Một Khúc Mắc Về Kinh Kim Cang

13/09/202508:22(Xem: 402)
Một Khúc Mắc Về Kinh Kim Cang


Phat thuyet phap-1

 Một Khúc Mắc Về Kinh Kim Cang


Có một nhà trí thức, có thể nói là “Thiên kinh vạn quyển” ái mộ Phật, nghiên cứu kinh điển rất nhiều. Thế nhưng có một đoạn trong Kinh Kim Cang ông không sao hiểu nổi. Ông đã nhờ nhiều nhà trí thức  giải thích dùm nhưng những lời giải thích có vẻ gượng gạo càng làm cho vấn đề trở nên bế tắc. Cuối cùng ông quyết định vấn hỏi một vị thiền sư xem Phật gia có thật sự hiểu thấu đáo kinh điển hay chỉ đọc tụng như một cái máy, tin mà không hiểu gì hết. Khi hội kiến thiền sư, ông trình bày thắc mắc của mình:

-Thưa thầy, trong Kinh Kim Cang có đoạn: “Tu Bồ Đề, ví như có người thân như Núi Tu Di. Ý ông thế nào? Thân người ấy có to lớn không? Tu Bồ Đề thưa, bạch Thế Tôn, rất lớn. Vì sao? Phật nói chẳng phải thân to lớn, như thế mới là thân to lớn.”

Thưa thầy,”Thân to lớn mà không phải thân to lớn”, tức thân nhỏ bé, làm sao có thể lại là thân to lớn? Phải chăng có cái gì mâu thuẫn trong câu kinh này?

Nghe hỏi vậy, sư mỉm cười rồi nhẹ nhàng nói:

-Để hiểu đoạn kinh này xin ông lắng nghe câu chuyện sau đây.

 Nói rồi sư kể:

“Có hai vị sa môn huynh đệ, trong một chuyến du hóa tình cờ xe đò bị hư phải dừng lại bên đường. Cũng đã tới giờ Ngọ, hai vị tìm vào một quán cơm chay. Khi thấy khách bước vào, người hầu bàn tới chào rồi chờ khách gọi món ăn. Vị sư đệ gọi một tô hủ tíu chay, còn vị sư huynh gọi một tô mì chay. Một lát sau, có thể do lầm lẫn của nhà bếp và vô ý, người hầu bàn đưa ra hai tô hủ tíu. Vị sư đệ nhận và ăn tô hủ tíu đã đành, còn vị sư huynh cũng nhận và điềm nhiên ăn tô hủ tíu.  Khi ăn xong, vị sư đệ với vẻ bồn chồn, lên tiếng hỏi:


-Sư huynh gọi tô mì chay, khi bồi bàn đem ra tô hủ tíu, sư huynh có thấy đó là tô hủ tíu không?

Vị sư huynh đáp:


-Có chứ, huynh biết đó là tô hủ tíu chứ.


-Thế tại sao huynh ăn mà không phản ứng gì? Không than phiền hay yêu cầu chủ quán đổi tô mì chay cho sư huynh?

Vị sư huynh cười đáp:

-Đệ đọc tụng hằng ngày Kinh Kim Cang đã quên mất đoạn, “Thân to lớn chẳng phải thân to lớn như thế mới là thân to lớn” rồi sao? Thì ngày hôm nay, “Tô mì chay chẳng phải tô mì chay như thế mới là tô mì chay.” Sau khi gọi tô mì chay, huynh quên tất cả và không còn nhớ tới nó nữa. Chính vì thế mà tô mì chay hay tô gì đó hay tô hủ tíu cũng đều như nhau cả. Cho nên trước mắt huynh tô hủ tíu cũng là tô mì. Theo lời dạy trong Kinh Kim Cang, huynh đang luyện tâm không phân biệt.

Nghe sư huynh giảng thế, vị sư đệ như bừng nở hoa tâm và đứng lên vái lạy vị sư huynh của mình.”

Kể tới đây, sư dừng lại một chút rồi nói tiếp:

-Kinh Kim Cang không thể hiểu chữ bằng nghĩa, bằng biện luận mà bằng cái Tâm Vô Sai Biệt. Kinh Kim Cang là kinh phá mọi ràng buộc, mê lầm. Khi đã vô sai biệt thì làm gì có lớn có nhỏ? Lớn cũng là nhỏ mà nhỏ cũng là lớn. Nó cũng chính là Trí Tuệ Bát Nhã. Nó là kinh đại thừa đốn giáo mà Lục Tổ Huệ Năng tu thành Phật. Thưa ông, khi đã thấu đáo Trí Tuệ Bát Nhã thì:

-Khi người đời tán dương ông là một học giả mà ông coi mình không phải học giả, như thế mới là học giả.

-Khi người đời tán dương ông là nhà đạo đức mà ông thấy mình chưa phải là nhà đạo đức, như thế mới là nhà đạo đức.

-Khi ông thông minh mà không bao giờ tỏ ra thông minh, như thế mới thật là thông minh.

