LĂNGGIÀA BẠT ĐA LA BỬU KINH
PhápSư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La dịch từ Phạn sangHán đời nhà Tống.
ViệtDịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Phần 2)
QUYỂNTHỨ NHÌ
Khiấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng:
-Cúi xin Thế Tôn thuyết những pháp: Nhất hay dị, đồng haychẳng đồng, hữu và vô, hay chẳng hữu chẳng vô, thườnghay vô thường, chổ chẳng hành của tất cả ngoại đạo,là chỗ hành của Tự Giác Thánh Trí, lìa vọng tưởng tựtướng cộng tướng, vào Đệ Nhất Nghĩa chơn thật. Các địatương tục, dần dần tiến lên, đến chổ tướng cùng tộtthanh tịnh, liền vào tướng địa của Như Lai, chẳng mởmang bản nguyện. Ví như hạt châu Ma Ni có nhiều hình sắccảnh giới vô biên tướng hạnh, nay chỉ hiện tượng bộphận trong tự tâm, nơi tất cả các pháp, nếu con và cácvị Đại Bồ Tát, lìa kiến chấp tự tướng cộng tướngcủa vọng tưởng tự tánh như trên, sẽ chứng được VôThượng Bồ Đề, khiến tất cả chúng sanh đầy đủ sungmãn tất cả an lạc.
Phậtbảo Đại Huệ :
- Lànhthay! Lành thay! Ngươi khéo hỏi ta các nghĩa như thế, là thươngmến tất cả chư Thiên, người đời, khiến họ được nhiềuan lạc và nhiều lợi ích. Đại Huệ! hãy chú ý nghe và khéoghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi phân biệt giải thuyết.
ĐạiHuệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Lànhthay! Thế Tôn, con xin thọ giáo.
Phậtbảo Đại Huệ :
- Phàmphu ngu si, chẳng biết tâm lượng, chấp lấy tánh trong ngoài,dựa theo vọng tưởng chấp trước nhất, dị, đồng, và chẳngđồng, hữu và vô, và phi hữu phi vô, thường và vô thườngv.v... làm nhân, huân tập tự tánh, ví như bày nai khát nước,thấy dương diệm tưởng là nước, mê hoặc đuổi theo màkhông biết chẳng phải nước. Phàm phu cũng thế, do vọngtưởng hư ngụy từ vô thỉ sở huân tập mà bị tam độcđốt tâm, ham cảnh giới sắc, thấy sanh, trụ, diệt, chấptánh trong ngoài, nên đọa nơi vọng kiến nhiếp thọ, sanhra tư tưởng nhất, dị, đồng, chẳng đồng, hữu, vô, phihữu phi vô, thường và vô thường v. v... Như thành Càn ThátBà vốn chẳng phải thành, mà phàm phu vô trí lại cho là cóthành thiệt, ấy là do tập khí chấp trước từ vô thỉ màhiện tướng, thật ra chẳng phải có thành, cũng chẳng phảikhông có thành. Như thế, ngoại đạo do tập khí chấp trướchư ngụy từ vô thỉ, mà nương theo kiến chấp nhất, dị,đồng, chẳng đồng... chẳng khéo liễu tri tự tâm hiện lượng.Ví như có người nằm mơ, thấy nam nữ, voi ngựa xe cộ, thànhấp, vườn rừng, núi sông, ao hồ, đủ thứ trang nghiêm, tựthân thọ dụng trong đó, sau khi thức rồi vẫn cò tưởngnhớ. Đại Huệ! Ý ngươi thế nào? Người ấy tưởng nhớviệc mộng trước kia mãi mãi chẳng bỏ như thế, là có tríhuệ chăng?
ĐạiHuệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Khôngạ,Thế Tôn!
Phậtbảo Đại Huệ :
- Phàmphu như thế, chẳng biết tánh do tự tâm hiện như mộng huyễn,nương nơi kiến chấp nhất, dị, đồng, chẳng đồng v.v...Ví như bức tranh vốn chẳng cao thấp mà phàm phu cho là cócao thấp, vì bị ác kiến ăn nuốt, hoặc chấp trí huệ củangoại đạo. Như thế, từ ngoại đạo xưa cho đến ngoạiđạo đời vị lai, tập khí ác kiến sung mãn, do đó tự hoạihoại tha. Ngoại đạo cũng lập luận Vô Sanh, mà lọt vàoác kiến, phỉ báng nhân quả, cũng nói là vô, lại nhổ gốcthiện căn, hoại nhân thanh tịnh. Họ đọa vào kiến chấptự sanh, tha sanh, cộng sanh và tư tưởng hữu vô, chìm nơikiến lập và phỉ báng, do ác kiến này nên đoại địa ngục.
- Vínhư mắt nhặm, thấy có hoa đốm mà nói với chúng rằng:''Các ngươi xem đây, ấy là hoa đốm, cứu cánh Phi tánh Phivô tánh, thấy như chẳng thấy." Vì ngoại đạo này vọngsanh hy vọng, dựa theo kiến chấp nhất, dị, đồng hay chẳngđồng v.v... mà phỉ báng chánh pháp, tự đọa và khiến ngườikhác đạo theo.
- Vínhư vòng lửa chẳng phải vòng mà phàm phu tưởng là vòng.Ngoại đạo ác kiến hy vọng như thế, do đó tất cả tánhsanh. Ví như bọt nước giống như hạt châu Ma Ni, phàm phuTiểu thừa chẳng có trí huệ lại tưởng là châu Ma Ni, vàphi châu Ma Ni, chấp trước đuổi theo. Nhưng bọt nước kiachẳng phải châu Ma Ni, chẳng phải lấy hay chẳng lấy. Chỉvì ác kiến của ngoại đạo do tập khí huân tập như thế,ở nơi Vô Sở Hữu mà nói có sự sanh, do duyên theo hữu lạinói có sự diệt.