Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cõi An Lành - Hạnh Phúc (ý nghĩa và thần lực của việc niệm Nam Mô A Di Đà Phật)

05/12/202104:38(Xem: 4998)
Cõi An Lành - Hạnh Phúc (ý nghĩa và thần lực của việc niệm Nam Mô A Di Đà Phật)
phat di da tiep dan

CÕI AN LÀNH - HẠNH PHÚC
(Ý NGHĨA và THẦN LỰC (1) của việc Niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT)

Chấp hai tay cúi đầu miệng niệm Phật
A Di Đà chào chúc thật cao sâu
Khỏe sáng suốt cùng chân lý nhiệm mầu
Được trường thọ thăng hoa trong cuộc sống…

Sống trong một thế giới vô thường biến đỗi, với đầy sự nhiễu nhương, tang thương, chết chóc, do thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, xảy ra trước mắt hằng ngày, gây lắm khổ đau, điển hình như Covid-19 (với đầy ác khí) như hiện nay, cũng khiến cho nhiều người lo sợ, khủng hoảng và thức tĩnh. Thấy rõ được rằng, mọi cơ sở vật chất, với nhiều năm đầu tư xây dựng, chỉ một cơn động đất, sóng thần hay bão lửa, lũ lụt nổi lên, sẽ tan tành theo mây khói. Một đời người với biết bao nhiêu lo toan, tính toán, hy vọng, ước mơ, một cơn đại dịch xảy ra, đành âm thầm ra đi trong tức tưởi, không một người thân đưa tiễn, tất cả tài sản bao năm gầy dựng, phải bỏ lại, không mang theo được gì!

Nhất là tiến bộ của khoa học với tiện nghi vật chất hiện đại, cả 2 năm rồi vẫn chưa khống chế được dịch bệnh, vacxin này ra, thì virus khác xuất hiện, còn đe dọa sẽ có những biến chủng nguy hiểm hơn gấp bội, như “Omicron” đang gây hoảng loạn, sẽ hoành hành và diễn biến khá phức tạp, cũng như hình ảnh mọi người phải “bịt miệng” và “húc cùi chỏ” khi gặp nhau, thật là khó chịu, mất thẩm mỹ, mà vẫn chưa có một dụng cụ hay cách chào đẹp mắt hữu hiệu nào thay thế.

Trong khi đó đất nước Bhutan hay Bộ Tộc Kogi, cũng như các Tu Viện Phật Giáo thường ở những nơi rừng vắng, Tu Sĩ và những người dân nơi đây, sống hòa thuận với thiên nhiên, không chạy theo “vật chất hay tiến bộ khoa học”, tất cả đều sống rất an lành và hạnh phúc.

Từ đó nhiều người đã thấy được phần “tinh thần” là quan trọng, quyết định cho hạnh phúc hoặc khổ đau và còn mãi cũng như theo ta suốt đời này, sang kiếp khác. Nên đa số đã hướng về tâm linh, lo TU HÀNH, mà pháp Tu Tịnh Độ Niệm Phật A Di Đà là dễ thực hiện và phổ cập nhất.  

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, thấy và thương chúng sanh đang oằn oại trong phân biệt với đầy dục vọng ở cõi thế gian này, nên đã “thị hiện” làm Giáo Chủ cõi Ta bà, chỉ bày cho chúng ta, thấy được Phật tánh trong từng người và giới thiệu Cõi Tây Phương Cực Lạc để chúng sanh hướng về, lo tu hành hầu thoát khổ.

Tại sao phải hướng về Tây Phương Cực Lạc ? Vì khi mọi người lo “hướng ngoại tìm cầu” sẽ trải nghiệm và thấm thía được sự khổ đau, lúc đó ai ai khi sống, cũng muốn tìm đến chốn bình an và khi chết được về Cõi Cực Lạc, nơi mà “Chúng sanh không có khổ đau, chỉ hưởng An Lạc, nên gọi Cực Lạc”. Nhưng muốn về được Cõi Cực Lạc, phải Tu hành miên mật, một lòng tin tưởng, chí thành niệm Phật cầu vãng sanh về cõi ấy. Chứ không thể “Chỉ dùng chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được vãng sanh về cõi nước ấy”.

