Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương hai mươi tám

10/07/201103:30(Xem: 8985)
Chương hai mươi tám

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG HAI MƯƠI TÁM

146.ÂM:

"Tu Bồ Đề! Nhược Bồ Tát dĩ mãn hằng hà sa đẳng thế giới thất bảo trì dụng bố thí, nhược phục hữu nhơn tri, nhứt thiết pháp "vô ngã" đắc, thành ư nhẫn, thử Bồ Tát thẳng tiền Bồ Tát sở đắc phước đức.

NGHĨA:

"Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát dùng bảy báu đầy cả hàng hà sa số thế giới, đem ra mà bố thí. Bằng lại có người biết cả thảy pháp "vô ngã" mà thành tựu đặng cái pháp nhẫn, thì Bồ Tát này, chỗ đặng phước đức nhiều hơn Bồ Tát kia".

Giải :Lục Tổ giải: Thông đạt cả thảy pháp, không lòng năng sở, ấy gọi là nhẫn địa. Cái người ấy đặng phước đức hơn phước đức bảy báu kia.

Lý Văn Hội giải: Tri nhứt thế pháp Vô ngã là chẳng sanh lòng chấp hai bên, ấy là Vô sanh nhẫn, thì hơn Bồ Tát bố thí bảy báu trước kia.

Vả lại muôn pháp vốn không có tánh, đều bởi tại mình mà phát ra: như mắt đối với sắc gọi là thấy, tai đối với thinh gọi là nghe. Thấy nghe là căn, sắc thinh là trần. Sự thường thấy thường nghe: lúc chưa đối với sắc, thinh, tự tánh chưa hề bớt, còn lúc đối với sắc thinh tự tánh cũng chẳng thêm.

Ấy là Bồ Tát tỏ ngộ chơn tánh, tự do hoạt động, lộng lộng như hư không, chẳng hề thêm cũng chẳng hề bớt.

Phàm phu bị vọng tâm che áng, xô đẩy theo sáu trần mới có sanh diệt, nên trần khởi thì tâm khởi, trần diệt thì tâm diệt; chẳng biết cái tâm khởi diệt ấy là vọng niệm. Bằng thấy sáu trần không sanh ra khởi diệt, tức là Bồ Tát.

Xuyên Thiền sư giải: Tai nghe như điếc, miệng nói như câm.

Tụng:

Người dưới ngựa nương người cỡi ngựa,

Thân sơ cao hạ riêng trang lứa.

Một mai mà: ngựa thác, người đi.

Thân mật ấy thành không chỗ dựa.

Vốn thiệt cựu tương tri,

Mà đổi cái hành vi mọi bữa.

147.ÂM:

Hà dĩ cố? - Tu Bồ Đề! Dĩ chư Bồ Tát bất thọ phước đức cố".

NGHĨA:

Bởi cớ sao? - Này Tu Bồ Đề! Bởi các Bồ Tát ấy chẳng chịu phước đức".

Giải :Vương Nhựt Hưu giải: Dĩ chư Bồ Tát bất thọ phước đức là Bồ Tát tế độ cho chúng sanh chẳng phải là không đặng phước, nhưng Bồ Tát chẳng hưởng sự giàu sang của thế gian, chỉ làm cái phước hư không mà thôi. Cho nên nói: "Không chịu phước đức".

Chứa như hư không, lâu mãi chẳng thôi cho đến thành Phật. Đã thành Phật thì phước đức rộng lớn như Trời đất. Cho nên xưng Phật là Lưỡng túc tôn, nghĩa là đủ hai điều Phước và Trí.

148.ÂM:

Tu Bồ Đề bạch Phật ngôn: "Thế Tôn! Vân hà Bồ Tát bất thọ phước đức?".

- " Tu Bồ Đề! Bồ Tát sở tác phước đức; bất ưng tham trước; thị cố thuyết bất thọ phước đức".

NGHĨA:

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát chẳng chịu phước đức?".

- " Tu Bồ Đề! Bồ Tát làm phước đức, chẳng nên tham chấp; nên mới gọi là chẳng chịu phước đức".

Giải :Vương Nhựt Hưu giải: Bồ Tát sở tác phước đức v.v... là Bồ Tát vốn chẳng vì sự làm phước đức mà độ chúng sanh mà phước đức tự nhiên vẫn có. Ví như người đi giữa ban ngày vốn chẳng vì bóng mặt nhựt mà bóng mặt nhựt tự nhiên theo. Nếu vì sự làm phước đức mà độ chúng sanh, ấy là tham trước sự hưởng thọ phước đức. Bởi không tham trước sự hưởng thọ, cho nên nói chẳng chịu phước đức.

