Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tập Chư Pháp Bảo Tối Thượng Nghĩa Luận - Quyển Thượng

24/06/202119:41(Xem: 4879)
Tập Chư Pháp Bảo Tối Thượng Nghĩa Luận - Quyển Thượng
Buddha_painting 10. 2020
Tập Chư Pháp Bảo Tối Thượng Nghĩa Luận
 Quyển Thượng

 

— Thiện Tịch Bồ Tát tạo Tây Thiên dịch Kinh

Tam Tạng Triêu Phụng Đại Phu Thức Quang Lục Khanh Truyền Pháp Đại Sư Sắc Tử Thần Thí Hộ Phụng chiếu dịch.

 

— Thứ tự kinh văn số 1638 Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn từ trang 150 đến 155.

 

— Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo Úc Đại Lợi cùng với sự phụ dịch của Tỳ kheo Thích Đồng Văn, bắt đầu từ ngày 16 tháng 12 năm 2004 nhân kỳ nhập thất lần thứ hai tại đây.

      

 

Quy mệnh tất cả Phật

Quy mệnh các Pháp tạng

Đảnh lễ các bậc Trí

Rộng vì lý thậm thâm

 

Con nay tạo Luận, tên gọi là Bảo Thượng. Trong Pháp tối thượng chơn thật quyết định rõ nghĩa.

Luận rằng Từ vô thỉ đến nay, si ám là nguyên nhân sanh ra Người, Trời và các loài Hữu Tình. Có con đường ác căn bản, nếu ai muốn vào chỗ vui nhứt thiết trí thanh tịnh, thì phải quy mệnh vào ánh sáng của Phật. Ở trong đây, làm cho ta lìa tất cả tánh và tất cả nguyên nhân để biết tất cả khổ não, phiền não nghiệp, sanh ra các pháp tạp nhiễm. Không đầu, không ở, mà chẳng thật thể. Duy có chỗ sanh và mộng huyễn. Do mộng huyễn từ phân biệt khởi lên. Nên biết các pháp đều từ duyên sanh. Cho nên chư Phật, ở trong nghĩa đó mà duyên sanh, liền nói các pháp, các vật, tánh không, không vô tự tánh; mà lại chẳng ở nơi chỗ làm không thật tưởng. Cho nên thanh tịnh A Lại Gia thức. Tuy có chỗ thọ, mà chẳng đắm nhiễm. Nghĩa nầy sâu xa, lại rất rộng rãi. Kinh dạy rằng:

Tất cả đều nói như thế. Những người vui muốn cầu sự giải thoát, phải nên như thế để rõ biết các pháp. Phải biết các Pháp chẳng lìa nơi Thức. Nếu lìa thức, thì tánh kia liền đoạn. Cho nên trong Pháp ấy, chẳng thật có tánh”.

 Kinh Pháp Tập chép như thế nầy:

Nếu Pháp là thật, hoặc Pháp là chẳng thật. Nếu có tự tánh và không tự tánh. Cả hai chẳng tương ưng với thí dụ huyễn hoặc. Các pháp phi hữu tánh, mà cũng phi vô tánh. Ở đây nói, nếu thật vô tánh, thì vô tánh kia gọi là không không tức thành đoạn diệt. Nếu thật có tánh, phải tức tánh ấy là thường, thì nên biết nói không mà chẳng khác không. Lìa không, phi không lại chẳng thể được. Lại như sáng, tối, hai việc chẳng giống nhau. Lìa tối, lìa sáng cũng đều chẳng thể được. Cho nên phải biết ở đây nói chẳng hiện tiền tối thì lìa như thế nào. Kẻ trí và kẻ ngu là hai điều không giống nhau. Lìa trí và lìa ngu lại chẳng chỗ được. Chẳng trí chẳng ngu, là hai điều ở giữa ta nghĩ đều là không. Tất cả các pháp kia không trong, không ngoài, lại chẳng có trung gian. Chẳng có pháp nào để giữ và chẳng có pháp nào để xả”.

