Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phẩm 17: Phân biệt công đức

23/10/201015:58(Xem: 6672)
Phẩm 17: Phân biệt công đức

PHẨM 17

PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC

Phân Biệt Công Đức là giảntrạch cho thấy rõ công đức của kinh này hơn các kinh khác, hoặc công đức củangười tu theo kinh Pháp Hoa như thế nào.

Ba phẩmTùng Địa Dũng Xuất, Như Lai Thọ Lượng và Phân Biệt Công Đức có liên hệ mậtthiết với nhau, nên khi giảng không thể tách rời được. Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất,Phật chỉ cho thấy Tri kiến Phật. Sau khi đã chỉ, nếu thính chúng còn nghi ngờthì phẩm Như Lai Thọ Lượng, Phật xác định Tri kiến Phật không phải mới có mà nóđã có từ thuở nào, không hạn cuộc bởi không gian và vượt khỏi thời gian. Tớiphẩm Phân Biệt Công Đức cho chúng sanh thấy rằng người nhận ra Tri kiến Phậtnơi mình công đức không thể tính kể, lớn hơn người tu các hạnh khác như bố thí,trì giới, nhẫn nhục... vì đó là pháp hữu vi có hình tướng còn sanh diệt, nên cógiới hạn, còn Tri kiến Phật là pháp vô vi không hình tướng, không sanh khôngdiệt, vượt khỏi không gian và thời gian, không thể suy lường tính kể được, vìvậy nên nói người nhận hiểu hay thọ trì kinh Pháp Hoa công đức hơn tất cả.

CHÁNH VĂN:

1.- Lúc bấy giờ, trong đạihội nghe Phật nói thọ mạng, kiếp số dài lâu như thế, vô lượng, vô biên, vô sốchúng sanh được lợi ích lớn.

Khi đó, đức Thế Tôn bảongài Di-lặc đại Bồ-tát:

- A-dật-đa! Lúc ta nói đứcNhư Lai thọ mạng dài lâu như thế, có sáu trăm tám mươi muôn ức na-do-tha hằnghà sa chúng sanh được “Vô sanh pháp nhẫn”.

Lại có đại Bồ-tát nghìn lầngấp bội được môn “Văn trì đà-la-ni”. Lại có một thế giới vi trần số đại Bồ-tátđược “Nhạo thuyết vô ngại biện tài”. Lại có một thế giới vi trần số đại Bồ-tátđược trăm nghìn muôn ức vô lượng môn “Triền đà-la-ni”. Lại có tam thiên đại thiên thế giới vi trần số đạiBồ-tát chuyển được “Pháp luân bất thoái”.

Lại có nhị thiên trung quốcđộ vi trần số đại Bồ-tát chuyển được “Pháp luân thanh tịnh”. Lại có tiểu thiênquốc độ vi trần số đại Bồ-tát tám đời sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.Lại có bốn tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ-tát bốn đời sẽ được Chánh đẳng Chánhgiác. Lại có ba tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ-tát ba đời sẽ được Vô thượngChánh đẳng Chánh giác. Lại có hai tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ-tát hai đời sẽđược Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại có một tứ thiên hạ vi trần số đạiBồ-tát một đời sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lại có tám thế giới vi trầnsố chúng sanh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

GIẢNG:

Mở đầu phẩm Phân Biệt CôngĐức, Phật nhắc lại kết quả sau khi Phật nói về thọ lượng của Như Lai, thì tronghàng Bồ-tát Thánh chúng đều trụ bất thoái, hoặc còn một đời, hai đời... thìchứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, số Bồ-tát đó nhiều vô số không thểkể xiết.

CHÁNH VĂN:

2.- Lúc đức Phật nói các vịđại Bồ-tát đó được pháp lợi, trên giữa hư không, rưới hoa mạn-đà-la, hoa ma-hamạn-đà-la, để rải vô lượng trăm nghìn muôn ức các đức Phật ngồi trên tòa sư tửdưới cội cây báu, và rải đức Thích-ca Mâu-ni Phật cùng đức Đa Bửu Phật ngồitrên tòa sư tử trong tháp bảy báu, cùng rải tất cả các đại Bồ-tát và bốn bộchúng.

