Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 14

25/04/201311:32(Xem: 2859)
Phần 14

NHÂN SINH YẾU NGHĨA

HT Tuyên Hóa

Thích Minh Định dịch Việt

14

Làm Sao Cứu Vãn Nền Giáo Dục?

Giảng Tại Chùa Kim Luân ngày 20/9/88

Hiện nay chứng bệnh lớn nhất trên thế giới không dễ gì mà trị tuyệt chứng. Không phải ái tử bệnh (Aids), không phải bệnh nhọt, mà là nền giáo dục bị phá sản. Ðây là bệnh lớn nhất của thế giới. Thử nghĩ xem, nếu nền giáo dục tốt, thì ai ai cũng giữ quy cụ, giữ pháp luật, giữ giới, không thể phóng ra độc khí nhiều như thế, khiến cho nhân loại toàn thế giới tán tận lương tâm. Nguyên nhân tán tận lương tâm đều vì nền giáo dục bị phá sản. Người đi học không như người đi học, thầy giáo không giống thầy giáo, học sinh không giống học sinh. Trong mỗi trường học đều là "dương thang chỉ phất", chẳng có ai "phũ để trừu tân".

"Dương thang chỉ phất" là gì? Ví như học sinh nam nữ trong trường học không giữ quy cụ, nghiã là không tiết chế dục niệm của mình. Bèn túng dục tham lam, nhưng lại sợ sinh con cho nên uống thuốc ngừa thai. Ðây gọi là "Dương thang chỉ phất" là biện pháp trị ngọn mà không trị cái gốc.

Phương pháp "Phũ để trừu tân" là nữ mộ trinh khiết, nam hiệu tài lương, học sinh nam nữ khi chưa thành thục thì không thể quá thân mật với người khác giới tính, không thể lạm giao. Khi thành thục rồi cũng phải nhẫn nại một chút. Ðợi khi chánh thức kết hôn rồi mới có quan hệ vợ chồng. Như thế thì không dùng uống thuốc ngừa thai, cũng không dùng thuốc phá thai, vì đây đều không phải là vấn đề giải quyết cứu kính. Thực ra mỗi trường học đều biết đạo lý nầy, nhưng không muốn "Phũ để trừu tân", mà chỉ dùng phương pháp "dương thang chỉ phất".

Nam nữ lạm giao trước khi chưa kết hôn, kết hôn rồi lại mau ly dị. Con cái sinh ra cũng không biết ai là cha, ai là mẹ ; khi sinh ra thì biến thành cô nhi, không có mái ấm gia đình, không có luân lý quan niệm xã hội, từ nhỏ đã lưu ly thất sở. Những trẻ em nầy ở với cha ba ngày, hoặc ở bốn ngày với mẹ. Ở với cha thì người cha tưới độc lên em bé:"Tại sao ba lại ly hôn với má? Vì má mầy không giữ quy cụ như thế như thế, không tốt như thế như thế". Khi ở với người mẹ thì người mẹ cũng tưới độc lên em bé: "Ba của mày là người xấu nhất trên thế giới, cho nên má không ở với ba của con". Ðứa trẻ quen tai quen mắt, nổi khí oán hận cừu địch. Thậm chí người cha chơi với bạn gái, mang bạn gái về nhà mà không chiếu cứ con cái. Người mẹ ly dị rồi cũng chơi với bạn trai, mang bạn trai về nhà, cũng không lo cho con cái. Những đứa nhi đồng này chưa trải qua giáo dục tốt của gia đình, bèn trở thành vấn đề nhi đồng. Từ nhỏ đã chứa đầy phiền não oán hận, khi lớn lên không thể tưởng tượng được. Cha mẹ hư hỏng như thế, thì con cái càng thêm tệ hại. Vì trong gia đình không có nề nếp giáo dục và nhà trường không liên lạc với gia đình, cho nên học sinh đến trường thầy giáo cũng không cách chi quản lý được. Học sinh chẳng nghe lời thầy cô, thậm chí có những thầy giáo dạy trẻ con hư hỏng như thế, do đó vấn đề nhi đồng ngày càng nhiều.

