Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 30: 13 loại Minh, ký, châm, ca

01/11/202122:16(Xem: 5761)
Quyển 30: 13 loại Minh, ký, châm, ca

canh duc truyen dang luc

CẢNH ĐỨC TRUYỀN ĐĂNG LỤC

QUYỂN 30

Sa-môn Đạo Nguyên đời Tống soạn

Việt dịch: Lý Việt Dũng

 

 

CÁC BÀI MINH, KÝ, CHÂM, CA

1- Tâm vương minh: Phó Đại sĩ

2- Tín tâm minh: Tam Tổ Đại sư Tăng Xán

3- Tâm minh: Sơ Tổ núi Ngưu Đầu Thiền sư Pháp Dung

4- Tức tâm minh: Tăng không biết tên

5- Lược biện Đại thừa nhập đạo tứ hành của Bồ-đề Đạt-ma

6- Hiển Tông ký: Đại sư Hà Trạch Thần Hội

7- Tham đồng khế: Đại sư Thạch Đầu Nam Nhạc

8- Đáp Hoàng Thái tử vấn tâm yếu: Trấn Quốc Đại sư Trừng Quán

9- Tọa thiền châm: Hòa thượng Ngũ Vân Hàng Châu

10- Chứng đạo ca: Đại sư Vĩnh Gia Huyền Giác

11- Liễu nguyên ca: Hòa thượng Đằng Đằng

12- Bài ca của Hòa thượng Lãn Toàn Nam Nhạc

13- Thảo am ca: Hòa thượng Thạch Đầu

14- Lạc đạo ca: Hòa thượng Đạo Ngô

15- Nhứt bát ca: Thiền sư Bôi Độ

16- Phù âu ca: Hòa thượng Lạc Phổ

17- Bài ca của Hòa thượng Mục Hộ

18- Ba bài Cổ kính ca: Thiền sư Pháp Đăng

19- Biến tham Tam-muội ca: Long Hội Đạo Tân Đàm Châu

20- Hai bài Ngoạn châu ngâm: Hòa thượng Đan Hà Thiên Nhiên

21- Hoạch Châu Ngâm: Trưởng lão Quan Nam

22- Hai bài Lệ giác ngâm và Qui tịch ngâm: Hòa thượng Hương Nghiêm Trí Nhàn

23- Tâm châu ngâm: Hòa thượng Thiều Sơn.

Phụ lục:

1- Thư Dương Ức gởi Lý Duy

2- Quan Thị lang hỏi đáp, luận bàn cùng nhiều người.

3- Cảnh Đức Truyền Đăng Lục hậu tự: Quan Tả Triều Phụng Đại Phu Sung Hữu Văn Điện Tu Soạn Quyền Phát Khiển Thai Châu Quân Châu Sự Lưu Bùi soạn.

 

 

 

 

 

 

BÀI MINH TÂM VƯƠNG

(Phó Đại Sĩ)

Nguyên văn:

觀心空王 玄妙難測 無形無相 有大神力 能滅千災 成就萬德 體性雖空 能施法則 觀之無形 呼之有聲 爲大法將 心戒傳經  水中鹽味 色裏膠清 決定是有 不見其形 心王亦爾 身内居停 面門出入 應物隨情 自在無礙 所作皆成 了本識心 識心見佛 是心是佛 是佛是心 念念佛心 佛心念佛 欲得早成 戒心自律 淨律淨心 心卽是佛 除此心王 更無別佛 欲求成佛 莫染一物 心性雖空 貪嗔體實 入此法門 端坐成佛 到彼岸已 得波羅密 慕道眞士 自觀自心 知佛在内 不向外尋 卽心卽佛 卽佛卽心 心明識佛 曉了識心 離心非佛 離佛非心 非佛莫測 無所堪任 執空滯寂 於此漂沈 諸佛菩薩 非此安心 明心灵士 悟此玄音 身心性妙 用無更改 是故智者 放心自在 莫言心王 空無體性 能使色身 作邪作正 非有非無 隱顯不定 心性離空 能凡能聖 是故相勸 好自防愼 剎那造作 還復漂沈 清淨心智 如世萬金 船苦法藏 並在身心 無爲法寶 非淺非深 諸佛菩薩 了此本心 有緣遇者 非去來今.

Phiên âm:

Quán tâm không vương Huyền diệu nan trắc Vô hình vô tướng Hữu đại thần lực    Năng diệt thiên tai Thành tựu vạn đức Thể tánh tuy không Năng thi pháp tắc Quán chi vô hình Hô chi hữu thanh Vi đại pháp tướng Tâm giới truyền kinh Thủy trung diêm vị Sắc lý giao thanh Quyết định thị hữu Bất kiến kỳ hình Tâm vương diệc nhĩ Thân nội cư đình Diện môn xuất nhập Ứng vật tùy tình Tự tại vô ngại Sở tác giai thành Liễu bổn thức tâm Thức tâm kiến Phật Thị tâm thị Phật Thị Phật thị tâm Niệm niệm Phật tâm Phật tâm niệm Phật Dục đắc tảo thành Giới tâm tự luật Tịnh luật tịnh tâm Tâm tức thị Phật Trừ thử tâm vương Cánh vô biệt Phật Dục cầu thành Phật Mạc nhiễm nhất vật Tâm tánh tuy không Tham sân thể thật Nhập thử pháp môn Đoan tọa thành Phật Đáo bỉ ngạn dĩ Đắc Ba-la-mật Mộ đạo chân sĩ Tự quán tự tâm Tri Phật tại nội Bất hướng ngoại tầm Tức tâm tức Phật Tức Phật tức tâm Tâm minh thức Phật Hiểu liễu thức tâm Ly tâm phi Phật Ly Phật phi tâm Phi Phật mạc trắc Vô sở kham nhiệm Chấp không trệ tịch Ư thử phiêu trầm Chư Phật Bồ tát Phi thử an tâm Minh tâm Đại sĩ Ngộ thử huyền âm Thân tâm tánh diệu Dụng vô cánh cải Thị cố trí giả Phóng tâm tự tại Mạc ngôn tâm vương Không vô thể tánh Năng sử sắc thân Tác tà tác chánh Phi hữu phi vô Ấn hiển bất định Tâm tánh ly không Năng phàm năng Thánh Thị cố tương khuyến Hảo tự phòng thận Sát-na tạo tác Hoàn phục phiêu trầm

Thanh tịnh tâm trí Như thế vạn kim Bát nhã pháp tạng Tịnh tại thân tâm Vô vi pháp bảo Phi thiển phi thâm Chư Phật Bồ-tát Liễu thử bổn tâm Hữu duyên ngộ giả Phi khứ lai kim.

Tạm dịch:

Quán tâm không vương

Huyền diệu khó lường

Không hình không tướng

Có đại thần lực

Hay trừ ngàn nạn

Thành tựu muôn đức

Thể tánh tuy không

Thi hành phép tắc

Xem chẳng thấy hình

Gọi lên có tiếng

Làm đại pháp tướng

Tâm giới truyền kinh

Vị muối trong nước

Keo trong nơi màu

Quyết định là có

Chẳng thấy được hình

Tâm vương cũng vậy

Trong thân ở dừng

Trên mặt vào ra

ng vật theo tình

Tự tại vô ngại

Việc làm đều thành

Rõ gốc biết tâm

Biết tâm thấy Phật

Tâm ấy là Phật

Phật ấy là tâm

Niệm niệm tâm Phật

Tâm Phật niệm Phật

Muốn được sớm thành

Răn tâm tự luật

Tịnh luật tịnh tâm

Tâm tức là Phật

Trừ tâm vương đó

Chẳng Phật nào khác

Muốn cầu thành Phật

Chớ nhiễm một vật

Tâm tánh tuy không

Tham sân thể thật

Vào pháp môn đó

Ngồi nghiêm thành Phật

Đến bờ kia rồi

Được Ba-la-mật

Người thật mộ đạo

Tự xét tâm mình

Biết Phật bên trong

Chẳng hướng ngoài tìm

Tâm ấy là Phật

Phật ấy là tâm

Tâm sáng hiểu Phật

Hiểu rõ biết tâm

Rời tâm không Phật

Rời Phật không tâm

Phi Phật khó lường

Chẳng nơi kham nhiệm

Chấp không trệ tịch

Trôi chìm nơi đó

Chư Phật Bồ-tát

Chẳng đó an tâm

Đại sĩ minh tâm

Ngộ nguyên tâm đó

Thân tâm tánh diệu

Dùng chẳng đổi thay

Vì thế người trí

Buông tâm tự tại

Chẳng nói tâm vương

Không vô thể tánh

Hay khiến sắc thân

Làm tà làm chánh

Chẳng có, chẳng không

Ẩn hiện không chừng

Tâm tánh rời không

Hay phàm, hay Thánh

Cho nên khuyên nhau

Nên tự cẩn thận

Phút giây tạo tác

Sẽ lại trôi chìm

Thanh tịnh tâm trí

Như thể vàng ròng

Pháp tạng Bát-nhã

Đều tại thân tâm

Pháp bảo vô vi

Chẳng cạn, chẳng sâu

Chư Phật, Bồ-tát

Rành bổn tâm đó

Kẻ có duyên gặp

Chẳng xưa, nay, tới./.

 

 

 

 

 

BÀI MINH TÍN TÂM

(Tam Tổ Đại Sư Tăng Xán)

Nguyên văn:

至道無難 唯嫌揀擇 但莫憎愛 洞然明白 毫釐有差 天地懸隔 欲得現前 莫存順逆 違順相爭 是爲心病 不識玄旨 今勞念静 圓同太虚 無欠無餘 良由取捨 所以不如 莫逐有緣 勿逐空忍 一種平懷 泯然自蛊 止動歸止 止更彌動 唯滯兩邊 寧知一種 一種不通 兩處失功 遣有没有 從空背空 多言多慮 轉不相應 絕言絕慮 無處不通 歸根得旨 隨照失宗 須臾返照 勝却前空 前空轉變 皆由妄見 不用求眞 唯須息見 二見不住 愼莫追尋 才有是非 纷然失心 二由一有 一亦莫守 —心不生 萬法無咎 無咎無法 不生不心 能隨境滅 境逐能沈 境由能境 能由境能 欲知兩段 元是二竺 一空同兩 齊含萬象 不見精焱 寧有偏黨 大道體寬 無易無難 小見狐疑 轉急轉遲 執之失度 必入邪路 放之自然 體無去住 任性合道 逍遙絕惱 繫念乖眞 昏沈不好 不好勞神 何用疎親 欲取一乖 勿惡六塵 六塵不惡 還同正覺 智者無爲 愚人自缚 法無異法 妄自愛著 將心用心 豈非大錯 迷生寂亂 悟無好惡 一切二邊 良由斟著 夢幻虚華 何勞把捉 得失是非 一時放却 眼若不誰 諸夢自除 心碁不二 萬法一如 一如體玄 兀爾忘緣 萬法#觀 歸復自然 泯其所以 不可方比 止動無動 動止無止 兩旣不成 一何有爾 究竟窮極 不存軌則 契心平等 所作俱息 狐疑盡淨 正信調直 一切不留 無可記憶 虚明自照 不勞心力 非思量處 識情難測 眞如法界 無他無自 要急相應 唯言不二 不二皆同 無不包容 十方智者 皆入此宗 宗非促延 一念萬年 無在不在 十方目前 極小同大 妄絕境界 極大同小 不見邊表 有卽是無 無卽是有 若如不此 卽不須守 一卽一 切 一切卽一 但能如是 何慮不必 信心不二 不二信二 言語道斷 非去來金.

 

 

 

 

Phiên âm:

Chí đạo vô nan Duy hiềm giản trạch Đãn mạc tắng ái Động nhiên minh bạch Hào ly hữu sai Thiên địa huyền cách Dục đắc hiện tiền Mạc tồn thuận nghịch Vi thuận tương tranh Thị vi tâm bệnh Bất thức huyền chỉ Đồ lao niệm tịnh Viên đồng thái hư Vô khiếm vô dư Lương do thủ xả Sở dĩ bất như Mạc trục hữu duyên Vật trục không nhẫn Nhất chủng bình hoài Mẫn nhiên tự tận Chỉ động qui chỉ Chỉ cánh di động Duy trệ lưỡng biên Ninh tri nhất chủng Nhất chủng bất thông Lưỡng xứ thất công Khiển hữu một hữu Tùy không bội không Đa ngôn đa lự Chuyển bất tương ưng Tuyệt ngôn tuyệt lự Vô xứ bất thông Qui căn đắc chỉ Tùy chiếu thất tông Tu du phản chiếu Thắng khước tiền không Tiền không chuyển biến Giai do vọng kiến Bất dụng cầu chân Duy tu tức kiến Nhị kiến bất trụ Thận mạc truy tầm Tài hữu thị phi Phân nhiên thất tâm Nhị do nhất hữu Nhất diệc mạc thủ Nhất tâm bất sanh Vạn pháp vô cữu Vô cữu vô pháp Bất sanh bất tâm Năng tùy cảnh diệt Cảnh trục năng trầm Cảnh do năng cảnh Năng do cảnh năng Dục tri lưỡng đoạn Nguyên thị nhất không Nhất không đồng lưỡng Tề hàm vạn tượng Bất kiến tinh thô Ninh hữu thiên đảng Đại đạo thể khoan Vô dị vô nan Tiểu kiến hồ nghi Chuyển cấp chuyển trì Chấp chi thất độ Tất nhập tà lộ Phóng chi tự nhiên Thể vô khứ trụ Nhiệm tánh hợp đạo Tiêu diêu tuyệt não Hệ niệm quai chân Hôn trầm bất hảo Bất hảo lao thần Hà dụng sơ thân Dục thủ nhất quai Vật ố lục trần Lục trần bất ố Hoàn đồng chánh giác Trí giả vô vi Ngu nhân tự phược Pháp vô dị pháp Vọng tự ái trước Tương tâm dụng tâm Khởi phi đại thác Mê sanh tịch loạn Ngộ vô hảo ác Nhất thiết nhị biên Lương do châm trước Mộng ảo hư hoa Hà lao bả tróc Đắc thất thị phi Nhất thời phóng khước Nhãn nhược bất thùy Chư mộng tự trừ Tâm nhược bất dị Vạn pháp nhất như Nhất như thể huyền Ngột nhĩ vong duyên Vạn pháp tề quán Qui phục tự nhiên Mẫn kỳ sở dĩ Bất khả phương tỉ Chỉ động vô động Động chỉ vô chỉ Lưỡng ký bất thành Nhất hà hữu nhĩ Cứu cánh cùng cực Bất tồn quỹ tắc Khế tâm bình đẳng Sở tác câu tức Hồ nghi tận tịnh Chánh tín điều trực Nhất thiết bất lưu Vô khả ký ức Hư minh tự chiếu Bất lao tâm lực Phi tư lượng xứ Thức tình nan trắc Chân như pháp giới Vô tha vô tự Yếu cấp tương ưng Duy ngôn bất nhị Bất nhị giai đồng Vô bất bao dung Thập phương trí giả Giai nhập thử Tông Tông phi xúc diên Nhất niệm vạn niên Vô tại bất tại Thập phương mục tiền Cực tiểu đồng đại Vọng tuyệt cảnh giới Cực đại đồng tiểu Bất kiến biên biểu Hữu tức thị vô Vô tức thị hữu Nhược bất như thử Tức bất tu thủ Nhất tất nhất thiết Nhất thiết tức nhất Đãn năng như thị Hà lự bất tất Tín tâm bất nhị Bất nhị tín tâm Ngôn ngữ đạo đoạn Phi khứ lai kim.