Lạirưới bột gỗ chiên-đàn, trầm thủy hương v.v... trong hư không, trống trời tự kêutiếng hay sâu xa.

Lại rảinghìn thứ thiên y, thòng các chuỗi ngọc, chuỗi ngọc trân châu, chuỗi châuma-ni, chuỗi châu như ý khắp cả chín phương, các lò hương báu đốt hương vô giá,tự nhiên khắp đến cúng dường đại chúng.

Trên mỗi đức Phật có các vịBồ-tát nắm cầm phan lọng, thứ đệ mà lên đến trời Phạm thiên. Các vị Bồ-tát đódùng tiếng tăm hay, ca vô lượng bài tụng ngợi khen các đức Phật.

Khi ấy, ngài Di-lặc Bồ-táttừ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, chấp tay hướng về phía Phật mà nóikệ rằng:

3.-

Phật nói pháp ít có
Từ xưa chưa từng nghe
Thế Tôn có sức lớn
Thọ mạng chẳng thể lường.
Vô số các Phật tử
Nghe Thế Tôn phân biệt
Nói được pháp lợi đó
Vui mừng đầy khắp thân
Hoặc trụ bậc Bất thoái
Hoặc được Đà-la-ni
Hoặc Vô ngại nhạo thuyết
Muôn ức Triền tổng trì.
Hoặc có cõi Đại thiên
Số vi trần Bồ-tát
Mỗi vị đều nói được
Pháp luân bất thoái chuyển.
Hoặc có Trung thiên giới
Số vi trần Bồ-tát
Mỗi vị đều có thể
Chuyển pháp luân thanh tịnh.
Lại có Tiểu thiên giới
Số vi trần Bồ-tát
Còn dư lại tám đời
Sẽ được thành Phật đạo.
Lại có bốn, ba, hai
Tứ thiên hạ như thế
Số vi trần Bồ-tát
Theo số đời thành Phật.
Hoặc một Tứ thiên hạ
Số vi trần Bồ-tát
Còn dư có một đời
Sẽ thành Nhứt thiết trí.
Hàng chúng sanh như thế
Nghe Phật thọ dài lâu
Được vô lượng quả báo
Vô lậu rất thanh tịnh.
Lại có tám thế giới
Số vi trần chúng sanh
Nghe Phật nói thọ mạng
Đều phát tâm Vô thượng.

4.-

Thế Tôn nói vô lượng
Bất khả tư nghì pháp
Nhiều được có lợi ích
Như hư không vô biên
Rưới hoa thiên mạn-đà
Hoa ma-ha mạn-đà
Thích, Phạm như hằng sa
Vô số cõi Phật đến
Rưới chiên-đàn trầm thủy
Lăng xăng loạn xạ xuống
Như chim bay liệng đáp
Rải cúng các đức Phật.
Trống trời trong hư không
Tự nhiên vang tiếng mầu,
Áo trời nghìn muôn thứ
Xoay chuyển mà rơi xuống
Các lò hương đẹp báu
Đốt hương quí vô giá
Tự nhiên đều cùng khắp
Cúng dường các Thế Tôn.
Chúng đại Bồ-tát kia
Cầm phan lọng bảy báu
Cao đẹp muôn ức thứ
Thứ lớp đến Phạm thiên.
Trước mỗi mỗi đức Phật
Tràng báu treo phan tốt
Cũng dùng nghìn muôn kệ
Ca vịnh các Như Lai
Như thế các món việc
Từ xưa chưa từng có
Nghe Phật thọ vô lượng
Tất cả đều vui mừng
Phật tiếng đồn mười phương
Rộng lợi ích chúng sanh
Tất cả đủ căn lành
Để trợ tâm Vô thượng.

