Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương mười chín

10/07/201103:30(Xem: 9132)
Chương mười chín

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG MƯỜI CHÍN

123.ÂM:

"Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? - Nhược hữu nhơn mãn tam thiên đại thiên thế giới thất bảo, dĩ dụng bố thí, thị nhơn dĩ thị nhân duyên, đắc phước đa phủ?".- "Như thị, Thế Tôn! Thử nhơn dĩ thị nhân duyên, đắc phước thậm đa".- "Tu Bồ Đề! Nhược phước đức hữu thiệt, Như Lai bất thuyết đắc phước đức đa; dĩ phước đức vô cố, Như Lai thuyết đắc phước đức đa".

NGHĨA:

"Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Nếu có người dùng bảy báu đầy cả tam thiên đại thiên thế giới đem ra mà bố thí, người ấy, dùng nhân duyên như thế, có đặng phước nhiều chăng?". - "Bạch đức Thế Tôn! Thật vậy, người ấy dùng nhân duyên như thế thì đặng phước rất nhiều". - "Tu Bồ Đề! Nếu dùng phước đức có (hữu vi) thì Như Lai chẳng nói là đặng phước đức nhiều. Dùng phước đức không (vô vi), Như Lai mới nói là đặng phước đức nhiều".

Giải : Tự Tại Lực Vươnggiải :Như Lai Tuy bố thí như vậy chỉ đặng cái báu có ngăn ngại, chẳng phải công đức thanh tịnh vô vi. Cho nên Như Lai chẳng nói là nhiều.

Bằng có Bồ Tát dùng bảy báu Bồ đềở trong thân Lô Xá Na(Phật tánh) mà trì trai lễ bái tán thán, theo cái tâm đặng hóa sanh công đức chẳng sanh chẳng diệt, chắc bén nhưKim Cang cỡi mây hương hoa vào cõivô biên giới, khởi tạo ra cái đài sáng suốt, cúng dường chư Phật, cả thảy thập phương. Ấy là công đức vô vi, bố thí kiến tánh, thì sẽ làm Bồ Tát.

Tụng:

Báu châu bố thí cả muôn ngàn.

Phước đức chưa cho đặng vẹn toàn.

Hiện diện tâm đăng dùng cúng dường.

Oai quang rực rỡ khắp mười phương.

Sớ Saogiải: Bằng cứ dùng châu báu đầy cả đại thiên mà bố thí, tuy phước cực nhiều, nhưng còn chấp trước đặng hy cầu phước hữu lậu: hễ có dư thì phải hết. Cho nên nói: "Nếu phước đức có thiệt thì Như Lai chẳng nói đặng phước đức nhiều".

Ấy là giải nghĩa lật trái lại.

Phước đức vô vilà không lòng hy vọng. Đã không hy vọng là bố thí không trụ tướng, ấy là phước vô vi.

Nếu theo cái lý vô trụ vô vi ấy mà bố thí, thì Như Lai mới nói: "Đặng phước đức nhiều".

Tăng Nhược Nộtgiải: Phước có là chấp tướng, phước không là lìa tướng. Lìa tướng nên nói là tánh. Tánh như hư không, nên phước vô lượng.

Nhan Bính giải: Dầu cho bố thí bảy báu đầy cả thế giới, ấy là cái nhân hữu lậu, quả nhỏ của nhơn thiên, rốt lại cũng phải luân hồi, cũng phải đọa lạc, nên không nói là nhiều. Dùng phước đức "không", cho nên mới nói là "nhiều".

Nói về cái không đó, ông Triệu Châudạy người thấy tánh có nói như vầy:

Tự nói : Con chó có tánh Phật chăng ?

Nên đáp : Không.

Rồi đem cái không ấy để trên lỗ mũi, đưa tới đưa lui, lâu lâu rồi tự nhiên có chỗ ngộ nhập. Vậy thì vậy! Nhưng rất không nên dùng cái nghĩa không mà hội ý.

Tăng Vi Sư giải: Thế Tônbảo ông Tu Bồ Đề: Bằng người bố thí lấy sự vọng thức làm gốc, tu hành bố thí chấp trước cái năng sở, cho là phước ấy thiệt có, thì trở nên điên đảo, nên Như Lai chẳng nói phước đức nhiều.