Kinh Bảo Tích chép như thế nầy:

“Nếu nói đây có một bên; hoặc nói không có hai bên; hoặc nói một; hoặc hai; hoặc trung gian; tất cả đều chẳng có tướng, nên chẳng thể thấy. Không có tướng thấy cho nên lại chẳng thể nói. Không hình, không tượng nên chẳng thể biểu thị. Không có chủng loại; Pháp không có nơi nhiếp hoá và giữ lại. Lại chẳng ở giữa để an lập. Nơi đây nói là lời chân thật. Tánh và vô tánh bổn lai là như vậy. Muốn làm giải thích điều nầy, phải quán sát rõ ràng về Thánh Đế có thể lìa tham và phiền não tội lỗi. Giả sử như phiền não có chỗ sanh khởi, đối với Thánh Đế không có chỗ đắm trước. Nếu biết như thế, đây là điều giải rõ. Tức được công đức tụ nơi thân của Như Lai. Làm tiếng rống của Sư Tử, chuyển đại Pháp Luân. Làm cho tất cả đều được thấy nghe.”

Kinh Lăng Già chép như thế này:

“Ta nói vô tướng, mà chẳng thể thủ. Trong Kinh Chuyển Thức nói rằng: Lìa Thức có Pháp Lý chẳng tương ưng. Trong kinh Thọ Ký nói rằng: Phải biết Thức là do Tâm biến ra tất cả Pháp”.

Kinh Thập Địa chép rằng: “Sắc pháp không thật, chẳng thể thủ xả. Trong Kinh A Nậu Cụ Lê nói rằng: Nếu rõ các Pháp Tánh tức việc chẳng biết sẽ biết. Cho nên trong đây thật ra không có chỗ được. Trí thể chẳng thật thường biết như huyễn, mà tất cả kinh đều dạy và nói như thế.

Các Bồ Tát tùy nơi các tướng chuyển; mà tướng nầy không có thật nghĩa, không có chỗ được. Nơi Thắng Nghĩa Đế, không thể lập”.

Kinh Bảo Vân chép rằng:

Nếu gốc là không, chẳng thể nói có. Thức lìa phân biệt nên gọi là chẳng thể lập. Thắng nghĩa đế kia chơn lý lìa lời nói, mà các vật, tánh thật vô sở đắc. Ở đây nói lời quyết định mà Phật dùng ý nói để phá những kẻ vô trí.”

Kinh Hiển Ái chép rằng:

Nếu nói có vật tức là không vậy. Nghiệp báo của chúng sanh nên có nhiễm tịnh. Nếu có nhiễm tịnh, tức có chỗ tạo tác. Nếu có chỗ tạo tác tức mỗi mỗi tùy theo tướng của thế gian mà chuyển. Có tướng chuyển cho nên thấy có chỗ thành. Nếu có thể an trụ nơi chỗ tưởng không điên đảo, tức biết vật tánh chẳng có thật thể riêng. Điều nầy như nghĩa đức Từ Thị Bồ Tát hỏi:

Bạch Thế Tôn! Nói như thật, Cái Ta vốn vô biên cho nên Bồ Đề cũng vô biên. Vì Bồ Đề vô biên cho nên Không có Bồ Đề để đạt được. Cái Ta vô biên, cho nên chẳng có kẻ cầu Bồ Đề. Lại cũng chẳng có pháp nhỏ, mà có thể biết được chỗ biết. Duy chỉ có trí của chư Phật mới có thể chiếu rõ. Pháp Chơn Như kia tức là Vô Tánh. Vô Tánh tức là Như Lai. Như Lai nghĩa là Vô Sanh Tánh.

Kinh Phong Bát Đa Thiết Đa chép rằng:

Tất cả các Pháp ấy, nếu nói rằng có thường, chấp là không, tức thành đoạn kiến. Nếu chẳng có, chẳng không, lại trung gian chẳng lập”.