Tạm dịch:

Chí đạo không khó, chỉ hiềm chọn lựa

Duy chớ ghét thương, tự nhiên sáng rõ

Mảy may sai khác, đất trời cách xa

Muốn được hiện tiền, chớ còn thuận nghịch

Thuận nghịch tranh nhau, chẳng thiếu chẳng dư

Bởi do buông bắt, cho nên chẳng như

Chớ đuổi hữu duyên, chớ trụ không nhẫn

Một loại bình hoài, man nhiên tự dứt

Ngăn động về tịnh, tịnh càng thêm động

Hễ kẹt hai bên, há biết một loại

Một loại không thông, hai nơi thất công

Trừ có kẹt có, theo không trái không

Lời nhiều lo nhiều, lại chẳng tương ưng

Dứt lời dứt lo, chẳng nơi không thông

Về gốc được chỉ, tùy chiếu mất tông

Phản chiếu chốc lát, thẳng cả không kia

Không kia chuyển biến, đều do vọng kiến

Chẳng dụng cầu chân, chi cần ngừng thấy

Hai kiến không trụ, cẩn thận chớ tìm

Vừa có phải trái, tự nhiên mất tâm

Hai do một có, một cũng chẳng giữ

Một tâm không sanh, muôn pháp không lỗi

Không lỗi không pháp, chẳng sanh chẳng tâm

Năng theo cảnh diệt, cảnh đuổi năng chìm

Cảnh do năng cảnh, năng do cảnh năng

Muốn biết hai đoạn, nguyên là một không

Một không giống hai, cùng ngậm vạn tượng

Chẳng thấy tinh thô,  há có nghiêng lệch

Đại đạo thể rộng,  không dễ không khó

Tiểu kiến nghi ngờ, thành mau thành chậm

Chấp thì thất độ, tất vào đường lệch

Buông thả tự nhiên, thể không khứ trụ

Mặc tánh hiệp đạo, tiêu diêu dứt não

Hệ niệm vướng chân, hôn trầm chẳng tốt

Chẳng tốt lao thần, kể chi sơ thân

Muốn chứng một thừa, chớ ghét sáu trần

Sáu trần chằng ghét, kể như chánh giác

Người trí vô vi, kẻ ngu tự trói

Pháp chẳng pháp khác, vọng tự ái trước

Đem tâm dụng tâm, há chẳng lầm to

Mê sanh tịch loạn, ngộ không xấu tốt

Nhứt thiết hai bên, là do châm chước

Mộng ảo không hoa, há nhọc nắm bắt

Được mất phải trái, cùng lúc buông bỏ

Mắt nếu không ngủ, các mộng tự trừ

Tâm không sai khác, muôn pháp nhứt như

Nhứt như thể huyền, trơ trơ quên duyên

Vạn pháp cùng quán, qui phục tự nhiên

Bặt hết lý giải, chẳng thể ví dụ

Dừng động chẳng động, động dừng không dừng

Hai đã không thành, một sao có được?

Rốt ráo cùng cực, chẳng còn quy tắc

Khế tâm bình đẳng, mọi tác đều ngưng

Hồ nghi sạch trơn, chánh tín vững chắc

Tất cả không giữ, chẳng thể nhớ được

Hư sáng tự chiếu, chẳng lao tâm lực

Chẳng chỗ tư lượng, thức tình khó lường

Chân như pháp giới, chẳng người chẳng ta

Cần gấp tương ưng, duy nói không hai

Chẳng hai đều đồng, chẳng không bao dung

Người trí mười phương, đều vào Tông này

Tông chẳng ngắn dài (lâu mau), một niệm ngàn năm

Không tại chẳng tại, quên dứt cảnh giới

Thật lớn đồng nhỏ, chẳng thấy mé lề

Có tức là không, không tức là có

Nếu không như thế, ắt chẳng cần giữ

Một là tất cả, tất cả là một

Nếu được như thế, lo gì không xong

Tín tâm chẳng hai, chẳng hai tín tâm

Ngôn ngữ đạo đoạn, chẳng xưa, nay, sắp./.

 

 

TÂM MINH

(Thiền Sư Pháp Dung, Sơ Tổ Núi Ngưu Đầu)

Nguyên văn:

心性不生 何須知見 本無一法 誰論熏鍊 往咢無苎 追尋不見 一切莫作 明寂自現 前際如空 知處迷宗 分明照境 隨照冥蒙 一心有滞 諸法不通 去來自爾 胡假推窮 生無相生 生照—同 欲得心淨 無心用功 最爲微妙 知法無知 無知知要 將心守淨 猶未離病 生死忘懷 卽是本性 至理無詮 非解非缠 靈通應物 常在目前 目前無物 無物宛然 不勞智鑒 體自虚玄 念起念滅 前後無別 後念不生 前念自絕 三世無物 無心無佛 衆生無心 依無心出 分別凡聖 煩惱轉盛 計校乖常 求眞背正 雙泯對治 湛然明淨 不須功巧 守婴兒行 惺惺了知 見網轉彌 寂寂無見 暗室不移 惺惺無妄 寂寂明亮 萬象常瓦 森羅一相 去來坐立 一切莫執 決定無方 誰爲出入 無合無散 不遲不疾 明寂自然 不可言及 心無異心 不斷脊淫 性空自離 任運浮沈 非清非濁 非淺非深 本來非古 見在非今 見在無住 見在本心 本來不存 本來卽今 菩提本有 不須用守 煩惱本無 不須用除 靈知自照 萬法歸如 無歸無受 絕觀妄守 四德不生 三身本有 六根對境 分別非識 一心無妄 萬緣調直 心性本齊 同居不七 無生順物 隨處幽棲 覺由不覺 卽覺無女 得失兩邊 誰論好惡 一切有爲 本無造作 知心不心 無病無藥 迷時捨事 悟罷非異 本無可取 今何用棄 謂有魔興 言空象備 莫滅凡情 唯教卽意 意無心焱 心無行絕 不用證空 自然明徹 滅盡生死 冥心入理 開目見相 心隨垅起 心處無境 境處無心 將心滅境 彼此由侵 心寂境如 不遣不拘 境随心滅 ^随境無 兩處不生 寂静虚明 菩提影現 心水舍清 德性如愚 不立親疎 窺辱不變 不擇所居 諸緣頓息 一切不憶 永曰如夜 永夜如曰 外似頑嚚 内心虚直 對境不動 有力大人 無人無見 無見常現 通達一切 未嘗不徧 思惟轉昏 汨亂精魂 將心止動 轉止轉奔 萬法無所 唯有一門 不入不出 非静非喧 聲聞緣覺 智不能論 實無二物 妙智獨存 本際虚沖 非心所窮 正覺無覺 眞空不空 三世諸佛 皆乘此宗 此宗毫末 沙界含容 一切莫顧 安心無處 無專安心 虚明自露 放曠縱橫 所作無滯 法住皆平 慧曰寂寂 定光明明 照無相菀 朗湼槃城 諸緣忘畢 詮神定質 不起法座 安眠虚室 樂道恬然 優遊眞實 無爲無得 依無自出 四等六度 同一乘路 心若不生 法無差互 知生無生 現前常住 智者方知 非言詮悟.

Phiên âm:

Tâm tánh bất sanh Hà tu tri kiến Bổn vô nhất pháp Thùy luận huân luyện Vãng phản vô đoan Truy tầm bất kiến Nhất thiết mạc tác Minh tịch tự hiện Tiền tế như không Tri xứ mê Tông Phân minh chiếu cảnh Tùy chiếu minh mông Nhất tâm hữu trệ Chư pháp bất thông Khứ lai tự nhĩ Hồ giả suy cùng Sanh vô sanh tướng Sanh chiếu nhất đồng Dục đắc tâm tịnh Vô tâm dụng công Tối vi vi diệu Tri pháp vô tri Vô tri tri yếu Tương tâm thủ tịnh Do vị ly bệnh Sanh tử vong hoài Tức thị bổn tánh Chí lý vô thuyên Phi giải phi triền Linh thông ứng vật Thường tại mục tiền Mục tiền vô vật Vô vật uyển nhiên Bất lao trí giám Thể tự hư huyền Niệm khởi niệm diệt Tiền hậu vô biệt Hậu niệm bất sanh Tiền niệm tự tuyệt Tam thế vô vật Vô tâm vô Phật Chúng sanh vô tâm Y vô tâm xuất Phân biệt phàm Thánh Phiền não chuyển thịnh Kế giáo quai thường Cầu chân bội chánh Song mẫn đối trị Trạm nhiên minh tịnh Bất tu công xảo Thủ anh nhi hành Tỉnh tỉnh liễu tri Kiến võng chuyển di Tịch tịch vô kiến Ám thất bất di Tỉnh tỉnh vô vọng Tịch tịch minh lượng Vạn tượng thường chân Sum la nhất tướng Khứ lai tọa lập Nhất thiết mạc chấp Quyết định vô phương Thùy vi xuất nhập Vô hợp vô tán Bất trì bất tật Minh tịch tự nhiên Bất khả ngôn cập Tâm vô dị tâm Bất đoạn tham dâm Tánh không tự ly Nhiệm vận phù trầm Phi thanh phi trọc Phi thiển phi thâm Bổn lai phi cổ Kiến tại phi kim Kiến tại vô trụ Kiến tại bổn tâm Bổn lai bất tồn Bổn lai tóc kim Bồ-đề bổn hữu Bất tu dụng thủ Phiền não bổn vô Bất tu dụng trừ Linh tri tự chiếu Vạn pháp qui như Vô qui vô thụ Tuyệt quán vọng thủ Tứ đức bất sanh Tam thân bổn hữu Lục căn đối cảnh Phân biệt phi thức Nhất tâm vô vọng Vạn duyên điều trực Tâm tánh bổn tề Đồng cư bất huề Vô sanh thuận vật Tùy xứ u thê Giác do bất giác Tức giác vô giác Đắc thất lưỡng biên Thùy luận hảo ác Nhất thiết hữu vi Bổn vô tạo tác Tri tâm bất tâm Vô bệnh vô dược Mê thời xả sự Ngộ bãi phi dị Bổn vô khả thủ Kim hà dụng khí Vị hữu ma hưng Ngôn không tượng bị Mạc diệt phàm tình Duy giáo túc ý Ý vô tâm diệt Tâm vô hành tuyệt Bất dụng chứng không Tự nhiên minh triệt Diệt tận sanh tử Minh tâm nhập lý Khai mục kiến tướng Tâm tùy cảnh khởi Tâm xứ vô cảnh Cảnh xứ vô tâm Tương tâm diệt cảnh Bỉ thử do xâm Tâm tịch cảnh như Bất khiển bất câu Cảnh tùy tâm diệt Tâm tùy cảnh vô Lưỡng xứ bất sanh Tịch tịnh hư minh Bồ-đề ảnh hiện Đức tánh như ngu Bất lập thân sơ Sủng nhục bất biến Bất trạch sở cư Chư duyên đốn tức Nhất thiết bất ức Vĩnh nhật như dạ Vĩnh dạ như nhật Ngoại tự ngoan ngân Nội tâm hư trực Đối cảnh bất động Hữu lực đại nhân Vô nhân vô kiến Vô kiến thường hiện Thông đạt nhất thiết Vị thường bất biến Tư duy chuyển hôn Mịch loạn tinh hồn Tương tâm chỉ động Chuyển chỉ chuyển bôn Vạn pháp vô sở Duy hữu nhất môn Bất nhập bất xuất Phi tịnh phi huyên Thanh văn Duyên giác Trí bất năng luận Thật vô nhất vật Diệu trí độc tồn Bổn tế hư xung Phi tâm sở cùng Chánh giác vô giác Chân không bất không Tam thế chư Phật Giai thừa thử Tông Thử Tông hào mạt Sa giới hàm dung Nhất thiết mạc cố An tâm vô xứ Vô xứ an tâm Hư minh tự lộ Tịch tịnh bất sanh Sở tác vô trệ Pháp trụ giai bình Tuệ nhật tịch tịch Định quanh minh minh Chiếu vô tướng uyển Lãng Niết-bàn thành Chư duyên vong tất Thuyên thần định chất Bất khởi pháp tòa An miên hư thất Lạc đạo điềm nhiên Ưu du chân thật Vô vi vô đắc Y vô tự xuất Tứ đẳng lục độ Đồng nhất thừa lộ Tâm nhược bất sanh Pháp vô sai hỗ Tri sanh vô sanh Hiện tiền thường trụ Trí giả phương tri Phi ngôn thuyên ngộ.

Tạm dịch:

Tâm tánh chẳng sanh

Cần chi thấy biết

Vốn không một pháp

Ai luận đúc rèn

Tìm tòi không thấy

Nhứt thiết chẳng làm

Sáng mờ tự hiện

Mé trước như không

Chỗ biết mê Tông

Rõ ràng chiếu cảnh

Theo chiếu tối mờ

Một tâm có trệ

Các pháp không thông

Tới lui tự nhiên

Cần chi suy cùng

Sanh không tướng sanh

Sanh chiếu một đồng

Muốn được tâm tịnh

Ngang dọc không chiếu

Rất là vi diệu

Tri pháp vô tri

Vô tri tri yếu

Đem tâm thủ tịnh

Do chưa khỏi bịnh

Sanh tử quên hết

Tức là bản tánh

Chí lý vô thuyên

Không mở không trói

Linh thông ứng vật

Thường tại trước mắt

Trước mắt không vật

Không vật rõ ràng

Chẳng lao trí giám

Thể tự hư huyền

Niệm dậy niệm diệt

Trước sau không khác

Niệm sau không sanh

Niệm trước tự dứt

Ba đời không vật

Không tâm không Phật

Chúng sanh không tâm

Nương không tâm xuất

Phân biệt phàm Thánh

Phiền não thêm nhiều

Tính toán khác thường

Cầu chân bội chánh

Song mẫn đối trị

Trạm nhiên sạch làu

Chẳng cần công khéo

Giữ hạnh trẻ con

Tỉnh tỉnh liễu tri

Thấy lưới chuyển di

Tịch tịch không thấy

Phòng tối chẳng dời

Tinh tinh chẳng vọng

Tịch tịch sáng trưng

Vạn tượng thường chân

Sum la một tướng

Tới lui ngồi đứng

Tất cả chớ chấp

Quyết định vô phương

Ai là vào ra ?

Không hiệp không tan

Không chậm không mau

Sáng mờ tự nhiên

Chẳng thể nói kịp

Tâm chẳng tâm khác

Chẳng dứt tham dâm

Tánh không tự rời

Mặc cho nỗi chìm

Không trong không đục

Không cạn không sâu

Vốn trước không xưa

Giờ cũng không nay

Thấy nơi không trụ

Thấy tại bản tâm

Xưa nay chẳng còn

Xưa giờ tức nay

Bồ-đề vốn có

Chẳng cần phải giữ

Phiền não vốn không

Chẳng cần phải trừ

Linh tri tự chiếu

Vạn pháp về như

Chẳng về chẳng nhận

Dứt quán quên thủ

Bốn đức chẳng sanh

Sáu căn đối cảnh

Phân biệt chẳng thức

Một tâm không vọng

Vạn duyên điều trực

Tâm tánh vốn bằng

Cùng ở chẳng dắt

Vô sanh thuận vật

Tùy nơi dừng ở

Giác như chẳng giác

Ấy giác vô giác

Được mất hai bên

Nhứt thiết hữu vi

Vốn không tạo tác

Biết tâm chẳng tâm

Chẳng bệnh chẳng thuốc

Lúc mê bỏ việc

Ngộ rồi chẳng khác

Vốn không thể giữ

Nay há dùng bỏ ?

Cho có ma hưng

Ngôn không tượng bị

Chớ diệt phàm tình

Chỉ dạy dừng ý

Ý chẳng tâm diệt

Tâm chẳng hành dứt

Chẳng cần chứng không

Tự nhiên minh triệt

Diệt trọn sanh tử

Tâm mờ nhập lý

Mở mắt thấy tướng

Tâm tuy cảnh khởi

Tâm xứ không cảnh

Cảnh xứ không tâm

Đem tâm diệt cảnh

Đây đó chạm nhau

Tâm tịch cảnh như

Chẳng khiến chẳng câu

Cảnh tùy tâm diệt

Tâm tùy cảnh không

Hai nơi không sanh

Tịch tịnh hư minh

Bồ-đề ảnh hiện

Nước tâm thường trong

Đức tánh như khờ

Chẳng kể thân sơ

Sủng nhục chẳng đổi

Không chọn chỗ ở

Chư duyên bỗng dừng

Tất cả đều quên

Ngày ngày như đêm

Đêm đêm như ngày

Ngoài tự ngu khờ

Trong tâm hư chân

Đối cảnh chẳng động

Đại nhân có sức

Không thấy thường hiện

Thông đạt tất cả

Chưa từng chẳng khắp

Tư duy thành tối

Chìm loạn tinh hồn

Đem tâm dừng động

Chuyển dừng thành chạy

Muôn pháp không chỗ

Chỉ có một cửa

Không vào không ra

Chẳng im chẳng ồn

Thanh văn duyên giác

Trí chẳng thể bàn

Thật không một vật

Diệu trí riêng còn

Bổn tế trống rỗng

Chẳng phải tâm cùng

Chánh giác chẳng giác

Chân không chẳng không

Ba đời chư Phật

Đều nối Tông này

Mảy may Tông này

Ngậm trọn diệu giới

Tất cả chẳng đoái

An tâm không chỗ

Không chỗ an tâm

Hư minh tự lộ

Tịch tịnh không sanh

Phóng khoáng dọc ngang

Việc làm không kẹt

Tới dừng bằng phẳng

Ngày tuệ lẳng lặng

Định quang rờ rỡ

Chiếu vườn Vô tướng

Lãng thành Niết-bàn

Các duyên quên rồi

Thuyên thần định chất

Chẳng lên tòa pháp

Ngủ yên nhà trống

Vui đạo mừng rỡ

Thong thả chân thật

Chẳng làm chẳng đắc

Nương không tự ra

Bốn đẳng sáu độ

Cùng lộ một thừa

Tâm nếu chẳng sanh

Pháp chẳng sai trật

Biết sanh không sanh

Thường trụ trước mặt

Người trí mới biết

Thuyên ngộ chẳng lời./.