Trong kinh Đại Tập Phật dạy: Thời Mạt pháp vạn ức người tu không được một người giải thoát, chỉ nương pháp môn Niệm Phật mới có thể ra khỏi được luân hồi. Trong kinh Bửu Tích Phật thưa với Phụ Vương Tịnh Phạn: Phụ Vương nên niệm danh hiệu của Phật A-di-đà nơi cảnh Tây phương Cực Lạc, tinh tấn chuyên cần thì sẽ thành Phật, vui mừng niệm Phật sẽ được Vô Sanh Pháp Nhẫn và Phật cũng dạy cho Hoàng Hậu Vi Đề Hy pháp môn niệm Phật.

“Người niệm Phật dù bản thân không thấy được ánh sáng phát ra, nhưng người cõi âm, như quỷ thần… đều nhìn thấy. Càng thuần thành niệm Phật thì ánh sáng càng lớn, bởi danh hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT là danh hiệu ánh sáng. Ma quái ác quỷ sẽ không thể quấy phá người niệm Phật được vì luôn có ánh sáng Phật A Di Đà nhiếp thủ. Người niệm Phật ở đâu chỗ đó sẽ yên ổn, cõi âm cũng được hưởng lợi ích từ Phật hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT”. PS Huệ Viễn

Vậy chúng ta hãy tìm hiểu về “thần lực và diệu dụng” của hồng danh sáu chữ: Nam Mô A Di Đà Phật.

- Nam Mô: Kính lễ, quy y, phụng thờ, cứu ngã, độ ngã, quy mạng.

- A: Có nghĩa là Vô, Không

- Di Đà: Có nghĩa là Lượng

- Phật: Người Giác ngộ

A Di Đà Phật, cũng có nghĩa: Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Công Đức. Cũng là tên chung của tất cả pháp giới chư Phật!

Vậy Nam Mô A Di Đà Phật là: Kính lễ đấng Giác ngộ, hoặc cũng có nghĩa là: Quay về nương tựa vào đấng Giác ngộ, với Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang và Vô Lượng Công Đức, hay pháp giới chư Phật!

Có câu: “Cúi đầu là bông lúa, ngẩng đầu là cỏ dại”. Cây lúa càng chín hạt càng chắc, đầu sẽ rủ xuống, còn cỏ dại thích thể hiện bản thân, lúc nào cũng ngẩng đầu lên. Nhưng bông lúa luôn được coi trọng, cỏ dại lại chẳng được đoái hoài” …

Cho nên Nam Mô là thể hiện sự vững mạnh, vô ngã, vị tha, từ đó có được cái Đức qua sự khiêm cung, để hưởng được sự gia hộ của Chư Phật. Còn nếu chỉ biết hiu hiu tự đắc, muốn thể hiện “cái ta” thì chỉ là “cỏ dại” bị “tổn đức” mà thôi. Cho nên thường niệm Nam Mô là nhắc nhỡ chúng ta luôn sống khiêm cung, để có được Phước Đức là như vậy.

Vì sao phải hướng về Phật A Di Đà ?

Phật A Di Đà, nhờ phát 48 lời đại nguyện, trong đó có nguyện: “Khi tôi thành Phật, mười phương chúng sanh, nếu xưng danh hiệu tôi, đều sinh về nước của tôi, hóa sinh trong hoa sen, được quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác” chủ yếu Ngài hướng vào sự chuyển hóa những ý nghĩ, lời nói và hành động của chính mình, theo chiều hướng thiện lành, để đạt được tự tánh thanh tịnh cho tự thân và giáo hóa muôn loài. Ở Cực Lạc  sẽ được Trường Thọ, Đầy Đủ Trí Tuệ và Tràn Đầy Công Đức.

 

Niệm Phật A Di Đà là một cách tu, đơn giãn, dễ dàng, không đòi hỏi gì nhiều, chỉ cần tin tưởng và chí thành tưởng niệm đến Ngài, dầu đang bận rộn hay những lúc thảnh thơi, ở nơi đâu cũng được. Ta sống là nhờ vào hơi thở, nên chỉ cần “hít vào A Di, thở ra Đà Phật” là an ổn rồi, vừa có điều kiện để tiếp tục cuộc sống, vừa tu hành có được công đức.   