Kinh Bảo Tích chép rằng:

“Tất cả các Pháp nhiễm về tham và phiền não, kẻ giải thoát chẳng có tướng cùng tận. Nếu rõ biết phiền não tự tánh bổn lai thanh tịnh, đối với Thắng Nghĩa Đế, sự thoát khỏi ấy chẳng có thể thoát khỏi. Kẻ nào nếu muốn quán chân thật nơi Như Lai, nên quán Như Lai giải thoát chỗ sanh. Chẳng từ nhơn mà sanh, chẳng từ duyên mà sanh. Chẳng có tướng sanh, lại chẳng phân biệt mà sanh. Xa rời tất cả tiếng gọi sai biệt. Chẳng có sắc tướng, chẳng có sắc, chơn như cho đến phi thức tướng phi thức. Chơn Như chẳng tối, chẳng sáng. Phi tức là chẳng lìa, chẳng thấy chẳng biết. Lìa các thức pháp, chẳng có chỗ liễu biệt. Chẳng ở nơi tất cả thức pháp mà trụ, nếu có thể quán Như Lai như thế, gọi là Chánh quán. Nếu kẻ kia quán tên là tà quán. Vì tà quán cho nên kẻ kia chẳng có thể thấy chân thật của Như Lai. Ở nơi đây nói về nghĩa như thật, lìa có, lìa không; phi tánh, phi vô tánh. Như thế gọi là thấy rõ Như Lai.

 Kinh Hoa Nghiêm chép:

“Có một vị Trời xuống hỏi Bồ Tát Diệu Cát Tường rằng: Thế nào là Thật ngữ và Bất thật ngữ? Tất cả phiền não làm sao điều phục?

Ngài Diệu Cát Tường đáp rằng:

Như người trong mộng thấy con rắn lớn kia, người nầy tuy thấy nhưng chẳng bị độc hại, phiền não tuy sanh mà tánh chẳng thật. Tánh nầy thanh tịnh mà tự điều phục. Đây là thật ngữ, phi thật ngữ vậy.

Lại nữa Bồ Tát Hải Tuệ hỏi Phạm Thiên Bất Tư Nghì rằng:

Pháp vốn chẳng chứng, lại chẳng có chỗ nói, thì sao có Phật và Phật Pháp?

Phạm Thiên Bất Tư Nghì đáp rằng:

Nếu Phật, Như Lai xuất hiện nơi đời cùng sự diễn thuyết kia là pháp của Phật. Hoặc có hoặc không gốc tự nó là như thế. Trước sau chẳng nói, lại cũng chẳng chứng. Không nói cho nên không nghe. Không chứng cho nên không được. Chỉ vì chúng sanh phiền não nghiệp sanh các quả báo. Tánh ấy vẫn sanh vào tâm đại Bồ Đề của chư Phật. Ở nơi cảnh giới bi tâm của các vị Bồ Tát. Nếu các chúng sanh phiền não, các tánh ấy có thể tự điều phục. Đối với các hành, chẳng thường hành vô cầu vô nguyện. Tánh phiền não kia, tất thanh tịnh. Chư Phật lại cũng chẳng chứng chẳng nói.

Lại nữa Thiện Tài Đồng Tử nói: Phải biết các pháp tất cả đều như huyễn mà ta ở trong huyễn đó cầu giải thoát. Như nghĩa ấy trong kinh Hoa Nghiêm đã nói:

Nên biết các Pháp như huyễn như mộng như ánh nắng mặt trời, như tụ tán.  Lại như thành Càn Thát Bà. Ba cõi tất cả Pháp đều từ tâm thức mà sanh. Tâm như huyễn cho nên ba cõi cũng như huyễn. Nếu có một vật nào mà có thật thể, đây nói huyễn dụ về lý chẳng tương ưng. Trong kinh Tam Ma Địa Vương nói vậy. Đồng thời các kinh khác cũng nói giống nghĩa trên.

