dọc hai vạn một ngàn do-tuần,hai bên rất rộng nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành; cáchnúi Khư-đà-la bốn vạn hai ngàn do-tuần, khoảng giữa mọctoàn hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoa Câu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lỵ;lau, tùng, trúc mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùithơm lan khắp. Cách núi Y-sa-đà-la không xa, có núi tên làThọ-cự-đà-la, cao một vạn hai ngàn do-tuần, ngang dọc mộtvạn hai ngàn do-tuần, hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen,bảy báu tạo thành; cách núi Y-sa-đà-la hai vạn một ngàndo-tuần, khoảng giữa mọc thuần bốn loài hoa tạp; lau, tùng,trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi thơmlan khắp. Cách núi Thọ-cự-đà-la không xa, có núi tên làThiện kiến, cao sáu ngàn do-tuần, ngang dọc sáu ngàn do-tuần,hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành,cách núi Thọ-cự-đà-la một vạn hai ngàn do-tuần, khoảnggiữa mọc toàn bốn loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọctrong đó, tỏa ra các loại hương, mùi hương xông khắp.

“Cáchnúi Thiện kiến không xa, có núi tên là Mã thực, cao ba ngàndo-tuần, ngang dọc ba ngàn do-tuần, hai bên rất rộng, nhiềumàu đan xen, bảy báu tạo thành; cách núi Thiện kiến sáungàn do-tuần, ở khoảng giữa mọc toàn bốn loại tạp hoa;lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương,mùi thơm lan khắp. Cách núi Mã thực không xa, có núi tên làNi-dân-đà-la, cao một ngàn hai trăm do-tuần, ngang dọc mộtngàn hai trăm do-tuần, bảy báu tạo thành; cách núi Mã thựcba ngàn do-tuần, ở khoảng giữa mọc toàn bốn loại tạphoa; lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương,mùi thơm lan khắp. Cách núi Ni-dân-đà-la không xa, có núi tênlà Điều phục, cao sáu trăm do-tuần, ngang dọc sáu trăm do-tuần,hai bên rất rộng, nhiều màu đan xen, bảy báu tạo thành;cách núi Ni-dân-đà-la một ngàn hai trăm do-tuần, khoảng giữamọc toàn bốn loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũng mọc trongđó, tỏa ra các loại hương, mùi thơm lan khắp. Cách núi Điềuphục không xa, có núi tên là Kim cang vi, cao ba trăm do-tuần,ngang dọc ba trăm do-tuần; hai bên rất rộng, nhiều màu đanxen, bảy báu tạo thành; cách núi Điều phục sáu trăm do-tuần,khoảng giữa mọc toàn bốn loại tạp hoa; lau, tùng, trúc cũngmọc trong đó, tỏa ra các loại hương mùi thơm lan khắp.

“Cáchnúi Đại kim cang không xa, có biển lớn, bờ phía Bắc củabiển lớn có cây đại thọ vương tên là Diêm-phù , vòngthân bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá tỏa ra bốnphía năm mươi do-tuần, khoảng đất trống hai bên lại cókhu rừng tên là Am-bà-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lạicó khu rừng tên là Diêm-bà, ngang dọc năm mươi do-tuần; lạicó khu rừng tên là Sa-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lạicó khu rừng tên là Đa-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lạicó khu rừng tên là Na-đa-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lạicó khu rừng tên là Nam, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại cókhu rừng tên là Nữ , ngang dọc năm mươi do-tuần; lại cókhu rừng tên là Tán-na, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại cókhu rừng tên là Chiên-đàn, ngang dọc năm mươi do-tuần; lạicó khu rừng tên là Khư-châu-la, ngang dọc năm mươi do-tuần;lại có khu rừng tên là Ba-nại-bà-la, ngang dọc năm mươido-tuần; lại có khu rừng tên là Tỳ-la, ngang dọc năm mươido-tuần; lại có khu rừng tên là Hương nại, ngang dọc nămmươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Lê, ngang dọc năm mươido-tuần; lại có khu rừng tên là An-thạch-lưu , ngang dọcnăm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Cam, ngang dọc nămmươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Ha-lê-lặc, ngang dọcnăm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Tỳ-hê-lặc, ngangdọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là A-ma-lặc,ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là A-ma-lê,ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Nại,ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Cam-giá,ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Vi, ngangdọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Trúc, ngangdọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Xá-la, ngangdọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Xá-la-nghiệp,ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên là Mộcqua, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tên Đạimộc qua, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khu rừng tênlà Giải thoát hoa, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có khurừng tên là Chiêm-bà, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại cókhu rừng tên là Bà-la-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lạicó khu rừng tên là Tu-ma-na, ngang dọc năm mươi do-tuần; lạicó khu rừng tên là Bà-sư, ngang dọc năm mươi do-tuần; lạicó khu rừng tên Đa-la-lê, ngang dọc năm mươi do-tuần; lạicó khu rừng tên là Già-da, ngang dọc năm mươi do-tuần; lạicó khu rừng tên là Bồ-đào, ngang dọc năm mươi do-tuần.

