Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

22. 16/05/97 - 20/05/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc

24/04/201311:06(Xem: 2882)
22. 16/05/97 - 20/05/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc

DUY LỰC NGỮ LỤC

QUYỂN HẠ

(Bài giảng trong các năm (1992 - 1999)

HT. THÍCH DUY LỰC

----o0o---

Bài giảng trong các năm 1992 - 1999

22.

24/06/97 - 28/06/97; 22/07/97 - 28/07/97 tại Chùa Pháp Thành, quận. 6

Hỏi: Thế nào là Bát Nhã vô tri? Thế nào là Hòa quang đồng trần?

Đáp: Trí của Bát Nhã tự động, chẳng thể kiến lập tri, vì hễ có tri tức có vô tri để đối đãi. Hòa quang đồng trần nghĩa là tất cả đều bằng nhau, như ánh sáng cây đèn, đèn lớn thì ánh sáng mạnh hơn, đèn nhỏ ánh sáng yếu hơn, nhưng ánh sáng của đèn lớn đèn nhỏ hòa chung thành một ánh sáng, vốn chẳng có khác, dù muôn ngàn cây đèn cũng cùng một ánh sáng, gọi là hòa quang đồng trần. Ví như bụi trần hòa lẫn trong không khí mà chúng ta không thấy, khi ánh sáng chiếu qua khe cửa, sẽ thấy bụi trần lăng xăng.

Hỏi: Nay người ta dùng các loại ngũ tân như hành, tỏi, củ kiệu hương cừ … chế thành thuốc chữa bệnh, khi Phật tử bị bệnh phải dùng những thứ thuốc đó, có được không?

Đáp: Thì cái đó được khai, như uống rượu cũng vậy. Kỳ thật dùng ngũ tân chẳng phải có phạm giới, nhưng vì chướng ngại cho người tu, hễ ăn sống thì kích thích tánh dâm dục, ăn chín thì kích thích tánh sân hận, nên phải tránh dùng.

Hỏi: Tham Thiền Phổ Thuyết nói “Lục căn khó thâu”, còn Lai Quả Thiền sư nói là như trong nhà đốt cây đèn, các tông phái khác dùng búa đóng bít, che đậy các cửa, còn Thiền Tông thì chẳng phải vậy, trước hết đập bể cây đèn, kế đến là triệt hạ căn nhà, vậy nghĩa này như thế nào?

Đáp: Ấy là thí dụ: Trong nhà đốt lên cây đèn, ánh sáng lọt ra ngoài sáu cửa, nay muốn không cho ánh sáng lọt ra ngoài, nên dùng vải che lại, sáu cửa đều che bít, nhưng khi gió thổi thì bị hở, ánh sáng vẫn lọt ra ngoài, còn Thiền Tông thì khỏi cần che bít cửa sổ, chỉ cần tắt cây đèn trong nhà thì chẳng còn ánh sáng lọt ra ngoài.

Ánh sáng thí dụ vọng tưởng của bộ não, Tiểu thừa thì bít hết lục căn để trừ vọng tưởng, còn Thiền Tông trừ hẵn nguồn gốc, dùng nghi tình chấm dứt hết tất cả biết, hoạt động của bộ não hết thì chẳng còn vọng tưởng nổi lên, lục căn vẫn làm việc bình thường.

Hỏi: Thế nào là phước huệ song tu?

Đáp: Bố thí cúng dường là tu phước, tham thiền là tu huệ, nếu hai thứ đều thực hành gọi là phước huệ song tu.

Hỏi: Thế nào là “lục mở nhất tiêu” trong Kinh Lăng Nghiêm?

Đáp: Lục là lục căn, nhất chỉ thân thể, ý nói thân thể dù chỉ có một, nhưng có lục căn, nếu lục căn đã tiêu mà còn chấp thật thân này cũng không thể giải thoát.

Hỏi: Danh từ “Cổ đức” như thế nào?