Muốn vãn hồi sự suy đồi của thế giới, trước phải bắt đầu từ gốc rễ mà làm, thanh niên nam nữ trước khi chưa thành thục không thể lạm giao. Thanh thiếu niên như mầm non, chưa trưởng thành đã nhổ lên rồi lại gieo giống xuống đất, hạ liệt một đời nhất định sẽ khẳng kheo thua kém đi. Ðồng lý ấy, thanh thiếu niên chưa thành thục, sớm sinh dục rồi, thì hạt giống hạ liệt một đời không nẩy mầm tráng kiện. Như vậy cứ một đời truyền một đời, mỗi lúc càng hạ lưu, tức là một đời so với một đời ngu si. Ðây là gốc rễ tai họa con đường đưa đến vong quốc diệt chủng.

Do đó, người thanh niên trước khi chưa trưởng thành, không thể lạm giao, khi trưởng thành rồi mới chính thức kết hôn. Không thể li dị, không thể dùng thuốc phá thai. Nhân khẩu thế giới bành trướng, mỗi cặp vợ chồng chỉ có thể sinh hai đứa, đó là pháp định tiết chế sinh dục. Nếu Mỹ có thể lãnh đạo áp dụng, kêu gọi toàn thế giới thì mỗi quốc gia có thể phụng hành, bằng không đến tương lai nhân khẩu bạo tác thì thế giới đi đến chỗ diệt vong.

Cha mẹ sinh con cái phải dạy dỗ cho tốt, dạy chúng tự ái hộ thân thể, gia đình, xã hội, quốc gia. Cha mẹ không nên để cho con cái tự ý phát triển, cho rằng đó là tự do. Thực ra đây là hiểu lầm tự do, mà chẳng phải chân chánh tự do. Không nên cho con cái xem truyền hình nhiều, tai hại đến vấn đề học hành. Một số tiết mục đầy dẫy hoằng sắc, bạo lực, che mất trí năng của nhi đồng, dẫn đến tán tận thiên lương. Cha mẹ và thầy giáo phải cùng nhau dạy dỗ thanh thiếu niên, phải quan tâm, quan tâm đến vấn đề xã hội quốc gia, để lợi ích toàn nhân loại. Do đó mới có hy vọng vãn hồi tai kiếp thế gian, nếu không thì nhân loại nhất định đồng quy ư tận.

Kỷ Niệm Ngày Bố Tát Quán Thế Âm Xuất Gia

Giảng tại Vạn Phật Thành ngày 20/10/1988

"Tu giới tu định tu trí huệ,

Niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng già,

Nhất tâm ủng hộ thường tinh tấn,

Diệu giác Cực lạc hoa khai thật".

Từ vô thỉ kiếp đến nay, nhận giặc làm con, nhiễm khổ cho là vui, trôi nổi trong sinh tử luân hồi, không khi nào dừng. Cho đến hôm nay mới phát tâm bồ đề, tu vô thượng đạo, sớm ra khỏi trầm luân, chấm dứt sinh tử. Nếu không giác ngộ thì vĩnh viễn trầm luân trong tam đồ. Nay có cư sĩ Lâm Quả Lạc, xa từ Hương Cảng đến núi, thỉnh mời thượng đường thuyết pháp, sơn Tăng vốn không có pháp gì để nói, chỉ dạy các vị niệm Phật, cầu sinh tịnh độ, hoa khai thấy Phật, ngộ vô sinh nhẫn, trở lại Ta Bà, đồng ra khỏi biển khổ luân hồi, thành vô thượng đạo, quả Phật diệu giác.