GIẢNG:

Các vị Bồ-tát khi nghe Phậtnói phẩm Như Lai Thọ Lượng, thì các ngài đều được lòng tin bất thoái và chứngđược quả vị trên đường tu, để tiến tới Phật quả không còn ngăn ngại. Vì vậy nênđược chư thiên rải hoa hương, chuỗi ngọc... cúng dường và trống trời trỗi lênvới lòng khen ngợi ca tụng công đức của Phật.

CHÁNH VĂN:

5.- Lúcbấy giờ, Phật bảo ngài Di-lặc đại Bồ-tát:

-A-dật-đa! Có chúng sanh nào nghe đức Phật thọ mạng dài lâu như thế, nhẫn đến cóthể sanh một niệm tín giải, được công đức không thể hạn lượng. Nếu có thiện namtử, thiện nữ nhân, vì đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, trong tám mươi muônức na-do-tha kiếp tu năm pháp Ba-la-mật: Bố thí ba-la-mật, Trì giới ba-la-mật,Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền định ba-la-mật, trừ Trí tuệba-la-mật, đem công đức này sánh với công đức tín giải trước, trăm phần, nghìnphần, trăm nghìn muôn ức phần chẳng kịp một, nhẫn đến tính đếm, thí dụ, khôngthể biết được. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân có công đức như thế mà thoáithất nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thời quyết không có lẽ đó.

Khi ấy, đức Thế Tôn muốntuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

6.-

Nếu người cầu huệ Phật
Trong tám mươi muôn ức
Na-do-tha kiếp số
Tu năm Ba-la-mật
Ở trong các kiếp đó
Bố thí cúng dường Phật
Và Duyên giác đệ tử
Cùng các chúng Bồ-tát,
Đồ uống ăn báu lạ
Thượng phục và đồ nằm
Chiên-đàn dựng tinh xá
Dùng vườn rừng trang nghiêm
Bố thí như thế thảy
Các món đều vi diệu
Hết các kiếp số này
Để hồi hướng Phật đạo,
Nếu lại gìn cấm giới
Thanh tịnh không thiếu sót
Cầu nơi đạo Vô thượng
Được các Phật ngợi khen,
Nếu lại tu nhẫn nhục
Trụ nơi chỗ điều nhu
Dầu các ác đến hại
Tâm đó chẳng khuynh động
Các người có được pháp
Cưu lòng tăng thượng mạn
Bị bọn này khinh não
Như thế đều nhẫn được,
Hoặc lại siêng tinh tấn
Chí niệm thường bền vững
Trong vô lượng ức kiếp
Một lòng chẳng trễ thôi,
Lại trong vô số kiếp
Trụ nơi chỗ vắng vẻ
Hoặc ngồi hoặc kinh hành
Trừ ngủ thường nhiếp tâm
Do các nhân duyên đó
Hay sanh các Thiền định
Tám mươi ức muôn kiếp
An trụ tâm chẳng loạn
Đem phước Thiền định đó
Nguyện cầu đạo Vô thượng
Ta được Nhứt thiết trí
Tận ngằn các Thiền định,
Người đó trong trăm nghìn
Muôn ức kiếp số lâu
Tu các công đức này
Như trên đã nói rõ,
Có thiện nam, tín nữ.
Nghe ta nói thọ mạng
Nhẫn đến một niệm tin
Phước đây hơn phước kia
Nếu người trọn không có
Tất cả các nghi hối
Thân tâm giây lát tin
Phước đó nhiều như thế.
Nếu có các Bồ-tát
Vô lượng kiếp hành đạo
Nghe ta nói thọ mạng
Đây thời tin nhận được
Các hàng người như thế
Lãnh thọ kinh điển này
Nguyện ta thuở vị lai
Sống lâu độ chúng sanh
Như Thế Tôn ngày nay
Vua trong các họ Thích
Đạo tràng rền tiếng lớn
Nói pháp không sợ sệt
Chúng ta đời vị lai
Được mọi người tôn kính
Lúc ngồi nơi đạo tràng
Nói thọ mạng cũng thế.
Nếu có người thâm tâm
Trong sạch mà ngay thật
Học rộng hay tổng trì
Tùy nghĩa giải lời Phật
Những người như thế đó
Nơi đây không có nghi.