Đáp: Cổ là người xưa, Đức là cách xưng hô, tức những vị Đại đức hồi thời xưa, chứ không phải chỉ gọi những vị có đạo đức, theo cách xưng hô ở Việt Nam là từ Hòa thượng rồi đến Thượng Tọa, Đại Đức, nhưng theo giới luật nhà Phật, khi thọ giới Bồ tát, tôn xưng Phật Thích Ca là “Đại Đức Thích Ca Mâu ni”, tôn xưng Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Di Lặc cũng là Đại Đức, do đó Dại Đức cũng không phải là bậc nhỏ. Thật ra, muốn làm Hòa thượng, thân giáo sư thì Tỳ kheo thọ giới mười năm có thể rời thầy, tự làm Hòa thượng dạy đệ tử, còn muốn làm Thượng Tọa phải hai mươi năm, nên Thượng Tọa cũng không phải nhỏ hơn Hòa thượng, nay là vì theo người đời đã quen xưng hô như thế.

Hỏi: Thế nào là nghĩa câu “Cái gì có bỏ ra, không có đừng đem vào” của ông Bàng Uẩn?

Đáp: Cũng như hư không trống rỗng vô sở hữu mới dung nạp và ứng dụng, muốn hiển bày tâm mình, thì những gì đã có trong tâm đem bỏ ra hết, những gì không có chớ mang vào, hễ mang vào tức kiến lập sở hữu, là chướng ngại.

Hỏi: Thế nào là trạm nhập hợp trạm?

Đáp: Chữ Trạm nghĩa là nước trong lặng chẳng làn sóng, có thể nhìn thấu tới đáy, khi nào liệng cục đá vào sẽ khiến nổi lên làn sóng. Đó là hình dung ý thức của mình, “Trạm nhập” tức ý thức hoạt động, mặc dầu không có làn sóng, nhưng ôm cái trong lặng đó (ôm sự ngộ của mình) của không được, vẫn còn ở trong mê trí tứ tướng của bậc thánh. Trạm nhập không có hợp với cái gì, nếu có hợp thì chẳng phải vô sở hữu vậy.

Hỏi: Thế nào là nghĩa “Người chỉ cần vô dục, vô y tức là Phật” của Hòa thượng Nham Đầu?

Đáp: Không có một dục vọng nào gọi là vô dục, không có y vào chỗ nào cả gọi là vô y, cũng là nghĩa trống rỗng vô sở hữu của tâm mình. Đầu óc của con người suốt ngày làm việc gì đều muốn thỏa mãn dục vọng của mình, nhất là vấn đề ham tiền, có tiền thì làm gì cũng được, tiền càng nhiều càng tốt. Do đó, Đức Phật cấm tu sĩ không được cầm tiền, mười phương tín thí cúng dường tiền là để cho mình làm Phật sự, tự giác giác tha, đâu phải để mình thỏa mãn dục vọng! Nên phải vô dục và chẳng nương tựa vào chỗ nào cả.

Hỏi: Ngài Vĩnh Gia nói: “Trống rỗng không, chống nhân quả, mênh mênh mông mông chiêu tai họa” là thế nào?

Đáp: Chấp vào cái không, cho là không có nhân quả thì làm ác cũng chẳng sao, là lọt vào biên kiến, dĩ nhiên phải chiêu tai họa.

16/05/97 – 20/05/97 tại Chùa Tam Bảo, Sa Đéc

Hỏi: Chúng con là Tăng sinh ở cần Thơ, muốn xin Hòa thượng giải giùm, cái này là cái gì?

Đáp: Hãy tự hỏi chính mình, chẳng những cái này không biết, tất cả đều không biết, nay chớ hỏi việc ở ngoài thân, ngay sợi tóc của ông, tế bào của ông còn chẳng tự biết, tức những gì trong cơ thể cũng chẳng tự biết, nói chi ở ngoài?

Hỏi: Tại sao không biết?

Đáp: Vì muốn có sở hữu, muốn có cái biết, cho cái biết cũng là sở hữu của mình. Tại có tư tưởng chấp thật, cho nên, cái biết sai lầm cũng muốn biết. Ông là Tăng sinh, nay ông học biết được cái gì? Hãy nói ra thử?

- … Con không biết.

Đáp: Tự mình học mà không biết, còn muốn hỏi cái gì? Bên Thiền Tông, nghi tình là dùng để tự hỏi, nếu hỏi Phật Thích Ca, dù Phật nói được, đối với tự mình có ích lợi gì? Huống là nói không được! Đức Phật rất sợ những người cứ đuổi theo lời nói để chấp thật như ông, nên trong Kinh Kim Cang, Phật nói: “Ai nói ta có thuyết pháp là phỉ báng Phật”, “Vô pháp khả thuyết mới là thuyết pháp”.

