Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngũ Lực Để Thực Hành Vào Lúc Lâm Chung

17/12/201820:29(Xem: 4714)
Ngũ Lực Để Thực Hành Vào Lúc Lâm Chung

Lama_Zopa_2
Ngũ Lực Để Thực Hành Vào Lúc Lâm Chung

Lama Zopa Rinpoche

Ngày đăng tải: tháng 10, năm 2005

Rinpoche đã cho lời khuyên sau đây về ngũ lực để thực hành vào phút lâm chung.

[Chú thích: Lời khuyên này đang hiện hành trong một quyển sách nhỏ ở FPMT Shop.]

Có năm lực phải được thực hành khi gần kề cái chết. Chúng rất quan trọng. Hiện nay, đó là điều chúng ta cần phải tu tập. Phải nhớ chúng là những điều gì, ít nhất là tên gọi và ý nghĩa của chúng, rồi ta sẽ có khả năng để đưa chúng vào thực hành.

Lực Bạch Chủng Tử                                                                                                        
Lực bạch chủng tử có nghĩa là buông bỏ gia đình, tài sản, và ngay cả thân mình, bằng cách nghĩ rằng, “Khi luyến ái những thứ này thì chúng khiến cho mình phải tái sinh trong luân hồi, và phải chết rồi tái sinh vô số lần. Điều này đã xảy ra trong những kiếp trước cho đến bây giờ, và luân hồi cùng các uẩn này chỉ thuộc về bản chất khổ đau. Chính nó là điều ràng buộc mình trong luân hồi.”.

Nhờ cách suy nghĩ như vậy mà hãy buông bỏ tất cả những thứ này. Lợi ích của việc buông bỏ là tuy những thứ này chưa biến mất và vẫn còn có mặt ở trong phòng với con, nhưng trong lòng thì con đã quyết định trao tặng chúng cho những chúng sanh khác để làm từ thiện, hay cúng dường Tam Bảo. Nếu tâm con đã quyết định cho đi tất cả những thứ này thì rất tốt, bởi vì một khi đã có dự tính đó thì tâm con đã buông bỏ. Khi đã trao tặng thân mình để làm từ thiện cho người khác thì điều này sẽ giúp con không bám víu vào nó.

Nếu không, khi tâm còn lưu luyến với thân này, với lạc thú giác quan, với người thân trong gia đình hiện tại và tài sản, thì dù có hiểu biết các kỹ xảo hành thiền, nhưng tâm lưu luyến ấy vẫn có thể phát sinh và làm hại con.

Lực bạch chủng tử rất quan trọng để phát tâm buông bỏ. Hơn nữa, cúng dường hay làm việc từ thiện cho người khác sẽ giúp con tích tập công đức. Lực đầu tiên, buông bỏ tất cả mọi thứ, rất là quan trọng.

Lực Thái Độ
Lực thái độ bao gồm việc lập kế hoạch. Con sẽ nghĩ rằng, “Từ nay trở đi, mình sẽ không bao giờ cho phép bản thân chịu sự khống chế của tư tưởng ái ngã.”. Hãy lập một kế hoạch mạnh mẽ như thế này, “Con sẽ không bao giờ xa rời bồ đề tâm, dù chỉ một giây, từ nay trở đi cho đến phút lâm chung, con sẽ không bao giờ rời xa bồ đề tâm.”. Thực hành này rất quan trọng. Điều này có nghĩa là con luôn luôn giữ tâm mình trong trạng thái bồ đề tâm, yêu thương chúng sanh.

Lực Đổ Lỗi Một Điều
Lực đổ lỗi cho một điều là gì? Đó là đổ thừa bản ngã, tư tưởng ái ngã. Hãy nghĩ rằng, “Lý do tại sao đến nay mình chưa giác ngộ, không giải thoát khỏi luân hồi, không thành tựu bất kỳ chứng ngộ nào, và lý do tại sao mình phải chịu khổ trong luân hồi cho đến nay là vì bản ngã, cái bản ngã yêu tinh to lớn này. Nếu cứ đi theo nó thì nó sẽ tiếp tục hãm hại mình như vậy. Nó sẽ không bao giờ cho phép mình giác ngộ, hay thoát khỏi luân hồi. Nó sẽ không cho phép mình có bất cứ chứng ngộ nào. Bất cứ hoàn cảnh bất lợi nào, chướng ngại nào, sự bất an hay khó chịu nào xảy ra cũng đều xuất phát từ bản ngã. Bản ngã đã tạo ra tất cả những điều này cho mình.”.