GIẢNG:

Tới đây Phật xác nhận một cáchrõ ràng, nếu có chúng sanh nào nghe thọ mạng của Phật dài lâu như thế, mà cólòng tín giải thì công đức không thể hạn lượng được. Tín giải là tin nhận, tinnhận Tri kiến Phật ở chính mình không mảy may nghi ngờ. Phật so sánh người tunăm hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định trải qua tám mươimuôn ức na-do-tha kiếp, công đức người này không bằng một phần công đức củangười tin nhận Tri kiến Phật ở chính mình. Tại sao? Vì năm hạnh trên thuộc pháphữu vi, có tướng sanh diệt nên quả báo có hạn lượng. Còn Tri kiến Phật thìkhông hình tướng không hạn lượng, lấy pháp hữu vi hạn lượng mà sánh với pháp vôvi không hạn lượng thì không thể nào sánh kịp. Việc tu không phải khó mà cũngkhông phải dễ. Không khó, nếu chúng ta nhận hiểu được lý kinh rồi tu, thì đơngiản không tốn công nhiều mà trí tuệ đạo lực tăng trưởng. Ngược lại, ngườikhông lãnh hội được lý kinh, mà dùng công sức khổ cực để tu, như lạy từng chữkinh Pháp Hoa, từ năm này qua năm khác mà trí tuệ chưa sáng, đó là tu khó. Nhưvậy, người nghe kinh Pháp Hoa sống được với Tri kiến Phật, ngày ngày sanh hoạtbình thường bẻ củi nấu cơm, sánh với người ngày ngày y hậu nghiêm trang, khổcông lạy từng chữ kinh Pháp Hoa, mà trí tuệ không sáng, hai người ấy người nàohơn? - Người sống với Tri kiến Phật.

Tóm lại, người không đạt đượcyếu chỉ Phật dạy, cứ hành khổ hạnh nhọc nhằn thân xác để cầu Phật đạo, tuy tốnnhiều công mà kết quả không bao nhiêu, chỉ được phước hữu lậu thế gian thôi.Còn người nhận được yếu chỉ Phật dạy, sống được với Tri kiến Phật của mình,dụng công ít mà công đức thì vô lượng vô biên.

CHÁNH VĂN:

7.- LạiA-dật-đa! Nếu có người nghe nói đức Phật thọ mạng dài lâu, hiểu ý thú của lờinói đó, người này được công đức không có hạn lượng, có thể sanh huệ Vô thượngcủa Như Lai. Huống là người rộng nghe kinh này, hoặc bảo người nghe, hoặc tựthọ trì, hoặc bảo người thọ trì, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, hoặc đemhoa hương, chuỗi ngọc, tràng phan, lọng nhiễu, dầu thơm, đèn nến cúng dường quyểnkinh, công đức của người này vô lượng vô biên có thể sanh Nhứt thiết chủng trí.

A-dật-đa! Nếu thiện nam tử,thiện nữ nhân nghe ta nói thọ mạng dài lâu sanh lòng tin hiểu chắc, thời chínhlà thấy đức Phật thường ở núi Kỳ-xà-quật, cùng chúng Bồ-tát lớn và hàng Thanhvăn vây quanh nói pháp.

Lại thấy cõi Ta-bà này đấtbằng lưu-ly ngang liền bằng thẳng, dây vàng diêm-phù-đàn để ngăn tám nẻo đường,cây báu bày hàng, các đài lầu nhà thảy đều có các thứ báu hiệp thành, chúngBồ-tát đều ở trong đó. Nếu có người tưởng quán được như thế, phải biết đó làtướng tin hiểu sâu chắc.

Và lại sau khi đức Như Laidiệt độ, nếu có người nghe kinh này mà không chê bai, sanh lòng tùy hỉ, phảibiết đó đã là tướng tin hiểu sâu chắc, huống là người đọc tụng, thọ trì kinhnày, người này thời là kẻ đầu đội đức Như Lai.