“Quakhỏi đó thì đất trống. Trong khoảng đất trống ấy lạicó ao hoa, ngang dọc năm mươi do-tuần. Lại có ao hoa Bát-đầu-ma,ao hoa Câu-vật-đầu, ao hoa Phân-đà-lỵ; rắn độc đầy trongđó. Mỗi ao ngang dọc năm mươi do-tuần.

“Quakhỏi đó, đất trống. Trong khoảng đất trống ấy có biểnlớn tên là Uất-thiền-na. Dưới biển này có con đườngcủa Chuyển luân thánh vương, rộng mười hai do-tuần; sáthai bên đường có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảylớp lưới, bảy lớp hàng cây. Các trang hoàng chung quanh đềudo bảy báu tạo thành. Khi Chuyểnluân thánh vương ra đời trên cõi Diêm-phù-đề thì nướctự nhiên rút đi, đường ấy hiện ra.

“Cáchbiển không xa, có núi tên là Kim bích. Trong núi có tám vạncái hang. Tám vạn tượng vương sống ở trong hang ấy. Thânchúng thuần trắng; đầu có nhiều màu; miệng có sáu ngà,giữa các răng có trám vàng.

“Quakhỏi núi Kim bích rồi, có núi tên là Tuyết sơn, ngang dọcnăm trăm do-tuần, sâu năm trăm do-tuần, phía Đông và Tâynhập vào biển. Ở giữa núi Tuyết có núi báu, cao hai mươido-tuần.

“Doiđất núi Tuyết trồi lên một trăm do-tuần, trên đảnh núiấy có ao A-nậu-đạt, ngang dọc năm mươi do-tuần; nướcao trong mát, lóng sạch không cáu bẩn; có bảy bậc bờ thềm,bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây,nhiều loại màu sắc khác lạ, do bảy báu tạo thành. Lan canthì trụ vàng, tay nắm bạc; trụ bạc, tay nắm vàng; trụlưu ly, tay nắm thủy tinh; trụ thủy tinh, tay nắm lưu ly; trụxích châu, tay nắm mã não; trụ mã não, tay nắm xích châu;trụ xa cừ, tay nắm bằng các báu. Lưới vàng, linh bạc; lướibạc, linh vàng; lưới lưu ly, linh thủy tinh; lưới thủy tinh,linh lưu ly; lưới xa cừ, linh bằng bảy báu. Cây Đa-la vàng,gốc vàng, nhánh vàng, lá bạc, quả bạc; cây Đa-la bạc, gốcbạc, nhánh bạc, lá vàng, quả vàng; cây thủy tinh, gốc, nhánhthủy tinh, hoa, quả lưu ly; cây xích châu, gốc, nhánh xíchchâu, lá mã não, hoa, quả mã não; cây xa cừ, gốc, nhánh xacừ, hoa, quả bằng các báu. Bên cạnh ao A-nậu-đạt có vườncảnh, ao tắm, các hoa tích tụ, các loại cây lá hoa quả đềutốt tươi; các loại hương thơm, lan tỏa bốn phương, cácloài chim lạ cùng cất tiếng hót họa nhau buồn bã. Dướiđáy ao A-nậu-đạt cát vàng đầy ắp, bốn phía ao đều cóthềm bậc; bậc vàng, thềm bạc, bậc bạc, thềm vàng; bậclưu ly, thềm thủy tinh, bậc thủy tinh, thềm lưu ly; bậc xíchchâu, thềm mã não, bậc mã não, thềm xích châu; bậc xa cừ,thềm bằng các báu, bao bọc chung quanh đều có lan can, cóbốn loài hoa: xanh, vàng, đỏ, trắng nhiều màu đan xen; hoanhư bánh xe, rễ như ổ trục xe; rễ hoa ra nhựa màu trắngnhư sữa, vị ngọt như mật. Phía Đông ao A-nậu-đạt cósông Hằng-già, từ miệng trâu chảy ra, dẫn theo năm trămcon sông, chảy vào biển Đông. Phía Nam ao A-nậu-đạt, cósông Tân-đầu, từ miệng sư tử chảy ra, dẫn theo năm trămdòng sông chảy vào biển Nam. Phía Tây ao A-nậu-đạt có sôngBà-xoa, từ miệng ngựa chảy ra, dẫn theo năm trăm dòng sôngnhập vào biển Tây. Phía Bắc ao A-nậu đạt có sông Tư-đà,từ miệng voi chảy ra, dẫn theo năm trăm dòng sông chảy vàobiển Bắc. Trong cung A-nậu-đạt có nhà năm cột, Long vươngA-nậu-đạt thường ở trong đó.”