-Khi ông biết mà tỏ ra mình như không biết, như thế mới là biết.

-Khi ông là tỷ phú mà ông coi mình như kẻ nghèo khó như thế mới là tỷ phú.

-Khi ông thành công mà ông nói có gì gọi là thành công đâu và hồi hướng công đức về tất cả mọi người, như thế mới là thành công.

-Khi ông phục vụ mà nói rằng tôi có phục vụ gì đâu, đó chỉ là bổn phận, như thế mới là phục vụ.

-Khi ông nổi tiếng mà nói rằng hư không vốn thanh tịnh, làm gì có sự nổi tiếng trong hư không, như thế mới là người nổi tiếng.

-Khi ông bố thí mà không thấy có chuyện bố thí, như thế mới là bố thí.

-Khi ông cúng dường mà không chấp mình có cúng dường, tức không kể công, như thế mới gọi là cúng dường.

Người đời cần có hình, danh, sắc, tướng để mà sống. Nhưng người tu hành hay thiện tri thức phải phá bỏ mọi hình, danh, sắc, tướng đang tạm gắn trên người mình. Cũng chính vì thế mà ngài Tu Bồ Đề đã thưa với Phật rằng, “Con không chấp niệm con là A La Hán Ly Dục. Bạch Thế Tôn, nếu con còn chấp niệm rằng con là A La Hán Ly Dục thì chắc Thế Tôn không nói Tu Bồ Đề ưa làm hạnh tịch tịnh A Lan Na.

Nghe tới đây vị trí thức bừng nở hoa tâm, như giữa cơn khát cháy được uống một ly nước dừa tươi, như trời nắng hạn gặp cơn mưa rào và trút được một gánh nặng đã đeo đuổi ông bao năm trời. Ông nói:

-Kim Cang đúng là tâm kinh, hiểu bằng tâm chứng ngộ, đó là pháp môn tu thành Phật mà người bình thường không sao hiểu được, Xin tạ ơn thầy.