A-dật-đa! Thiện nam tử cùngthiện nữ nhân đó chẳng cần lại vì ta mà dựng chùa tháp, và cất tăng phường dùngbốn sự cúng dường để cúng dường chúng Tăng. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữnhân đó thọ trì, đọc tụng kinh điển này thời là đã dựng tháp, tạo lập tăngphường cúng dường chúng Tăng, thời là đem xá-lợi của Phật dựng tháp bảy báu caorộng nhỏ lần lên đến trời Phạm thiên, treo các phan lọng và các linh báu, hoahương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, các trống, kỹ nhạc, ốngtiêu, ống địch, không hầu, các thứ múa chơi, dùng tiếng giọng tốt ca ngâm khenngợi, thời là ở trong vô lượng nghìn muôn ức kiếp đã làm việc cúng dường đórồi.

A-dật-đa! Nếu sau khi tadiệt độ, nghe kinh điển này, có người hay thọ trì, hoặc tự chép, hoặc bảo ngườichép, thời là dựng lập tăng phường, dùng gỗ chiên-đàn đỏ làm cung điện nhà cửaba mươi hai sở, cao bằng tám cây đa-la, cao rộng nghiêm đẹp, trăm nghìn Tỳ-kheoở trong đó. Vườn, rừng, ao tắm, chỗ kinh hành, hang ngồi thiền, y phục, đồ uốngăn, giường nệm, thuốc thang tất cả đồ vui dẫy đầy trong đó, tăng phường có ngầnấy trăm nghìn muôn ức nhà gác như thế, số đó nhiều vô lượng, dùng để hiện tiềncúng dường nơi ta và Tỳ-kheo tăng.

Cho nên ta nói: Sau khi tadiệt độ, nếu có người thọ trì, đọc tụng, vì người khác nói, hoặc mình chép hoặcbảo người chép, cúng dường kinh quyển thời chẳng cần lại dựng chùa tháp và tạolập tăng phường cúng dường chúng Tăng. Huống lại có người hay thọ trì kinh nàymà gồm tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, côngđức của người đây rất thù thắng vô lượng vô biên.

Thí nhưhư không, Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía trên, dưới vô lượng vô biên, công đứccủa người đó cũng lại như thế vô lượng vô biên mau đến bậc Nhứt thiết chủngtrí. Nếu có người đọc tụng, thọ trì kinh này vì người khác nói, hoặc tự chép,hoặc bảo người chép, lại có thể dựng tháp cùng tạo lập tăng phường cúng dườngkhen ngợi chúng Thanh văn tăng, cũng dùng trăm nghìn muôn pháp ngợi khen màngợi khen công đức của Bồ-tát.

Lại vì người khác dùng cácmón nhân duyên theo nghĩa giải nói kinh Pháp Hoa này, lại có thể thanh tịnh trìgiới cùng người nhu hòa mà chung cùng ở, nhẫn nhục không sân, chí niệm bềnvững, thường quí ngồi thiền được các món định sâu, tinh tấn, mạnh mẽ nhiếp cácpháp lành, căn lành trí sáng, giỏi gạn hỏi đáp.

A-dật-đa! Nếu sau khi tadiệt độ, các thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì, đọc tụng kinh điển này lại cócác công đức lành như thế, phải biết người đó đã đến đạo tràng gần Vô thượngChánh đẳng Chánh giác ngồi dưới cội đạo thọ.

A-dật-đa! Chỗ của thiện namtử cùng thiện nữ nhân đó hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, trong đó bèn nên xâytháp, tất cả trời, người đều phải cúng dường như tháp của Phật.