Lại nữa, ta nay y vào kinh để lược nói các nghĩa. Như Bồ Tát Diệu Cát Tường nói: Bồ Đề chẳng dùng thân để được, chẳng dùng tâm để được. Nếu không có tâm tức không có thân. Thân tâm lìa nhau như vậy chẳng có chỗ tạo tác. Như huyễn như hoá. Như vậy, nói là Bồ Đề. Chư Phật nói điều nầy là Bồ Đề, có thể vào cảnh giới bình đẳng của Chư Phật, cho nên cũng gọi là Trí Trang Nghiêm, mà chẳng trang nghiêm, tất cả trí kia. Tất cả trí tánh chẳng thể được vậy. Bồ Đề vô sanh lại cũng diệt. Chẳng một chẳng khác, không đây không kia. Chư Phật Như Lai đã nói như vậy.

Lại nữa, dụ như thế gian tất cả hạt giống đều sanh sản; Tất cả đều ra mầm. Nếu không có hạt giống và các mầm chẳng sanh. Bồ Tát Thích Ca ngồi nơi Bồ Đề Đạo Tràng để thành Chánh Giác, nghĩa nầy cũng là như thế. Chỉ từ các Pháp duyên theo mà khởi ra sự sanh. Tuy có chỗ chứng mà thật sự ra điều nầy chẳng thật. Đây tức là nói Du Hý Thần Thông. Cho nên phải biết chẳng có pháp ngoài. Chư Phật Như Lai lại chẳng có tánh. Cho nên lìa Thức, thật chẳng có một Pháp. Nếu lìa Thức, Pháp chẳng sanh. Nếu Tâm có thể sanh, Tâm ấy tức vô sanh. Nếu Pháp là chỗ sanh ra Pháp lại chẳng sanh là nghĩa nầy vậy. Chư Phật Như Lai ở nơi Vô Sanh dùng tâm ấy để nói nghĩa Bồ Đề. Cho nên Phật nói Tâm Thức có thể sanh Bồ Đề. Lại chẳng phải Tâm Thức lại có thể sanh vậy. Vì sao vậy? Vì Thức Tánh vốn không vậy!

Ngài Diệu Cát Tường nói đây là tối thượng chân thật. Ở nơi tự cảnh giới Phật như thật mà nói:

Lại nữa các Pháp đều từ duyên sanh; mà ở nơi sanh kia lại không có tự tánh. Cho nên các Pháp, tất cả đều như huyễn. Nói là như huyễn. Cho nên như thật mà nói. Bồ Tát Từ Thị hiện ở tại như huyễn Tam Ma Địa. Cho nên Thế Tôn ở nơi Tam Ma Địa nầy để thọ ký cho, đó là biểu tượng vậy.

Lại nữa, đức Thế Tôn ở nơi vô số kinh, đều nói tất cả các Pháp đều từ Thức mà biến hiện. Lìa sanh, ly diệt, phi hữu tướng, phi nhiếp tàng, chẳng có khởi tác và chẳng có dừng nghỉ. Chẳng có chẳng không, chẳng thường, chẳng đoạn. Nên biết trí tánh tất cả đều như huyễn. Hà huống là các pháp có chỗ phân biệt. Nếu có kẻ chấp trước vào lời nói đoạn, thường, thì kẻ kia chẳng chánh hạnh. Phật chẳng hứa khả. Nếu biết các Pháp phi đoạn, phi thường, kia liền tương ưng. Gọi tên là chân thật.

