Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chân thiện hạnh phúc

13/05/201316:26(Xem: 4937)
Chân thiện hạnh phúc

tulipvang_1

Chân thiện hạnh phúc

Thích Phổ Huân

Mỗi con người mỗi ý thức, mỗi ý thức mỗi một hành động, mỗi một hành động tạo nên hạnh phúc hay khổ đau. Hành tinh xanh thế giới này trong quỹ đạo thái dương hệ thuộc giải ngân hàn Milkyway hiện có hơn sáu tỉ người, tức có hơn sáu tỷ ý thức; ý thức nhiều như vậy cũng chỉ xen tạp khổ và vui. Nhiều hơn nữa, trong cả dãi ngân hà Milky Way có hơn mưòi tỉ ngôi sao, và nếu mỗi ngôi sao mặt trời đó, các hành tinh của nó đều có sinh vật thì cũng chừng ấy cái xen tạp hạnh phúc, khổ đau!

Suy đoán giả thuyết như vậy, căn cứ vào tâm cảnh con người hiện nay mà ra. Con người đã xuất hiện từ bao giờ? Điều này chưa khẳng định chinh xác, nhưng điều có thể quyết đoán chính xác là con ngưòi mãi mãi hơn thua tranh giành với nhau. Lịch sử đã để lại những tàn tích hư hoại, điều này không hoàn toàn do thiên tai, mà đa phần con người đã góp tay vào đó. Chiến tranh hai tiếng này chẳng thiếu ở một quốc gia nào; nhưng nếu có một quốc gia sống an phận thủ thường chẳng hơn thua hướng vọng tham cầu, như là Tây Tạng của nửa thế kỷ trước thì cũng chẳng thể nào tránh được nội chiến bên trong – trong những bộ tộc, những tông đồ, tông phái; và dù không đến nổi tàn phá để gọi là cuộc chiến, nhưng nó vẫn dằn vặt hơn thua, gây bao chướng ngại cho việc tầm chân hướng thiện.

Chung quy lại chẳng có được một đất nước nào toàn chứa người dân thiện; tuy nhiên con người chân thiện vẫn có mặt khắp nơi; tất nhiên một vài nước như Tây Tạng, Ấn Độ có thể được liệt vào nơi có nhiều người chân thiện.

Tìm hiểu việc tìm kiếm con người chân thiện hẳn đã không dễ, vì người thật thiện chẳng thể cho mình là thiện, người thiện lại sống trà trộn ở nhân gian. Nhưng ý thức thiện thì quá dễ tìm và có mặt khắp nơi. Khi ta khởi tâm vui, phát tâm muốn giúp người, tâm muốn hòa giải, đó là hướng thiện, ngược lại ta phải đi tìm, mà chẳng biết chính mình cũng là chân thiện.

Điều khiến cho ta chẳng thấy ta là chân thiện, vì ta chẳng ý thức nhiều về điều thiện. Một người đau khổ, vì thường cho mình bất hạnh và chỉ thấy người khác hạnh phúc; tất nhiên luôn xem người khác hạnh phúc là một điều tốt, để tự điềm tỉnh tâm mình không rơi vào đố kỵ, dèm pha; nhưng cũng phải tự xem mình hạnh phúc, cái hạnh phúc không ganh tỵ khi xem người khác hạnh phúc. Đây là hạnh phúc cao quý của người chân thiện.

Thế ra người chân thiện chỉ là những ý thức được thanh lọc và biểu lộ nơi chính mỗi con người. Và con người tự làm cho mình trở thành chân thiện chỉ là việc tu chỉnh lại ý thức của mình.

Xã hội, quốc gia, thế giới là những ý thức hướng thiện được kết tụ lại trên bình diện xây dựng hài hòa chung, trong mục đích chỉnh trang trật tự đời sống cho cộng đồng nhân loại. Tuy nhiên vì ý thức vốn phức tạp, lại mỗi mỗi người tự giữ lấy ý thức của mình, nên việc chịu phục tùng, chịu hòa giải, chịu nhường nhịn ôn hòa thật khó đồng tâm nhất trí; thành ra xã hội, thế giới chẳng thể tránh được ít nhiều sự lấn áp hơn thua, giành giựt, chiến tranh.