Khi ấy, đức Thế Tôn muốntuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

8.-

Sau khi ta diệt độ
Hay phụng trì kinh này
Người đó phước vô lượng
Như trên đã nói rõ.
Đó thời là đầy đủ
Tất cả các cúng dường
Dùng xá-lợi xây tháp
Bảy báu để trang nghiêm.
Chùa chiền rất cao rộng
Nhỏ dần đến Phạm thiên
Linh báu nghìn muôn ức
Gió động vang tiếng mầu,
Lại trong vô lượng kiếp
Mà cúng dường tháp đó
Hoa hương, các chuỗi ngọc
Thiên y, các kỹ nhạc
Thắp đèn dầu nến thơm
Quanh khắp thường soi sáng,
Lúc đời ác mạt pháp
Người hay trì kinh này
Thời là đã đầy đủ
Các cúng dường như trên.
Nếu hay trì kinh này
Thời như Phật hiện tại
Dùng ngưu đầu chiên-đàn
Dựng tăng phường cúng dường
Nhà ba mươi hai sở
Cao tám cây đa-la
Đồ ngon, y phục tốt
Giường nằm đều đầy đủ.
Trăm nghìn chúng nương ở
Vườn, rừng, các ao tắm
Chỗ kinh hành, ngồi thiền
Các món đều nghiêm tốt.
Nếu có lòng tin hiểu
Thọ trì, đọc tụng biên
Nếu lại bảo người biên
Và cúng dường kinh quyển.
Rải hoa hương, hương bột
Dùng tu-mạn, chiêm-bặc
A-đề, mục-da-đà
Ướp dầu thường đốt đó
Người cúng dường như thế
Được công đức vô lượng
Như hư không vô biên
Phước đó cũng như thế.
Huống lại trì kinh này
Gồm bố thí, trì giới,
Nhẫn nhục, ưa Thiền định
Chẳng sân, chẳng ác khẩu
Cung kính nơi tháp miếu
Khiêm hạ các Tỳ-kheo
Xa lìa tâm tự cao
Thường nghĩ suy trí tuệ
Có gạn hỏi chẳng sân
Tùy thuận vì giải nói
Nếu làm được hạnh đó
Công đức chẳng lường được.
Nếu thấy Pháp sư này
Nên công đức như thế
Phải dùng hoa trời rải
Áo trời trùm thân kia
Đầu mặt tiếp chân lạy
Sanh lòng tưởng như Phật,
Lại nên nghĩ thế này:
Chẳng lâu đến đạo thọ
Được vô lậu vô vi
Rộng lợi các trời người
Chỗ trụ chỉ của kia
Kinh hành hoặc ngồi nằm
Nhẫn đến nói một kệ
Trong đây nên xây tháp
Trang nghiêm cho tốt đẹp
Các món đem cúng dường,
Phật tử ở chỗ này
Thời là Phật thọ dụng
Thường ở nơi trong đó
Kinh hành và ngồi nằm.

GIẢNG:

Phật nói người nghe thọ mạngcủa Phật, hiểu được ý thú của kinh, thì người đó được công đức không thể lườngvà có thể phát sanh tuệ Vô thượng Như Lai, huống là nghe rồi lại khuyến khíchngười khác nghe, hoặc tự thọ trì, hoặc bảo người thọ trì, hoặc tự chép hoặc bảongười chép, hoặc cúng dường kinh này, nhất định sẽ thành Phật. Nếu chúng tahiểu thọ trì, biên chép cúng dường theo nghĩa thông thường, cứ ngày ngày đọctụng biên chép nhiều cho có phước, đó là chúng ta chỉ hiểu qua sự tướng, màkhông thông đạt được lý tánh. Thọ trì, ghi chép, cúng dường ở đây, hàm ý nghĩatin nhận mình có Tri kiến Phật và khéo gìn giữ phát huy cho trí tuệ Phật cànghiển hiện tròn sáng, chớ để cho vô minh phiền não che mờ. Người sống được nhưvậy, nhất định sẽ thành Phật và được vô lượng vô biên công đức.