 

 

BÀI MINH DỪNG TÂM

(Tăng không tên)

Nguyên văn:

法界有如意寶 人焉久缄其身,銘其膺曰: 古之攝心人也 戒之哉戒之哉

無多事 無多知 多知多事 不如息意 多慮多失 不如守一 慮多志散 知多心亂 心亂生惱 志散妨道 勿謂何傷 其苦攸長 勿言何畏 其禍鼎沸 滴水不停 四海將盈 殲塵不拂 五敫將成 防在末本 雖小不輕 關爾七寂 閉爾六情 莫现於色 莫聽於聲 聞綦者聲 見色者盲 一文一藝 空中小蚋 一伎一能 日下孤燈 英賢才藝 是爲愚蔽 捨棄淳朴 耽溺淫麗 識馬易奔 心猿難制 神旣勞役 形必損斃 邪行終迷 修途永泥 莫貴才能 日益昏瞢 誇拙羨巧 其琴不弘 名厚行薄 其高速崩 内懷僑伐 外致怨憎 或談於口 或書於手 邀人令譽 亦孔之醜 凡謂之吉 聖謂之咎 賞觀踅時 悲哀長久 畏影畏跡 逾遠逾極 端坐樹陰 巧滅影沈 厭生患老 随思随造 心想若滅 生死長絕 不死不生 無相無名 一道虚寂 萬物齊平 何貴何賤 何辱何榮 何勝何劣 何重何輕 澄天愧淨 皎日慙明 安夫你嶺 同彼金城 敬貽賢哲 斯道利貞

Phiên âm:

Pháp giới hữu như ý bảo Nhân diên cửu giam kỳ thân, minh kỳ ưng viết: Cổ chi nhiếp tâm nhân dã Giới chi tai!

Vô đa lự Vô đa tri Đa tri đa sự Bất như tức ý Đa lự đa thất Bất như thủ nhất Lự đa chí tán Tri đa tâm loạn Tâm loạn sanh não Chí tán phương đạo Vật vị hà thương Kỳ khổ du trường Vật ngôn hà úy Kỳ họa đỉnh phí Trích thủy bất đình Tứ hải tương doanh Tiêm trần bất phất Ngũ Nhạc tương thành Phòng mạt tại bổn Tuy tiểu bất khinh Quan nhĩ thất khiếu Bế nhĩ lục tình Mạc hiện ư sắc Mạc thính ư thanh Văn thanh giả lung Kiến sắc giả manh Nhất văn nhất nghệ Không trung tiểu nhuế Nhất kỹ nhất năng Nhật hạ cô đăng Anh hiền tài nghệ Thị vi ngu tê Xả khí thuần phác Đam nịch dâm lệ Thức mã dị bôn Tâm viên nan chế Thần ký lao dịch Hình tất tổn tệ Tà hạnh chung mê Tu đồ vĩnh nê Mạc quí tài năng Nhật ích hôn măng Khoa chuyết tiện xảo Kỳ đức bất hoằng Danh hậu hạnh bạc Kỳ cao tốc băng Nội hoài kiêu phạt Ngoại trí oán táng Hoặc đàm ư khẩu Hoặc thư ư thủ

Yêu nhân linh dự Diệc Khổng chi xú Phàm vị chi cát Thánh vị chi cữu Thưởng ngoạn tạm thời Bi ai trường cữu Úy ảnh úy tích Du viễn du cực Đoan tọa thụ âm Tích diệt ảnh trầm Yếm sanh hoạn lão Tùy tư tùy tạo Tâm tưởng nhược diệt Sanh tử trường tuyệt Bất tử bất sanh Vô tướng vô danh Nhất đạo hư tịch Vạn vật tề bình Hà quý hà tiện Hà nhục hà vinh Hà thắng hà liệt Hà trọng hà khinh

An phù Đại lĩnh Đồng bỉ kim thành Kính di hiền triết Tư đạo lợi trinh.

Tạm dịch:

Pháp giới có báu như ý

Người sao có thể giấu lâu nơi thân mình, ghi vào ngực rằng:

Bậc nhiếp thân hồi xưa

Giới rằng!

Giới rằng!

Chẳng lo lắm

Chẳng biết nhiều

Biết nhiều lắm chuyện

Chi bằng dừng ý

Lo lắm mất nhiều

Chẳng bằng giữ một

Lo nhiều chí tan

Biết nhiều tâm loạn

Tâm loạn sanh não

Chí tan hại đạo

Chớ nói nhằm gì

Khổ ấy dài lâu

Chớ nói sợ chỉ

Họa ấy phừng phừng

Giọt nước chẳng dừng

Bốn biển đầy khắp

Mảy bụi chẳng ngưng

Ngũ Nhạc thành hình

Phòng ngọn tại gốc

Tuy nhỏ chẳng nhẹ

Đóng lại thất khiếu

Lấp đi lục tình

Đừng thấy nơi sắc

Đừng nghe nơi thanh

Người nghe tiếng điếc

Người nhìn sắc mù

Một văn một nghệ

Ve con trong không

Một tài một giỏi

Đèn côi dưới trời

Anh hiền tài nghệ

Là bị ngu che

Buông bỏ thuần phác

Đắm chìm dâm đẹp

Ngựa thức dễ vọt

Vượn tâm khó kềm

Thần đã lao dịch

Hình tấc tổn hại

Đi lệch rốt mê

Đường tu mãi bùn

Chớ quý tài năng

Ngày càng mê muội

Khoe khoang tài khéo

Đạo đức chẳng rộng

Danh to hạnh mỏng

Cao đó sớm đổ

Trong mang kiêu mạn

Ngoài dẫn oán ghét

Hoặc nói cửa miệng

Hoặc viết bằng tay

Khiến người khen mình

Là điều Nho ghét

Phàm cho là tốt

Thánh gọi là xấu

Thưởng ngoạn chốc lát

Bi ai lâu dài

Sợ hình sợ dấu

Càng lúc càng tăng

Ngồi nghiêm bóng cây

Dấu phai hình mất

Ghét sanh lo già

Tùy tư tùy tạo

Tâm tưởng nếu tắt

Sanh tử mãi dứt

Không chết không sanh

Không tướng không tên

Một đạo hư tịch

Muôn vật đều bằng

Nào quý nào tiện

Nào nhục nào vinh

Nào hơn nào thua

Nào nặng nào nhẹ

Trời trong thẹn tịnh

Trời rõ tạm sáng

An thay Đại lĩnh

Giống họ thành vàng

Kính ái hiền triết

Đạo ấy lợi trinh./.

 

 

BIỆN BIỆT SƠ LƯỢC “TỨ HÀNH NHẬP ĐẠO ĐẠI THỪA”

Của BỒ ĐỀ ĐẠT MA - Đệ tử Đàm Bân viết tựa

 

Pháp sư là con thứ ba của Quốc vương đại Bà-la-môn nước Nam Thiên Trúc Tây Vực. Sư thần tuệ sơ lãng, nghe là hiểu liền. Chí lưu tồn đạo lớn, cho nên bỏ tục theo Tăng để thiệu long mầm giống Thánh. Minh tâm hư tịch, thông giám sự đời, trong ngoài đều sáng tỏ. Đức vượt thế biểu, lòng từ bi thương xót bốn biên cương chính giáo suy đồi, nên xa xôi lặn lội núi biền, du hóa vùng Hán Ngụy. Những kẻ sĩ quên tâm đều qui phục tin tưởng, còn kẻ kiến chấp sanh lòng chê bai. Lúc bấy giờ, chỉ có hai vị Sa-môn là Đạo Dục và Huệ Khả, tuổi tuy sanh sau, nhưng chí khí cao xa, may mắn gặp được Pháp sư, phụng sự trong mấy năm, kiền thành rất mực, khéo vừa ý Sư. Pháp sư cảm lòng tinh thành hai người, dạy cho chân đạo, khiến được an tâm như thế, phát hành như thế, thuận vật như thế, phương tiện như thế. Đó là pháp an tâm của Đại thừa, khiến không sai lầm. An tâm như thế là nhìn vách. Pháp hành như thế là tứ hành. Thuận vật như thế là đề phòng chê bai, hiềm khích. Phương tiện như thế là khiến không chấp trước. Đây là nêu sơ lược nguyên do có bài tựa này ! Vào đạo có nhiều đường lối, chủ yếu mà nói, không ngoài hai cách. Một là lý nhập, hai là hành nhập.

Lý nhập là lịch giáo hộ tông, tin sâu hàm sanh đều cùng chân tánh, nhưng do bị vọng tưởng khách trần che phủ, cho nên không thể hiển lộ. Nếu như bỏ vọng quay về chân ngồi im ngưng thần nhìn vách, không mình, không người, phàm Thánh bằng nhau, kiên trụ không dời, lại cũng không theo văn giáo. Đó tức cùng với lý ngầm phù hợp, chẳng có chi phân biệt, rỗng rang vô vi, gọi là lý nhập.

Còn hành nhập chính thức gồm tứ hành. Còn các hành khác đều nhập vào bốn hành này. Thế nào là bốn ?

- Một là báo oán hành, hai là tùy duyên hành, ba là vô sở cầu hành, bốn là xứng pháp hành. Thế nào là báo oán hành ? Ấy là người tu đạo hành pháp mà nếu lại bị khổ sở thì nên tự nghĩ rằng: ‘Ta từ vô số kiếp xưa, bỏ gốc theo ngọn, trôi nổi trong chư hữu, khởi lắm oán ghét, làm sai trái hư hại rất nhiều. Nay tuy không phạm lỗi, nhưng đó là tai họa từ đời trước. Nghiệp ác đã muồi, người, trời chẳng thể đỡ cho. Vậy phải nên nhẫn chịu, chẳng lời than trách’. Kinh nói: ‘Gặp khổ không lo’ là tại sao vậy ? Ấy là người thức đạt vậy. Tâm này sanh ra cùng lý tương ưng. Thể oán tấn đạo, cho nên mới nói hành báo oán.

- Thứ hai là hành tùy duyên. Chúng sinh không ngã, cả duyên nghiệp sở chuyển, khổ vui thọ nhận bằng nhau, đều theo duyên sanh. Nếu được thắng báo vinh dự đủ thứ, ấy là do ta từ kiếp trước có túc nhân sở cảm, nay mới được như thế. Duyên hết rồi thì trở lại không nên có chi mà vui. Được mất tùy duyên, tâm chẳng thêm bớt. Gió vui chẳng động, ngầm thuận với đạo, cho nên mới nói là hạnh tùy duyên.

- Thứ ba là hành chẳng có chi cầu (vô sở cầu hành). Người đời mê dài lâu, nơi nơi tham trước, gọi là cầu. Người trí ngộ chân, lý khác với tục. An tâm vô vi, hình theo vận chuyển. Vạn vật đều không, chẳng có chi nguyện vui. Công đức đen tối, thường theo rượt đuổi. Ba giới ở lâu, như là nhà lửa. Có thân đều khổ, ai người được an ? Liễu đạt chỗ ấy, nên bỏ chư hữu. Ngừng tưởng không cầu. Kinh nói: ‘Có cầu đều khổ, không cầu mới vui’. Biết được vô cầu, ấy chính là đạo hành. Cho nên mới gọi là hành chẳng có chi cầu.

- Bốn là pháp hành. Lý tánh tịch tịnh, nhìn thấy gọi là pháp. Lý ấy, các tướng đều không. Chẳng nhiễm, chẳng trước, chẳng này, chăng kia. Kinh nói: ‘Pháp chẳng chúng sanh, do đó rời chúng sanh dơ bẩn’. Pháp chẳng có ta, vì thế rời ta dơ. Người trí nếu hay tin được lý ấy, thì nên xứng pháp mà hành. Pháp thể không xan lận. Đối thân tiền tài, lập đàn xả thí. Tâm không tiếc sẻn, đạt được nhị không. Không nương không trước, mà chỉ trừ dơ, gọi hóa chúng sanh, mà không thủ tướng. Đó gọi tự hành. Lại khá lợi người, lại có thể trang nghiêm đạo Bồ-đề. Đàn thí đã xong, từ năm trở đi cũng vậy. Để trừ vọng tưởng tu hành lục độ, mà chẳng có chi hành, gọi là pháp hành.

CHÚ GIẢI:

1. Khách trần: Skt là Akasmàt-klésa, cũng còn gọi là khách trần phiền não, tức là nghĩa của phiền não. Đây là nghĩa đối lại của tự tánh thanh tịnh. Cái gọi là phiền não vốn không do tám tánh có, mà nhân mê lý khởi lên, cho nên gọi là khách. Lại nhân phiền não có thể làm ô nhiêm tâm tánh chúng ta, giống như trần ai (bụi bặm) làm dơ vạn vật nên gọi là trần. Đứng về mặt chân lý Phật giáo mà nói, nhân tánh vốn thanh tịnh không ô nhiễm, không có trần cấu, nhưng do hiện tượng bên ngoài che chụp, đưa đến đối cảnh sinh mê, khiến tâm sanh phiền não. Quyển thứ năm kinh Duy-ma chép: ‘Tâm gặp ngoại duyên, phiền não dậy lên, cho nên gọi là khách trần’

2. Ngưng trụ bích quán:

Ngưng trụ nhìn vách. Trước hết là bích định. Nhìn vách tịnh quán, cho nên còn gọi là bích định, hay định như vách. Ác giác như gió, vách định kiên cố thì tám thứ gió độc không thể xâm hại được. Quyển 5, thượng Ma-ha Chỉ Quán chép: ‘Chỉ có định như vách thì tám gió ác giác không thể nhập vào được’.

Bích quán có hai nghĩa:

1- Chỉ nhìn vách tịnh quán. Đời Lương Bồ-đề Đạt-ma tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn nhìn vách chín năm, người đời gọi là ông Bà-la-môn nhìn vách. Theo quyển 3 sách Cảnh Đức Truyền Đăng Lục thì khi Bồ-đề Đạt-ma đến Kiến Nghiệp, lời lẽ cùng Lương Võ Đế không khế hợp, bèn vượt sông đến nước Ngụy ở tại núi Thiếu Thất Tung Nhạc nơi chùa Thiếu Lâm ngồi xây mặt vào vách, suốt ngày tịch lặng, người đương thời không biết gọi là ông Bà-la-môn nhìn vách, ông tăng Ấn Độ nhìn vách.       

2- Nhất ý Thiền quán tâm như tường vách, tịch tịnh bất động, tất cả vọng tường đều không thể xâm nhập, tức chỉ sơ Tổ Thiền tông là Bồ-đề Đạt-ma truyền pháp đặc điểm tâm như tường vách. Đạt-ma chủ trương ai ai cũng có Phật tánh, nhưng nhận thức sai lạc, lấy giả làm chân. Vậy muốn đạt đến chân lý thì phải tu Thiền. Theo Thiếu Thất Lục Môn chép thì tu Thiền là: ‘Ngưng trụ nhìn vách, không mình không người, phàm Thánh như nhau, trụ vững không dời đổi, lại không theo văn chương giáo nghĩa, đó tức cùng với chân lý ngầm phù hợp, có chi phân biệt, tịch nhiên vô vi’. Cái gọi là ‘Cùng với chân lý ngầm phù hợp’ có nghĩa là cùng với Phật tánh của tự thân khế hợp. Ngưng trụ bích quán là để đạt đến mục đích của phương pháp tu Thiền, ngoại ngừng các duyên, nội tâm kiên cố như tường vách.