Thiện Quả Đào Văn Bình 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/08/2022(Xem: 3455)
Thiền tập CHÁNH NIỆM sẽ giúp cho chúng ta cảm nhận được sự an lạc trong từng giây phút của cuộc sống. Thiền cũng tăng sự tập trung, tăng kỹ năng nhớ, vượt qua áp lực căng thẳng trong đời sống hằng ngày… Thể theo nhiều yêu cầu của các bạn trong và ngoài nước, buổi họp ra mắt lớp Thiền Tập Chánh Niệm và Yoga sẽ được họp qua hệ thống ZOOM. Vào: * Ngày 24 tháng 09, 2022 lúc 6:30pm-8:00pm (Central time/Hoa Kỳ-Tối Thứ 7 tại Hoa Kỳ) *Nhằm ngày 25 tháng 09, 2022 lúc 6:30am-8:00am (sáng Chủ Nhật tại Việt Nam)
07/01/2022(Xem: 5203)
Chứng ngộ không phải là một kết luận mà người ta đạt được bằng suy luận; nó coi thường mọi xác định của trí năng. Những ai đã từng kinh nghiệm điều nầy đều không thể giải thích nó một cách mạch lạc và hợp lý. Một khi người ta cố tình giải thích nó bằng ngôn từ hay cử chỉ, thì nội dung của nó đã bị thương tổn ít nhiều. Vì thế, kẻ sơ cơ không thể vói tới nó bằng những cái hiển hiện bên ngoài, mà những ai đã kinh nghiệm qua một lần chứng ngộ thì thấy rõ ngay những gì thực sự không phải là nó. Kinh nghiệm chứng ngộ do đó luôn luôn mang đặc tính ‘bội lý,’ khó giải, khó truyền. Theo Thiền sư Đại Huệ thì Thiền như là một đống lửa cháy lớn; khi đến gần nhất định sém mặt. Lại nữa, nó như một lưỡi kiếm sắp rút ra khỏi vỏ; một khi rút ra thì nhất định có kẻ mất mạng. Nhưng nếu không rút ra khỏi vỏ, không đến gần lửa thì chẳng hơn gì một cục đá hay một khúc gỗ. Muốn đến nơi thì phải có một cá tính quả quyết và một tinh thần sung mãn. Ở đây chẳng có gợi lên một chút suy luận lạnh lùng hay phân biệt
12/12/2021(Xem: 4997)
Thế Tôn là bậc tuệ tri mọi pháp, bậc y vương, thầy của trời người trong tam giới. Vì thế, Đấng Thiện Thệ trong 45 năm thuyết pháp đã để lại cho thế gian một kho tàng pháp bảo, là những diệu dược tùy theo bệnh (tham sân si) của chúng sanh mà kê toa thích ứng nhằm chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, niết bàn. Riêng trong tạng Pali, ngoài tứ niệm xứ, minh sát tuệ, Thế Tôn từ mẫn với trí tuệ toàn giác (tuệ tri mọi pháp) đã 'có nhiều phác đồ điều trị khác nhau trên nền tảng của đạo đế: Bát Chánh Đạo' diệu dụng mà theo đó tùy theo căn cơ (tùy pháp, hành pháp), sẽ đến bờ giải thoát, hoặc bậc hữu học vv.
16/11/2021(Xem: 12716)
01. Niết-bàn 02. Vô minh 03. Giáo lý Vô thường 04. Không có ngã hay Không phải ngã 05. Pháp môn Không phải ngã 06. Định nghĩa của Niệm 07. Giáo dục lòng Từ Bi 08. Tin vào Trái Tim: Giáo lý về Saṁvega & Pasāda 09. Làm sao để hiểu tâm mình? 10. Hoà Giải, Phải & Trái 11. Gốc rễ của chủ nghĩa Lãng mạn Phật giáo * AFFIRMING THE TRUTHS OF THE HEART - BUDDHIST ESSAYS by Thanissaro Bhikkhu CONTENTS 01. The Image of Nirvāṇa 02. Ignorance 03. All About Change 04. No-self or Not-self? 05. The Not-self Strategy 06. Mindfulness Defined 07. Educating Compassion 08. Affirming the Truths of the Heart: The Buddhist Teachings on Saṁvega & Pasāda 09. How to Read Your Own Mind 10. Reconciliation, Right & Wrong 11. The Roots of Buddhist Romanticism
06/11/2021(Xem: 24557)
Kinh Hoa Nghiêm là tên gọi tắt của bộ ‘Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh’ do Ngài Long Thọ Bồ tát viết ra vào thế kỷ thứ 2, tức khoảng 600 năm sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Hoa Nghiêm (Avatamsaka) có nghĩa là đóa hoa tuyệt đẹp, thanh khiết. Phần Hán tự đã được dịch ra từ thế kỷ thứ 5, dưới ba hệ thống Bát Nhã (40 quyển), Giác Hiền (60 quyển) và Nan Đà (80 quyển) . Nhập-Pháp-Giới (Gandavyuha) là phẩm thứ 39 trong số 40 phẩm, cũng là phẩm dài nhất, tiêu biểu cho giáo lý căn bản của kinh Hoa Nghiêm nói riêng và Phật giáo Đại thừa nói chung, diễn tả con đường cầu đạo của ngài Thiện Tài Đồng Tử qua 52 vị Thiện Tri Thức dưới nhiều hình tướng, khởi đầu là ngài Văn Thù Sư Lợi, chư Thiên, Dạ thần, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Đức Phật Di Lặc..., và cuối cùng là Ngài Phổ Hiền.
18/06/2021(Xem: 18582)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
03/04/2021(Xem: 6795)
Trước khi vào nội dung bài viết ta nhắc lại một vài kiến thức của vật lý cấp 2 phổ thông cần thiết cho chủ đề này. Một vài thuật ngữ: Trọng tâm G của một vật: là điểm đặt của trọng lực P tác dụng lên vật đó (P được biểu thị bằng một mũi tên thẳng đứng có chiều hướng xuống dưới). Chân đế: là đa giác lồi nhỏ nhất chứa tất cả các điểm tiếp xúc giữa một vật với mặt phẳng đỡ nó. Chân đế là một hình phẳng, nó cũng có trọng tâm G1, với những hình đặc biệt như hình vuông thì trọng tâm của nó là giao điểm của 2 đường chéo, nếu là hình tam giác thì trọng tâm của nó là giao điểm của 3 đường trung tuyến.
15/10/2020(Xem: 5104)
Có lẽ bài viết này sẽ không đúng thời, đúng lúc vào hoàn cảnh hiện nay (riêng cho Việt Nam, các miền Bắc Trung Bộ từ Quảng Trị vào đến Thừa Thiên (Huế) nơi các vị Thầy khả kính của tôi đang chịu nhiều áp lực của thiên tai (sạt lỡ và lũ lụt trầm trọng hơn bao giờ hết, vượt lên trên những hậu quả của năm 1999 và hơn thế nữa... thế giới đang chịu nạn đại dịch Covid 19 hoành hành làm ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu. Nhưng hậu bối trộm nghĩ nếu mình không ráng tu học để được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi khi còn được may mắn có cơ hội làm người và có cơ hội giác ngộ hơn những động vật và loài cỏ đá vô tình, thì cũng uổng phí một đời...
03/09/2020(Xem: 4643)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư. Bản thân người viết không phải là một thẩm quyền nào; do vậy, nơi đây chỉ là một cố gắng trong khả năng hạn hẹp để đọc lại và ghi chép lại một số lời dạy từ kinh luận, hy vọng sẽ giúp làm sáng tỏ một số thắc mắc. Các chữ viết tắt trong bài này có thể đọc ở Đại Tạng Kinh (1) với các kinh: DN là Trường Bộ Kinh, MN là Trung Bộ Kinh, SN là Tương Ưng Bộ Kinh, AN là Tăng Chi Bộ Kinh, Sn là Kinh Tập trong Tiểu Bộ, Ud là Kinh Phật Tự Thuyết, SA là Tạp A Hàm,