Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thấy Được Mũi Gai Khó Thấy

11/10/201822:32(Xem: 4365)
Thấy Được Mũi Gai Khó Thấy
Thấy Được Mũi Gai Khó Thấy
Nguyễn Duy Nhiên 

blank


Mỗi sáng Sư thức dậy thật sớm, đánh chuông báo thức mọi người vào lúc bốn giờ sáng. Trong không gian tĩnh mịch của vùng núi, tiếng chuông nhỏ nhưng ngân dài, vang thật sâu trên dãy hành lang im lặng. Bên ngoài cửa sổ trời vẫn còn mịt tối. Tôi bước ra ngoài phòng, đi về phía thiền đường. Không khí lạnh miền núi thấm qua chiếc chăn quấn trên người. Trời vẫn còn tối đen và thinh lặng. Tôi dừng lại, ngước lên cao, một bầu trời lấp lánh sao. Nhìn xa về phía bên kia sườn núi, thấp thoáng vài đóm đèn vàng leo loét của những căn nhà nghỉ mát nằm rãi rác khuất trong rừng núi. Không gian chung quanh đây vẫn còn ngủ yên, bí mật.

    Tôi nhè nhẹ đẩy cửa bước vào thiền đường. Bên trong đã có một vài người ngồi từ hồi nào.  Tôi lặng yên bước đến chỗ ngồi thường ngày của mình.

Mũi gai trong tim ta

Như thường lệ, mỗi sáng vị thiền sư bắt đầu bằng tụng một bài kệ tiếng Pali cho chúng tôi nghe. Bài kệ dạy chúng tôi hãy quán tưởng, cầu mong cho mình luôn được an vui, hạnh phúc, và nghĩ tưởng đến mọi người với một tấm lòng rộng mở. Chúng tôi tha thứ cho những ai đã làm mình đau khổ, và cũng xin được thứ tha nếu mình có gây khổ đau cho ai.

    Chúng tôi bắt đầu một ngày với một tâm trong sáng và bao dung, buông bỏ hết những tranh chấp, hơn thua đối với nhau. Những cố chấp ấy, đã gây nên biết bao những phiền não và khổ đau trong cuộc đời, từ ngàn xưa cho đến nay. Ngày xưa có lần Phật cũng phải thốt lên rằng, Ngài cảm thấy rùng mình sợ hãi trước thái độ và cách cư xử của con người với nhau, mà tôi nghĩ có lẽ ngày nay cũng không có khác biệt gì lắm,

Nhìn con người tranh chấp nhau,

Ta sẽ nói về nỗi sợ hãi,

Khiến Ta phải rùng mình.

Thấy loài người vùng vẫy,

Như cá trong nước cạn,

Thấy họ kình chống nhau,

– Ta rơi vào sợ hãi.

(Kinh Chấp Trượng – Attadanda Sutta)

blank

 

 Và Phật cũng chỉ cho ta thấy nguyên nhân của những sự xung đột và tranh chấp lẫn nhau ấy. Đó chính là do lòng tham ái, sân hận, ích kỷ, ganh tỵ, nhỏ nhen. Chúng là một mũi gai đang gim vào ở ngay tim của mỗi người, mà ít ai thấy ra được. Và vì vậy mà ta cứ tiếp tục chạy khắp nơi, xô đẩy, tranh chấp nhau. Ta nghĩ rằng làm như vậy sẽ giúp ta đở đau nhức hơn, chúng sẽ mang lại cho ta hạnh phúc hơn. Nhưng thật ra, Phật dạy, chúng ta đâu cần làm gì khác, chỉ cần rút mũi gai ấy ra thôi thì tất cả tự nhiên sẽ được yên,

 

 Thấy con người xung đột nhau,

Ta cảm thấy chán ngắt,

Nhưng Ta thấy có một mũi gai,

Khó thấy, gim vào tim.

Ai bị mũi gai đâm,

Sẽ chạy khắp mọi nơi,

Ai rút mũi gai ra,

Sẽ dừng lại, ngồi xuống.