Phậtnói:

“Vìsao gọi là A-nậu-đạt? A-nậu-đạt nghĩa là gì? Các Longvương ở Diêm-phù-đề này có đủ ba hoạn nạn, chỉ cóA-nậu-đạt không có ba hoạn nạn. Những gì là ba? Một là,toàn thể Long vương ở Diêm-phù-đề đều bị gió nóng, cátnóng chạm vào thân, thiêu đốt da thịt và thiêu đốt xươngtủy làm cho khổ não; chỉ có Long vương A-nậu-đạt khôngcó hoạn này. Hai là, toàn thể long cung ở Diêm-phù-đề bịgió dữ thổi mạnh, thổi vào trong cung, làm mất y báu phụcsức, thân rồng lộ ra, làm cho khổ não; chỉ có Long vươngA-nậu-đạt không có hoạn nạn như thế. Ba là toàn thể Longvương ở Diêm-phù-đề, khi ở trong cung vui chơi đều bịchim lớn cánh vàng bay vào cung dắt đi, hoặc mới nghĩ cáchmuốn bắt rồng để ăn thịt; các rồng sợ hãi, thườngôm lòng lo sầu; chỉ có Long vương A-nậu-đạt không bị hoạnnày; nếu chim cánh vàng khởi niệm muốn ở thì liền mạngchung, cho nên gọi là A-nậu-đạt.”

Phậtbảo Tỳ-kheo:

“Bênphải núi Tuyết có thành tên là Tỳ-xá-ly, phía Bắc củathành ấy có bảy núi đen. Phía Bắc của bảy núi đen cónúi Hương, núi ấy thường có tiếng âm nhạc, ca xướng,kỹ nhạc. Núi có hai hang, một hang tên là Trú, hang thứ haitên là Thiện trụ, do bảy báu trời tạo thành, mềm mạithơm sạch, giống như áo trời. Diệu âm Càn-thát-bà vươngcùng năm trăm Càn-thát-bà ở trong hang Trú đó. Phía Bắc hangThiện trú có cây đại thọ vương Ta-la, tên là Thiện trụ,có bốn ngàn thọ vương vây quanh bốn phía. Dưới Thiện trụthọ vương có tượng vương, cũng tên là Thiện trụ, ở dướicây này, thân thể toàn trắng, bảy chỗ đầy đặn, có thểbay đi; đầu nó màu đỏ, lông có nhiều màu; sáu ngà đềuthon, giữa được trám vàng, có tám ngàn voi vây quanh tùy tùng.Dưới tám ngàn thọ vương ấy, có tám ngàn voi, cũng lạinhư thế.

“PhíaBắc thọ vương Thiện trụ có ao tắm lớn, tên là Ma-đà-diên; ngang dọc năm mươi do-tuần; có tám ngàn ao tắm bao bọcchung quanh, nước ao trong mát, không có cáu bẩn, được baoquanh các bờ lũy đắp bằng bảy báu. Ao có bảy lớp lan can,bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây đều do bảy báu tạothành: tay nắm vàng thì trụ bạc, tay nắm bạc thì trụ vàng;tay nắm thủy tinh thì trụ lưu ly, tay nắm lưu ly thì trụthủy tinh; tay nắm xích châu thì trụ mã não, tay nắm mã nãothì trụ xích châu; tay nắm xa cừ thì trụ bằng các báu;dưới lưới vàng treo linh bạc, dưới lưới bạc treo linhvàng; lưới thủy tinh treo linh lưu ly, lưới lưu ly treo linhthủy tinh; lưới xích châu treo linh mã não, lưới mã não treolinh xích châu; lưới xa cừ treo linh các báu. Cây vàng thìrễ vàng, nhánh vàng, lá hoa quả bạc; cây bạc thì rễ bạc,nhánh bạc, lá hoa quả vàng; cây thủy tinh thì rễ, nhánh thủytinh, hoa quả lưu ly; cây lưu ly thì rễ, nhánh lưu ly, hoa quảthủy tinh; cây xích châu thì rễ, nhánh xích châu, hoa quảmã não; cây mã não thì rễ, nhánh mã não, hoa quả xích châu;cây xa cừ thì rễ nhánh xa cừ, hoa, quả các báu.