 

 

HIỂN TÔNG KÝ

(ĐẠI SƯ HÀ TRẠCH THẦN HỘI)

Nguyên văn:

無念爲宗 無作爲本 眞空爲體 妙有爲用 夫 眞如無念 非想念而能知 實相無生 豈色心而能見 無念念者 卽念眞如 無生生者 卽生實相 無住而住 常住涅槃 無行而行 卽超彼岸 如如不動 動用無窮 念念無求 求本無念 菩提無得 淨五眼而了三身 船苦無知 運六通而弘四智

是知

卽定無定

卽慧無慧 卽行無行

性等虚空 體同法界

六度自兹圓滿 道品於是無虧

是知

我法體空 女無雙民 心本無作 道常無念 無念無思 無求無得 不彼不此 不去不來 體悟三明 心通八解 功成十力 富有七珍 入不二門 獲一乘理 妙中之妙 卽妙法身 天中之天 乃金剛慧

湛然常寂 應用無方 用而常空 空而常用 用而不有 卽是眞空 空而不無 便成妙有 妙有卽 摩訶船苦 眞空卽清淨淫槃 船苦是涅槃之因 涅槃是船苦之果 船苦空見 能見涅槃 涅槃無生 能生船苦 涅槃船苦 名異體同 隨義立名

故云

法無定相 涅槃能生船苦

卽名

眞佛法身 船苦能見涅槃 故號如來知見 知卽知心空寂 見卽見性無生 知見分明 不一不異

故能

動寂常妙 理事皆空

如卽

處處能通 達卽 理事無礙 六根不染 卽定慧之功 六識不生 卽如如之力

心如境謝 境滅心空 心境雙亡 體用不異 眞如性淨 慧鑒無窮 如水分千月 能見聞覺知 見聞覺知      而常空寂  空相卽無相 寂卽無生      不被善惡所拘 不被静亂所攝 不厭生死 不樂涅槃 無不能無 有不能有 行住坐臥 心不動搖 一切時中 獲無所得 三世諸佛 敎旨如斯 卽菩薩慈悲 遞相傳受 自世尊滅後 西天二十八祖 共傳無住之心 同說如來知見

至於達磨 屆此爲初 遞代相承 於今不絕 所傳秘敎 要藉得人 如王髻珠 終不妄與 福德智慧 二種莊嚴 行解相應 方能建立 衣爲法信 法是衣宗 唯指衣法相傳 更無別法 内傳心印 印契本心 外傳袈裟 將表宗旨 非衣不傳於法 非法不受於衣 衣是法性之衣 法是無生之法 無生卽無虚妄 乃是心空寂之心

知空寂而了法身 了法身而眞解脫

Phiên âm:

Vô niệm vi Tông, vô tác vi bổn, Chân không vi thể, Diệu hữu vi dụng.

Phù ! Chân như vô niệm, phi tưởng niệm nhi năng, tri thật tướng vô sanh, khởi sắc tâm nhi năng kiến. Vô niệm niệm giả, tức niệm chân như. Vô sanh sanh giả, tức sanh thật tướng. Vô trụ nhi trụ, thường trụ Niết-bàn. Vô hành nhi hành, tức siêu bỉ ngạn. Như như bất động, động dụng vô cùng. Niệm niệm vô cầu, cầu bổn vô niệm. Bồ-đề vô đắc, tịnh ngũ nhãn nhi liễu tam thân, Bát nhã vô tri, Vận lục thông nhi hoằng tứ trí.

Thị tri: Tức định vô định, tức tuệ vô tuệ, tức hạnh vô hạnh, tánh đẳng hư không, thể đồng pháp giới. Lục độ tự tư viên mãn, đạo phẩm ư thị vô khuy.

Thị tri: Ngã pháp thể không, hữu vô song mẫn, tâm bổn vô tác, vô cầu vô đắc. Bất bỉ bất thử, bất khứ bất lai, thể ngộ tam minh, tâm thông bát giải, công thành thập lực, phú hữu thất trân. Nhập bất nhị môn, hoạch nhất thừa lý, diệu trung chi diệu, tức diệu pháp thân. Thiên trung chi thiên, nãi kim cương tuệ, trạm nhiên thường tịch ứng dụng vô phương. Dụng nhi thường không, không nhi thường dụng, dụng nhi bất hữu, tức thị chân không. Không nhi bất vô, tiện thành diệu hữu, diệu hữu tức Ma-ha Bát nhã, Chân không tức thanh tịnh Niết-bàn.      Bát-nhã thị Niết-bàn chi nhân, Niết-bàn thị Bát-nhã chi quả, Bát nhã không kiến, năng kiến Niết-bàn, Niết-bàn vô sanh, năng sanh Bát nhã, Niết-bàn Bát nhã danh dị thể đồng, tùy nghĩa lập danh.

Cố vân: Pháp vô định tướng, Niết-bàn năng sanh Bát nhã, tức danh chân Phật pháp thân. Bát-nhã năng kiến Niết-bàn, cố hiệu Như Lai tri kiến. Tri tức tri tâm không tịch, kiến tức kiến tánh vô sanh, tri kiến phân minh, bất nhất bất dị.

Cố năng : Động tịch thường diệu, lý sự giai không, như tức xứ xứ năng thông, đạt tức lý sự vô ngại. Lục căn bất nhiễm, tức định tuệ chi công, lục thức bất sanh, tức như như chi lực.

Tâm như cảnh tạ, cảnh diệt tâm không, tâm cảnh song vong, thể dụng bất dị. Chân như tánh tịnh, tuệ giám vô cùng, như thủy phân thiên nguyệt, năng kiến văn giác tri. Kiến văn giác tri nhi thường không tịch, không tướng tức vô tướng, tịch tức vô sanh.

Bất bị thiện ác sở câu, bất bị tịnh loạn sở nhiếp, bất yếm sanh tử, bất lạc Niết-bàn. Vô bất năng vô, hữu bất năng hữu, hành trụ tọa ngọa, tâm bất động diêu, nhất thiết thời trung, hoạch vô sở đắc.

Tam thế chư Phật Giáo chỉ như tư tức Bồ-tát từ bi đệ tương truyền thụ

Tự Thế Tôn diệt hậu, Tây Thiên nhị thập bát Tổ cộng truyền vô trụ chi tâm, đồng thuyết Như Lai tri kiến. Chí ư Đạt Ma giới thử vi sơ, đệ đại tương thừa, ư kim bất tuyệt. Sở truyền bí giáo, yếu tịch đắc nhân, như Vương kế châu, chung bất vọng dữ, phước đức trí tuệ, nhị chủng trang nghiêm, hành giải tương ưng, phương năng kiến lập. Y vi pháp tín, Pháp thị y Tông, duy chỉ y pháp tương truyền, cánh vô biệt pháp, nội truyền tâm ấn, ấn khế bổn tâm, ngoại truyền ca-sa tương biểu Tông chỉ.

Phi y bất truyền ư pháp, phi pháp bất thụ ư y, y thị pháp tín chi y, Pháp thị vô sanh chi pháp, Vô sanh tức vô hư vọng, nãi thị không tịch chi tâm.

Tri không tịch nhi liễu pháp thân, liễu pháp thân nhi chân giải thoát.

Tạm dịch:

Chẳng niệm là Tông, chẳng tác là bổn, Chân không là thể, Diệu hữu là dụng.

Nay, Chân như không niệm, chẳng tưởng niệm mà biết. Thật tướng không sanh. Há sắc tâm mà biết được, niệm mà không niệm, tức niệm chân như. Sanh mà chẳng sanh, tức sanh thật tướng. Vô trụ mà trụ, thường trụ Niết-bàn. Vô hành mà hành, tức vượt bờ kia, Như như bất động.

Động dụng vô cùng, niệm niệm chẳng cầu, cầu bổn không niệm. Bồ-đề chẳng đắc, tịnh ngũ nhãn mà liễu tam thân. Bát nhã vô tri, vận sáu thần thông mà hoằng bốn trí. Lại biết, tức định vô định, tức tuệ vô tuệ, tức hạnh vô hạnh, tánh đẳng hư không. Thể đồng pháp giới, lục độ tự đấy đầy tròn. Pháp ta vốn không, có không đều mất. Tâm vốn chẳng tác, chẳng niệm chẳng nghĩ, chẳng cầu chẳng được, chẳng đó chẳng đây, chẳng đến chẳng đi. Thể ngộ ba minh, tâm thông tám giải, công thành thập lực.

Giàu có bảy báu, vào cửa chẳng hai. Hoạch lý nhất thừa, diệu trong các diệu, là diệu Pháp thân, Trời trong các trời là tuệ kim cương. Trạm nhiên thường tịch, ứng dụng vô phương, dụng như thường không, không như thường dụng. Dụng nhưng chẳng hữu, tức là chân không, không mà chẳng vô, liền thành diệu hữu. Diệu hữu tức Ma-ha Bát-nhã, Chân không tức thanh tịnh Niết-bàn, Bát-nhã là nhân của Niết-bàn, Niết-bàn là quả của Bát-nhã.

Bát-nhã vô kiến, năng kiến Niết-bàn. Niết-bàn không sanh, năng sanh Bát-nhã; Niết-bàn Bát-nhã, tên khác thể đồng, tùy nghĩa lập danh.

Nên gọi : Pháp không định tướng, Niết-bàn hay sanh Bát-nhã, tên gọi Pháp thân chân Phật, nên kêu tri kiến Như Lai. Biết tức biết tâm không tịch, kiến tức kiến tánh vô sanh. Tri kiến rõ ràng, chẳng một chẳng khác.

Nên hay : Động tịch thường diệu, lý sự đều như, như thì chốn chốn năng thông. Đạt tức lý sự chẳng kẹt, sáu căn chẳng nhiễm. Ấy là công định tuệ, sáu thức chẳng sanh. Ấy là sức như như, tâm như cảnh tàn, cảnh diệt tâm không. Tâm cảnh đều mất, thể dụng chẳng khác, tánh chân như tịnh, tuệ giảm không cùng, như nước chia ngàn trăng. Hay kiến văn giác tri, kiến văn giác tri nhưng thường không tịch. Không tức chẳng tướng, tịch tức vô sanh. Không bị thiện ác câu chấp, chẳng bị tịnh loạn nhiếp phục, chẳng ghét sanh tử, không ưa Niết-bàn. Vô chẳng là vô, hữu không là hữu. Đi đứng nằm ngồi, tâm chẳng động dao. Trong mọi thời lúc, hoạch vô sở đắc.

Ba đời chư Phật, Giáo chỉ như thế, tức Bồ-tát từ bi lần lượt truyền thụ. Sau khi Thế Tôn nhập diệt, hai mươi tám Tổ Tây Thiên cùng truyền tâm, đồng thuyết tri kiến Như Lai.

Đến lúc Đạt-ma đến nơi này làm sơ Tổ, tương truyền từng đời, tới nay chẳng dứt, bỉ giáo sở truyền. Cần chọn được người, như ngọc trên tóc Vương (Chuyển luân pháp vương), rốt lại chẳng cho bừa. Phước đức trí tuệ, hai trang nghiêm đó, biết làm tương ưng, mới được kiến lập. Áo làm pháp tín, pháp là y Tông, chỉ có y pháp tương truyền. Rốt không biệt pháp, trong truyền tâm ấn, ấn khế bản tâm, ngoài truyền Cà-sa tương biểu Tông chỉ.

Chẳng y nào không truyền nơi pháp, không pháp nào chẳng truyền nơi y ; Y là biểu thị pháp tín, Pháp là biểu thị vô sanh, vô sanh là chẳng hư vọng. Ấy là không tịch của tâm.

Biết không tịch mà liễu pháp thân, liễu Pháp thân mà chân giải thoát.

 

 

THAM ĐỒNG KHẾ

(Hòa Thượng Thạch Đầu Nam Nhạc)

Nguyên văn:

竺土大倦心 東西密相付 人根有利鈍 道無南北祖 靈源明皎潔 枝派暗流注 執事元是迷 契理亦非悟 門門一切境 迴互不迴互 迴而更相涉 不爾依位住 色本殊質象 聲元異樂苦 暗合上中言 明明清濁句 四大性自復 如子得其母 火熱風動搖 水濕地堅固 眼色耳音聲 鼻香舌鹹醋 然依一一法 依根葉分布 本末须歸宗 尊卑用其語 當明中有暗 勿以暗相遇 當暗中有明 勿以明相蜆 明暗各相對 比如前後步 萬物自有功 當言用乃處 事存函蓋合 理應箭鋒拄 承言須會宗 勿自立规矩 觸目不會道 運足焉知路 進步非近遠 速鵑山河固 謹白參玄人 光除莫虚度

Phiên âm:

Trúc độ Đại Tiên tâm

Đông Tây mật tương phó

Nhân căn hữu lợi độn

Đạo vô Nam Bắc Tổ

Linh nguyên minh hiểu khiết

Chi phái ám lưu chú

Chấp sự nguyên thị mê

Khế lý diệc phi ngộ

Môn môn nhất thiết cảnh

Hồi hỗ bất hồi hỗ

Hồi nhi cánh tương thiệp

Bất nhĩ y vị trụ

Sắc bản thù chất tượng

Thanh nguyên dị lạc khổ

Ám hiệp thượng trung ngôn

Minh minh thanh trược cú !

Tứ đại tánh tự phục

Như tử đắc kỳ mẫu

Hỏa nhiệt phong động dao

Thủy thấp địa kiên cố

Nhãn sắc nhĩ âm thanh

Tị hương thiệt hàm thố

Nhiên y nhất nhất pháp

Y căn diệp phân bố

Bản mạt tu quy tông

Tôn ti dụng kỳ ngữ

Đương minh trung hữu ám

Vật dĩ ám tương ngộ

Đương ám trung hữu minh

Vật dĩ minh tương đỗ

Minh ám các tương đối

Ti như tiền hậu bộ

Vạn vật tự hữu công

Đương ngôn dụng cập xứ

Sự tồn hàm cái hạp

Lý ưng tiễn phong trụ

Thừa ngôn tu hội tông

Vật tự lập quy củ

Xúc mục bất hội dạo

Vận túc yên tri lộ

Tiến bộ phi cận viễn

Mê cách sơn hà cố

Cẩn bạch tham huyền nhân

Quang âm mạc hư độ

Tạm dịch:

Tâm Phật tại đất Trúc

Đông Tây thầm trao truyền

Người có cân nhanh chậm

Đạo chẳng Tổ Bắc Nam

Nguồn linh vốn trong sáng

Phái nhánh ngầm tuôn chảy

Chấp sự nguyên là mê

Khế lý cũng chẳng ngộ

Mọi vật bày cảnh giới

Hòa lẫn chẳng hòa lẫn

Hòa nên có giao thiệp

Không hòa chẳng một thể

Sắc vốn khác chất tượng

Thanh nguyên khác vui khổ

Ám hợp đạo thượng trung

Sáng rỡ câu trong đục

Bốn đại tánh tự phục

Như con gặp được mẹ

Lửa nóng gió lay động

Nước ấm đất cứng chắc

Mắt sắc tai âm thanh

Mũi mùi lưỡi chua mặn

Nhưng tùy mỗi mỗi pháp

Theo gốc cành lá chia

Gốc ngọn phải về Tông

Trên dưới dùng lời này

Nên trong sáng có tối

Đừng để tối gặp nhau

Nên trong tối có sáng

Đừng để sáng nhìn nhau

Sáng tối đều đối nhau

Tỉ như bước trước sau

Muôn vật tự có dụng

Nếu nói dụng và chốn

Sự tồn hộp cùng nắp

Lý như tên chọi nhau

Nương lời thấu rõ Tông

Chớ tự lập khuôn phép

Chạm mắt chẳng hiểu đạo

Dời chân há biết đường

Cất bước chẳng xa gần

Mê nên cách núi sông

Kính ngỏ người tham thiền

Quang âm chớ luống qua./.

