Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương hai mươi lăm

10/07/201103:30(Xem: 8385)
Chương hai mươi lăm

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG HAI MƯƠI LĂM

138.ÂM:

Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? - Nhữ đẳng vật vị Như Lai tác thị niệm: Ngã đương độ chúng sanh - Tu Bồ Đề! Mạc tác thị niệm. Hà dĩ cố? - Thiệt vô hữu chúng sanh Như Lai độ giả.

NGHĨA:

Này Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Chúng ông chớ nói Như Lai có tưởng như vầy: "Ta phải độ chúng sanh". Tu Bồ Đề! Chớ tưởng như vậy.

Bởi cớ sao? - Bởi thiệt không có chúng sanh nào mà Như Lai độ cả.

Giải : Tăng Nhược Nột giải: Như Lai tuy lập ra pháp thí, độ khắp chúng sanh, mà không tưởng như thế, nên căn dặn rằng: Chúng ngươi chớ nói.

Mạc tác thị niệm là căn dặn đinh ninh.

Độ mà không chấp tướng có độ năng sở như như, cho nên trong luận kệ có nói:

Chơn pháp giới bình đẳng,

Phật không độ chúng sanh.

Lý Văn Hội giải: Thiệt vô hữu v.v... là Như Lai chẳng chấp có chúng sanh nào mà độ đặng.

Lại nói: các chúng sanh khởi ra vô lượng vô biên điều phiền não vọng tưởng, đối với cả thảy điều tà kiến; lành dữ, phàm Thánh, đều có cái lòng chấp bỏ, phân biệt, mê tình che áng tự tánh Bồ đề.

Phật xuất thế dạy bảo cho giác ngộ: hàng sáu giặc, dứt ba độc, trừ ngã nhơn. Bằng tỏ ngộ đặng nhơn pháp đều không, không các vọng niệm, lòng thường vắng lặng rỗng rang thanh tịnh, lại cũng chẳng đình lưu chút tý nào ngưng trệ, tức là kiến tánh. Cho nên nói: "Thiệt không có chúng sanh nào mà hóa độ cả".

Ông Thạch Sương Thiền Sư có nói: Thôi đi, dứt đi; như lư hương miễu cũ đi, như tro lạnh cây khô đi, nhựt niệm như muôn năm đi, như người chết đi!".

Nếu dụng tâm đặng như thế thì sao lại không thành Phật!?

139.ÂM:

Nhược hữu chúng sanh Như Lai độ giả, Như Lai tức hữu ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.

NGHĨA:

Nếu có chúng sanh nào, mà Như Lai có độ, tức là Như Lai có tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.

Giải :Vương Nhựt Hưu giải: Phật bảo ông Tu Bồ Đề: "Bọn ngươi chớ nói Như Lai tưởng như vầy: ta phải độ chúng sanh"; rồi lại bảo: Chớ tưởng như thế. Bởi cớ sao? Thiệt không có chúng sanh nào mà Như Lai độ cả, là nói cả thảy chúng sanh đều bởinghiệp duyênmà hiện ra chớ thiệt là không có. Bằng nói có chúng sanh mà Như Lai độ đặng, thì bị chấp tướng ngã, nhơn, sanh, thọ.

Tăng Nhược Nột giải: Bằng thấy có độ đặng thì đồng với phàm phu; chấp ngã tướng.

Lý Văn Hội : Bằng có chúng sanh Như Lai độ đặng, thì có bốn tướng ngã, nhơn, sanh, thọ. Người người sẵn đủ, kẻ kẻ vẹn toàn, bổn lai là Phật với Phật không khác.

Viên Ngộ Thiền sư giải: Ở trong khối thịt, người người đều tập quán Phật xưa; trên đỉnh Tỳ Lư: chốn chốn thảy tinh thần chư Tổ. Phải tính thế nào phản chiếu, gom vào một điểm linh quang: chẳng sắc, chẳng tâm, không nội, không ngoại, đánh đập cách nào, dọa nó không động, mắng rầy thế mấy, nhát nó chẳng ghê. Hẳn thiệt: sạch sạch bóng, đỏ đỏ thắm dứt bỏ hai bên, về nhà an ổn.

Đương lúc ấy:

Chẳng cần tầm Phật đâu xa,

Tây phương tại đó Thích Ca nơi này.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

Đêm đêm với Phật nằm, Sáng sáng cùng đồng dậy.

Nói nín một bên mình, Đứng đi đều tại đấy,

Tấc gang chẳng cách xa, Ảnh hưởng nào sai chạy.