Phật lại dạy, người mà tinnhận chắc chắn lời Phật nói về thọ mạng Như Lai, thì hằng thấy Phật đang nóipháp ở núi Linh Thứu. Như vậy là sao? Với con mắt thịt của người chưa giác ngộ,quen nhìn ra ngoài, lên núi Linh Thứu thấy trống vắng, không có Phật và Thánhchúng nên nói Phật nhập diệt. Nhưng với người đã giác ngộ và tin sâu nơi mìnhcó Tri kiến Phật hằng hiển hiện thì có lúc nào sống xa Phật, không thấy Phậtluôn nói pháp là gì? Trong mọi sanh hoạt hằng ngày như cuốc đất, nấu cơm, ngủnghỉ... lúc nào cũng có Phật bảo hộ, không hề xa vắng phút giây nào. Và ngườisống như vậy là do tâm đã thanh tịnh, mà tâm thanh tịnh thì thấy cảnh vật cũngthanh tịnh, nên nói thấy cõi Ta-bà này đất bằng lưu-ly bằng thẳng, vàngdiêm-phù-đàn... trang nghiêm không có ô uế. Sở dĩ thấy cõi Ta-bà này ô uế, làvì chúng ta nhìn cõi Ta-bà bằng đôi mắt thịt của thân ngũ uẩn đầy phiền não,nên thấy nó ô trọc.

Đến đây Phật nói sau khi NhưLai diệt độ, nếu người nghe kinh này mà không chê lại tùy hỉ, huống là có lòngtin sâu và thọ trì kinh này, đó là đầu đội đức Như Lai. Tại sao? Vì người ngộđược Tri kiến Phật, nên có đủ lòng tin, tâm thường hoan hỉ và luôn luôn bảo hộkhông để phiền não phủ che, lúc nào cũng nhớ và sống với Tri kiến Phật, đó làđầu đội Như Lai.

Phật lạinói người nam hay nữ chẳng cần dựng chùa tháp, dâng tứ sự cúng dường Phật vàchúng Tăng, mà chỉ ngộ nhập Tri kiến Phật, là đã dâng tứ sự cúng dường Phật vàTăng, lại cũng đã xây tháp bằng bảy báu cao tới cõi trời Phạm thiên để cúngdường Phật và Tăng. Như vậy người thọ trì kinh này là đã cúng dường Phật vàTăng rồi. Tại sao? Vì người sống được với Tri kiến Phật của chính mình, tuykhông làm ra tiền để xây tháp, để dâng tứ sự cúng dường, song sống được với Trikiến Phật tức là sống với Phật, hay nói cách khác là cúng dường Phật.

Trên Phật nói xây tháp, tớiđây Ngài nói cất chùa và nhà tăng bằng gỗ chiên-đàn đỏ, trong đó trang bị đầyđủ phương tiện tu hành, để cúng dường Phật và chúng Tăng, công đức không bằngthọ trì kinh Pháp Hoa. Vì thọ trì kinh Pháp Hoa là sống với Tri kiến Phật, tứclà thành Phật, không còn luân hồi sanh tử, nên Ngài nói hơn tất cả. Phật nóithế e chúng sanh chấp lý bỏ sự, nên tới đây Ngài nói thêm, nếu người thọ trìkinh Pháp Hoa được như vậy, mà còn tu bố thí cúng dường thì công đức vô lượngvô biên.

Đức Phật nói không cho chúngta mắc kẹt một bên, tới đây Ngài kết thúc: Người nghe và thọ trì kinh Pháp Hoamà còn bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ nữa, người đóchắc chắn sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sẽ ngồi dưới cội bồ-đềthành Phật không nghi. Đức Phật lại khuyến khích, người đó ngồi đâu, ở đâu, điđâu, chúng sanh ở đó nên xây tháp cúng dường, coi tháp đó như tháp của Phậtvậy. Tại sao? Vì người đó không chấp lý bỏ sự, không chấp sự bỏ lý, thực hànhcả lý và sự viên dung, chắc chắn sẽ thành Phật, nên xứng đáng cúng dường nhưcúng dường Phật. Chúng ta thấy, trước Phật đưa về lý, sau gồm lý sự viên dung,không cho chúng ta kẹt một bên. Vừa ngộ được nơi mình có Tri kiến Phật đồngthời phải tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ,thì người đó mới xứng đáng nối tiếp ngôi vị Phật. Người đó ở đâu, chúng sanhnên cúng dường như cúng dường Phật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567