 

 

Đại Sư TRỪNG QUÁN Trấn Quốc Núi Ngũ Đài

Đáp Hoàng Thái Tử Hỏi Tâm Yếu

Nguyên văn:

至道未乎其心 心法本乎無住 無住心體 靈知不昧

性相寂然 包含德用 該攝内外 能深能廣 非有非空

不生不滅 無終無始

求之而不得 棄之而不離

迷現量則感苦纷然 悟眞猛則空明廓徹

雖卽心卽佛 唯證者方知 然有證有知 則慧日沈於沒有地

若無照無悟 則昏雲掩蔽於空門

若一念不生 則前後際斷

照體獨立 物我皆如 直造心源 無知無得 不取不捨 無對無修

然迷悟更依 眞妄相待

若求眞去妄 猶去影勞形 若體妄卽眞 似處陰影滅 若無心忘照

則萬慮都捐 若任運寂知 則衆行爰起

放曠任其去住 靜鑒覺其源流 語默不失玄微 動靜未離法界

言止則雙亡知寂 論觀則雙照寂知 語證則不可示人

說理則非證不了 是以悟寂無寂 眞知無知

以知寂不二之一心 契空有雙融之中道

無住無著 莫攝莫歧 是非兩亡 能所雙絕 斯絕亦寂

則船苦現前 船苦非心外新生 智性乃本來具趸 然本寂不能自現

實由船苦之功 船苦之與智性

翻農相成 本知之誕始修 實無兩想 雙亡正入 則妙覺圓明

始末該融 則因果交徹 心心作佛 無一心而非佛心 處處成道

無一塵而非佛國 故眞妄物我 舉一全收 心佛衆生 渾然齊致

是知迷則人随於法 法法萬差而人不同 悟則於人

人—智而融萬境 言亨慮絕 何果何因 體本寂寥 孰同孰異

唯忘懷虚朗 消息沖融 其猶婴秀水月華

虚而可見 無心經象 照而常空矣

Phiên âm:

Chí đạo bổn hồ kỳ tâm, Tâm pháp bổn hồ vô trụ

Vô trụ tâm thế, Linh tri bất muội

Tánh tướng tịch nhiên, Bao hàm đức dụng

Cai nhiếp nội ngoại, Năng thâm năng quảng

Phi hữu phi không ,Bất sanh bất diệt, Vô chung vô thỉ

Cầu chi nhi bất đắc, Khí chi nhi bất ly

Mê hiện lượng tắc cảm khổ phân nhiên

Ngộ chân tánh tắc không minh khuếch triệt

Tuy tức tâm tức Phật, Duy chứng giả phương tri

Nhiên hữu chứng hữu tri, Tác tuệ nhật tràm một ư hữu địa

Nhược vô chiếu vô ngộ, Tắc hôn vân yểm tế ư không môn

Nhược nhất niệm bất sanh, Tắc tiền hậu tế đoạn

Chiếu thể độc lập, Vật ngã giai như

Trực tạo tâm nguyên, Vô tri vô đắc

Bất thủ bất xả, Vô đối vô tu

Nhiên mê ngộ cánh y, Chân vọng tương đãi

Nhược cầu chân khứ vọng, Do khứ ảnh lao hình

Nhược thể vọng tức chân, Tự xứ âm ảnh diệt

Nhược vô tâm vong chiêu, Tắc vạn lự đô quyên

Nhược nhiệm vận tịch tri, Tắc chúng hành viên khởi

Phóng khoáng nhiệm kỳ khứ trụ, Tĩnh giám giác kỳ nguyên lưu

Ngữ mặc bất thất huyền vi, Động tĩnh vị ly pháp giới

Ngôn chỉ tắc song vong tri tịch Luận quán tắc song chiếu tịch tri

Ngữ chứng tắc bất khả thị nhân, Thuyết lý tắc phi chứng bất liễu

Thị dĩ ngộ tịch vô tịch, Chân tri vô tri

Dĩ tri tịch bất nhị chi nhất tâm

Khế không hữu song dung chi trung đạo, Vô trụ vô trước

Thị phi lưỡng vong, Năng sở song tuyệt

Tư tuyệt diệc tịch, Tắc Bát nhã hiện tiền

Bát nhã phi tâm ngoại tân sanh, Trí tánh nãi bổn lai cụ túc

Nhiên bổn tịch bất năng tự hiện, Thật do Bát nhã chi công

Bát nhã chi dữ trí tánh, Phiên phúc tương thành

Bổn tri chi dữ thỉ tu, Thật vô lưỡng thể

Song vong chánh nhập, Tắc diệu giác viên minh

Thỉ mạt cai dung Tắc nhân quả giao triệt

Tâm tâm tác Phật, Vô nhất tâm nhi phi Phật tâm

Xứ xứ thành đạo, Vô nhất trần nhi phi Phật quốc

Cố chân vọng vật ngã, Cử nhất toàn thu

Tâm Phật chúng sanh, Hồn nhiên tề trí

Thị tri mê tắc nhân tùy ư pháp

Pháp pháp vạn sai nhi nhân bất đồng

Ngộ tắc pháp tùy ư nhân

Nhân nhân nhất trí nhi dung vạn cảnh

Ngôn cùng lự tuyệt, Hà quả hà nhân

Thể bổn tịch liêu, Thục đồng thục dị

Duy vong hoài hư lãng, Tiêu tức xung dung

Kỳ do tú thủy nguyệt hoa, Hư nhi khả kiến

Vô tâm giám tượng, Chiếu nhi thường không hĩ.

Tạm dịch:

Chí đạo vốn là ở tâm, tâm pháp vốn ở vô trụ

Tâm thể chẳng trụ, linh tri chẳng mờ

Tánh tướng tịch nhiên, bao hàm đức dụng

Trùm nắm trong ngoài, hay sâu hay rộng

Chẳng có chẳng không, chẳng sanh chẳng diệt

Không cuối không đầu, cầu thì không được, bỏ lại chẳng rời.

Mê hiện lượng tức cảm khổ bời bời

Ngộ chân tánh thì không minh khuyếch triệt

Tuy tâm ấy là Phật, duy kẻ chứng mới biết

Nhưng có chứng có tri thì tuệ nhật chìm mất nơi chỗ có

Nếu chẳng chiếu chẳng ngộ thì mây mù che phủ ở cửa không

Nếu một niệm không sanh thì trước sau tế đoạn

Chiếu thể độc lập, vật ta đều như.

Đến thẳng nguồn tâm, không biết không được

Không nắm không buông, chẳng đổi chẳng tu

Nhưng mê ngộ nương nhau, chân vọng tương đãi

Nếu cầu chân bỏ vọng là bỏ ảnh theo hình

Nếu thể vọng tức chân giống chỗ tối ảnh mất

Nếu chẳng tâm vọng chiếu tức muôn lo đều tan

Nếu mặc cho tịch tri thì chúng hành bèn dậy

Thông thoáng mặc tình đi ở, động lặng chưa rời pháp giới

Lời dừng tức đều quên tri tịch, luận quán tức song chiếu tịch tri

Lời chứng tức không thể chỉ cho người

Thuyết lý tức chẳng chứng nào không hiểu

Cho nên, ngộ tịch không tịch, chân tri không tri

Lấy một tâm tri tịch không hai

Khế trung đạo có không dung hiệp

Không trụ không trước, chẳng nắm chẳng thâu

Phải trái đều quên, năng sở đều dứt

Cái dứt ấy cũng tịch tức Bát-nhã hiện tiền

Bát-nhã chẳng ngoài tâm sanh mới

Trí tánh vốn xưa nay đầy đủ, nhưng bổn tịch chẳng thể tự hiện

Thật là do công của Bát-nhã.

Bát-nhã cùng với trí tánh xấp ngửa tương thành

Bổn trí cùng với thỉ tu thật không hai thể

Song vong chính nhân tức diệu giác viên minh

Gốc ngọn dung hiệp tức nhân quả giao triệt

Tâm tâm là Phật, chẳng tâm nào mà không là tâm Phật

Chốn chốn thành đạo, không trần nào mà không là nước Phật

Cho nên : Chân vọng, vật ta

Cử một thâu hết Tâm, Phật chúng sanh cùng khắp bằng nhau

Do đó mà biết : Mê tức người tùy theo pháp, Pháp pháp muôn sai nhưng người không đồng

Ngộ tức pháp tùy theo người, Người người nhất trí dung hiệp muôn cảnh. Lời cùng lo dứt, nhân nào quả nào

Thể vốn tịch liêu, ai giống ai khác

Duy quên hư lãng, tin tức xung hiệp

Đó là hoa nguyệt thấu nước, giả nhưng thấy được

Vô tâm giám tượng tuy chiếu nhưng thường không vậy./.

 

 

BÀI CHÂM NGỒI THIỀN

(Hòa Thượng Ngũ Vân Hàng Châu)

Nguyên văn:

坐不拘身 禪非涉境 拘必乃疲 涉則非静 不涉不拘 眞丄迫孤

六門齊應 萬行同敷 嗟爾初機 未達玄微 處沈随掉 能所支離

不有權巧 胡爲對治 驅策抑按 均調惽亂 息慮忘緣 乍同死漢

隨宜合開 靡專璧觀 驰想頗多 安那妹那 沿流劍閣 無滞木鹅

如火得水 如病得醫 病瘳醫罷 火滅水傾 一念清淨 體寂常靈

是靈是寂 非靈非寂 是非迭生 犯過無極 前滅後興 還如步走

患乎不知 知則無咎 目由背夜 鏡奚照後 此則不然 圓明通透

照而不緣 寂而誰守 萬象濃遐 太虚閃電 摧壞魔宫 衛倒佛殿

跛者得履 替者發見 法界塵寰 齊括頓現 曠蕩郊鄺 或坐或眠

旣明方便 乃號金倦 吾雖強說 爰符聖言 聖言何也 要假重宣

不動不禪 是無生禪

又云

若學諸三昧 是動非坐禪 心隨境界流 云何名爲定 故知歷代祖

唯傳此一心 祖光旣遠大 吾子幸堪任 聊述無言旨 乃曰坐禪箴

Phiên âm:

Tọa bất câu thân

Thiền phi thiệp cảnh

Câu tất nãi bì

Thiệp tắc phi tĩnh

Bất thiệp bất câu

Chân quang huýnh cô

Lục môn tề ứng

Vạn hạnh đồng phu

Ta nhĩ sơ cơ

Vị đạt huyền vi

Xứ trầm tùy điệu

Năng sở chi ly

Bất hữu quyền xảo

Hồ vi đối trị

Khu sách ức án

Quân điều hôn loạn

Tức lự vong duyên

Sạ đồng tử hán

Tùv nghi hợp khai

Mỹ chuyên bích quán

Trì tưởng phả đa

An na bát na

Diên lưu kiếm các

Vô trệ mộc nga

Như hỏa đắc thủy

Như bệnh đắc y

Bệnh sưu y bãi

Hỏa diệt thủy khuynh

Nhất niệm thanh tịnh

Thể tịch thường linh

Thị linh thị tịch

Phi linh phi tịch

Thị phi điệt sanh

Phạm quá vô cực

Tiền diệt hậu hưng

Hoàn như bộ tẩu

Hoạn hồ bất tri

Tri tắc vô cữu

Mục do bối dạ

Kính hề chiếu hậu

Thử tắc bất nhiên

Viên minh thông thấu

Chiếu nhi bất duyên

Tịch nhi thùy thu

Vạn tượng doanh âu

Thái hư thiểm điện

Tồi hoại ma cung

Xung đảo Phật điện

Bả giả đắc lý

Cổ giả phát kiến

Pháp giới trần hoàn

Tề luân đốn hiện

Khoáng đãng giao triền

Hoặc tọa hoặc miên

Ký minh phương tiện

Nãi hiệu Kim Tiên

Ngô tuy cưỡng thuyết

Viên phù Thánh ngôn

Thánh ngôn hà dã

Yếu giả trùng tuyên

Bất động bất Thiền

Thị vô sanh Thiền

Hựu vân

Nhược học chư Tam-muội

Thị động phi tọa Thiền

Tâm tuy cảnh giới lưu

Vân hà danh vị định

Cố tri lịch đại Tổ

Duy truyền thử nhất tâm

Tổ quang ký viễn đại

Ngô tử hạnh kham nhiệm

Liêu thuật vô ngôn chỉ

Nãi viết Tọa Thiền châm./.

Tạm dịch :

Ngồi chẳng bó thân

Thiền không thiệp cảnh

Bó thân tức mệt

Thiệp cảnh chẳng tĩnh

Chẳng thiệp chẳng bó

Chân quang chót vót

Sáu cửa đều ưng

Muôn hạnh cùng phô

Thương thay sơ cơ

Chưa đạt huyền vi

Nổi chìm tùy nậy

Năng sở chi ly

Chẳng có quyền xảo

Làm sao đối trị

Khu sách ngưỡng án

Đều điều hôn loạn

Dừng lự quên duyên

Khác nào gã chết

Tùy nghi đóng mở

Chẳng chuyên nhìn vách

Trì tưởng quá nhiều

An na bát na

Đi men gác kiếm

Chẳng kẹt ngỗng gỗ

Như bệnh gặp thuốc

Bệnh hết thuốc ngưng

Lửa tắt nước thôi

Một niệm thanh tịnh

Là linh là tịch

Chẳng linh chẳng tịch

Phái trái sanh ra

Phạm lồi vô cùng

Trước diệt sau hưng

Cũng như bước chạy

Lo là không biết

Biết tức không lỗi

Mắt bị đêm tối

Gương nào chiếu sau

Đó là không phải

Tròn sáng thông thấu

Chiếu mà không duyên

Tịch nhưng ai giữ

Vạn tượng bọt nổi

Thái hư điện xẹt

Gãy vỡ cung ma

Nghiêng ngửa điện Phật 

Kẻ què được giày

Người mù được thấy

Pháp giới trần hoàn

Tề luân bỗng hiện

Khoáng đãng chợ đồng

Hoặc ngồi hoặc ngủ

Đã rõ phương tiện

Liền hiệu Kim Tiên

Ta tuy gượng nói

Bèn hợp lời Thánh

Lời Thánh thế nào

Nếu cần tuyên lại

Chẳng động chẳng Thiền

Là vô sanh Thiền

Lại nói,

Nếu học các Tam-muội

Là động chẳng ngồi Thiền

Tâm theo cảnh giới trôi

Làm sao gọi là định ?

Thế nên Tổ các đời

Chỉ truyền một tâm đó

Tổ quang đã xa rộng

Trò ta may kham nhiệm

Tạm thuật chi không lời

Gọi là châm Tọa Thiền./.

