Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niệm Phật trong giấc mộng

19/09/201309:24(Xem: 6627)
Niệm Phật trong giấc mộng
A_Di_Da_Phat_10
Thương mẹ lắm, nhớ mẹ nhiều nhưng con nào có ngờ mẹ qua đời sớm như vậy! Đó là nỗi đau mất mát lớn nhất trong đời con. Lòng con cảm giác đau tê tái và chợt tỉnh chợt mơ giữa ban ngày. Con đã nhắm nghiền đôi mắt nén nỗi đau vào lòng. Con niệm Phật A Di Đà đưa mẹ ra đi vĩnh viễn. Kể từ nay, con đã vắng bóng mẹ rồi, vũ trụ mênh mông mẹ đã về đâu? Con mong thấy mẹ, khó như mò kim đáy biển. Gặp mẹ trong mơ là hạnh phúc lắm rồi, niệm Phật cho mẹ là điều an ủi suốt quãng đời con.
Đêm thứ hai khi mẹ tôi qua đời, nhang đèn đang thắp sáng trên bàn Phật và bàn thờ di ảnh mẹ. Trời đã về khuya, mọi người thân tìm chỗnghỉ lưng để ngày mai lo tang lễ. Tôi lặng lẽ lên gác nghỉ ngơi một mình. Căn phòng này sao mà im lặng quá. Giấc ngủ đến tự lúc nào không hay. Tôi đã đi vào trong giấc mộng hay giấc mộng đi vào tôi? Tôi cảm thấy mình lọt vào một không gian lạnh lùng khó tả. Một cơn gió lạnh thổi đến lung lay không gian nhỏ bé này. Cảnh màn đêm trầm lạnh làm tôi như vừa tỉnh, vừa mê... Mẹ tôi trở về với bộ bà ba quen thuộc. Bà ngồi xếp bằng và hai đầu gối gác lên ống chân tôi. Mẹ tôi ngồi trong im lặng như thế.
Cảm giác sợ hãi chen vào tâm thức. Như một thói quen tôi nhiếp tâm niệm thần chú Đại bi. Lý trí tôi lúc này chưa can thiệp sâu vào giấc mộng. Cho nên, tôi niệm chú để vượt qua cảm xúc sợ hãi chứ không phải vì cho mẹsự bình an. Từ mộng qua tỉnh sao không có ranh giới rõ rệt. Hình ảnh mẹ tôi biến mất. Căn phòng đó bớt dần khí lạnh. Tôi không nhớ niệm bao nhiêu lần bài chú này. Nhưng kết thúc biến sau cùng là tôi tỉnh táo như mình chưa ngủ bao giờ.Đây là điều mới lạ, tôi phân vân về cảnh tượng vừa xảy ra. Tôi ngồi dậy, và bước xuống cầu thang trong nhà.
Tôi đến bên quan tài mẹ đốt thêm cây nhang. Đêm khuya, hai em gái ngồi dậy bên dưới quan tài. Thấy tôi, hai em mừng lắm. Tôi hỏi, sao không nằm nghỉ một chút? Cô Út trả lời, tự nhiên em sợ quá ngủ không được. Tôi hỏi sợ gì? Em nói rằng, vừa mới chợp mắt, em thấy mẹ về. Tay mẹ cầm cái ly uống nước từ trong phòng ngủ đi ngang qua đây. Sau đó mẹ đi lên gác, nơi tôi vừa tỉnh mộng.
Tôi giật mình tự hỏi sao có sự trùng lặp kỳ lạ vậy? Tại sao vừa rồi cả tôi và cô em đều thấy mẹ. Thầm nghĩ vậy, tôi không dám bàn tán gì nữa. Tôi ngại là em sợ thêm, vì trời đang còn canh khuya. Thường ngày em nhát lắm. Nhưng vì thương quý mẹ nhiều, em tôi quên hết mà nằm ngủ bên quan tài.