Hôm nay là ngày vía Bồ Tát Quán Thế Âm xuất gia. Thực ra Bồ Tát đã thành Phật trong vô lượng kiếp quá khứ, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì lợi ích hết thảy chúng sinh cho nên dùng con thuyền từ bi, thị hiện thân Bồ Tát để cứu hộ chúng sinh, lìa khổ được vui. Người xuất gia tại Vạn Phật Thành phải phản tỉnh xuất gia để làm gì? Là lợi ích chính mình hay lợi ích kẻ khác? Phải chăng vào trong Phật giáo để kiếm cơm ăn, tức không phải là kiếm cơm ăn, thì phải làm những việc người xuất gia làm, tức là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, nghiêm trì năm giới. Nếu không giữ giới luật thì làm sao nhìn Phật, nhìn thí chủ, thiên địa quỷ thần, cha mẹ tổ tiên. Tại sao? Vì cha mẹ sinh ra và dưỡng nuôi chúng ta, hy vọng chúng ta có ích với dân. Nếu chỉ biết lợi ích chính mình, thì không mặt mũi nào nhìn cha mẹ, trời đất.

Tất cả mọi người trên thế giới phải nhận rõ trách nhiệm chính mình, đừng làm cục thịt biết đi, phải tận trách nhiệm, tận thiên chức, phải tự hỏi mình, ta đối với quốc gia có tận trung chăng? Hại người địa phương nhiều? Hay là giúp đỡ người địa phương nhiều? Mỗi vị xuất gia, tại gia đệ tử của Phật phải tự xét hỏi mình, ta đối với quốc gia có tận trung chăng? Có những người đến Vạn Phật Thành, cho rằng không làm việc cũng có cơm ăn, có chỗ ở, đây là sai lầm! Tông chỉ Vạn Phật Thành là lợi ích kẻ khác. Phàm có người mang mặt giả, gạt kẻ khác, lường gạt kẻ khác, thì không dung chứa tồn tại. Tại sao thế giới hư hoại? Vì ai ai cũng mang mặt giả, cho rằng mình rất thông minh, mới làm cho thế giói suy đồi. Hiện tại ai ai cũng phải sửa lỗi làm mới, giữ sáu đại tông chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối, dùng sáu đại tông chỉ nầy thâm nhập vào hành vi tư tưởng của mỗi người. Có sáu đại tông chỉ nầy tức là chủ trì chánh khí, đây tức là chánh khí của thế gian, là linh hồn của vũ trụ, là chân lý của trời đất.

Người chân chánh chủ trì chánh nghĩa, trên thế giới không có mấy người, ai ai cũng ỷ lời nói mạnh để đoạt lý, cho nên thế giới mới xu hướng diệt vong. Chánh nghĩa hoàn toàn nguy tận thì thế giới sẽ hủy diệt. Do đó chúng ta phải chân chánh hoằng dương Phật pháp, không thuận về nhân tình, không dùng giao tế thủ đoạn, không dụng nhân tâm mà dụng đạo tâm, mới có thể khiến cho Phật pháp phát dương quang đại. Cho nên "Người hoằng dương Phật pháp, chẳng phải Phật pháp hoằng dương người". Bất tất lên tiếng kêu gào, làm được bao nhiêu thì làm bấy nhiêu, trước phải từ sáu đại tông chỉ mà trước thủ.

Hoa Sen Mọc Trong Bùn

Giảng tại Ðài Loan ngày 29/10/1988

"Pháp giới vi thể hữu hà ngại,

Hư không thị dụng vô bất dung

Vạn vật bình đẳng ly phân biệt,

Nhất niệm không sinh tuyệt ngôn tông".

Nghĩa rằng:

"Pháp giới là thể có gì ngại,

Hư không là dụng dung hết thảy ;

Vạn vật bình đẳng không phân biệt,

Một niệm không sinh bặc lời lẽ".