Ông là tăng sinh , những cái bổn phận của ông mà chẳng chịu học, chẳng lẽ rồi cũng trả lời thầy giáo rằng “tôi không biết, không biết là học cái gì?”

Hỏi: Vùng con ở rất xa, chỗ đó chẳng có bậc thầy dẫn dắt tu hành, nên một số cư sĩ thỉnh kinh sách về tự học tự tu, cũng có một số Phật tử đã thọ giới Bồ tát nhưng về nhà không giữ được giới, không trì giới, vậy có phạm giới không?

Đáp: Thọ giới rồi không giữ giới là phạm giới, nếu không hành trì, không giữ được thì xả giới. Trong Phật pháp có thể xả giới, ví như thọ bát quan trai, dù có một ngày một đêm, nhưng cũng xả được.

Hỏi: Vậy xả như thế nào?

Đáp: Thọ giới khó, xả giới thì dễ, chỉ là nói với một người nghe biết tiếng nói là được. Nói với người ấy rằng: “Tôi đã lỡ thọ giới Bồ tát nhưng nay không giữ được, nên xả hết những giới mà thôi đã thọ được”, ấy là được.

Hỏi: Có phải nói với người tu sĩ hay người thường?

Đáp: Chỉ là cư sĩ với cư sĩ cũng được. Tức là người thọ ngũ giới nói với cư sĩ đã thọ ngũ giới, người thọ Bồ tát giới thì nói với người đã thọ Bồ tát giới, cư sĩ cũng được, khỏi cần thầy, còn khi truyền giới thì phải do thầy truyền mới được, sám hối cũng vậy, chẳng thể hối trước bàn thờ Phật vì không ai chứng minh cho.

Hỏi: Xin Sư phụ nói về sự truyền thừa của Tổ Sư Thiền như thế nào?

Đáp: Ngài Lục Tổ là Tổ thứ sáu ở Trung Quốc, nếu tính từ Sơ tổ Ca Diếp thì ngài là Tổ thứ ba mươi ba. Mỗi đời chẳng phải chỉ có một người kiến tánh, nhưng chỉ chọn một vị làm Tổ để tiêu biểu cho người đời sau.

Dưới Lục Tổ có bốn mươi ba vị kiến tánh mà không một người làm Tổ, chỉ được ấn chứng đã kiến tánh mà thôi. Đến sau này thì chưa kiến tánh cũng nối pháp, ví như thời gần đây có ba vị kiến tánh là ngài Lai Quả, ngài Hư Vân, và ngài Nguyệt Khê; ngài Lai Quả kiến tánh nhưng thầy của ngài khi truyền pháp cho ngài là chưa kiến tánh, ngài Hư Vân cũng vậy.

Thời xưa, khi người đệ tử kiến tánh rồi mới gửi thơ báo cho thầy rằng “Con được thầy khai thị khiến ngộ nay xin nối pháp của thầy”. Có khi thư gởi đến nơi thì thầy đã tịch rồi, có khi mười mấy năm sau thư mới đến, thầy cũng quên đi có người đệ tử đó.

Đệ tử sau khi kiến tánh ra hoằng pháp, đốt nén hương đầu tiên tuyên bố rằng “Tôi nói pháp của thầy nào đó”, lúc chưa tuyên bố thì không biết vị đó là nối pháp của ai.

Thời nay là đệ tử chưa kiến tánh thầy cũng truyền pháp, ví như tôi là đời thứ 89, truyền xuống đời thứ 90. Mặc dầu chưa kiến tánh, nhưng có tham thiền cũng còn khá, truyền mãi đến người không có tham thiền, người niệm Phật cũng truyền, vậy cũng được, cũng là có sự tu, nay nhiều người tu Tịnh Độ cũng nối pháp Thiền Tông. Nhưng, tồi tệ hơn là người Thiền cũng không tu, Tịnh cũng không tu, chẳng tu gì hết, chỉ là đi ứng phó kinh sám cũng được truyền thừa, ghi đầy đủ trong pháp quyển, cho nên, truyền mãi là không có giá trị gì cả.

