Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niệm Phật trong giấc mộng

19/09/201309:24(Xem: 6537)
Niệm Phật trong giấc mộng
A_Di_Da_Phat_10
Thương mẹ lắm, nhớ mẹ nhiều nhưng con nào có ngờ mẹ qua đời sớm như vậy! Đó là nỗi đau mất mát lớn nhất trong đời con. Lòng con cảm giác đau tê tái và chợt tỉnh chợt mơ giữa ban ngày. Con đã nhắm nghiền đôi mắt nén nỗi đau vào lòng. Con niệm Phật A Di Đà đưa mẹ ra đi vĩnh viễn. Kể từ nay, con đã vắng bóng mẹ rồi, vũ trụ mênh mông mẹ đã về đâu? Con mong thấy mẹ, khó như mò kim đáy biển. Gặp mẹ trong mơ là hạnh phúc lắm rồi, niệm Phật cho mẹ là điều an ủi suốt quãng đời con.
Đêm thứ hai khi mẹ tôi qua đời, nhang đèn đang thắp sáng trên bàn Phật và bàn thờ di ảnh mẹ. Trời đã về khuya, mọi người thân tìm chỗnghỉ lưng để ngày mai lo tang lễ. Tôi lặng lẽ lên gác nghỉ ngơi một mình. Căn phòng này sao mà im lặng quá. Giấc ngủ đến tự lúc nào không hay. Tôi đã đi vào trong giấc mộng hay giấc mộng đi vào tôi? Tôi cảm thấy mình lọt vào một không gian lạnh lùng khó tả. Một cơn gió lạnh thổi đến lung lay không gian nhỏ bé này. Cảnh màn đêm trầm lạnh làm tôi như vừa tỉnh, vừa mê... Mẹ tôi trở về với bộ bà ba quen thuộc. Bà ngồi xếp bằng và hai đầu gối gác lên ống chân tôi. Mẹ tôi ngồi trong im lặng như thế.
Cảm giác sợ hãi chen vào tâm thức. Như một thói quen tôi nhiếp tâm niệm thần chú Đại bi. Lý trí tôi lúc này chưa can thiệp sâu vào giấc mộng. Cho nên, tôi niệm chú để vượt qua cảm xúc sợ hãi chứ không phải vì cho mẹsự bình an. Từ mộng qua tỉnh sao không có ranh giới rõ rệt. Hình ảnh mẹ tôi biến mất. Căn phòng đó bớt dần khí lạnh. Tôi không nhớ niệm bao nhiêu lần bài chú này. Nhưng kết thúc biến sau cùng là tôi tỉnh táo như mình chưa ngủ bao giờ.Đây là điều mới lạ, tôi phân vân về cảnh tượng vừa xảy ra. Tôi ngồi dậy, và bước xuống cầu thang trong nhà.
Tôi đến bên quan tài mẹ đốt thêm cây nhang. Đêm khuya, hai em gái ngồi dậy bên dưới quan tài. Thấy tôi, hai em mừng lắm. Tôi hỏi, sao không nằm nghỉ một chút? Cô Út trả lời, tự nhiên em sợ quá ngủ không được. Tôi hỏi sợ gì? Em nói rằng, vừa mới chợp mắt, em thấy mẹ về. Tay mẹ cầm cái ly uống nước từ trong phòng ngủ đi ngang qua đây. Sau đó mẹ đi lên gác, nơi tôi vừa tỉnh mộng.
Tôi giật mình tự hỏi sao có sự trùng lặp kỳ lạ vậy? Tại sao vừa rồi cả tôi và cô em đều thấy mẹ. Thầm nghĩ vậy, tôi không dám bàn tán gì nữa. Tôi ngại là em sợ thêm, vì trời đang còn canh khuya. Thường ngày em nhát lắm. Nhưng vì thương quý mẹ nhiều, em tôi quên hết mà nằm ngủ bên quan tài.