Riêng tôi, sau hai giấc mộng thấy mẹ của tôi và cô em xảy ra cùng thời gian. Tôi suy tư nhiều lắm. Tôi tự hỏi mẹ có biết mình đã chết chưa? Sao mẹ còn đi lại và đến ngồi bên tôi. Tôi nghĩ mẹ tôi đang ở quanh đây. Chắc mẹ biết gia đình đang làm đám tang cho bà. Như vậy, mẹ tôi chưa siêu thoát? Lòng tôi phân vân khó tả.
Tôi càng buồn và hối hận về thái độ gặp mẹ trong mộng. Phải chăng chuyến ra đi cuối cùng của đời người, bà lưu luyến đến với các con và gia đình nên về trong mộng? Tại sao mình không hỏi thăm mẹ đang ở đâu? Tại sao mình niệm chú mong thoát qua sợ hãi. Lý trí đi đâu mà quên cầu nguyện cho mẹ. Nghĩ vậy, tôi tự trách mình và buồn nhiều lắm. Tôi nguyện rằng, từ nay cho đến 49 ngày, nếu gặp mẹ lại, tôi sẽ bình tĩnh thăm hỏi và an ủi mẹ.
Tuần thất thứ năm cúng mẹ tôi tại chùa. Tối về, sau giờ đọc sách tôi đi ngủ. Mẹ tôi lại về với tôi trong giấc mộng. Tôi mừng trong sự đau xót. Nhưng với hình ảnh không giống lúc trước. Bà về với bộ áo quần tả tơi. Dáng người buồn nhìn tôi mà như khóc thầm và mong đợi. Cơ hội mong đợi có đượcđây rồi. Tôi ôm chầm lấy mẹ. Không hiểu sao lúc đó tôi ôm mẹ trong thế ngồi xếp bằng. Tay trái tôi đỡ sau lưng gần vai mẹ. Tay phải tôi đỡ dưới chân ngang tầm đầu gối mẹ. Còn phần giữa lưng mẹ tôi được đặt trên hai bàn chân trong thế ngồi xếp bằng đó. Tôi nhìn rõ, mặt mẹ tôi đang buồn khổ lắm. Tôi xúc động vô cùng... Vì tôi thấy, hình như gương mặt và bờ vai mẹ tôi có chút gì màu đỏ như vết máu. Bộ áo quần bà đang mặc thì ẩm ướt như người đi trong đêm sương mới về.
Nhờ Phật lực gia hộ, tôi ôm chặt mẹ và niệm Nam-mô A DiĐà Phật chí thành chí kính. Niệm với tâm tưởng cho mẹ tôi hết đau khổ. Niệm mà không mong đợi điều gì nhiều khác. Tâm tôi như chỉ có Phật mà thôi. Niệm với lòng tha thiết như thế. Tâm thức tôi biết rằng, dịp may duy nhất gặp mẹ. Tôi phải giữ lấy mẹ cho chắc, niệm Phật cầu nguyện cho bà. Cứ thế mà niệm, tôi không hỏi mẹ chuyện gì khác nữa. Hình ảnh tang thương của mẹ khiến tôi nhất tâm niệm Phật trong mộng.
Lúc đầu, tay tôi có cảm giác nặng như bồng mẹ tôi thật. Nhưng mà thương mẹ quá tôi quên hết. Tự nhiên, một lúc sau, tôi thấy đôi tay mình nhẹ dần. Một trạng thái tâm niệm Phật sâu lắng và dịu dàng đến với tôi. Trong đời thực, tôi chưa bao giờ có sự thể nghiệm này. Giờ phút thiêng liêng đó, lý trí tôi đã can thiệp vào giấc mộng. Tức là kinh nghiệm tu học bấy lâu giúp tôi nhận rõ mình đang niệm Phật. Tâm tôi chuyển qua quán tưởng rằng: “Tâm vô ngã, cảnh vô ngã, khổ đau đâu có mặt”. Bỗng chốc, xung quanh tôi là ánh sáng mát dịu. Đôi tay tôi như không có gì nữa. Ôi, mẹ tôi đâu rồi?