Phương pháp tu đơn giản này với “Tin sâu” rằng: đức A Di Đà không bao giờ Nguyện dối. Chỉ cần ta chân thật niệm danh hiệu của Ngài là “chắc chắn được vãng sinh”. Đặc biệt Tin mình dẫu có là phàm phu, gia quyến buộc ràng, giới định huệ không có, vẫn nương nơi Bổn Nguyện này mà lìa xa tam giới.

Và ”Nguyện thiết” rằng: “Chỉ nguyện cầu vãng sinh Tây Phương Tịnh Độ, không một mảy may mong cầu phước báo nhân thiên. Phải tha thiết như bị rớt xuống hầm xí, cầu được gấp thoát ra; Như đang bị tù, chỉ đau đáu nghĩ đến về nhà”. niệm Phật, giúp ta có chánh niệm, theo hơi thở gom tâm về một chỗ, một khi “gom tâm về một chỗ, thì mọi việc đều thông suốt”, cũng là phương tiện hữu hiệu giúp tự lực cho chính mình tránh đi những xao lãng và cám dỗ của tội lỗi.

Chí tâm niệm Phật theo hơi thở ra vào, từ đó “ba nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương” như trong Kinh có dạy. Để có được “tâm an” thì “vạn sự an theo” và cũng giúp cho “quốc độ tịnh” và “thế giới hòa bình” từ đó có được ánh sáng tỉnh thức, giúp cho tâm: thấy, biết, nhận định được ý nghĩa tốt đẹp của sự sống. để biết sống đạo đức, qua bốn đức tính Từ, Bi, Hỷ, Xả, sẵn có trong mỗi người chúng ta.

Hằng niệm Phật là một hình thức chánh niệm giúp chúng ta sống tích cực trong khoảnh khắc hiện tại, không có thời gian cho ta “thị phi” tạo tội, là liệu pháp trấn an tâm lý tuyệt vời, từ đó giảm stress, bớt các cảm xúc tiêu cực, không còn tức giận, thù hận hay chấp trước, làm giảm sự thèm khát, tham lam, thay vào đó là nuôi dưỡng tâm Bồ đề, biết sẻ chia, để giúp đỡ mọi người thoát khỏi đau khổ, tạo hy vọng, giúp chúng ta có niềm tin vào những điều tốt đẹp trong tương lai.

Niệm Phật nhất tâm bất loạn (2), là khi ta có được trạng thái tĩnh lặng của tâm. Muốn đạt trạng thái đó, chúng ta phải miên mật, phát tâm Bồ đề mong muốn giác ngộ, hiểu và thực hành các giáo pháp của Phật, làm nhiều việc thiện để tích lũy công đức, thường xuyên thực hành thiền, niệm Phật để giảm dần các cảm xúc tiêu cực.

 

Kinh nghiệm của tự thân, áp dụng “thiền tịnh song tu”, “ngồi thiền” giúp thân nghiêm trang ngay thẳng, khi ngồi thiền, vừa niệm Phật, vừa theo dõi hơi thở để quán chiếu khắp toàn thân, bằng cách thực hiện hít vào rồi theo dõi và dẫn hơi thở từ đỉnh đầu chạy xuống toàn thân đến những ngón chân, thở ra cho thoát ra ngoài, quay lại, hít vào theo dõi và dẫn hơi thở chạy ngược lại, từ các ngón chân, qua toàn thân, đến đỉnh đầu thở ra. Phương pháp này giúp rất dễ nhiếp tâm.

Trong thời buổi nhiễu nhương, loạn động, với tiện nghi vật chất hiện đại, sẽ dễ dàng dẫn dắt chúng ta đi vào đường ma, lối quỷ. Con người không có nhiều thời gian để tu tập, nên pháp môn niệm Phật là dễ dàng thực hiện nhất.