Còn nói : "Cho nên mới" là vì bởi cái cớ không tham; nên nói: chẳng chịu.

Lý Văn Hội giải: Chẳng tham quả báo phước đức của thế gian, ấy là "chẳng chịu".

Lại nói: Bồ Tát làm phước đức chẳng phải vì mình, chỉ vì lợi ích cho cả thảy chúng sanh, ấy là lòng không chỗ trụ, tức không tham trước. Cho nên nói: Chẳng chịu phước đức.

Trí Giả Thiền sư giải:

Tụng:

Bố thí mà mê chấp, Ba sanh chẳng toại tâm.

Dầu dùng nhiều của báu, Thua dứt sáu căn trần.

Diệt hết lòng tham dục, Trừ xong mối ái ân.

Không còn điều trược lậu, Hẳn thật Pháp vương thân.

Xuyên Thiền sư giải: Quần không lưng, khố bít miệng.

Tụng:


Hỏa, phong giả hiệp huyễn thân này,

Thiên hạ nào hay lại có ai!

Tròi trọi chẳng hàm dung một vật.

Hoàng Mai Ngũ Tổ cũng người ngoài.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/08/2019(Xem: 8933)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
14/04/2019(Xem: 7979)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo… Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật. Ngài có đời sống dài vô hạn lượng nên còn có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật.
20/09/2018(Xem: 4559)
Trung Bộ Kinh Nikaya (Majjhima Nikaya) có bốn bài kinh: 1) Nhất Dạ Hiền Giả (Bhaddekaratta Sutta), 2) Ananda và kinh Nhất Dạ Hiền (Anandabhaddekaratta Sutta); 3) Đại-Ca Chiên-Diên và kinh Nhất Dạ Hiền (Mahakaccanabhaddekaratta Sutta); 4) Lomasakangiya và kinh Nhất Dạ Hiền (Lomasakangiyabhaddekaratta Sutta). Cả bốn bài kinh này đều xoáy trọng tâm vào một bài kệ do Đức Phật tổng thuyết và biệt thuyết nhằm khuyến tấn các đệ tử của Ngài hãy nỗ lực tu tập để phát huy tuệ quán nhận ra "cái đang là" của các pháp hiện tại và an trú trong bây giờ và ở đây.
28/04/2018(Xem: 7448)
Sự hiện hữu của nhân sinh bao giờ cũng mang theo những ước mong về một đời sống tốt đẹp. Nhưng có lẽ sự tốt đẹp cho cả cuộc đời này là khát khao lớn nhất và có giá trị cao cả nhất cho những ai luôn nuôi dưỡng những tâm nguyện của tình thương bao la cho cả vũ trụ này. Có những mơ ước về một đời sống lí tưởng cho riêng mình, nhưng cũng có nhữngước mong xây dựng cho cả cuộc đời này thành một cảnh giới thật sự chỉ có mặt của niềm hạnh phúc. Những tâm tư như thế được thể hiện từ rấtxưa ở Trung Quốc với lí tưởng “thế giới đại đồng” của Nho Giáo,
12/11/2017(Xem: 18236)
Có tu có học có hành Đêm ngày tự có phước lành phát sanh Không tu không học không thành Dù trăm tài sản cũng đành bỏ đi .
02/04/2017(Xem: 8326)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
28/04/2016(Xem: 16525)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
07/01/2015(Xem: 8623)
Trong mối liên hệ với thế giới của ta thì Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà ở phương tây và ở phía trên thế giới của ta. Ta phải chấp nhận một vũ trụ quan và nhận ra rằng có nhiều hệ thống thế giới khắp không gian. Tôi đang nói tới một hệ thống hết sức bao la. Chúng ta hãy xác định vị trí của ta.
19/12/2013(Xem: 20204)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Anh dịch: http://www.purifymind.com/FortyEight.html Sưu tập: Tuệ Uyển, Wednesday, December 18, 2013 48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà 48 Vows of Amitabha Buddha 1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 1."Provided I become a Buddha, if in my Buddha-land there should be either hell, or the animal state of existence, or the realm of hungry ghosts, then may I not attain enlightenment.
14/09/2013(Xem: 7459)
Kinh A Di Đà là một bản Kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của Kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, Kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567