Tôi mở mắt ngước nhìn lên. Và thấy mẹ tôi ngồi xếp bằng trước mặt. Kỳ lạ thay, tôi cũng không hiểu nữa. Người phụ nữ trước mặt là một hình dáng khác. Khác hoàn toàn trước đây. Sao mẹ tôi không còn bộ áo quần bà ba đen? Không còn gương mặt sầu khổ tang thương. Không còn mái tóc như đẫm ướt sương đêm. Mẹ rời khỏi tầm tay tôi. Bà đã đổi thế ngồi. Đó là một phụ nữ khoác tấm y trắng tinh. Tôi mừng và hết nghi ngờ là ai khác. Đôi mắt mẹ tôi, biểu hiện cho tôi niềm tin chắc thật là mẹ mình. Đôi mắt bà sáng lắm, nhìn vào tôi mà nói rằng: “Niệm Phật là phải làm thế này nè”. Tôi thấy bà nâng đôi tay lên, tay bắt ấn kiết tường như bàn tay ở tượng Phật A Di Đà. Rồi bà bay đi mất.
Tôi ngồi dậy sau trạng thái mà tôi cho là mộng. Tôi không dám khẳng định là mộng. Vì như hôm trước, mộng và tỉnh không có ranh giới rõ rệt. Tôi bật chiếc đèn nhỏ ở bàn học trên đầu giường, lúc đó là 12 giờ đêm. Đây là một trong những giấc mộng ấn tượng trong đời tôi.
Sắp đến 49 ngày tôi lại về nhà dự lễ trai đàn siêu độ cho mẹ. Về tới nhà, tôi đốt nhang xong, ra thăm em gái. Điều ngạc nhiên lại đến với tôi nữa. Em tôi pha nước mời tôi uống, mặt mày vui vẻ nói rằng, em mơ thấy mẹ về. Tôi hỏi thấy thế nào? Em bảo: Em thấy nhà mình đông người qua lại, có một mâm đồ chay trên bàn. Mẹ mang tấm y trắng bay về và nói rằng: “Đói bụng quá, có gì cho mẹ ăn với”. Rồi bà đến bên mâm cơm chay, ngửi một lúc rồi bay đi. Tôi hỏi lại, mơ thấy lúc nào? Em tôi đáp: Tối cúng thất thứ năm. Ngày có quý thầy về cúng tại nhà mình.
Tôi nghe xong trong lòng trầm tư nhiều hơn. Nhân duyên gì mà hai giấc mộng đều có sự trùng lặp. Về thời gian thì giấc mộng tôi và em tôi giống nhau. Đó là giấc mộng xảy ra vào tối thứ hai sau ngày mẹ tôi mất và giấc mộng xảy ra tối cúng thất lần thứ năm. Về hình ảnh trong giấc mộng thì cũng giống nhau. Tôi nghĩ, đây là biểu hiện sự mong đợi của mẹ tôi, cũng như bao người đã qua đời mong đợi người thân tu phước hồi hướng cho họ bớt khổ.
Viết câu chuyện về Phật và về mẹ, tôi không thêu dệt làm gì. Vì khi nói về giấc mộng của cá nhân khó ai mà tin được. Đó là điều bí ẩn, trừu tượng, chính bản thân tôi cũng không hiểu hết. Nhưng tôi tin rằng, Phật lực A Di Đà đem lại sự bình yên cho tôi và hương linh mẹ tôi trong giấc mộng ấy. Mộng và tỉnh cũng là một tâm thức hướng về Phật. Dù đêm hay ngày Phật cũng hằng hộ niệm chúng sinh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2015(Xem: 5857)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
25/06/2015(Xem: 6020)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 6855)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 5873)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 6588)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 7981)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7105)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 6384)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7185)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6048)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567