Cho nên niệm A Di Đà Phật, để chào, chúc nhau, rồi hỏi hay đồng ý nhau… cũng dùng câu niệm Phật, trở thành sinh hoạt quen thuộc hằng ngày của người con Phật, rồi các Đạo Tràng Niệm Phật, lạy Phật, Ban Hộ Niệm… để Cầu Nguyện cho người bệnh (an tâm người sống). Tiếp Dẫn cho những người hấp hối hay sắp vãng sanh (độ cho người chết), mọc lên khắp mọi nơi, cũng nhằm tạo cơ hội để cùng nhau niệm Phật, tạo điều kiện sẻ chia và môi trường tốt, ngày đêm hằng tu tập cho những người muốn tìm về nguồn cội, có cuộc sống an lành, cũng có được nhiều kết quả khả quan.

Hình ảnh “hiệp chưởng” chấp hai tay trước ngực và cúi đầu chào nhau (thân), (miệng) niệm Nam Mô A Di Đà Phật, (ý) chân thành cầu chúc lành cho nhau, biểu thị lòng tôn kính, tán dương nhau, sẽ thâu nhiếp loạn tâm, cũng có ý nghĩa úp mười pháp giới vào nhau, dung hợp các phạm trù đối lập, biểu thị “hiểu” và “hành” hợp nhất, cũng là thật tướng của vũ trụ vạn pháp, tìm về bản nguyên chân diện mục, hình ảnh cho hòa bình, hữu nghị, đoàn kết và hợp tác, không tranh đấu và không làm tổn thương nhau. Có như vậy mới dễ dàng giao hữu thân thiện nơi trần gian và thành tựu được vô thượng bồ đề với đạo, thật nhiều ý nghĩa. một ứng xử có sức lan tỏa tốt, là nét đẹp văn hóa Phật Giáo rất đặc sắc, đã đi vào tâm thức người con Phật ở khắp mọi nơi.

Sau khi bị Covid-19, để tránh lây lan, các lãnh tụ thế giới, không còn bắt tay nữa, mà chuyển qua chấp hai tay lại chào nhau, thật là đẹp ! Nhưng không hiểu vì sao bây giờ lại là “húc cùi chỏ” để chào nhau, thấy thật là khó coi và hình ảnh này đã khiến cho các cường quốc trên thế giới đang đi vào đối đầu với nhau và có thể chiến tranh sẽ xảy ra.

Covid-19 đã ra một “thông điệp” từ khi mới xuất hiện, rồi suốt 2 năm hoành hành, cho đến hôm nay nhiều nơi vẫn còn phải bị “bịt miệng, ở yên một chỗ, cách ly và phong tỏa” mới có thể tránh được đại dịch và điều đặc biệt môi trường biển và bầu khí quyển, trở lại được sự trong sạch. Qua đây chắc mọi người sáng tỏ thêm “Đời là vô thường” mọi tiến bộ của khoa học với bao tiện nghi cũng không thể mang lại bình yên, hanh phúc lâu dài cho nhân loại được. Mà nhu cầu của con người là mong được bình an, hạnh phúc. Vậy hãy “dừng lại” vì theo thuyết “duyên khởi”, “cái này sanh, thì cái khác cũng sẽ sanh” chỉ có “ở yên một chỗ và bịt miệng”, tức là phải bớt nhu cầu đi lại, ăn uống, hưởng thụ về tiện nghị vật chất, mới được yên. Từ đó quán chiếu lại bản thân  hướng vào tinh thần (phần còn mãi) để lo tu tạo Phước Đức, phát huy năng lượng nhân bản, sống phụng sự, với tâm “ít muốn, biết đủ”, vui với những gì hiện có, dành hết tâm trí vào việc làm của mình và chí thành niệm Nam Mô A Di Đà Phật để chào chúc nhau

Thiện Niệm này với Thần Lực của Hồng Danh Phật, vừa an được tâm, vừa cầu nguyện, chia sẻ cho Trí Tuệ, Công Đức và Trường Thọ lan tỏa. Được như vậy mọi việc xem như chu toàn, lúc đó thế giới này sẽ không còn “ngã chấp”, vắng tham - sân - si, mọi người đều ăn hiền, ở lành, tâm ý an tịnh, không sát hại, tôn trọng nhau, hài hòa và biết bảo vệ hành tinh xanh đầy năng lượng này, cùng sẻ chia để lợi lạc cho nhau, đúng là một Cõi An Lành, Hạnh Phúc, Lý Tưởng, biết bao.    