 

 

BÀI CHỨNG ĐẠO CA

Đại Sư Chân Giác - Vĩnh Gia Huyền Giác

Nguyên văn:

君不見:

絕學無爲閑道人 不除妄想不求眞 無明實性卽佛性

幻化空身卽法身 法身覺了無一物 本泳自性天眞佛

五陰浮雲空去來 三毒水泡虚出没

證實相 無人法

彼滅却阿鼻業 若將妄語誑衆生 自招拔舌塵沙劫

頓覺了 如來禪

六度萬行體中圓 夢裏明明有六趣 覺後空空無大千

無罪福 無拍益

寂滅性中莫問見 比來塵境未曾磨 今曰分明須剖析

誰無念 谁無生

若實無生無不生 喚取機關木人問 求佛施功早晚成

放四大 莫把捉

寂滅性中随飲啄 諸行無常一切空 卽是如來大圓覺

決定說 表眞乘

有人不肯任情徵 直截根源佛所印 摘葉尋枝我不能

摩尼珠 人不識

如來藏裏親收得 六般神用空不空 一顆圓光色非色

淨五眼 得五力

唯證乃知誰可測 鏡裏看形見不難 水中捉月爭拈得

常獨行 常獨步

達者同遊涅槃路 調古神凊風自高 貌悴骨剛人不顧

窮釋子 口稱貧

實是身貧道不貧 貧則身常披縷褐 道卽心藏無價珍

無償珍 用無蛊

利物應時終不吝 三身四智體中圓 八解六通心地印

上士一決一切了 中下多聞多不信 但自懷中解垢依

誰能向外誇精進

從他謗 任他非

把火燒天徒自疲 我聞恰似飲甘露 鎖融頓入不思議

觀惡言 是功德

此則成吾善知識 不因訕謗起怨親 何表無生慈忍力

宗亦通 說亦通

定慧圓明不滯空 非但我今獨達了 河沙诸佛體皆同

師孚吼 無畏說

百獸聞之皆惱裂 香象奔波失却成 天龍寂聽生欣悦

遊江海 涉山川

尋師訪道爲參禪 自從認得曹谿路 了知生苑呆相干

行亦禪 坐亦禪

語默動靜體安然 縱遇鋒刀徜坦坦 假饒毒藥也閑閑

我師得見然燈佛 多劫曾爲忍辱倦

幾迴生 幾迴死

生死悠悠無定止 自從頓悟了無生 於諸榮辱何憂喜

入深山 住蘭苦

岑卷幽邃長松下 優遊靜坐野僧閑 閒寂安然居實蕭麗

覺卽了 不施功

一切有爲法不同 住相布施生天福 猶如仰箭射虚空

勢力蛊 箭還适

招得來生不如意 爭似無爲實相門 一超直入如來地

但得本 莫愁末

如淨琉璃含寶月 旣能解此如意珠 自利利他終不竭

江月照 松風吹

永夜清宵何所爲 佛性戒珠心地印 霧露雲霞體上衣

降龍钵 解虎錫

兩股金鐶鳴歷歷 不是搮形虚事 如來寶杖身蹤路

不求眞 不斷妄

了知二法空無相 無相無空無不空 卽是如來眞實相

心銳明

錾無礙

夸然瑩徹周沙界 萬象森羅影現中 一顆圓明非内外

豁達空 撤因果

漭漭蕩蕩招殃禍 棄有著空病亦然 還如避溺而投火

捨妥心

取眞理

取捨之心成巧僞 學人不了用修才亍 眞成認賊將爲子

損法財 滅功德

莫不由斯心意識 是以禪門了却心 頓入無生知見力

大丈夫 秉慧劍

船姜鋒兮金剛燄 非但能摧外道心 早曾落却天魔膽

震法雷 擊法鼓

布慈雲兮灑甘露 龍象蹴蹋潤無邊 三乘五性皆惺悟

雪山肥腻更無雜 纯出醐醍我常纳 一性圓通一切性

一法徧含一切法

一月普現一切水 一切水月一月攝 諸佛法身入我性

我性還共如來合 一地具足一切地 非色非心非行業

彈指圓成八萬門 刹那滅却阿鼻業 一切數句非數句

與吾靈覺何交涉

不可毁 不可讚

體若虚空勿涯岸 不離當處常湛然 覓則知君不可見

取不得 捨不得

不可得中只麼得

默時説 說時默

大施門開無奎塞 有人問我解何宗 報道摩訶船苦力

或是或非人不識 逆行順行天莫測 吾早曾經多劫修

不是等閑相誑惑

建法幢 立宗旨

明明佛敕曹谿是 第一迦葉首傳燈 二十八代西天記

法東流 入此士

菩提達磨爲初祖 六代傳衣天工聞 後人得道無窮數

眞不立 妄本空

有無俱遣不空空 二十空門元不著 一性如來體自同

心是根 法是塵

兩種猶如鏡上痕 痕垢盡除光始現 心法雙亡性卽眞

嗟末法 惡時世

衆生福薄難調制 去聖遠兮邪見深 魔強法弱多怨害

聞說如來頓敎門 恨不滅除令瓦碎

作在心 块在身

不須怨訴更尤人 欲得不招無間業 莫镑如來正法輪

栴檀林 無雜樹

鬱密深沈師子住 境靜林閑獨自遊 走獸飛禽皆遠去

師子兒 衆隨後

三歲卽能大哮吼 若是野干逐法王 百年妖怪虚開口

圓頓教 勿人情

有疑不決直須争 不是山僧逞人我 修行恐落斷常坑

非不是 是不非

差之毫釐失千里 是卽龍女頓成佛 非卽善星生陷堕

吾早年來積學問 亦曾討疏尋經論 分別名相呆知休

入海算沙徒自困 却被如來苦詞責 數他珍寶有何益

從來蹭蹬覺虚行 多年枉作風塵客

種性邪 錯知解

不達如來圓頓制 二乘精進勿道心 外道聰明無智慧

亦愚癡 亦示駿

空拳指上生實解 執指爲月枉施功 根境法中虚捏怪

不見一法卽如來 方得名爲觀自在 了卽業障本來空

未了還須償宿债 饥逢王饍不能餐

病遇醫王爭得差 在欲行禪知見力 火中生蓮终不壤

勇施犯重悟無生 早時成佛於今在

師子吼 無畏說

深嗟懵懂頑皮靼 只知犯重障菩提 不見如來開秘訣

有三比丘犯婬殺 波離螢光增罪结 維摩大士頓除疑

還同赫日鎖霜雪

不思議 解脫力

此卽成吾善知識 四事供養敢辤勞 萬兩黃金亦鎖得

粉骨碎身未足酬 一句了然超百億

法中王 最高勝

河沙如來同共證 我各解此如意珠 信受之者皆相應

了了見 無一物

亦無人 亦無佛

大千世界海中沤 一切聖賢如電桃 假使娥輪頂上旋

定慧圓明終不失

曰可冷 月可熱

衆魔不能壞眞說 象巧崢碟謾道途 誰見螗蜋能拒轍

大象不遊於兔徑 大悟不拘於小節 莫將管見謗蒼蒼

未了吾今爲君決

Phiên âm:

Quân bất kiến

Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân

Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân

Vô minh thật tánh tức Phật tánh

Ảo hóa không thân tức pháp thân

Pháp thân giác liễu vô nhất vật

Bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật

Ngũ ấm phù vân không khứ lai

Tam độc thủy bào hư xuất một

Chứng thật tướng vô nhân pháp

Sác-na diệt khước A-tỳ nghiệp

Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh

Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp

Đốn giác liễu Như Lai thiền

Lục độ vạn hạnh thể trung viên

Mộng lý minh minh hữu lục thú

Giác hậu không không vô đại thiên

Vô tội phước, vô tổn ích

Tịch diệt tánh trung mạc vấn mịch

Tỉ lai trần cảnh vị tằng ma

Kim nhật phân minh tu phẫu tích

Thùy vô niệm Thùy vô sanh

Nhược thật vô sanh vô bất sanh

Hoán thủ cơ quan mộc nhân vấn

Cầu Phật thi công tảo vãn thành

Phóng tứ đại, mạc bả tróc

Tịch diệt tánh trung tày ẩm trác

Chư hành vô thường nhất thiết không

Tức thị Như Lai đại viên giác

Quyết định thuyết, biểu chân thừa

Hữu nhân bất khẳng nhiệm tình trưng

Trực tiệt căn nguyên Phật sở ấn

Trích diệp tầm chi ngã bất năng

Ma-ni châu, nhân bất thức

Như Lai tạng lý thân thâu đắc

Lục ban thần dụng không bất không

Nhất khỏa viên quang sắc phi sắc

Tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực

Duy chứng nãi tri thùy khả trắc

Kính lý khán hình kiến bất nan

Thủy trung tróc nguyệt tranh niêm đắc

Thường độc hành, thường độc bộ

Đạt giả đồng du Niết-bàn lộ

Điều cổ thần sảnh phong tự cao

Mạo tụy cốt cương nhân bất cố

Cùng Thích tử, khẩu xưng bần

Thật thị thân bần đạo bất bần

Bần tắc thân thường phi lũ hạt

Đạo tức tâm tàng vô giá trân

Vô giá trân, dụng vô tận

Lợi vật ứng thời chung bất lận

Tam thân tứ trí thể trung viên

Bát giải lục thông tâm địa ấn

Thượng sĩ nhất quyết nhất thiết liễu

Trung hạ đa văn đa bất tín

Đãn tự hoài trung giải cấu y

Thùy năng hướng ngoại khoa tinh tấn

Tùng tha báng, nhiệm tha phi

Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì

Ngã văn kháp tự âm cam lộ

Tỏa dung đốn nhập bất tư nghị

Quán ác ngôn thị công đức

Thử tắc thành ngô thiện tri thức

Bất nhân san báng khởi oán thân

Hà biểu vô sanh từ nhẫn lực

Tông diệc thông thuyết diệc thông

Định tuệ viên minh bất trệ không

Phi đãn ngã kim độc đạt liễu

Hà sa chư Phật thể giai đồng

Sư tử hống, vô úy thuyết

Bách thú văn chi giai não liệt

Hương tượng bôn ba thất khước uy

Thiên long tịch thính sanh hân duyệt

Du giang hải, thiệp sơn xuyên

Tầm sư phỏng đạo vi tham Thiền

Tự tùng nhận đắc Tào Khê lộ

Liễu tri sanh tử bất tương can

Hành diệc Thiền, tọa diệc Thiền

Ngữ mặc động tĩnh thể an nhiên

Túng ngộ phong đao thường thản thản

Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn

Ngã sư đắc kiến Nhiên Đăng Phật

Đa kiếp tằng vi nhẫn nhục tiên

Kỷ hồi sanh, kỷ hồi tử

Sanh tử du du vô định chỉ

Tự tùng đốn ngộ liễu vô sanh

Ư chư vinh nhục hà ưu hỉ

Nhập thâm sơn, trụ lan nhã

Sầm ngâm u thúy trưởng tùng hạ

Ưu du tĩnh tọa đã tăng gia

Nhàn tịch an cư thật tiêu sái

Giác tức liễu, bất thi công

Nhất thiết hữu vi pháp bất đồng

Trụ tương bố thí sanh thiên phước

Do như ngưỡng tiễn xạ hư không

Thế lực tận, tiễn hoàn đọa

Chiêu đắc lai sanh bất như ý

Tranh tự vô vi thật tướng môn

Nhất siêu trực nhập Như Lai địa

Đãn đắc bổn, mạc sầu mạt

Như tịnh lưu ly hàm bảo nguyệt

Ký năng giải thử như ý châu

Tự lợi lợi tha chung bất kiệt

Giang nguyệt chiếu, tùng phong xuy

Vĩnh dạ thanh tiêu hà sở vi

Phật tánh giới châu tâm địa ấn

Vụ lộ vân hà thể thượng y

Hàng long bát, giải hổ tích

Lưỡng cổ kim hoàn minh lịch lịch

Bất thị phiếu hình hư sự trì

Như Lai bảo trượng thân tung tích

Bất cầu chân, bất đoạn vọng

Liễu tri nhị pháp không vô tướng

Vô tướng vô không vô bất không

Tức thị Như Lai chân thật tướng

Tâm kính minh, giám vô ngại

Khuếch nhiên oánh triệt chu sa giới

Vạn tượng sum la ảnh hiện trung

Nhật khỏa viên minh phi nội ngoại

Khoát đạt không, bát nhân quả

Mãng mãng đãng đãng chiêu ương họa

Khí hữu trước không bệnh diệc nhiên

Hoàn như tị nịch nhi đầu hỏa

Xả vọng tâm, thủ chân lý

Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy

Học nhân bất liễu dụng tu hành

Chân thành nhận tặc tương vi tử

Tổn pháp tài, diệt công đức

Mạc bất do tư tâm ý thức

Thị dĩ Thiền môn liễu khước tâm

Đốn nhập vô sanh tri kiến lực

Đại trượng phu, bỉnh tuệ (huệ) kiến

Bát nhã phong hề Kim Cương diễm

Phi đãn năng tồi ngoại đạo tâm

Tảo tằng lạc khước thiên ma đảm

Chấn pháp lôi, kích pháp cổ

Bố từ vân hề sái cam lộ

Long tượng xúc đạp nhuận vô biên

Tam thừa ngũ tánh giai tinh ngộ

Tuyết sơn phì nhị cánh vô tạp

Thuần xuất hồ đề ngã thường nạp

Nhất tánh viên thông nhất thiết tánh

Nhất pháp biến hàm nhất thiết pháp

Nhật nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy

Nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp

Chư Phật pháp thân nhập ngã tánh

Ngã tánh hoàn cộng Như Lai hợp

Nhất địa cụ túc nhất thiết địa

Phi sắc phi tâm phi hành nghiệp

Đàn chỉ viên thành bát vạn môn

Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp

Nhất thiết số cú phi số cú

Dữ ngô linh giác hà giao thiệp

Bất khả hủy, bất khá tán

Thể nhược hư không vật nhai ngạn

Bất ly đương xứ thường trạm nhiên

Mịch tắc tri quân bất khả kiến

Thủ bất đác, xả bất đắc.

Bất khả đắc trung chỉ ma đắc

Mặc thời thuyết, thuyết thời mặc

Đại thí môn khai vô ủng tắc

Hữu nhân vấn ngã giải hà tông

Báo đạo Ma-ha Bát-nhã lực

Hoặc thị hoặc phi nhân bất thức

Nghịch hành thuận hành thiên mạc trắc

Ngô tảo tằng kinh đa kiếp tu

Bất thị đẳng nhân tương cuống hoặc

Kiến pháp tràng, lập Tông chỉ

Minh minh Phật sắc Tào Khê thị

Đệ nhất Ca-diếp thủ truyền đăng

Nhị thập bát đại Tây Thiên ký

Pháp đông lưu, nhập thử sĩ

Bồ-đề Đạt-ma vi sơ Tổ

Lục đại truyền y thiên hạ văn

Hậu nhân đắc đạo vô cùng số

Chân bất lập, vọng bổn không

Hữu vô câu khiển bất không không

Nhị thập không môn nguyên bất trước

Nhất tánh Như Lai thể tự đồng

Tâm thị căn, Pháp thị trần   

Lưỡng chủng do như kính thượng ngân

Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện

Tâm pháp song vông tánh tức chân

Ta mạt pháp, ác thời thế

Chúng sanh phước bạc nan điều chế

Khử Thánh viễn hề tà kiến thâm

Ma cường pháp nhược đa oán hại

Văn thuyết Như Lai đốn giáo môn

Hận bất diệt trừ linh ngõa toái

Tác tại tâm, ương tại thân

Bất tu oán tố cánh vưu nhân

Dục đắc bất chiêu vô gián nghiệp

Mạc báng Như Lai chánh pháp luân

Chiên đàn lâm Vô tạp thụ

Uất mật thâm trầm sư tử trụ

Cảnh tĩnh lâm nhàn độc tự du

Tẩu thú phi cầm giai viễn khứ

Sư tử nhi, chúng tùy hậu

Tam tuế tức năng đại hao hống

Nhược thị dã can trục pháp vương

Bách niên yêu quái hư khai khẩu

Viên đốn giáo, vật nhân tình

Hữu nghi bất quyết trực tu tranh

Bất thị sơn tăng trình nhân ngã

Tu hành khủng lạc đoạn thường khanh

Phi bất phi, thị bất thị

Sai chi hào li thất thiên lý

Thị tức Long Nữ đốn thành Phật

Phi tức Thiện Tinh sanh hãm đọa

Ngô tảo niên lai tích học vấn

Diệc tằng thảo sớ tầm kinh luận

Phân biệt danh tướng bất tri hưu

Nhập hải toán sa đồ tự khốn

Khước bị Như Lai khổ kha trách

Số tha trân bảo hữu hà ích

Tùng lai thặng đăng giác hư hành

Đa niên uổng tác phong trần khách

Chủng tánh tà, thác tri giải

Bất đạt Như Lai viên đốn chế

Nhị thừa tinh tấn vật đạo tâm

Ngoại đạo thông minh vô trí tuệ

Diệc ngu si, diệc tiểu ngãi

Không quyền chỉ thượng sanh thật giải

Chấp chỉ vi nguyệt uổng thi công

Căn cảnh pháp trung hư niết quái

Bất kiến nhất pháp tức Như Lai

Phương đắc danh vi Quán Tự Tại

Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không

Vị liễu hoàn tu thường túc trái

Cơ phùng vương thiện bất năng xan

Bệnh ngộ y vương tranh đắc sai

Tại dục hành thiền tri kiến lực

Hỏa trung sanh liên chung bất hoại

Dũng thi phạm trọng ngộ vô sanh

Tảo thời thành Phật ư kim tại

Sư tử hống, vô úy thuyết

Thâm ta mộng đổng ngoan bì đát

Chỉ tri phạm trọng chướng Bồ-đề

Bất kiến Như Lai khai bí quyết

Hữu nhị Tỉ-khâu phạm dâm sát

Ba Ly huỳnh quang tăng tội kết

Duy-ma đại sĩ đốn trừ nghi

Hoàn đồng hách nhật tỏa sương tuyết

Bất tư nghị, giải thoát lực

Thử tức thành ngô thiện tri thức

Tứ sự cúng dường cảm từ lao

Vạn lưỡng hoàng kim diệc tỏa đắc

Phấn cốt toái thân vị túc thù

Nhất cú liễu nhiên siêu bách ức

Pháp trung vương, tối cao thẳng

Hà sa Như Lai đồng cộng chứng

Ngã kim giải thử như ý châu

Tín thụ chi giả giai tương ưng

Liễu liễu kiến, vô nhất vật

Diệc vô nhân, diệc vô Phật

Đại thiên thế giới hải trung âu

Nhất thiết Thánh Hiền như điện phất

Giả sử thiết luân đính thượng toàn

Định tuệ viên minh chung bất thất

Nhật khả lãnh, nguyệt khả nhiệt

Chúng ma bất năng hoại chân thuyết

Tượng giá tranh vanh mạn tấn đồ

Thùy kiến đường lang năng cự triệt

Đại tượng bất du ư thố kính

Đại ngộ bất câu ư tiểu tiết

Mạc tương quản kiến báng thương thương

Vị liễu ngô kim vi quân quyết

Tạm dịch:

Ông chẳng thấy

Dứt học, chẳng làm nhàn đạo nhân

Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân

Thật tánh vô minh tức Phật tánh

Thân không ảo hóa tức Pháp thân.