“Lạinữa, dưới đáy ao ấy, cát vàng rải khắp, bọc chung quanhao có đường thềm cấp bằng bảy báu; thềm vàng cấp bạc,thềm bạc cấp vàng; thềm thủy tinh cấp lưu ly, thềm lưuly cấp thủy tinh; thềm xích châu, cấp mã não, thềm mã não,cấp xích châu; thềm xa cừ, cấp các báu. Sát hai bên thềmcó lan can báu. Lại trong ao ấy, sanh bốn loài hoa: xanh, vàng,đỏ, trắng nhiều màu đan xen; hoa như bánh xe, rễ như ổtrục xe. Rễ hoa ra nhựa màu trắng như sữa, vị ngọt nhưmật. Vòng quanh bốn phía ao có vườn cảnh, rừng, ao tắm,mọc đủ các loại hoa; cây cối xanh tươi, hoa quả dồi dào,vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng giống như trước.Tượng vương Thiện trụ khi nghĩ muốn dạo chơi vào ao tắmthì liền nghĩ đến tám ngàn voi khác. Khi ấy tám ngàn voilại tự nghĩ: “Tượng vương Thiện trụ đang nghĩ đếnchúng ta, chúng ta nên đến chỗ tượng vương”. Bầy voi liềnđi đến đứng trước tượng vương.

“Bấygiờ, tám ngàn voi theo tượng vương Thiện trụ đến ao Ma-đà-diên.Trong bầy voi ấy, có con cầm lọng che tượng vương, có concầm quạt báu quạt tượng vương; trong đó có con tấu xướngkỹ nhạc đi trước mở đường. Tượng vương Thiện trụvào ao tắm rửa, tấu xướng kỹ nhạc, cùng nhau vui chơi;có con rửa vòi cho tượng vương, có con rửa miệng, gội đầu;rửa ngà, rửa tai, rửa bụng, kỳ lưng, rửa đuôi, rửa chân;trong đó có con nhổ gốc hoa rửa sạch dâng voi ăn, có conlấy bốn loại hoa rải trên voi.

“Tượngvương Thiện trụ tắm rửa, ăn uống, cùng nhau vui chơi xong,liền lên bờ, đi đến đứng ở cây Thiện trụ. Tám ngàncon voi, sau đó, mới vào ao tắm rửa, ăn uống, cùng nhau vuichơi, xong rồi trở ra, đến chỗ tượng vương.

“Khiấy, tượng vương cùng tám ngàn voi tùy tùng sau trước, đếnchỗ thọ vương Thiện trụ; trong đó có con cầm lọng chetượng vương; có con cầm quạt quạt tượng vương; trong đócó con tấu xướng kỹ nhạc đi trước mở đường. Khi tượngvương Thiện trụ đến chỗ thọ vương rồi, ngồi nằm điđứng tùy ý, tám ngàn voi khác ở dưới các cây, tự do ngồinằm đi đứng tùy ý. Trong rừng cây ấy, có cây chu vi támtầm, có cây chu vi chín tầm, cho đến mười tầm, mười lămtầm, chỉ có thọ vương Ta-la của voi chúa Thiện trụ chuvi mười sáu tầm. Khi cành lá của tám ngàn cây Ta-la rơi rụngthì có luồng gió mát thổi bay xa ra ngoài khu rừng. Lại khitám ngàn voi đại tiểu tiện thì các quỷ Dạ-xoa hốt bỏngoài rừng.”

Phậtbảo các Tỳ-kheo:

“Tượngvương Thiện trụ có đại thần lực, công đức như thế;tuy là loài súc sanh mà hưởng phước như vậy.”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567