Ở nơi chính mình và bên ngoài chẳng có pháp đắm trước, lại chẳng có pháp ở nơi tâm đối trị. Tuy ở nơi các pháp nói nhiều câu loại, mà tuỳ theo các pháp để làm chỗ biểu thị rõ ràng, phải nên biết tự Thức mà chẳng phải tha thức. Ở nơi nầy, nghĩa bên ngoài mà chẳng có ít pháp là nơi có thể sanh niềm vui. Tự thức vô tánh, tha thức cũng vô tánh. Ở nơi tự và tha lại cũng chẳng có tánh khác. Chơn thật trí kia lìa có và không. Nên biết ngã thức lại cũng chẳng có. Bổ Đặc Già La uẩn (Ngã uẩn) nói có chỗ nhiếp, cho nên biết rằng tất cả Phật, tất cả Pháp, đều có riêng mình. Nếu lìa tự phần để cầu thì chẳng thể được; tức điều nầy chỗ nói lìa có lìa không. Đây là nghĩa sâu xa mà chư Phật đều nói về Vi Diệu Pháp nầy. Xa rời tất cả chỗ chấp trước phân biệt. Lìa việc nầy lại cũng không phân biệt để nói. Những kẻ mê lầm hoặc đắm trước nơi có, tức là có thiện ác, hai loại sai biệt. Nếu đắm trước nơi không, tức chẳng có suy nghĩ điều nầy sát na sanh khởi. Cho nên sự đắm trước có, đắm trước không, đều chẳng giống nhau. Chư Phật Như Lai vì tâm từ mà phương tiện nói nghĩa nầy. Nghĩa là tất cả Pháp lìa có và lìa không. Như thế chỗ nói là câu văn tối thượng. Cho nên điều nầy nói các pháp là chân thật. Pháp không có tánh đắm trước lại chẳng phải chỗ để quan sát. Không đắm trước tánh ấy tức là lìa có và lìa không. Nếu biết như thế là kẻ trí vậy. Thường hay quán hư không chẳng tăng chẳng giảm chẳng phân lượng, vô biên tế. Tức từ hư không nầy xuất sanh tất cả. Thanh tịnh tâm thức lại cũng như thế. Tâm nầy vô tâm, tất cả đều từ đó mà ra.

Lại như Tịnh Ma Ni Bảo kìa vô tâm nên ảnh hiện tất cả.  Hoặc có hỏi rằng vì sao chia ra mà không thể giữ lại, thì nên đáp rằng: Nơi kia hư không chẳng tạo tác, có giới hạn vậy nên không thể giữ lại. Nếu hư không kia, chẳng có tạo tác giới hạn thì sánh với cái gì để được? Nên biết tất cả chúng sanh giới như là vi trần tụ họp lại, mà hư không kia tức có thể dung nạp tất cả. Các chúng sanh cùng với hư không giới chẳng có chỗ tăng giảm. Hoặc tất cả loài hữu tình cho đến tất cả nơi chốn. Tất cả chủng loại, tất cả hình tướng, mỗi mỗi đều phân biệt. Trong ấy thật chẳng có một tánh, có chỗ sanh khởi. Ở nghĩa nầy chẳng có một tánh và chẳng có nhiều tánh. Một, nhiều, ở giữa lại cũng vô tánh. Nếu nói một tánh định có sở đắc tức là nhiều tánh mà có chỗ sai biệt. Có tánh sai biệt tức sanh ra phân biệt. Cho nên một tánh, nhiều tánh;tánh nầy đều bình đẳng. Hoặc ở nơi nghĩa ngoài không có chỗ chấp trước. Ở nơi trí lại chẳng có chỗ được. Nếu ở nơi nghĩa ngoài không có chỗ chấp trước, ở nơi trí lại chẳng có chỗ sanh khởi; hoặc tâm vì thức lìa các tướng mà ngoại pháp kia làm sao có sự đo lường. Nếu tâm tri thức mà có các tướng, ngoại pháp kia lại làm sao có thể đo lường được. Cho nên phải biết ở nơi ngoại pháp bảo kia chẳng có một tánh có thể khởi lên để sanh ra. Như mộng và pháp thật chẳng có tác dụng. Nếu nói các pháp là điều nầy, thì điều nầy không có tự tướng. Nếu nói các pháp là kia, thì kia lại cũng vô thật. Nếu ở nơi tự tâm rõ biết chỗ có rồi, tức là ở tự tâm nầy lại cũng chẳng là thật. Nếu như thật biết gọi tên đó là giác, rõ biết tướng của thức. Nếu có tất cả chỗ thô trọng phân biệt để khởi lên tâm kia, nên biết tất cả là phiền não sai biệt sanh ra vậy. Nếu đã rõ biết phiền não tánh lìa tâm phân biệt; tức là sanh tử Niết Bàn cả hai đều thanh tịnh. Tánh thanh tịnh nầy tức là các pháp tánh. Tánh nầy lại cũng có tên chơn như, gọi là thật tế. Lại cũng có tên là không. Ở những tánh nầy, hoặc nhiễm hoặc tịnh, dùng thật trí để quan sát tất cả đều được bình đẳng.