Dĩ phước đức vô cố là bằng người bố thí lấy trí của Phật làm gốc, tu hành bố thí, thảy đều lìa tướng, chẳng chấp phước là thiệt có, thì không phải điên đảo nên Như Lai nói: Người ấy đặng phước rất nhiều.

Trí Giải Thiền sưgiải:

Tụng:

Cả tam thiên thế thế giới, Chứa bảy báu trùng trùng.

Bố thí dùng cầu phước, Thiện duyên ví tợ giông.

Còn hơn người bỏn xẻn, Nào hiểu nghĩa chơn tông.

Tứ Cú ân cần tụng, Mới tường tất lý không.

Lý Văn Hội giải: Phàm phu trụ tướng, bố thí bảy báu đặng hy cầu phước lợi, ấy là vọng tâm, thì đặng phước đức, chưa đủ là nhiều. Chẳng bằng cái phước thanh tịnh không trụ. Cái phước không có chỗ đặng đó, đồng với hư không, không có bờ bực.

Xuyên Thiền sưgiải: Còn hơn là lao tâm về việc khác.

Tụng:

Minh tượng đầy trân bửu,

Đạo nhơn ít cúng dưng,

Dầu cho nhiều trược phú,

Đâu sánh ít thanh bần.

Vọng tượng bởi vô tâm mới đặng.

Ly Châu thất tại dụng tinh thần?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/08/2019(Xem: 8926)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
14/04/2019(Xem: 7972)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo… Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật. Ngài có đời sống dài vô hạn lượng nên còn có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật.
20/09/2018(Xem: 4555)
Trung Bộ Kinh Nikaya (Majjhima Nikaya) có bốn bài kinh: 1) Nhất Dạ Hiền Giả (Bhaddekaratta Sutta), 2) Ananda và kinh Nhất Dạ Hiền (Anandabhaddekaratta Sutta); 3) Đại-Ca Chiên-Diên và kinh Nhất Dạ Hiền (Mahakaccanabhaddekaratta Sutta); 4) Lomasakangiya và kinh Nhất Dạ Hiền (Lomasakangiyabhaddekaratta Sutta). Cả bốn bài kinh này đều xoáy trọng tâm vào một bài kệ do Đức Phật tổng thuyết và biệt thuyết nhằm khuyến tấn các đệ tử của Ngài hãy nỗ lực tu tập để phát huy tuệ quán nhận ra "cái đang là" của các pháp hiện tại và an trú trong bây giờ và ở đây.
28/04/2018(Xem: 7445)
Sự hiện hữu của nhân sinh bao giờ cũng mang theo những ước mong về một đời sống tốt đẹp. Nhưng có lẽ sự tốt đẹp cho cả cuộc đời này là khát khao lớn nhất và có giá trị cao cả nhất cho những ai luôn nuôi dưỡng những tâm nguyện của tình thương bao la cho cả vũ trụ này. Có những mơ ước về một đời sống lí tưởng cho riêng mình, nhưng cũng có nhữngước mong xây dựng cho cả cuộc đời này thành một cảnh giới thật sự chỉ có mặt của niềm hạnh phúc. Những tâm tư như thế được thể hiện từ rấtxưa ở Trung Quốc với lí tưởng “thế giới đại đồng” của Nho Giáo,
12/11/2017(Xem: 18216)
Có tu có học có hành Đêm ngày tự có phước lành phát sanh Không tu không học không thành Dù trăm tài sản cũng đành bỏ đi .
02/04/2017(Xem: 8325)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
28/04/2016(Xem: 16512)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
07/01/2015(Xem: 8618)
Trong mối liên hệ với thế giới của ta thì Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà ở phương tây và ở phía trên thế giới của ta. Ta phải chấp nhận một vũ trụ quan và nhận ra rằng có nhiều hệ thống thế giới khắp không gian. Tôi đang nói tới một hệ thống hết sức bao la. Chúng ta hãy xác định vị trí của ta.
19/12/2013(Xem: 20200)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Anh dịch: http://www.purifymind.com/FortyEight.html Sưu tập: Tuệ Uyển, Wednesday, December 18, 2013 48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà 48 Vows of Amitabha Buddha 1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 1."Provided I become a Buddha, if in my Buddha-land there should be either hell, or the animal state of existence, or the realm of hungry ghosts, then may I not attain enlightenment.
14/09/2013(Xem: 7451)
Kinh A Di Đà là một bản Kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của Kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, Kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567