Pháp thân hiểu ra không một vật

Gốc nguồn tự tánh Thiên chân Phật

Năm ấm mây trôi luống tới lui

Ba độc bọt nước giả còn mất.

Chứng thật tướng, chẳng nhân pháp

Sát-na diệt dứt A-tỳ nghiệp

Nếu đem vọng ngữ gạt chúng sanh

Tự rước cắt lưỡi bao đời kiếp.

Bỗng thấy ra Như Lai Thiền

Sáu độ muôn hạnh thể tròn nguyên

Trong mộng rõ ràng đầy sáu nẻo

Tỉnh ra không không chẳng đại thiên.

Không tội phước, chẳng bớt thêm

Tịch diệt tánh kia chớ hỏi bắt

Bấy lâu gương bụi chưa từng lau

Hôm nay rõ ràng cần mổ cắt.

Ai không niệm, ai chẳng sanh

Nếu thật không sanh không chẳng sanh

Gọi người gỗ hỏi nguồn cơn ấy

Cầu Phật thi công mấy thuở thành.

Buông bốn đại, chớ nắm bắt

Trong tánh tịch diệt tùy ẩm trác

Các hành vô thường tất cả không

Ấy là Như Lai đại viên giác.

Quyết định nói, tỏ chân thừa

Có người chẳng chịu mặc tình trưng

Phăng tận cội nguồn Phật sở ấn

Vạch lá tìm cành ta không ưng.

Ngọc ma-ni, người chẳng biết

Trong tạng Như Lai thân thâu đắc

Sáu ban thần dụng không chẳng không

Một hạt viên quang sắc chẳng sắc.

Tịnh năm mắt, được năm lực

Chỉ chứng mới lường được nào ?

Trong gương xem hình thấy chẳng khó

Trong nước mò trăng mò được sao !?

Thường đi riêng, thường bước lẻ

Kẻ đạt cùng đi Niết-bàn lộ

Điệu cổ thần thanh dáng tự cao

Nét gầy xương xẩu ai chiếu cố.

Con Phật cùng, miệng xưng nghèo

Thật ra thân bần đạo không bần

Nghèo tức thân mang áo vải thô

Đạo tức tâm mang vô giá trân.

Vô giá trân, dùng không hết

Lợi vật ứng thời há keo lận

Ba thân bốn trí thể trong tròn

Tám rõ sáu thông tâm địa ấn.

Bồ-tát (Thượng sĩ) nhất quyết nhất thiết xong

Trung hạ nghe nhiều thêm lấn cấn

Nhưng tại trong lòng cởi áo dơ

Ai hay hướng ngoài khoe tinh tấn.

Nghe người mắng, mặc người chê

Quăng lửa đốt trời tự nhọc nhằn

Ta nghe vừa vặn uống cam lồ

Tiêu tan liền vào chẳng băn khoăn.

Xem lời ác, là công đức

Đó tức thiện tri thức của mình

Không nhân chê bai sanh oán thân

Sao tỏ sức từ nhẫn vô sanh.

Tông cũng thông, nói cũng thông

Định tuệ sáng tròn chẳng kẹt không

Chẳng chỉ ta nay riêng đạt đấy

Hà sa chư Phật thể đều đồng.

Sư tử rống, thuyết vô úy

Trăm thú nghe qua tê não tủy

Voi thiêng chạy tràn mất hết oai

Trời rồng lặng nghe sanh hoan hỉ.

Chơi sông biển, lội núi sông

Tìm thầy hỏi đạo ấy tham Thiền

Từ lúc nhận ra Tào Khê lộ

Hiểu rõ sanh tử chẳng tương liên.

Đi cũng Thiền, ngồi cũng Thiền

Nói nín động tịnh thể lặng yên

Dẫu gặp đao thương thường bình thản

Cho dù thuốc độc cũng thản nhiên.

Thầy ta thấy được Phật Nhiên Đăng

Bao kiếp từng làm tiên nhẫn nhục

Bao lần sanh, mấy lúc tử ?

Sanh tử mơ màng vẫn tiếp tục

Từ khi đốn ngộ hẳn vô sanh

Trong chốn vinh nhục vui buồn ha.

Vào núi sâu, trụ chùa chiền

Núi cao u thúy dưới tòng già

Nhà tăng đồng bái ngồi thong dong

Lặng lẽ ở yên tiêu sái quá !

Hiểu tức xong, chẳng thí công

Tất cả hữu vi pháp chẳng đồng

Trụ tướng bố thí sanh thiên phước

Do như lắp tên bắn hư không.

Sức mạnh hết, tên lại rơi

Rước lấy đời sau như ý ai

Sao bằng cửa thật tướng vô vi

Một vượt vào ngay đất Như Lai.

Cốt được gốc, lo chi ngọn

Như tịnh lưu ly ngậm trăng báu

Đã hay giải được như ý châu

Tự lợi lợi người thật rốt ráo.

Trăng sông chiếu, gió tòng reo

Suốt đêm trăng trong làm việc gì

Phật tánh giới châu tâm địa ấn

Sương mù mây ráng khoác làm y.

Bát hàng long, gậy đuổi hổ

Khoen hai vòng vàng kêu lịch lịch

Chẳng phải phiêu hình hư sự trì

Gậy báu Như Lai thân dấu tích.

Chẳng cầu chân, không dứt vọng

Hiểu rõ hai pháp không vô tướng

Không tướng, không không, không chẳng không

Tức là Như Lai chân thật tướng.

Gương tâm sáng, chiếu chẳng kẹt

Trống không sáng chói đầy sa giới

Vạn tượng sum la ảnh hiện trong

Chẳng trong ngoài kia hạt sáng ngời.

Khoát đạt không, bát nhân quả

Mãng mãng đãng đãng rước tai họa

Bỏ có chấp không bệnh cũng thế

Lại như tránh chìm mà gặp hỏa.

Bỏ vọng tâm, giữ chân lý

Tâm nắm buông kia thành xảo ngụy

Kẻ học chẳng hiểu dùng tu hành

Đúng là nhận giặc làm con quí.

Tổn pháp tài, dứt công đức

Chẳng phải chẳng do tâm ý thức

Do đó cửa Thiền bỏ hẳn tâm

Bỗng nhập vô sanh tri kiến lực.

Đại trượng phu, cầm gươm tuệ

Mũi nhọn kim cương lóe Bát-nhã

Chẳng những bẻ gãy (hàng phục) tâm ngoại đạo

Sớm từng làm vỡ mật thiên ma.

Chấn sấm pháp, đánh trống pháp

Giăng mây từ hề rưới cam lồ

Voi thiêng giẫm đạp nhuận vô biên

Ba thừa năm tánh đều tỉnh ngộ.

Núi tuyết cỏ phì chẳng lộn tạp

Toàn xuất đề-hồ ta liếm láp

Một tánh viên thông tất cả tánh

Một pháp trải khắp tất cả pháp.

Một trăng hiện khắp tất cả nước

Tất cả trăng nước một trăng nhiếp

Pháp thân chư Phật vào tánh ta

Tánh ta còn cùng Như Lai hiệp.

Một địa đầy đủ tất cả địa

Chẳng sắc chẳng tâm chẳng hạnh nghiệp

Búng tay viên thành tám muôn cửa

Phút chốc diệt tan ba kỳ kiếp.

Chú: Có bản chép ‘Tam kỳ kiếp’, có bản chép ‘A-tỳ nghiệp’)

Tất cả văn tự không văn tự

Với linh giác ta nào can dự

Chẳng thể chê, chẳng thể khen

Thể như hư không vốn vô biên

Tìm tức biết ông chẳng thể được

Chẳng rời đương xứ thường trạm nhiên.

Giữ không được, buông không được

Trong chẳng được kia lại được chứ

Lúc nín nói, lúc nói nín

Cửa đại thí mở chẳng nghẹt ứ.

Có người hỏi ta hiểu Tông nào ?

Bảo rằng Ma-ha Bát-nhã lực

Hoặc phải hoặc trái người không hay

Làm thuận làm nghịch trời khó biết.

Ta sớm đã từng tu nhiều kiếp

Chẳng phải sai nhã dối gạt nhau

Dựng phướn pháp, lập Tông chỉ

Rỡ ràng sắc Phật Tào Khê đạo.

Ca-diếp đầu tiên người truyền đèn

Hai mươi tám đời Tổ Tây Thiên

Pháp qua Đông vào đất này

Bồ-đề Đạt-ma là sơ Tổ

Sáu đời truyền y thiên hạ nghe

Người sau đắc đạo không kể số.

Chân chẳng lập, vọng vốn không

Có không đều dứt chẳng không không

Hai mươi cửa không nguyên chẳng chấp

Một tánh Như Lai thể tự đồng.

Tâm là căn, pháp là trần

Hai loại giống như trên gương ngấn

Ngấn dơ lau sạch sáng mới hiện

Tâm pháp đều quên tánh mới chân.

Than mạt pháp, ghét thời thế

Chúng sanh phước mỏng khó chống chế

Rời Thánh lâu xa tà kiến sâu

Ma mạnh pháp suy nhiều oán thế

Nghe nói đốn giáo của Như Lai

Hận chẳng diệt trừ như ngói bể.

Tác tạo tâm, hại tại thân

Chẳng nên than thở cùng trách người

Muốn chẳng rước lấy nghiệp vô gián

Chánh pháp Như Lai chớ nhạo cười.

Rừng chiên-đàn, chẳng cây tạp

Hang sâu thâm trầm sư tử trú

Cảnh tịnh nhàn nhã đi một mình

Cao chạy xa bay chim cùng thú.

Sư tử con, theo sau đông

Ba tuổi hay gầm rống

Nếu là chồn rừng giả Pháp vương

Trăm năm yêu quái luống hả họng.

Giáo viên đốn, vượt tình người

Có nghi chẳng quyết mãi vấn vương

Chẳng phải sơn tăng trình ta người

Tu hành chớ rơi hố đoạn thường.

Trái chẳng trái, phải chẳng phải

Sai một mảy may cách ngàn dặm

Phải tức Long Nữ thành Phật ngay

Trái tức Thiện Tinh rơi hố hầm.

Ta vốn nhiều năm chứa học vấn

Cũng từng kinh luận tìm ẩn ý

Phân biệt danh tướng chẳng biết dừng

Vào biển đếm cát nhọc được chi

Lại bị Như Lai khổ trách mắng

Đếm báu cho người có ích gì

Từ xưa trật đường biết đi sai

Khách gió bụi kia lúc nào về?

Chủng tánh tà, lầm tri giải

Chẳng đạt viên đốn Như Lai chế

Nhị thừa tinh tấn lấp đạo tâm

Ngoại đạo thông minh không trí tuệ.

Cũng ngu si, cũng lần khần

Trong nắm tay không sanh giải thật

Nhận ngón làm trăng uổng thi công

Trong pháp căn cảnh luống nặn mắt.

Chẳng thấy một pháp tức Như Lai

Mới được gọi là Quán tự tại

Hiểu tức nghiệp chướng vốn là không

Chưa hiểu còn phải lo trang trải.

Đói gặp tiệc vua chẳng được ăn

Bệnh gặp thuốc vua sao chẳng bớt

Tại dục hành Thiền biết kiến lực

Trong lửa sanh sen chẳng hao hớt

 

Dũng thí phạm trọng (1) ngộ vô sanh

Sớm sủa thành Phật ngay trong đợt.

Chú (1): Phạm trọng là xúc phạm trọng tội.

Sư từ rống, nói vô úy

Thương thay mê mờ thật đáng tiếc

Chỉ biết phạm trọng lấp Bồ-để

Chẳng thấy Như Lai mở bí quyết.

Có hai Tỳ-kheo phạm dâm sát

Ba-ly huỳnh quang tăng tai ương

Đại sĩ Duy Ma bỗng trừ nghi

Liền giống mặt trời tiêu tuyết sương.

Chẳng nghĩa bàn, sức giải thoát

Với ta đó là thiện tri thức (1)

(Nguyên văn: Thử tức thành ngô thiện tri thức)

Chú (1) Có bản chép câu này là 'Diệu dụng hằng sa dã vô cực').

Bốn sự cúng dường há tránh nhọc

Muôn lượng vàng ròng cũng tiêu dứt

Tan xương nát thịt chẳng đủ đền

Một câu hiểu trọn siêu trăm ức.

Vua trong pháp, cao đẹp nhất

Vô số Như Lai đều cùng chứng

Ta nay giải rõ như ý châu

Các kẻ tín thọ đều tương ưng.

Thấy rõ rành, chẳng một vật

Cũng không người, cũng không Phật

Bọt trong biển của đại thiên giới

Tất cả Thánh hiền như điện phất.

Giả sử niệt sắt trên trán siết

Định tuệ tròn sáng rốt không biến

Nhật có thể lạnh, nguyệt lại nóng

Lời thật các ma chẳng thể chuyển.

Ai hay bọ ngựa chống nổi xe

Tượng chở chênh vênh từ từ tiến

Tượng to chẳng đi lối mòn thỏ

Đại ngộ không nệ nơi chuyện nhỏ

Đừng nhìn qua ống nhạo trời xanh

Chưa hiểu ta nay nói ông rõ./.

 

 

LIỄU NGUYÊN CA

 Hòa Thượng Đằng Đằng

Nguyên văn:

修道道無可修 問法法無可問 迷人不了色空 悟者本無逞順

八萬四千法門 至里不離方寸 識取自家城郭 莫謾尋他州郡

不用廣學多聞 不要辯才聰俊 不知月之大小 不管歲之餘閏

煩褊卽是菩提 淨華生於泥糞 人來問我若爲 不能共意談論

寅朝用粥充飢 齋時更餐一頓 今日任運騰騰 明日騰騰任運

心中了了總知 且作佯癡缚純.

Phiên âm:

Tu đạo đạo vô khả tu

Vấn pháp pháp vô khả vấn

Mê nhân bất liễu sắc không

Ngộ giả bổn vô nghịch thuận

Bát vạn tứ thiên pháp môn

Chí lý bất ly phương thốn

Thức thủ tự gia thành quách

Mạc mạn tầm tha châu quận

Bất dụng quảng học đa văn

Bất yếu biện tài thông tuấn

Bất tri nguyệt chi đại tiểu

Bất quản tuế chi dư nhuận

Phiền não tức thị Bồ-đề

Tịnh hoa sanh ư nê phấn

Nhân lai vấn ngã nhược vi

Bất năng cộng ý đàm luận

Dần triêu dụng chúc sung cơ

Trai thời cánh xan nhất đốn

Kim nhật nhiệm vận đằng đằng

Minh nhật đằng đằng nhiệm vận

Tâm trinh liễu liễu tổng tri

Thả tác dương si phược độn.

Tạm dịch:

Tu đạo, đạo chẳng phải tu

Hỏi pháp, pháp chẳng cần hỏi

Kẻ mê không hiểu sắc không

Người ngộ vốn chẳng nghịch thuận

Tám muôn bốn ngàn pháp môn

Chí lý chẳng rời tấc dạ

Khéo giữ tự mình thành quách

Đừng khờ tìm châu quận người

Không cần học rộng nghe nhiều

Không cần biện tài thông tuấn

Không cần biết trăng lớn nhỏ

Chẳng kể năm tháng thiếu nhuần

Phiền não tức là Bồ-đề

Hoa thơm sinh nơi bùn phẩn

Người đến hỏi ta làm gì ?

Không nên cùng y đàm luận

Sáng sớm dùng cháo đở lòng

Độ trai ăn một bữa cơm

Hôm nay nhiệm vận tàng tàng

Ngày mai tàng tàng nhiệm vận

Trong lòng rõ biết mồm một

Bề ngoài giả bộ ngu si./.