Riêng tôi, sau hai giấc mộng thấy mẹ của tôi và cô em xảy ra cùng thời gian. Tôi suy tư nhiều lắm. Tôi tự hỏi mẹ có biết mình đã chết chưa? Sao mẹ còn đi lại và đến ngồi bên tôi. Tôi nghĩ mẹ tôi đang ở quanh đây. Chắc mẹ biết gia đình đang làm đám tang cho bà. Như vậy, mẹ tôi chưa siêu thoát? Lòng tôi phân vân khó tả.
Tôi càng buồn và hối hận về thái độ gặp mẹ trong mộng. Phải chăng chuyến ra đi cuối cùng của đời người, bà lưu luyến đến với các con và gia đình nên về trong mộng? Tại sao mình không hỏi thăm mẹ đang ở đâu? Tại sao mình niệm chú mong thoát qua sợ hãi. Lý trí đi đâu mà quên cầu nguyện cho mẹ. Nghĩ vậy, tôi tự trách mình và buồn nhiều lắm. Tôi nguyện rằng, từ nay cho đến 49 ngày, nếu gặp mẹ lại, tôi sẽ bình tĩnh thăm hỏi và an ủi mẹ.
Tuần thất thứ năm cúng mẹ tôi tại chùa. Tối về, sau giờ đọc sách tôi đi ngủ. Mẹ tôi lại về với tôi trong giấc mộng. Tôi mừng trong sự đau xót. Nhưng với hình ảnh không giống lúc trước. Bà về với bộ áo quần tả tơi. Dáng người buồn nhìn tôi mà như khóc thầm và mong đợi. Cơ hội mong đợi có đượcđây rồi. Tôi ôm chầm lấy mẹ. Không hiểu sao lúc đó tôi ôm mẹ trong thế ngồi xếp bằng. Tay trái tôi đỡ sau lưng gần vai mẹ. Tay phải tôi đỡ dưới chân ngang tầm đầu gối mẹ. Còn phần giữa lưng mẹ tôi được đặt trên hai bàn chân trong thế ngồi xếp bằng đó. Tôi nhìn rõ, mặt mẹ tôi đang buồn khổ lắm. Tôi xúc động vô cùng... Vì tôi thấy, hình như gương mặt và bờ vai mẹ tôi có chút gì màu đỏ như vết máu. Bộ áo quần bà đang mặc thì ẩm ướt như người đi trong đêm sương mới về.
Nhờ Phật lực gia hộ, tôi ôm chặt mẹ và niệm Nam-mô A DiĐà Phật chí thành chí kính. Niệm với tâm tưởng cho mẹ tôi hết đau khổ. Niệm mà không mong đợi điều gì nhiều khác. Tâm tôi như chỉ có Phật mà thôi. Niệm với lòng tha thiết như thế. Tâm thức tôi biết rằng, dịp may duy nhất gặp mẹ. Tôi phải giữ lấy mẹ cho chắc, niệm Phật cầu nguyện cho bà. Cứ thế mà niệm, tôi không hỏi mẹ chuyện gì khác nữa. Hình ảnh tang thương của mẹ khiến tôi nhất tâm niệm Phật trong mộng.
Lúc đầu, tay tôi có cảm giác nặng như bồng mẹ tôi thật. Nhưng mà thương mẹ quá tôi quên hết. Tự nhiên, một lúc sau, tôi thấy đôi tay mình nhẹ dần. Một trạng thái tâm niệm Phật sâu lắng và dịu dàng đến với tôi. Trong đời thực, tôi chưa bao giờ có sự thể nghiệm này. Giờ phút thiêng liêng đó, lý trí tôi đã can thiệp vào giấc mộng. Tức là kinh nghiệm tu học bấy lâu giúp tôi nhận rõ mình đang niệm Phật. Tâm tôi chuyển qua quán tưởng rằng: “Tâm vô ngã, cảnh vô ngã, khổ đau đâu có mặt”. Bỗng chốc, xung quanh tôi là ánh sáng mát dịu. Đôi tay tôi như không có gì nữa. Ôi, mẹ tôi đâu rồi?