Chùa Pháp Hoa SA, viết xong ngày 4/12/2021 (1/11/Tân Sửu) Để Kính Mừng Lễ Vía Phật A Di Đà.

Thích Viên Thành



GHI CHÚ: _ Biết được rằng THẦN LỰC của HỒNG DANH A DI ĐÀ PHẬT rất diệu dụng, nên nhiều người có Tâm Tốt đã sáng tạo, chế biến ra những máy niệm Phật dùng pin, hay dùng năng lượng mặt trời, rất tiện dụng và nhiều lợi ích. Nên Viên Thành mỗi khi về quê hoặc đi đám tang người thân quên hay ai cần, đều được biếu tặng (xem như Bố Thí Pháp) đến nay đã được hàng ngàn máy, đề nghe trong nhà hay gắn ở ngoài trời, tại các Tịnh thất, sân Chùa, Tự viện hay Nghĩa trang, với ngày đêm râm rang câu niệm Phật, hay ra rã các bài giảng Pháp, đã giúp chuyển hóa cho rất nhiều người dương an được tâm, cõi âm nương vào thần lực của A Di Đà Phật mà siêu sanh tịnh độ. Cụ thể là những nơi gắn hay để máy niệm Phật, đều được bình an và ai tin tưởng hành theo để có được tâm an tịnh, đều gặp được nhiều điều may mắn…

(1) THẦN LỰC: Ngoài việc chí thành niệm Phật, với “nhất tâm bất loạn” hiện tại có được cuộc sống an lành, khi lâm chung sẽ được Chư Phật, Bồ Tát đón về Cõi Tây Phương Cực Lạc…

Còn có những diệu dụng khác như:

“NẾU NƠI NÀO CÓ NHỮNG CÁI CHẾT BẤT ĐẮC KỲ TỬ , XẢY RA TRÙNG LẶP THÌ PHẢI BIẾT NƠI ĐÓ CÓ OAN QUỶ THẾ MẠNG. ĐÂY LÀ CÁCH MÀ ĐỨC ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT CHỈ DẠY CÁCH CHÚNG TA HOÁ GIẢI.

Lấy miếng Sắt Tây trắng, gắn vào một cây cột , viết chữ NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT bằng tâm cung kính, từ bi,sau đó đến chỗ cao ráo sạch sẽ trong vùng đất , dựng lên.

Do nhờ tấm lòng từ bi, muốn cứu giúp chúng sanh oan hồn uổng tự không còn phải chịu cảnh thế mạng oan uổng , ngay nơi Tâm này đã tương ưng với Tâm của Đức Phật A DI ĐÀ, hơn nữa trong Danh Hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT này, vốn là ĐỨC HIỆU của Chân Tâm Bổn Tánh , của Quang Minh, Thọ Mạng vì thế luôn luôn phóng quang, mắt thường chẳng thể nhìn thấy.

Từ đây về sau nhờ oai thần bổn nguyện của Đức A DI ĐÀ PHẬT, nơi này sẽ Vĩnh viễn không còn hiện tượng chết trùng lặp nữa.

Ấn Quang Đại Sư dạy:

Nơi nào có tai nạn chết người,nên vẽ khắc chữ A DI ĐÀ PHẬT tại nơi đó nhờ oai thần nguyện lực của đức từ phụ sẽ hoá giải nghiệp chướng cho những vong hồn nơi đó. Nương nơi công đức đó mà họ được siêu thoát, nếu không nơi đó sẽ sẩy ra tai nạn hàng năm!