Tâm lượng của mỗi người là tận hư không khắp pháp giới, bao hết thảy, dung hết thảy. Cho nên "Tâm bao thái hư, lượng chu sa giới". Chẳng phải chỉ riêng Phật mới có, mà mỗi chúng sinh đều có năng lượng, có trí huệ này. Nhưng lâu dần không dùng đến trí huệ này, nên bị trần ai che lấp. Cho nên chúng sinh với Phật là không ngại không khác. Nhưng do "bỏ giác hợp trần", không dùng đến đại trí huệ của chúng ta, chỉ dùng vô minh, tựa như hiểu mà chẳng hiểu, tựa như sáng mà không sáng.

Chúng ta không làm cho trí huệ vốn có xuất hiện lại, ngày ngày dùng vô minh phiền não, cho rằng năng lực của chúng ta, động một chút thì nổi giận. Ðây là gốc tội nghiệp tiền kiếp. Nếu không có tội nghiệp thì không có lửa vô minh, khi phát lửa vô minh thì tham, sân, si liền đến. Các bạn phải hồi quang phản chiếu, tự nhìn mình có phải như thế chăng? Chẳng phải riêng bạn như thế, có thể nói mỗi người đều phạm chứng bệnh này. Tuy nhiên nói mỗi người chúng ta đang tu hành Phật pháp, nhưng trên thực tế thì không cung hành thực tiễn. Cho nên từ sáng đến tối tranh tranh náo náo, phiền phiền não não, cho đến ngủ cũng không yên, bỏ gốc tìm ngọn, tìm phương pháp để làm cho ngủ yên, như uống thuốc ngủ, nhưng uống quá nhiều thì có thể ngủ không tỉnh lại, bạn nói đáng thương xót chăng!

Phiền não nầy đều do vô minh mà ra. Vô minh tức là dục niệm: Tài dục, sắc dục, danh dục, thực dục, thùy dục. Tài dục khiến cho người từ sáng tới tối chuyên nghĩ về tiền bạc, vô bổn thủ lợi, giàu như "phú khả địch quốc" còn chưa biết đủ. Sắc dục thì "quát cốt cang đao" làm cốt tủy đều hư hỏng bại hoại thì sinh ra bách bệnh, cho nên sắc dục thì "yểu mạng dục" (muốn chết sớm).

Phần đông cha mẹ sinh con cái rồi ngày đêm lo lắng. Sinh con trai rồi thì khẩn cấp muốn y hỏi vợ, sinh con gái rồi thì khẩn cấp muốn gả y cho người. Cho rằng hai việc nầy chưa xong thì đại sự chưa hoàn tất. Thực ra sinh con cái thì phải giáo dục chúng cho có học thức, có nghề nghiệp. Cho đến việc kết hôn hay không, bất tất quá bận tâm.

Nếu nhất định muốn chúng hỏi vợ gả chồng tức là muốn chúng đi vào con đường chết, không hy vọng chúng tu hành thành Phật. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều hiện tượng kỳ quái, con cái nếu không kết hôn thì cha mẹ đều phản đối, nhưng nếu con cái hút sách thì không thấy cha mẹ phản đối. Cho nên nói con cái đi lên thì cha mẹ lại sợ ; còn con cái hạ lưu thì ngược lại mà cao hứng, đây là chỗ hồ đồ của bậc làm cha mẹ.