(Kinh Tập Sutta Nipata 935–39)

Chỉ chánh niệm thôi vẫn chưa đủ

Muốn thấy được mũi gai ấy trong tim, ta cần phải có chánh niệm. Nhưng tôi cũng nhận thấy rằng, ngày nay
trong sự tu học đôi khi chúng ta lại nhấn mạnh quá về chánh niệm. Nó như một cây đủa thần có thể chuyển hóa hết mọi vấn đề, mọi khổ đau. Nếu như mình có làm gì sai trật, thì ta tự nhủ là chỉ vì do thiếu chánh niệm mà thôi.
 
blank
    Chánh niệm là một năng lượng chuyển hóa rất quan trọng, nó giúp ta ý thức được sự có mặt của những gì đang xảy ra. Nhưng chánh niệm không phải chỉ để giúp ta thấy được những gì xảy ra, mà còn phải giúp cho ta thấy ra nguyên nhân của khổ đau nữa. Ta thấy ra rằng mình hành xử như vậy là vì nguyên nhân gì, bởi do lòng tham lam, hờn giận, ganh tỵ, ích kỷ, nhỏ nhen? Phiền não gì trong ta, đã làm mình thất niệm? Nhưng cái thấy ấy không phải do một sự suy luận, phân tách nào, mà từ một ý thức sáng tỏ và rộng mở. Ta thấy ra được mũi tên đang gim trong tim mình.

 

    Nếu như ta đơn giản nghĩ rằng, nguyên do chỉ vì là mình thiếu chánh niệm mà thôi, thì chánh niệm ấy vẫn chưa đủ. Thiền sư Tejaniya có viết một quyển sách với tựa đề rất hay, Awareness alone is not enough. Chánh niệm phải đi với một ý thức sáng tỏ, nó giúp ta thấy được những việc làm gây khổ đau, giúp cho ta thấy rõ được nguyên nhân do mũi gai đang gim trong tim mình. Và chánh niệm ấy cũng còn giúp ta rút được mũi gai nhọn ấy ra nữa, phải không bạn?

Mặt trời hồng tỉnh thức

blank

Buổi sáng sớm trên núi, trời tháng mười một có nắng thật ấm. Không gian yên tĩnh, trời xanh mới và thật cao. Ở nơi nầy dường như không ai quan tâm đến thời gian. Tất cả tự nhiên như chuyện đến rồi đi của mặt trời và trăng sao, những chiếc lá vàng rơi và những mầm xanh mới.

    Trong cái không gian lành lạnh và tươi mới của  một buổi sáng đồi núi, tôi đứng yên trên con đường mòn dẫn vòng về phía bên kia đồi. Mặt trời chưa lên nhưng ánh sáng đã đỏ hồng một chân trời.

    Khi những nguyên nhân buồn đau trong ta được nhận diện và phơi bày ra, thì vết thương của mình cũng sẽ bắt đầu được chữa lành. Như một đóa hoa dưới ánh nắng của mặt trời hồng ban mai sẽ mở ra và tươi mới. Và cũng thế, khi những tham lam, sân hận, nhỏ nhen không còn bị che đậy, khi ta thấy rõ được sự sinh khởi của chúng và không bị sai xử nữa, cái thấy trong sáng ấy sẽ có một ảnh hưởng chuyển hóa lớn lao và sâu rộng đến thái độ, và cách hành xử của mình trong cuộc đời. Như trong lời kinh về hạnh phúc, chúng tôi lắng nghe trong buổi sáng mờ sương hôm nay, với một tâm trong sáng và rộng mở, từ bi và trí tuệ tự nhiên sẽ hiện bày.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/05/2017(Xem: 6881)
Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm. Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".
16/04/2017(Xem: 6502)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 8285)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 4050)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 5516)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 16437)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 11393)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 9722)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 14140)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
10/07/2015(Xem: 5845)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567