Hỏi: Thế nào là tự tứ?

Đáp: Tự tứ là giải hạ tự tứ. Theo giới luật của Phật, tất cả Tỳ kheo đều phải nhập hạ, đến ngày 14, 15, 16 của tháng bảy là giải hạ, tự tứ là tự kiểm thảo, tất cả chúng đều phải tuần tự ra quỳ trước mặt đại chúng hỏi về kiến, văn, nghi: Kiến là mắt thấy, văn là tai nghe, nghi là không thấy không nghe nhưng có nghi. Ví như hỏi: Tôi chẳng biết tự mình có phạm giới hay không, nên nhờ đại chúng hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nghi ngờ tôi có phạm giới thì xin cử tội ra để giúp đỡ cho tôi sám”, gọi là tự tứ.

Hỏi: Con thì ăn chay, ở chung với ông bà nội, hằng ngày bà nội đi chợ mua thịt cá về, bảo con nấu nướng, vậy con có mang tội không?

Đáp: Cấp trên có quyền, mình là cấp dưới, nghe lệnh phải làm theo, tức chẳng có tâm tạo thì không có tội, không tạo nhân thì không phải chịu quả, mà người ra lệnh phải chịu nhân quả đó. Còn hễ trong tâm mình cũng khởi niệm thích như vậy hoặc muốn ăn như vậy thì phải cùng chịu cái quả.

Hỏi: Vậy con muốn trốn ông bà đi tu, có được không?

Đáp: Sụ tích của Phật Thích Ca ai cũng biết, ngài cũng trốn hỏi hoàng cung để đi tu. Nhưng hễ đi tu phải tu cho thành, cũng như Đức Phật vậy, tức là phải tu chơn thật, dù không thành công cũng phải chơn tu, nếu không thì mắc nợ thí chủ. Nên nhớ rằng:

Thí chủ một hạt gạo,

Lớn như núi Tu di.

Nếu không tu giải thoát,

Mang lông đội sừng trả.

Do đó, tôi thường khuyên là nếu chơn tu, tại gia cũng được, không cần xuất gia, nhất là người nữ.

Hỏi: Ở nhà khó tu lắm, thưa Sư phụ?

Đáp: Nếu tu Tổ Sư Thiền thì không phải là khó, chỗ nào cũng tu được.

Hỏi: Khi xưa trên hội Linh Sơn, đức Thế Tôn niêm hoa thị chúng, cả hội ngơ ngác, chỉ có Tôn giả Ma Ha Ca Diếp mỉm cười tỏ ngộ, được đức Thế Tôn truyền tâm pháp và nói: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, nay phó chúc cho Tôn giả Ca Diếp”.

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn có vị dịch rằng: “Con mắt là cửa của âm dương, là chỗ thần dạo chơi, phải thâu thần nơi con mắt, khiến trở về tâm khiếu, con mắt xem chỗ khiếu ấy chẳng rời, ấy là chỗ chánh pháp nhãn tạng, khế hợp với Niết bàn diệu tâm”, vây có đúng không?

Đáp: Đó là lời của tà ma ác đạo, vì chẳng hiểu Phật pháp. Đã nói Thật tướng vô tướng thì làm gì có những thứ đó?

Hỏi: Ngài Hư vân có nói: “Pháp tu phản văn văn tự tánh” của Bồ tát Quán Thế Âm tức là thoại đầu, vậy hai pháp Phản văn văn tự tánh và tham Tổ Sư Thiền có giống nhau không? Nếu đồng thì đồng ở chỗ nào? Nếu khác thì khác ở chỗ nào?

Đáp: Tổ Sư Thiền là muốn hiển hiện toàn vẹn của tự tánh, tự tánh bất nhị, chẳng nhân duyên đối đãi, Kinh Lăng Nghiêmnói phản văn văn tự tánh: Văn là nghe, trở lại nghe tự tánh, chẳng nghe âm thanh; chẳng những không nghe động, cũng không nghe tịnh, vì động tịnh là pháp sanh diệt, còn tự tánh là pháp bất sanh bất diệt. Nay không nghe âm thanh sanh diệt động tịnh, tức chiếu cố thoại đầu.