Tôi có một lối nhìn, Phật giáo thì "tố bổn cầu nguyền" phải gọi là "trí huệ giáo". Vì Phật là tiếng Phạn, nghĩa là "bậc đại trí huệ". Nghĩa bổn thân chữ Phật là "giác ngộ". Vì có người khi dề cập đến Phật giáo thì sinh tâm kiêu mạn. Như người tây phương cho rằng Phật giáo là mê tín, nhưng nếu bạn nói Phật giáo là trí huệ giáo thì bất cứ người nào cũng không dám nói trí huệ là mê tín, không thể bạn tin trí huệ là mê tín. Cho nên bạn học Phật là học trí huệ, bạn học trí huệ là học Phật. Có người hỏi tôi, đến tây phương hoằng pháp như thế nào? Tôi nói với bạn rằng tôi nương cậy vào Quán Thế Âm Bồ Tát, Chú Ðại Bi và Chú Lăng Nghiêm. Chú Ðại Bi là đại Chú Ðại Bi tâm, có thể không thiên triệt địa. Nếu bạn kiền thành tụng Chú Ðại Bi, mỗi ngày 108 biến, liên tục trong ba năm, lúc đó bạn dùng Chú Ðại Bi để vì người mà trị bệnh thì, tay rờ đến bệnh liền tiêu trừ. Tôi đã từng có trăm ngàn vạn ức lần cảm ứng khiến cho kẻ chết sống lại. Cho nên nói Chú Ðại Bi là minh tâm kiến tánh, biến hóa khó lường, diệu dụng vô cùng. Lần nầy tôi đến Ðài Loan, muốn dùng đến tâm thành, dùng Chú Ðại Bi để hộ quốc, dùng Chú Ðại Bi làm tiêu tai, dùng Chú Ðại Bi làm tăng trưởng thiện căn và trí huệ của chúng sinh.

Chú Ðại Bi và Bồ Tát Quán Âm là hai mà chẳng hai, không hai mà hai, hai mà không thể phân biệt. Tôi hy vọng các vị thiện tri thức đủ tâm thành tụng trì Chú Ðại Bi, tất nhiên sẽ tiêu trừ tai nạn. Tôi đã đắc được chỗ diệu dụng của Chú Ðại Bi, cho nên hôm nay mới bày hết ra.

Tôi hay nói công hiệu của Chú Ðại Bi, hy vọng mỗi người dùng sức lực Chú Ðại Bi để cứu vãn thế giới, khiến cho nhân loại vĩnh viễn không có tai nạn, khiến cho chánh pháp thường trụ thế gian.

Ngư Mục Hỗn Châu

Giảng tại Ðài Loan ngày 30/10/1988

Năm nay có thể nói là ngư mục hỗn châu (nhận mắt cá làm hạt châu), là một năm rồng rắn hỗn tạp. Tại sao? Vì đương sơ ma vương thấy Ðức Phật sắp thành Phật, liền dùng đủ thứ ma thuật để nhiễu loạn Ðức Phật, nhưng tơ hào chẳng có cách chi làm giao động định lực của Phật, ma vương không còn kế gì nữa, bèn nói: "Nay ta phá không được Ngài, nhưng đến thời đại mạt pháp, ta sẽ kêu ma con ma cháu trà trộn vào trong Phật pháp, ăn cơm Phật giáo, mặc y phục Phật giáo, phá hoại Phật giáo". Phật nghe ma vương Ba Tuần phát nguyện ác độc như thế, Phật tuy nhiên nhẫn chịu được, nhưng Ngài ưu tư thời đại mạt pháp "pháp nhược ma cường", trong nhiều đạo tràng có quyến thuộc của ma vương, trên danh nghĩa là làm Phật sự, nhưng trên thực tế thì nhiễu loạn Phật giáo.

Hôm nay nhìn người trong Phật giáo, chỉ nói lời Phật pháp mà không hành Phật pháp, khiến rất nhiều tín đồ tín tâm giao động. Nay tôi dạy các bạn một con mắt chọn pháp. Các bạn có thể phân biệt cứu kính ai là đệ tử Phật, ai là đệ tử của ma. Ðệ tử của Phât thì tu giữ giới luật, đệ tử của ma thì phá hoại giới luật. Chế độ của Phật thì dạy người đừng tranh, đừng tham, đừng cầu, đừng ích kỷ, đừng tự lợi, đừng nói dối. Nếu tranh, tham, cầu, ích kỷ, tự lợi, nói dối, thì những người đó là con cháu của ma, hoặc làm không được "chúng thiện phụng hành, chư ác mạc tác" thì những người đó là con cháu của ma. Chúng ta làm sao phân biệt được đệ tử của Phật hoặc là con cháu của ma? Chủ yếu là phải quán sát họ, nhìn họ phải chăng suốt ngày từ sáng đến tối tranh đoạt danh lợi, đấu tranh với người, nhìn họ phải chăng xiểm nịnh người có tiền? Ðối xử không tốt với người nghèo? Hoặc là chuyên môn nghĩ kiếm tiền, cầu danh cầu lợi, hy vọng sinh hoạt mỗi ngày nhiệt náo, phồn hoa hơn.