Hoặc có kẻ hỏi rằng: Ở nơi tất cả pháp, thế nào là bất hoại? Nên trả lời rằng: Các pháp tự nhân của nó là bất hoại. Sao lại chẳng hoại? Chẳng hoại là tánh của nhơn vậy. Nếu Pháp có tánh hoặc pháp vô tánh đều chẳng lìa tự tánh. Mà nghĩa của hai bên làm sao có thể an lập. Nếu nhơn của các pháp cùng sự tác dụng, có chỗ hoại đi, thì ở tất cả nơi cái lý ấy chẳng tương ưng. Thật tánh của các Pháp làm sao chuyển theo được? Nghĩa là thật tánh kia chẳng có chỗ trụ vậy. Các Pháp vô tánh làm sao có nhơn? Lìa nhơn, lại cũng chẳng có tánh riêng vậy. Lại nữa! Thật tánh của các pháp chẳng có chỗ hoại. Tức sự hoại kia gọi tên ấy lại cũng chẳng có chỗ trụ. Ở trong đây lại chẳng có sai biệt tánh của nhơn. Tánh của sự hoại diệt kia không phân chia nơi chốn vậy. Chơn Thật các pháp là tánh thường trụ. Tánh thường trụ kia chẳng phải là tánh vô thường. Nếu lìa tánh thật có nghĩa riêng thì sự tác dụng của giáo lý ấy chẳng tương ưng. Tuy nhiên, tánh của vật lại cũng chẳng giảm. Lại nữa, chẳng phải tánh của vô thường là tánh chơn thật. Ở trong tánh chơn thật ấy, có nghĩa gì? Ở nơi đây sự tác dụng với tánh vô sai biệt không thể phân biệt được. Tất cả thường biên kia và tất cả xứ kia lại chẳng phải tánh vô thường mà là tánh chơn thật. Ở trong tánh chơn thật đó, cái tướng được như thế nào?

Những sự chẳng chơn thật ấy, ở đây lập ra sao? – Các biệt dị tánh ở đây hiện hữu như thế nào? Cho nên chẳng phải tánh vô thường mà phải nên biết vậy.      

Lại nữa nên biết: Tánh vô thường ở nơi tánh của vật chuyển đổi nhiều loại tánh khác. Các loại nầy tụ họp lại rồi hiện lên là nguyên nhân của sự sai biệt vậy. Chỗ dục làm nhơn rồi sanh khởi ra vậy. Hoặc ở nơi tánh vô thường kia; trong đây làm chỗ quyết định để nói, cùng với nghĩa lý của duy thức chẳng tương ưng. Tánh vô thường kia không có quyết định vậy. Nếu pháp chẳng hoại lại chẳng phải chẳng hoại. Có pháp trong sát na sanh khởi ra. Nếu nói chẳng hoại, sao có tên là tánh vô thường. Nếu chẳng phải chẳng hoại, sao gọi tên là nguyên nhân của tánh. Quá khứ, vị lai Pháp lại cũng như thế, mọi vật đều không có tánh. Thật nhứt định có sự phân biệt của các pháp mà tuỳ chuyển. Tùy theo sự phân chia nầy, ở đây gọi là nhân gì?