Chiếu là chiếu soi, cố là nhìn, nhìn chỗ không biết gì hết, vì không có tướng, trống rỗng vô sở hữu nên chẳng đối đãi, tức là tự tánh bất nhị. Phản văn văn tự tánh cũng như mình nhìn chỗ thoại đầu không biết đó, ý vốn không khác.

Chiếu cố thoại đầu là dùng tánh thấy, phản văn là dùng tánh nghe, cũng là một thứ. Khi sắc thân này chết, đem đi thiêu thành tro, chôn thành đất, còn tánh thấy, tánh ngửi, tánh nếm tồn tại vĩnh viễn chẳng có chết mất, vấn đề này có giảng trong Kinh Lăng Nghiêm.

Hỏi: Thuở Phật còn tại thế, Ngài A Nan bị nàng Ma Đăng Già dùng ma thuật nhiếp vào nhà dâm, sao phải nhờ Đức Phật sai Văn Thù Sư Lợi đem thần chú Lăng Nghiêm đến mới giải cứu cho A Nan được?

Đáp: Do A Ngài và Ma Đăng Già kiếp trước đã có nghiệp duyên, chẳng tự giải thoát được, nên Đức Phật phải sai Bồ tát Văn Thù đem thần chú đến cứu, và nhân dịp độ luôn cho Ma Đăng Già. Sau đó Ma Đăng Già trở thành Tỳ kheo ni và được chứng quả A na hàm, ấy cũng là nhân duyên.

Hỏi: Những vị Tổ đã ra đi thường để lại xá lợi, còn những vị Tổ thời gần dây như ngài Nguyệt Khê, sao để lại kim thân bất hoại làm gì?

Đáp: Nguyện lực của mỗi người mỗi người mỗi khác, như ngài Lục Tổ, Hám Sơn, Đơn Điền cũng để lại nhục thân, ngài Nguyệt Khê cũng vậy. Theo nghi lễ của Phật Giáo, các vị Tổ khi tịch thường là hỏa táng, vị nào có sự tu chứng thì để lại xá lợi, vị nào chẳng tu chứng thì không. Nhưng có xá lợi chẳng thể minh chứng cho sự kiến tánh, kiến tánh mới cần thiết, còn việc có xá lợi chưa chắc đã giải thoát, có khi còn ở trong sinh tử luân hồi.

Hỏi: Người tu theo đạo công giáo khi chết là trở về với Chúa, theo Tịnh Độ thì vãng sanh cõi Cực Lạc, còn hành giả tham Tổ Sư Thiền thì nếu chưa kiến tánh, vãng sanh về đâu?

Đáp: Tại Thầy chưa tin tự tâm, tự tâm vốn chẳng sanh diệt, người khi kiến tánh mới biết vốn không có sanh tử, không sinh tử thì có đi về đâu?

Do bản tâm này khắp không gian chẳng khứ lai nên gọi Như Lai, khắp không gian nên chẳng chỗ nào không biết, nếu mắc đi về đâu, ấy là có chỗ, chỗ này biết thì chỗ khác không biết, có đi về đâu là không cùng khắp, nếu cần đi về đâu thì không được gọi là Như Lai.

Còn khắp thời gian thì chẳng gián đoạn, gọi là Niết bàn, ví như những người tu đạo Thiên Chúa, mặc dầu được sanh cõi Trời, nhưng hễ ngủ mê là không biết, chết giấc cũng không biết, chết rồi vẫn không biết. Người kiến tánh thì khác, ngủ mê vẫn biết, chết giấc, chết rồi vẫn biết; vì kiến tánh rồi thì biết không có sự chết, nói sinh tử chỉ là cảm giác sai lầm mà thôi. (Sư phụ đã ví dụ do thân xoay thấy căn nhà xoay, lược qua).

Hỏi: Làm thế nào khi ngủ vẫn tham thiền được để đi đến thoại đầu?

Đáp: Phải tập dần, tức hỏi và nhìn câu thoại đi song song hoài, sẽ có ngày đến thoại đầu. Tôi nêu thí dụ: Hễ mỗi ngày tăng được một phút thì bốn năm đến thoại đầu, mỗi ngày tăng nửa phút thì tám năm, tăng ¼ phút thì mười sáu năm, tăng ít hơn nữa thì ba mươi hai năm đến thoại đầu.