Tôi mở mắt ngước nhìn lên. Và thấy mẹ tôi ngồi xếp bằng trước mặt. Kỳ lạ thay, tôi cũng không hiểu nữa. Người phụ nữ trước mặt là một hình dáng khác. Khác hoàn toàn trước đây. Sao mẹ tôi không còn bộ áo quần bà ba đen? Không còn gương mặt sầu khổ tang thương. Không còn mái tóc như đẫm ướt sương đêm. Mẹ rời khỏi tầm tay tôi. Bà đã đổi thế ngồi. Đó là một phụ nữ khoác tấm y trắng tinh. Tôi mừng và hết nghi ngờ là ai khác. Đôi mắt mẹ tôi, biểu hiện cho tôi niềm tin chắc thật là mẹ mình. Đôi mắt bà sáng lắm, nhìn vào tôi mà nói rằng: “Niệm Phật là phải làm thế này nè”. Tôi thấy bà nâng đôi tay lên, tay bắt ấn kiết tường như bàn tay ở tượng Phật A Di Đà. Rồi bà bay đi mất.
Tôi ngồi dậy sau trạng thái mà tôi cho là mộng. Tôi không dám khẳng định là mộng. Vì như hôm trước, mộng và tỉnh không có ranh giới rõ rệt. Tôi bật chiếc đèn nhỏ ở bàn học trên đầu giường, lúc đó là 12 giờ đêm. Đây là một trong những giấc mộng ấn tượng trong đời tôi.
Sắp đến 49 ngày tôi lại về nhà dự lễ trai đàn siêu độ cho mẹ. Về tới nhà, tôi đốt nhang xong, ra thăm em gái. Điều ngạc nhiên lại đến với tôi nữa. Em tôi pha nước mời tôi uống, mặt mày vui vẻ nói rằng, em mơ thấy mẹ về. Tôi hỏi thấy thế nào? Em bảo: Em thấy nhà mình đông người qua lại, có một mâm đồ chay trên bàn. Mẹ mang tấm y trắng bay về và nói rằng: “Đói bụng quá, có gì cho mẹ ăn với”. Rồi bà đến bên mâm cơm chay, ngửi một lúc rồi bay đi. Tôi hỏi lại, mơ thấy lúc nào? Em tôi đáp: Tối cúng thất thứ năm. Ngày có quý thầy về cúng tại nhà mình.
Tôi nghe xong trong lòng trầm tư nhiều hơn. Nhân duyên gì mà hai giấc mộng đều có sự trùng lặp. Về thời gian thì giấc mộng tôi và em tôi giống nhau. Đó là giấc mộng xảy ra vào tối thứ hai sau ngày mẹ tôi mất và giấc mộng xảy ra tối cúng thất lần thứ năm. Về hình ảnh trong giấc mộng thì cũng giống nhau. Tôi nghĩ, đây là biểu hiện sự mong đợi của mẹ tôi, cũng như bao người đã qua đời mong đợi người thân tu phước hồi hướng cho họ bớt khổ.
Viết câu chuyện về Phật và về mẹ, tôi không thêu dệt làm gì. Vì khi nói về giấc mộng của cá nhân khó ai mà tin được. Đó là điều bí ẩn, trừu tượng, chính bản thân tôi cũng không hiểu hết. Nhưng tôi tin rằng, Phật lực A Di Đà đem lại sự bình yên cho tôi và hương linh mẹ tôi trong giấc mộng ấy. Mộng và tỉnh cũng là một tâm thức hướng về Phật. Dù đêm hay ngày Phật cũng hằng hộ niệm chúng sinh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/05/2017(Xem: 6787)
Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm. Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".
16/04/2017(Xem: 6397)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 8136)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 3967)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 5338)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 16154)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 11248)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 9552)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 13852)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
10/07/2015(Xem: 5702)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567