Muốn biết Phật ở đâu, Do nơi lời nói ấy.

Chúng sanh chỉ bởi nghiệp chướng thâm trọng, nên khác với Phật, bằng hay hồi quang phản chiếu, một đao cắt làm hai đoạn, thì sẽ rõ tự tánh. Bằng chẳng theo giáo pháp nhà Phật, thì cả thảy chúng sanh do đâu mà tỏ ngộ? Rồi làm sao tu cho đến địa vị của Phật cho đặng!

Ấy là Như Lai không có lòng sở đắc. Cho nên nói: "Bằng có chúng sanh Như Lai độ đặng, tức là trước tướng ngã, nhơn, sanh, thọ ".

Xuyên Thiền sư giải: Xuân Lan, Thu Cúc đều tự thơm tho.

Tụng:

Vừa lọt lòng ra đi bảy bước,

Người đều lưng bụng riêng sau trước,

Vui mừng cười khóc thảy in nhau,

Há hỏi tôn đàng mới biết được!

140.ÂM:

Tu Bồ Đề! Như Lai thuyết hữu ngã giả, tức phi hữu ngã; nhi phàm phu chi nhơn, dĩ vi hữu ngã.

NGHĨA:

Tu Bồ Đề! Như Lai nói " có ta" ấy, nhưng chẳng phải " có ta" mà kẻ phàm phu lại cho là "có ta".

Giải :Tăng Nhược Nột giải: Như Lai đã không ngã nhơn các tướng, làm sao có khi lại xưng "ta"? - Phải biết cưỡng danh xưng "Ta": đó là đối với lực độ chúng sanh phải tùy thời mà xưng vậy thôi.

Lý Văn Hội giải: Hữu ngã: tức là phàm phu - Phi hữu ngã, là tùy chỗ làm chủ, ứng dụng không phương. Cho nên nói: Phàm là nhân của Phật, Phật là quả của phàm.

Kinh Cảnh Giới có nói: "Chư Phật ba đời đều không có sở hữu, duy có tự tâm đã rõ nhân quả không sai, thì biết ngoài tâm không pháp".

Hai bực thừa chấp có ngã tướng, muốn lìa sanh tử mà cầu Niết bàn, muốn bỏ phiền nãomà cầu diệt độ, là bỏ một bên, chẳng tỏ lý trung đạo. Ấy là đồng hạnh với phàm phu.

141.ÂM:

Tu Bồ Đề! Phàm phu giả, Như Lai thuyết tức phi phàm phu, thị danh phàm phu".

NGHĨA:

Tu Bồ Đề! Phàm phu ấy, Như Lai nói chẳng phải phàm phu, chỉ cưỡng danh là phàm phu".

Giải :Vương Nhựt Hưu giải: Phật lại bảo ông Tu Bồ Đề: "Phàm phu là chẳng có phàm phu chơn thiệt, chỉ hư danh là phàm phu". Ấy là liền lập rồi liền bỏ.

Trước nói phàm phu, ấy là liền lập, sau nói hẳn không phàm phu chơn thiệt, ấy là liền bỏ. Bằng mà bỏ đi, thà đừng lập ra? - Là bởi không lập ra thì không lấy chi đặng rõ lý, cũng ví như qua sông mà chẳng dùng bè. Còn chẳng bỏ, thì e người câu nệ theo lời nói, cũng như ví như đến bờ rồi mà chẳng lên, cứ ở dưới bè hoài. Nên sở dĩ liền lập rồi liền bỏ, là vậy.

Tăng Nhược Nột giải: Bởi bài trước Như Lai nói: Ta bỏ cái lý "chẳng phải phàm phu" thì Phật với chúng sanh phải cách nhau; nếu lý ấy mà không bỏ, thì phàm Thánh bình đẳng. Cho nên nói: "Là chẳng phải phàm phu".

Nhan Bính giải: Người người tự tánh tự độ lấy: mê thì ngộ độ, tà thì chánh độ. Trước kia chư Phật đã nói, đó là chỉ ra cái mối đầu đường, thì nên cứ đó mà noi theo, nào phải do nơi người khác. Cho nên nói: "Thiệt không chúng sanh nào Như Lai độ đặng". Nếu có độ đặng thì Như Lai còn có bốn tướng". Như Lai là người kiến tánh, nên không có ngã tướng, phàm phu là người chưa kiến tánh, nên ngã tướng chưa quên. Phải lại e cho người lạc vào phân biệt, cho nên nói: "Là chẳng phải phàm phu". Vậy thì, biết Như Lai và phàm phu vốn đồng một tánh không có phân biệt.