Hỏi: Có một vị xuất gia cùng con, vị này ở trong chúng hay nổi sân, làm việc chúng cũng sân, lại hay phiền não. Đã là người xuất gia mà không bỏ được những tập khí đó thì phải làm sao? Xin Sư phụ từ bi khai thị.

Đáp: Do không tin pháp môn, cũng không tin tự tâm, chẳng thực hành cho đúng thì đâu thể sửa lại tạp khí phiền não từ lâu đời!

Hỏi: Thế nào là nhiễm, thế nào là chẳng nhiễm?

Đáp: Có sở trụ là nhiễm, không trụ tức chẳng nhiễm.

Hỏi: Phật mẫu là ai?

Đáp: Đó là do những người mê tín không biết Phật pháp, ví như gọi Bồ tát Quán Thế Âm là Phật mẫu. Bồ tát Quán Thế Âm đâu phải đàn bà! Đó chỉ là một trong thiên bá ức hóa thân hóa độ chúng sinh, như trong Phẩm Phổ Môn của Kinh Pháp Hoa đã nói. Chúng ta dù là phàm phu cũng có tam thân, cũng có thần lực đó, chỉ tại không thể sử dụng được thôi.

Hỏi: Trong Mộng Du Tập của ngài Hám Sơn, có vị Cổ đức nói “Ngộ pháp vô sanh thấy sát na” là thế nào? Đã ngộ vô sanh thì có sát na nào có thể thấy? Nếu thấy có sát na tức chẳng phải ngộ vô sanh, sao lại nói “Ngộ vô sanh mới thấy sát na?”Thế thì vô sanh với sát na là một hay khác?

Đáp: Vì phương tiện muốn cho phàm phu hiểu được một phần nào, nên mới kiến lập sát na, ấy là do thế gian đã kiến lập cái sát na rồi nên sát na là do kiến lập mới có. Tôi đã nói, Phật pháp chẳng thể kiến lập, luôn cả hư không cũng vậy, huống là sát na!

Kiến lập thì chẳng phải thực tế, Đức Phật vì sợ chúng sinh chấp vào cái kiến lập đó, nên kiến lập rồi lại phủ định, do đó Phật pháp có lập và phá: Ví như đối với hạ căn thì chỉ có lập không có phá, đối với trung căn là lập rồi phá, đối với thượng căn thì chẳng lập cũng chẳng phá, vì có gì để lập đâu!

Hỏi: Lọt vào hư không mỗi lần dài hơn một chút có phải tiểu tử không?

Đáp: Không phải, tôi nói “lọt vào hư không” chỉ là phương tiện để thí dụ cho biết, nay chúng ta cũng đang ở trong hư không, làm sao có lọt vào đâu nữa? Hư không này tức là tâm của mình, bây giờ cũng đang dùng, ấy là thực tế, mục đích để tăng cường lòng tin cho hành giả tham thiền, ngoài ra chẳng phải có đạo lý cao siêu.

Hỏi: Con muốn xin Sư phụ kể lại quá trình tu tiến công phu từ lúc bắt đầu khởi công tham Tổ sư thiền, cho đến tối ngộ ?

Đáp: Mọi người hãy tự lo công phu của mình, chứ đừng lo cho người khác. Quá trình của quá khứ chư Phật chư Tổ mỗi mỗi đều khác biệt, các vị đồng tham cũng vậy, việc đó vô ích mà còn có chướng ngại. Cho nên, hãy tự lo tu đi. Cứ tự tham cho miên mật, đến chứng ngộ là thự biết, chứ dùng bộ não đi tìm hiểu la sai lầm. Lời nói của Phật còn không cho người ta bắt chước, huống là người chưa kiến tánh!

Ví như Phẩm thí dụ Thọ Lượng của Như Lai với tám tướng thành Phật ở cõi Ta Bà này khác xa lấm, ấy là chuyện do Phật kể còn không phải thực tế mà ? Nay ông muốn tìm cái không phải thực tế để làm gì? Chỉ cần hỏi và nhìn câu thoại đầu thì sẽ đi đến chỗ thực tế, nếu dùng bộ não đi tìm hiểu, chỉ càng tìm càng xa thôi.