Tại sao người cầu danh cầu lợi? Vì ích kỷ. Tại sao ích kỷ? Vì tự lợi. Vì ích kỷ tự lợi, cho nên hành vi trước mặt là Phật giáo, nhưng trên thực tế mục đích sau lưng là phá hoại Phật giáo, cho nên chúng ta phải biết đó là quyến thuộc của ma vương.

Những con cháu của ma vương mặc y Cà Sa, tuy nhiên là hiện thân đệ tử Phật giáo, nhưng hành vi rất thủ đoạn, do đó có thể biết họ phải chăng là đệ tử của Phật. Bạn muốn làm đệ tử chân chánh của Phật, thì phải có con mắt chọn pháp chân chánh, nhất định phải thận trọng.

Trong Phật giáo nói:"Người nam đều là cha ta, người nữ đều là mẹ ta". Chúng ta quán tưởng như thế thì hết thảy người nam người nữ với chúng ta không có phân biệt. Cho nên Bồ Tát Thường Bất Khinh nói:"Tôi không dám khinh các vị, vì chúng sinh đều sẽ thành Phật". Tức nhiên như thế, chúng ta đều phải sinh một thứ tâm vô duyên đại từ, họ đối với ta vô duyên, ta cũng sinh tâm từ bi đối với họ, thống khổ của họ như thống khổ của mình. Do đó con ma cháu ma cũng phải xem như chúng là cha mẹ chúng ta, phải làm các việc thiện để cảm hóa họ. Tôi đối với Thiên Chúa giáo, Cơ Ðốc giáo hoặc các tôn giáo khác đều không khinh thị họ, tôi không làm kẻ địch với họ mà làm bạn hữu. Trong Phật giáo vốn không có kẻ địch, vì người hủy báng chúng ta đều là thiện tri thức của chúng ta. Trước mặt họ hủy báng ta nhưng trên thực tế là họ muốn chúng ta sớm thành đạo, họ dùng mặt trái để dạy dỗ chúng ta, họ sợ chúng ta không tốt, chúng ta phải nghĩ như thế. Vì có người làm nghịch với chúng ta, họ hy vọng chúng ta tốt hơn nữa, lên thêm một từng lầu nữa. Cho nên có câu:

"Tiến thêm một bước đầu sào trăm trượng,

Mười phương thế giới hiện toàn thân".

Ðây là muốn chúng ta đừng được ít cho là đủ, chúng ta phải dũng mãnh tinh tấn đạt đến cảnh giới bất thối chuyển. Ðó là tinh thần "Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi", cũng là chân chánh hành Bồ Tát đạo".

Niệm Phật Có Thể Khiến Cho Thế Giới Hoà Bình

Giảng tại Kim Sơn Tự, Canada, ngày 05/06/1988

Chúng ta sinh vào thời đại không có mặt trời, mặt trăng, và sao, cũng không có đèn sáng, tối không có ban ngày. Nhưng chúng ta đều không biết, nói còn có mặt trời, trăng, sao, đèn sáng. Phải biết không có chân lý tức là không có ánh sáng.

Trên thế giới này giữa người và người hỗ tương lường gạt, giữa nhà này nhà kia hỗ tương lường gạt, quốc gia này với quốc gia kia hỗ tương lường gạt. Người đối với người không có gốc chân thành làm người, không dùng đạo đức nhân nghĩa đối đãi người. Tại sao? Vì ai ai cũng đều hư ngụy, cho nên hỗ tương đấu tranh, lường gạt tạo thành mối bất an cho thế giới.