Nghĩa là chẳng có chỗ trụ vậy. Ở trong hữu vi, trước mắt là sự mất mác; tức là sau đó hoại diệt đi lại sanh khởi trở lại. Trước thì chẳng thể phân biệt, rồi sau đó dẫn đến sự sanh ra phân biệt. Sau đó chẳng thể phân biệt, từ trước đó có sự phân biệt mà sanh ra. Nếu nói các pháp ở đây có chỗ được. Tức ở điều nầy khởi lên nguyên nhân của sự phân biệt. Nếu nói các pháp kia có chỗ được, tức ở nơi kia khởi lên nguyên nhân của sự phân biệt. Quá khứ, vị lai chẳng có trụ lại cũng như thế! Ở trong đây chẳng có nơi chốn, phân biệt sát na Pháp có thể nói hữu hoại hoặc chẳng hoại; Ở ý nghĩa nầy chẳng phải pháp của từng sát na. Nếu ở nơi kia nhân như thế đã rõ rồi, thì ở trước sau hoặc khoảng giữa lại chẳng thể phân biệt.

 

Tập Chư Pháp Yếu Tối Thượng Nghĩa Luận
Hết quyển thượng (còn tiếp)


facebook-1 



youtube




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/08/2019(Xem: 10150)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
14/04/2019(Xem: 9015)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo… Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật. Ngài có đời sống dài vô hạn lượng nên còn có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật.
20/09/2018(Xem: 5126)
Trung Bộ Kinh Nikaya (Majjhima Nikaya) có bốn bài kinh: 1) Nhất Dạ Hiền Giả (Bhaddekaratta Sutta), 2) Ananda và kinh Nhất Dạ Hiền (Anandabhaddekaratta Sutta); 3) Đại-Ca Chiên-Diên và kinh Nhất Dạ Hiền (Mahakaccanabhaddekaratta Sutta); 4) Lomasakangiya và kinh Nhất Dạ Hiền (Lomasakangiyabhaddekaratta Sutta). Cả bốn bài kinh này đều xoáy trọng tâm vào một bài kệ do Đức Phật tổng thuyết và biệt thuyết nhằm khuyến tấn các đệ tử của Ngài hãy nỗ lực tu tập để phát huy tuệ quán nhận ra "cái đang là" của các pháp hiện tại và an trú trong bây giờ và ở đây.
28/04/2018(Xem: 8583)
Sự hiện hữu của nhân sinh bao giờ cũng mang theo những ước mong về một đời sống tốt đẹp. Nhưng có lẽ sự tốt đẹp cho cả cuộc đời này là khát khao lớn nhất và có giá trị cao cả nhất cho những ai luôn nuôi dưỡng những tâm nguyện của tình thương bao la cho cả vũ trụ này. Có những mơ ước về một đời sống lí tưởng cho riêng mình, nhưng cũng có nhữngước mong xây dựng cho cả cuộc đời này thành một cảnh giới thật sự chỉ có mặt của niềm hạnh phúc. Những tâm tư như thế được thể hiện từ rấtxưa ở Trung Quốc với lí tưởng “thế giới đại đồng” của Nho Giáo,
12/11/2017(Xem: 21649)
Có tu có học có hành Đêm ngày tự có phước lành phát sanh Không tu không học không thành Dù trăm tài sản cũng đành bỏ đi .
02/04/2017(Xem: 8996)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
28/04/2016(Xem: 19013)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
07/01/2015(Xem: 9337)
Trong mối liên hệ với thế giới của ta thì Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà ở phương tây và ở phía trên thế giới của ta. Ta phải chấp nhận một vũ trụ quan và nhận ra rằng có nhiều hệ thống thế giới khắp không gian. Tôi đang nói tới một hệ thống hết sức bao la. Chúng ta hãy xác định vị trí của ta.
19/12/2013(Xem: 21255)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Anh dịch: http://www.purifymind.com/FortyEight.html Sưu tập: Tuệ Uyển, Wednesday, December 18, 2013 48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà 48 Vows of Amitabha Buddha 1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 1."Provided I become a Buddha, if in my Buddha-land there should be either hell, or the animal state of existence, or the realm of hungry ghosts, then may I not attain enlightenment.
14/09/2013(Xem: 9212)
Kinh A Di Đà là một bản Kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của Kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, Kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com