Hỏi: Ý con chỉ muốn Sư phụ dẫn dắt chúng con đi đếnchỗ thoại đầu mà thôi.

Đáp: Tôi đã chỉ ra đường lối do chư Tổ truyền lại cho mọi người tu; do đó không cho đi theo lối tẻ, không cho đi bậy. Như ông hiện nay hỏi là theo lối tẻ, không đúng với đường lối. Đường lối tham Tổ sư thiền là giữ nghi tình không hiểu không biết, là chấm dứt tất cả tìm hiểu biết, ghi nhớ biết, suy nghĩ biết, nay đi tìm hiểu những cái không thực tế là chướng ngại sự tham thiền, đã là nghịch rồi, tìm hiểu sự tích của Phật Thích Ca cũng còn không được, ví như nói về ngày Phật đản sanh chẳng hạn.

Hỏi: Lục Tổ nói trong Kinh Pháp Bảo Đàn về “Hàng phục tâm,an trụ tâm, nhưng tâm thì vô sở trụ, trụ nơi vô sở trụ mới gọi là chọn trụ” là thế nào?

Đáp: Vấn đề An trụ tâm, hàng phục tâm trong Kinh Kim Cang, những người có tư tưởng chấp thật thì giải thích theo chủ quan của mình mà chẳng biết ý của Phật nói câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, vì vọng tâm của mình luôn lăng xăng, nay thực hành tham Tổ sư thiền, hỏi và nhìn đi song song đã là hàng phục tâm rồi.

An trụ tâm cũng vậy, hễ giữ được nghi tình thì tâm luôn an trụ, chẳng bị ngoại cảnh lôi kéo, tốt đẹp thế nào cũng không biết, xấu cách mấy cũng không biết, ấy là hàng phục tâm, an trụ tâm rồi, nếu đùng lời nói để giải thích theo cách chủ quan là sai, không đúng với thực tế.

Hỏi: Hành giả tham Tổ sư thiền đối với những ngày giỗ Tổ, phải thờ cúng ông bà cha mẹ như thế nào?

Đáp: Không có cúng kiến thế nào, nếu tự mình không muốn cúng thì chẳng cúng gì cả, còn muốn theo thế tục cúng thì cứ cúng, cũng chẳng có chướng ngại. Tức là: Chỉ cần hỏi và nhìn đi song song, ngoài ra không biết tới; nếu có bà con thân thuộc bắt buộc mình phải cúng thì cúng cũng được.

Vì bản tâm là Phật, nay tu hành là muốn phát hiện bản tâm của mình để kiến tánh thành Phật, còn mục đích cúng kiến là gì? Hễ muốn phù hộ thì không cần phù hộ, cũng chẳng thể phù hộ, còn cúng ký niệm thì cũng được, tất cả đều tùy duyên, chứ chẳng phải nhất định phải cúng hay không cúng, nhất định cần hay không cần.

Hỏi: Thế nào là chánh pháp nhãn tạng?

Đáp: Tổ sư thiền này là chánh pháp nhãn tạng. Khi đức Phật truyền pháp cho Sơ tổ Ma Ha Ca Diếp, Ngài có nói: “Nay đem chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm truyền cho Ca Diếp”, vậy là rõ rồi.

Hỏi: Khi tham thoại đầu phải có câu hỏi mới sanh được nghi tình, như vậy hành giả luôn an trú trong cái nghi, nhưng dần dần do cái nghi không giải quyết được nên sự tham trở thành niệm rồi?

Đáp: Không phải, trong câu tham phải có cái nghi, không hiểu không biết mới thành nghi, nếu chỉ có hỏi có thể biến thành niệm, nếu vừa hỏi vừa nhìn thì không biến thành niệm.

Hỏi: Hành giả tham thiền làm sao biết mình là tiểu ngộ đại ngộ?

Đáp: Hễ ngộ rồi còn ôm cảnh giới ngộ, tức cho là mình đã ngộ thì gọi là tiểu ngộ, hễ ngộ rồi luôn cả cảnh giới ngộ cũng không mới là đại ngộ. Vì ngộ là đối với mê, nếu ngộ triệt để thì hết mê, mê đã hết, ngộ cũng không còn cho nên mê ngộ đều sạch.

----o0o---

Vi tính: Minh Trí - Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567