-Vì thế một câu A Di Đà Phật bất khả tư nghì, chúng sanh nào may mắn mới gặp được, vì một câu phật hiệu qua tai thì Bồ Đề muôn thủa. Tương lai nhất định vãng sanh cực lạc”

ẤN QUANG ĐẠI SƯ

 

(2)  Để được “Nhất tâm bất loạn”, người tu chỉ cần Chú ý kỹ vào câu niệm Phật và mạnh hơn một chút, rồi một chút nữa (cái khéo của người tu nằm tại chỗ này) cho đến khi nào thấy không có một ý nghĩ nào khởi lên hay xẹt ra được nữa, chỉ còn lại 4 chữ A Di Đà Phật mà thôi. Như vậy, là niệm Phật được “Nhất tâm bất loạn” rồi đấy. (Chú ý: Đừng chú ý mạnh quá, sau khi nghỉ dụng công sẽ nặng đầu).

Pháp niệm Phật này còn có tên khác là “Pháp cột tâm một chỗ” (Chế tâm nhứt xứ) dù là người mới bắt đầu lần thứ nhất, chỉ cần một thời gian ngắn là có thể đạt đến chỗ “Nhất tâm bất loạn”.

Để dễ dàng tiến đến “nhất tâm bất loạn”. “ Đại sư Ấn Quang dạy rằng: Phương pháp hay nhất của việc dụng công niệm “A Di Đà Phật” là điều nhiếp 6 căn, tịnh niệm nối nhau:1. Ngay lúc niệm “A Di Đà Phật” Tâm chuyên chú vào danh hiệu “A Di Đà Phật”, là nhiếp Ý căn. 2. Miệng phải niệm cho rõ ràng mạch lạc tức là nhiếp Thiệt căn..3. Tai phải nghe đựơc rõ ràng mạch lạc tức là nhiếp Nhĩ căn. 4. Ba căn này nhiếp vào danh hiệu “A Di Đà Phật” thì Mắt quyết không thấy cảnh loạn khác là nhiếp Nhãn căn. 5. Mũi cũng không ngửi những mùi loạn khác là nhiếp Tỵ căn. 6. Thân phải cung kính là nhiếp Thân căn. 6 căn đã được nhiếp phục mà không tán loạn thì tâm không có vọng niệm. Chỉ có “A Di Đà Phật” là niệm mới là thanh tịnh niệm. Nếu thường luôn nhiếp cả 6 căn mà niệm, thì gọi là tịnh niệm nối nhau, nếu thường tịnh niệm nối nhau thì nhất tâm bất loạn, niệm “A Di Đà Phật” Tam-muội sẽ dần dần được! Niệm “A Di Đà Phật” phải thường tưởng sắp chết sắp đọa địa ngục thì không khẩn thiết cũng tự khẩn thiết, không tương ưng cũng tự tương ưng. Dùng tâm sợ khổ để niệm “A Di Đà Phật” tức là cách hay nhất để thoát khổ, cũng là cách hay nhất trong tùy duyên tiêu nghiệp!”

“Trong khi đang mặc niệm bốn chữ A Di Đà Phật, người tu dùng con mắt tâm (tâm nhãn) quan sát trong thân (từ hai vai xuống tới rún) xem coi bốn chữ A Di Đà Phật khởi lên ở chỗ nào. Khi nước tâm (tâm thủy) lóng trong, người tu sẽ thấy được Điểm Niệm Phật (chỗ 4 chữ A Di Đà khởi lên)

Khi thấy được Điểm Niệm Phật rồi, người tu tập trung sự CHÚ Ý (CON MẮT TÂM) nhìn thẳng ngay vào Điểm Niệm Phật, giống như con mèo rình chuột vậy, không được lơi lỏng.

Trong khi vừa mặc niệm vừa chú ý, vừa chú ý vừa mặc niệm một cách miên mật (như mèo rình chuột), người tu sẽ phát hiện có ý nghĩ này hay ý nghĩ nọ (tạp niệm) khởi lên xen vào, thì nên biết rằng mình niệm Phật chưa được “Nhất tâm bất loạn”.

***
facebook
youtube


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/05/2017(Xem: 6889)
Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm. Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".
16/04/2017(Xem: 6505)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 8301)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 4056)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 5525)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 16457)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 11398)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 9730)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 14165)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
10/07/2015(Xem: 5848)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567