Chúng ta học Phật pháp, học niệm Phật, nhất định phải trừ niệm sân. Làm thế nào để trừ niệm sân? Tức là trong tâm của bạn đừng đố kỵ, không nóng giận. Dùng nhẫn nhục, trí huệ thì bạn có thể đạt đến bờ kia. Tại Vạn Phật Thành tôi có nói:"Thế nào là không sát sinh? Tức là trong tâm không có đố kỵ sân hận, nhẫn là Ba La Mật, một thật tất cả đều thật". Chúng ta làm bất cứ việc gì cũng đều phải nhận chân mà làm. Ðừng thiện ác lộn xộn, không nên làm chút thiện lại làm chút ác ; trong thiện lại có hạt giống ác tồn tại, trong nhân thiện lại có mua danh chuộc tiếng khen, hoặc là làm không chân thật, cho nên "không chân thật thì gặp quả quanh co". Hiện tại chúng ta niệm Phật cũng phải niệm chân thật, phải nhiều nhẫn nhục, trong tự tính phải thường sinh trí huệ, đừng ngu si, bạn sát sinh tức là ngu si, không sát sinh tức là có trí huệ. Bạn không niệm Phật là ngu si, bạn thường niệm Phật thì có trí huệ. Ðừng có miệng niệm Phật, mà trong tâm khởi vọng tưởng, như vậy là hoá ra chẳng niệm Phật, khởi vọng tưởng gì? Khởi vọng tưởng ăn ngon, khởi vọng tưởng kiếm tiền. Bạn gái thì khởi vọng tưởng bạn trai, bạn trai thì khởi vọng tưởng bạn gái, khởi vọng tưởng tương lai tôi thành như thế nào, thành công như thế nào, cuộc sống như thế nào?

Niệm Phật tâm phải chuyên nhất. Niệm "Nam Mô A Di Ðà Phật, Nam Mô A Di Ðà Phật". Niệm được "gió thổi không vào, mưa rơi không lọt", trời mưa gió thổi cũng không biết, bất cứ cảnh giới bên ngoài cũng không thể nhiễu tâm của bạn thì sẽ đắc được niệm Phật Tam Muội, niệm Phật có định lực thì cuối cùng chứng được ba bất thối: Niệm bất thối, hạnh bất thối và vị bất thối. Niệm là thường niệm Phật, tu hành không thối tâm, thường tại địa vị niệm Phật. Chúng ta đối với bất cứ người nào cũng đừng sinh tâm sân hận. Khi sinh tâm sân hận thì bạn niệm gì cũng không có cảm ứng. Cho nên có câu:

"Nhất niệm sân tâm khởi,

Bát vạn chướng môn khai".

Nghĩa là:

Một niệm sân nổi lên

Trăm vạn chướng ngại đều xảy ra.

Phải từ bi hỷ xả, phải có tâm tha thứ, bao dung hết thảy, phải biết trên thế gian không thể hoàn toàn là người tốt, người không tốt không biết là bao nhiêu. Phải học chư Phật Bồ Tát không thấy lỗi của chúng sinh. Chúng ta sinh ra trong thời kỳ mạt pháp là điều bất hạnh, nhưng hiện tại chúng ta có pháp môn niệm Phật, cũng có thể nói là rất may mắn. Chúng ta đang trong thời kỳ không bình an, mà gặp được pháp môn niệm Phật, đều là do trong quá khứ đã trồng căn lành. Hôm nay chúng ta có hơn ba mươi người tham gia Phật thất. Tôi nói đúng thì các bạn chiếu cứ thực hành, nếu tôi nói không đúng thì hãy quên đi, xem như là tôi không nói. Hy vọng các bạn là tướng quân không xuống ngựa, mỗi người tự tiến về trước, nỗ lực tinh tấn đến thế giới Cực Lạc, hoa nở thấy Phật, hẹn gặp lại.

----o0o---

Nguồn: Chùa Kim Quang

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567