Lý Văn Hội giải: Tức phi phàm phu là nhứt niệm thanh tịnh chẳng phàm chẳng Phật nên nói: "Chẳng phải phàm phu".

Phàm phu vẫn không, bởi mê mà vọng chấp, chỉ không chấp trước thì cả thảy thanh tịnh.

Trí Giả Thiền sư giải:

Tụng:

Bằng tu nhân với quả, Thì quả đợi kỳ đơm.

Tự độ thường chăm chỉ, Chuyên cần ấy pháp môn.

Bắt chim rồi cất ná, Đặng cá chẳng dùng nơm.

Nếu nói Như Lai độ, Độ ai thử chỉ dùm?!

Xuyên Thiền sư giải: Niệm trước chúng sanh niệm sau Phật, chúng sanh với Phật không hai vậy.

Tụng:

Chẳng thấy mấy đầu mấy tay,

Mà hay cầm muỗng cầm đũa.

Khi thì hương khói dưng đơm.

Lúc lại say sưa mắng rủa,

Tay cầm chậu mẻ khờn,

Mình mặc đồ tơ lụa.

Đổi dạng thay hình cả vạn thiên,

Rờ đầu dắt lại: Ừ! Chàng nó!

Hừ! hừ!!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/08/2019(Xem: 8922)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
14/04/2019(Xem: 7967)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo… Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật. Ngài có đời sống dài vô hạn lượng nên còn có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật.
20/09/2018(Xem: 4554)
Trung Bộ Kinh Nikaya (Majjhima Nikaya) có bốn bài kinh: 1) Nhất Dạ Hiền Giả (Bhaddekaratta Sutta), 2) Ananda và kinh Nhất Dạ Hiền (Anandabhaddekaratta Sutta); 3) Đại-Ca Chiên-Diên và kinh Nhất Dạ Hiền (Mahakaccanabhaddekaratta Sutta); 4) Lomasakangiya và kinh Nhất Dạ Hiền (Lomasakangiyabhaddekaratta Sutta). Cả bốn bài kinh này đều xoáy trọng tâm vào một bài kệ do Đức Phật tổng thuyết và biệt thuyết nhằm khuyến tấn các đệ tử của Ngài hãy nỗ lực tu tập để phát huy tuệ quán nhận ra "cái đang là" của các pháp hiện tại và an trú trong bây giờ và ở đây.
28/04/2018(Xem: 7444)
Sự hiện hữu của nhân sinh bao giờ cũng mang theo những ước mong về một đời sống tốt đẹp. Nhưng có lẽ sự tốt đẹp cho cả cuộc đời này là khát khao lớn nhất và có giá trị cao cả nhất cho những ai luôn nuôi dưỡng những tâm nguyện của tình thương bao la cho cả vũ trụ này. Có những mơ ước về một đời sống lí tưởng cho riêng mình, nhưng cũng có nhữngước mong xây dựng cho cả cuộc đời này thành một cảnh giới thật sự chỉ có mặt của niềm hạnh phúc. Những tâm tư như thế được thể hiện từ rấtxưa ở Trung Quốc với lí tưởng “thế giới đại đồng” của Nho Giáo,
12/11/2017(Xem: 18213)
Có tu có học có hành Đêm ngày tự có phước lành phát sanh Không tu không học không thành Dù trăm tài sản cũng đành bỏ đi .
02/04/2017(Xem: 8325)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
28/04/2016(Xem: 16509)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
07/01/2015(Xem: 8618)
Trong mối liên hệ với thế giới của ta thì Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà ở phương tây và ở phía trên thế giới của ta. Ta phải chấp nhận một vũ trụ quan và nhận ra rằng có nhiều hệ thống thế giới khắp không gian. Tôi đang nói tới một hệ thống hết sức bao la. Chúng ta hãy xác định vị trí của ta.
19/12/2013(Xem: 20199)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Anh dịch: http://www.purifymind.com/FortyEight.html Sưu tập: Tuệ Uyển, Wednesday, December 18, 2013 48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà 48 Vows of Amitabha Buddha 1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 1."Provided I become a Buddha, if in my Buddha-land there should be either hell, or the animal state of existence, or the realm of hungry ghosts, then may I not attain enlightenment.
14/09/2013(Xem: 7446)
Kinh A Di Đà là một bản Kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của Kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, Kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567