Hãy xem bản ngã như kẻ thù của con. Hãy rời xa nó. Hãy lánh xa tư tưởng ái ngã, bằng cách xem nó như kẻ thù. Rồi bất kỳ lúc nào mà một hoàn cảnh bất lợi hay khó chịu xảy ra thì hãy trao tặng nó cho bản ngã. Con sử dụng nó như một vũ khí, như một trái bom nguyên tử làm nổ tung bản ngã. Thay vì gánh lấy nó cho bản thân thì hãy tặng nó cho bản ngã, và tiêu diệt bản ngã hoàn toàn, để nó không hiện hữu nữa. Đối với tất cả các vấn đề, những điều không ai muốn xảy ra trong đời sống hàng ngày và mọi khổ đau trong luân hồi, từ những tái sinh vô thỉ cho đến nay, hãy đổ thừa bản ngã. Khi hiểu rằng tất cả những điều này đều do bản ngã tạo ra thì con hãy chia tay với nó. Con sẽ không đi theo bản ngã, rồi thì sẽ có một khoảng trống để tâm mình có khả năng yêu thương người khác, và có thể thực hành bồ đề tâm.

Nhờ có thực chứng về bồ đề tâm mà hành giả mới đi vào đường tu Đại thừa. Rồi nhờ chứng ngộ tánh Không mà tất cả các ô trược thô và vi tế đều chấm dứt, và con sẽ thành tựu giác ngộ. Rồi thì con có thể đưa tất cả chúng sanh đến giác ngộ. Con có thể giải thoát vô lượng chúng sanh khỏi mọi khổ đau và nhân tạo khổ, và đưa họ đến giác ngộ. Ngay cả trước khi có chứng ngộ về bồ đề tâm, con sẽ cảm nhận lòng từ tâm, thương yêu và làm lợi lạc cho tha nhân, và tích tập thiện nghiệp hay công đức bao la như bầu trời. Bất kỳ hành động nào con làm sẽ trở thành đức hạnh; thành nhân giác ngộ.

Lực Cầu Nguyện
Hãy hồi hướng công đức của con bằng cách này, “Nhờ công đức con đã tích tập trong quá khứ, hiện tại, vị lai, và công đức mà các chúng sanh khác, chư Phật, chư Bồ tát và tất cả chúng sanh đã tích tập trong ba thời, nguyện cho con không bao giờ xa rời bồ đề tâm vào phút lâm chung, trong giai đoạn trung ấm, tái sinh và bất cứ lúc nào. Nguyện cho con không bao giờ rời xa bồ đề tâm, và có thực chứng nhanh nhất về bồ đề tâm.”. Hãy cầu nguyện như vậy. Con có thể làm như vậy trong khi nghĩ đến Lama Yeshe, ngài là một với Tara.

Lực Tu Tập
Khi biết rằng thời khắc của cái chết đã gần kề thì hãy nằm xuống. Nhiều thiền giả chết trong trạng thái hành thiền lúc đang ngồi, nhưng nhiều thiền giả cũng nằm xuống để chết. Họ lìa đời khi thiền quán về cái chết, trong khi đang nằm. Vậy thì lực tu tập là nằm nghiêng bên mặt, trong tư thế của một con sư tử nằm, đó là tư thế mà Đức Phật nhập diệt. Con sẽ làm như vậy, bởi vì nếu như con nhớ đến Đức Phật thì một dấu ấn tích cực sẽ được gieo trong tâm thức, giúp cho tâm trở thành đức hạnh. Điều đó sẽ giúp cho con có một tái sinh tốt. Trong khi nằm trong tư thế đó thì con có thể bịt lỗ mũi bên mặt bằng ngón tay phải, vì hơi thở đi vào lỗ mũi bên phải là hơi thở của luyến ái. Khi bịt nó lại thì sẽ giúp con không tái sinh vào những cõi thấp hơn. Tuy nhiên, dù có thể bịt mũi hay không, nếu như chỉ có thể nằm như vậy thì quỷ thần không thể hãm hại con, nhờ tư thế này. Con cũng có thể nhớ tưởng đến Đức Phật, Ngài đã nhập diệt như thế nào, và khi nằm như vậy lúc đi ngủ thì con sẽ không bị quỷ thần và ác mộng gây trở ngại.

Nguyên tác: Five Powers To Be Practiced At The Time Of Death by Lama Zopa Rinpoche                                          Nguồn: https://www.lamayeshe.com/advice/five-powers-be-practiced-time-death                                      
Lozang Ngodrub chuyển Việt ngữ; Võ Thư Ngân hiệu đính.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/04/2017(Xem: 6395)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 8135)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 3966)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 5337)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 16153)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 11247)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 9551)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 13849)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
10/07/2015(Xem: 5702)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
25/06/2015(Xem: 5914)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567