Một đơn vị gia đình chỉ có vài người, chỉ đôi ba ý thức, thế mà chẳng giữ được chân thiện vui hòa để người khác noi theo; khó hiểu hơn nữa vài ba người như vậy lại là người thân yêu của mình. Như thế đủ biết chỉ vì nguyên do mỗi người mỗi ý thức, ý thức ít hướng thiện. Nếu đồng tâm hướng về chân thiện, thì vài ba người nhưng chỉ có một, một tâm thương yêu tha thứ hướng đến chân thiện.

Tiếp theo cũng vậy, đồng tâm xiển dương điều thiện, xã hội, quốc gia sẽ tự giải quyết khó khăn một cách tốt đẹp trong sự hài hòa của đại đồng hướng thiện.

Vậy hành tinh xanh chúng ta bấy giờ toàn chứa những con người hướng thiện, những con người đó sẽ chẳng còn lo lắng sợ sệt một chiến tranh thứ ba, thứ tư làm đen tối quả địa cầu – và quả địa cầu sẽ có tuổi thọ dài thêm, dài đến lúc mà ý thức của con người trên hành tinh nầy chẳng còn quan tâm đến sự thọ mạng của chính nó. Ý thức đó sẽ vượt lên cao, vượt xa đối đãi thường tình để trở thành chân thức. Bấy giờ cả hình thể của hành tinh xanh sẽ biến thành chân thể, tính thể vô ngại như chân thức của chúng sanh chân thiện; hay nói cách khác thế giới đó sẽ lìa ngôn ngữ vọng tưởng phân biệt, lìa hình sắc phàm tình thế gian.

Suy tưởng như vậy có thể là lý tưởng, ấn tượng cảm xúc của một ý thức xen tạp mong cầu. Nhưng mong cầu này phần nào có thể làm được.

Nhìn lên bầu trời ban đêm, ta chứng kiến tận mắt muôn vàn ánh sáng nhấp nhô, của vô số thế giới; nhìn ra đại dương tuy chỉ vỏn vẹn trên hành tinh nhỏ của chúng ta, mà ta không thể ngờ được kỳ diệu làm sao, đó chỉ là vô số hạt nước kết thành. Nhìn về con người ta phải ngạc nhiên, chẳng ai giống ai, và ít ai chịu thua ai! Nhìn về ý tưởng (ý thức) ta phải kinh hoàng ngạc nhiên hơn nữa, vì tất cả những điều ta chứng kiến, suy nghĩ, ý thức đều tự ta làm chủ!

Vâng, ta đã tự làm chủ, nên mới quan sát thẩm đoán, suy định, phê bình, ghi nhận v.v… và chính ta làm chủ cho nên ta có quyền ý thức hướng thiện. Nhưng quan trọng nữa, dù sản phẩm ý thức đó có xảy ra hay không xảy ra, ta vẫn thấy chúng chỉ là phương tiện, để tự làm cho mình hạnh phúc hơn là khổ đau.

Bông hoa tự nó đẹp, hương hoa tự nó thơm, cuộc đời vốn vẫn ngần ấy ý thức xen tạp tạo thành; và mỗi chính ta vẫn là chính ta hiện thực, đang là, đang sống trong một thế giới của kết quả ý thức, quá khứ, hiện tại, vị lại. Nếu ta nhận chân ra sự thật của hoa, là quả trong quá khứ từ những hạt mầm có nguyên nhân, thì cái đẹp kia chẳng cần chi thắc mắc, nó chỉ là bình thường thôi; cũng như những gì ngược lại hình ảnh đẹp của bông hoa, tuyệt đối chẳng ra ngoài nguyên nhân quá khứ, hiện tại. Chừng ấy ta đã biết, phải làm sao tự mình hóa kiếp làm hạt mầm tươi đẹp cho đời sống vị lại, như bông hoa có nhân duyên của nó.

Thế thì mỗi người là mỗi ý thức, mỗi ý thức là mỗi hành động; mỗi hành động cuối cùng sẽ tìm về chân thiện hạnh phúc, để xây dựng thế giới vật chất này ngày càng tươi đẹp trong niềm vui chân thức.

Thích Phổ Huân

2003

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/05/2017(Xem: 6791)
Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm. Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".
16/04/2017(Xem: 6402)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 8142)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 3970)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 5355)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 16163)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 11290)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 9608)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 13861)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
10/07/2015(Xem: 5757)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567