 

 

BÀI CA của HÒA THƯỢNG LÃN TOẢN NAM NHẠC

Nguyên văn:

兀然無事改換 無事何須論一段

直心無散亂 他事不修行 過去已過去 未來猶莫算 兀然無事坐

何曾有人喚 向外見功夫 總是癡頑漢 糧不畜一粒 逢飯但知…

世間多事人 相趁渾不及 我不樂生天 亦不受福田

饑來唉飯 困來卽眠 愚人笑我 不是癡鈍 本體如然 要去卽去

要住卽住

身披一破衲 脚著嬢生袴 多言復多語 由來反扁誤 若欲度衆生

無過且自度 赛護求眞佛 眞佛不可見 妙性及靈臺 何曾受熏鍊

心是無事心 面是嬢生面 劫石可移動 箇中無改變 無事本無事

何須讀文字 削除人我本 冥合箇中意 種種勞筋骨 不如林下睡

舉頭見日高

乞飯從頭 將功用功 展轉冥蒙 取卽不得 不取自通 吾有一言

絕慮亡緣 巧說不得 只用心傳 更有一語 無過直與 細如毫末

大無方所 本自圓成 不勞機抒 世事悠悠 不如山丘 青松蔽日

碧调長流 山雲當幕 夜月爲鉤 臥藤蔴下 塊石枕頭 不朝天子

豈羨王侯 生子無慮 更復何憂 水月無形 我常只寧 萬法皆爾

本自無生

兀然無事坐 春來草自青

Phiên âm:

Ngột nhiên vô sự vô cải hoán

Vô sự hà tu luận nhất đoạn

Trực tâm vô tán loạn

Tha sự bất tu đoạn

Quá khứ dĩ quá khứ

Vị lai do mạc toán

Ngột nhiên vô sự tọa

Hà tằng hữu nhân hoán

Hướng ngoại mịch công phu

Tổng thị si ngoan hán

Lương bất súc nhất lạp

Phùng phạn đãn tri trập

Thế gian đa sự nhân

Tương sấn hồn bất cập

Ngã bất lạc sanh thiên

Diệc bất thụ phước điền

Cơ lai khiết phạn

Khốn lai tức miên

Ngu nhân tiếu ngã

Trí nãi tri diên

Bất thị si độn

Bản thể như nhiên

Yếu khứ tức khứ

Yếu trụ tức trụ

Thân phi nhất phá nạp

Cước trước nương sanh khố

Đa ngôn phục đa ngữ

Do lai phản tương ngộ

Nhược dục độ chúng sanh

Vô quá thả tự độ

Mạc mạn cầu chân Phật

Chân Phật bất khả kiến

Diệu tánh cập linh đài

Hà tằng thụ huân luyện

Tâm thị vô sự tâm

Diện thị nương sanh diện

Kiếp thạch khả di động

Cá trung vô cải biến

Vô sự bổn vô sự

Hà tu độc văn tự

Tước trừ nhân ngã bổn

Minh hợp cá trung ý

Chủng chủng lao cân cốt

Bất như lâm hạ thụy

Cử đầu kiến nhật cao

Khất phạn tùng đầu

Tương công dụng công

Triển chuyển minh mông

Thủ tức bất đắc

Bất thủ tự thông

Ngô hữu nhất ngôn

Tuyệt lự vong duyên

Xảo thuyết bất đắc

Chỉ dụng tâm truyền

Cánh hữu nhất ngữ

Vô quá trực dữ

Tế như hào mạt

Đại vô phương sở

Bổn tự viên thành

Bất lao cơ trữ

Thế sự du du

Bất như sơn khâu

Thanh tùng tế nhật

Bích giản trường lưu

Sơn vân đương mộ

Dạ nguyệt vi câu

Ngọa đằng la hạ

Khối thạch chẩm đầu

Bất triều thiên tử

Khởi tiển vương hầu

Sanh tử vô lự

Cánh phục hà ưu

Thủy nguyệt vô hình

Ngã thường chỉ ninh

Vạn pháp giai nhĩ

Bổn tự vô sanh

Ngột nhiên vô sự tọa

Xuân lai thảo tự thanh./.

Tạm dịch:

Trơ trơ vô sự không đổi dời

Vô sự cần chi luận một đoạn

Tâm thẳng không tán loạn

Chuyện người không cần đoạn

Chuyện qua là đã qua

Chuyện tới đừng tính toán.

Trơ trơ vô sự ngồi

Chưa từng có người gọi

Hướng ngoài tìm công phu

Đều là kẻ khờ ngu

Lương chẳng dành một hột

Gặp cơm chỉ biết ăn.

Thế gian kẻ đa sự

Đuổi nhau trọn không kịp

Ta không ưa sanh trên trời

Cũng chẳng thích ruộng phước

Đói thì ăn cơm

Mệt thì nằm ngủ

Kẻ ngu cười ta

Người trí hiểu ta

Chẳng phải si độn

Bản thể như nhiên

Cần đi thì đi

Cần dừng thì dừng

Thân mặc một áo rách

Chân mang khố mẹ sanh

Nhiều lời lại lắm lẽ

Nguyên lai trở thành nhầm

Nếu muốn độ chúng sanh

Không gì bằng tự độ

Chớ dối cầu chân Phật

Chân Phật chẳng thể thấy

Diệu tánh cùng linh đài

Bao giờ học hun đúc

Tâm là tâm vô sự

Mặt là mặt mẹ sanh

Bao kiếp đá khá dời

Trong đó chẳng sửa đổi

Vô sự vốn vô sự

Cần chi dọc văn tự

Róc trừ gốc ta người

Ngầm hợp ý trong đó

Đủ thứ lao gân xương

Chẳng bằng ngủ dưới rừng

Cất đầu mặt trời cao

Xin cơm ăn no lòng

Đem công dụng công

Dần dần mù mờ

Nắm tức chẳng được

Chẳng nắm tự thông

Ta có một lời

Dứt lo quên duyên

Nói khéo chẳng được

Chỉ dụng tâm truyền

Lại có một lẻ

Chẳng ngại nói thẳng

Nhỏ như mảy may

Lớn chẳng chốn nơi

Vốn tự viên thành

Chẳng cần quay dệt

Chuyện đời dằng dặc

Chẳng như núi gò

Tòng xanh che trời

Khe biếc chảy mãi

Mây núi làm rèm

Trăng đêm làm móc

Nằm dưới lùm bụi

Khối đá gối đầu

Chẳng chầu Thiên tử

Há thích vương hầu

Sống chết chẳng lo

Há lại buồn gì

Trăng nước không hình

Ta thường yên ổn

Muôn pháp cũng thế

Vốn tự vô sanh

Trơ trơ vô sự ngồi

Xuân sang cỏ tự xanh./.

 

 

THẢO AM CA

Hòa Thượng Thạch Đầu

Nguyên văn :

吾结草庵無寶具 飯了從容圖睡快 成時初見茅草新

破後還將秦草蓋

住庵人 鎮常在

不屬中間與内外 世人住處我不住 世人愛處我不愛

庵雖小 含法界

方丈老人相體解 上乘菩薩信無疑 中下聞之必生怪

問此庵 壞不壞

壤與壞不主元在 不居南北與東西 基址堅牢以爲最

青松下 明窗内

王殿朱樓未爲對 衲被豫頭萬事休 此時山僧都不會

住此疮 休作解

誰誇鋪席圖人買 迴光返照便歸來 廓達靈根非向背

遇祖師 親訓誨

结草爲庵莫生退 百年抛却任縱橫 擺手便行且無罪

千種言 萬般解

只要敎君長不昧 欲識庵中不死人 豈離而今這皮袋

Phiên âm:

Ngô kết thảo am vô bảo cụ

Phạn liễu thung dung đồ thụy khoái

Thành thời sơ kiến mao thảo tân

Phá hậu hoàn tương mao thảo cái

Trụ am nhân trấn thường tại

Bất thuộc trung gian dữ nội ngoại

Thế nhân trụ xứ ngã bất trụ

Thế nhân ái xứ ngã bất ái

Am tuy tiểu hàm pháp giới

Phương trượng lão nhân tương thể giải

Thượng thừa Bồ-tát tín vô nghi

Trung hạ văn chi tức sanh quái

Vấn thử am hoại bất hoại

Hoại dữ bất hoại chủ nguyên tại

Bất cư Nam Bắc dữ Đông Tây

Cơ chỉ kiên lao dĩ vi tối

Thanh tùng hạ minh song nội

Ngọc điện châu lâu vị vi đối

Nạp bị mông đầu vạn sự hưu

Thử thời sơn tăng đô bất hội

Trụ thử am hưu tác giải

Thùy khoa phô tịch đồ nhân mãi

Hồi quang phản chiếu tiện qui lai

Khuếch đạt linh căn phi hướng bối

Ngộ Tổ sư thân huấn hối

Kết thảo vi am mạc sanh thoái

Bách niên phao khước nhiệm tung hoành

Bãi thủ tiện hành thả vô tội

Thiên chủng ngôn vạn ban giải

Chỉ yếu giáo quân trường bất muội

Dục thức am trung bất tử nhân

Khởi ly nhi kim giá bì đại.

Tạm dịch:

Ta kết am tranh không gì quí

Cơm xong ung dung đi ngủ liền

Cất xong mới nhìn cỏ rơm mới

Sau hư rồi lại lấy cỏ che

Người ở am, luôn thường tại

Không thuộc khoảng giữa cùng trong ngoài

Chỗ người đời trụ ta không trụ

Chỗ người đời thích ta không thích

Am tuy nhỏ, ngậm pháp giới

Phương trượng lão nhãn mới thể giải

Bồ-tát thượng thừa tin không nghi

Trung hạ căn nghe lấy làm lạ

Hỏi am đó, hoại hay không

Hoại cùng không hoại chủ nguyên tại

Không ở Nam Bắc cùng Đông Tây

Nền móng vững chắc là trên hết

Dưới tòng xanh, trong song sáng

Điện ngọc, lầu hồng chưa sánh nổi

Bị vải trùm đầu muôn sự xong

Lúc đó sơn tăng này không biết

Ở am này, thôi hiểu biết

Ai khoe trải chiếu mời người mua

Hồi quang phản chiếu tức về thôi

Rộng rãi linh căn không sau trước

Gặp Tổ sư, đích thân dạy

Kết cỏ làm am đừng thoái lui

Trăm năm ném cỏ mặc tung hoành

Thỏng tay mà đi chẳng có tội

Ngàn lời nói, muôn cách giải

Chỉ tổ khiến anh mãi không tối

Muốn biết trong am người bất tử

Há rời hôm nay cái bị da ?

 

 

LẠC ĐẠO CA

(Hòa Thượng Đạo Ngô)

Nguyên văn:

樂道山僧縱性多 天迴地轉任從他 閑臥孤峯無伴侣

獨唱無生一曲歌

無生歌 出世樂

堪笑時人和不著 暢情樂道過殘生 張三李四渾亡却

大丈夫 須棄槩

莫順人情無妨礙 汝言順是卽菩提 我謂從來自相背

有時憨 有時癡

非我途中爭得知 特達一生常任運 野客無螂可得歸

今日山僧只這是 元本山僧更若爲

探祖機 空王子

體似浮雲沒隈倚 自古長披一衲衣 曾經幾度遭寒暑

不是眞 不是僞

打鼓樂神施拜跪 明明一道漢江雲 青山綠水不相似

袁性成 無揩改

结巧羅紋不相礙 或運慈悲喜捨心 或卽逢人以棒闓

慈悲恩愛落牵纒 棒打敎伊破恩愛 報乎月下旅中人

若有恩情吾爲改.

Phiên âm:

Lạc đạo sơn tăng túng tánh đa

Thiên hồi địa chuyển nhiệm tùng tha

Nhàn ngọa cô phong vô bạn lữ

Độc xướng vô sanh nhất khúc ca

Vô sanh ca xuất thế lạc

Kham tiếu thời nhân hòa bất trước

Sướng tình lạc đạo quá tàn sanh

Trương Tam Lý Tứ hồn vong khước

Đại trượng phu tu khí khái

Mạc thuận nhân tình vô phương ngại

Nhữ ngôn thuận thị tức Bồ-đề

Ngã vị tùng lai tự tương bối

Hữu thời hàm hữu thời si

Phi ngã đồ trung tranh đắc tri

Đặc đạt nhất sanh thường nhiệm vận

Dã khách vô hương khả đắc qui

Kim nhật sơn tăng chỉ chá (giá) thị

Nguyên bổn sơn tăng cánh nhược vi

Thám Tổ cơ Không vương tử

Thể tự phù vân một ôi ỷ

Tự cổ trường phi nhất nạp y

Tằng kinh kỷ độ tao hàn thử

Bất thị chân bất thị ngụy

Đả cổ nhạc thần thi bái quị

Minh minh nhất đạo hán giang vân

Thanh sơn lục thủy bất tương tự

Bẩm tánh thành vô giai (khai) cải

Kết giác la văn bất tương ngại

Hoặc vận từ bi hi xả tâm

Hoặc tức phùng nhân dĩ bổng khải

Từ bi ân ái lạc khiên triền

Bổng đả giáo y phá ân ái

Báo hồ nguyệt hạ lữ trung nhân

Nhược hữu ân tình ngô vi cải.

Tạm dịch:

Lạc đạo sơn tăng túng tính nhiều

Trời hồi, đất chuyển cũng chiều va

Nhàn nằm cô phong không bầu bạn

Riêng hát vô sanh một khúc ca.

Vô sanh ca, vui xuất thế

Khá cười người đời khó nổi hòa

Thỏa tình vui đạo qua đời tàn

Anh Mít chú Xoài đều quên cả.

Đại trượng phu, nên khí khái

Chớ thuận nhân tình chẳng phương ngại

Anh nói thuận tức là Bồ-đề

Ta nói hồi giờ tự nghịch trái.

Có lúc ngây, có lúc dại

Chẳng phải trên đường làm sao tri

Đạt được một đời thường nhiệm vận

Dã khách không quê biết đâu qui

Hôm nay sơn tăng cũng như thế

Nguyên bổn sơn tăng cánh nhược vi.

Thám Tổ cơ, Không Vương tử

Thể tự mây nổi chẳng góc cạnh

Từ xưa mặc hoài một chiếc y

Từng đã trải qua bao nóng lạnh

Chẳng phải thật, không phải giả

Đánh trống nhạc thần quỳ thi lễ

Sáng trưng một đạo mây Ngân hà

Nước biếc, non xanh không một thể.

Bẩm tính thành không sửa đỗi

Kết giác la văn chằng phương ngại

Hoặc dùng tâm từ bỉ hỷ xả

Hoặc nếu gặp người lấy gậy khải.

Từ bi ân ái rơi rối rắm

Gậy bỗ dạy y phá ân ái

Báo người lữ khách dưới trăng kia

Nếu có ân tình ta sửa cải.

 

 

BÀI CA MỘT BÁT

Thiền Sư Bôi Độ

Nguyên văn:

遏喇喇 闇聒聒

總是悠悠造抹撻 如瘫禊鹽扣得渴 枉却一生領核核

究竞不毖知始末 拋却死屍何處既 勤君努力求解脫

閑事到頭須结撮 火落身上當煩振 莫待臨時叫菩蔆

丈夫語話須豁豁 莫學癡人受摩捋 趁時結裏學擺撥

也學柔和也麤糲

也剃頭 也披褐

也學凡夫作生活 直語向君君未達 更作長歌歌一鉢

一鉢歌 多中一 一中多

莫笑野人歌一钵 曾將一鉢度娑婆 青天寥寥月初上

此時影空含萬象 幾處浮生自是非 一源清淨無來往

更莫將心造水泡 百毛流血是誰教 不如靜坐眞如地

頂上從他鵲作巢 萬代金輪聖王不 只這眞如靈覺是

菩提樹下度衆生 度蛊衆生不生死 不生不死眞丈夫

無形無相大毗盧 塵勞滅蛊眞如在 一顆圓明如意珠

眼不見 耳不聞

不見不聞眞見聞 從來一句無言說 今曰千言強爲分

強爲分 須諦聽

人人盡有眞如性 恰似黃金在鑛中 鍊去鍊來金體淨

眞是妄 妄是眞

若除眞妄更無人 眞心莫謾生煩惱 衣食隨時養色身

好也著 弱也著 一切今心莫染著

亦無惡 亦無好 二際坦然平等道

蛊也餐 細也餐 莫學凡夫相上觀

也無焱 也無細 上方香積無根蒂

坐亦行 行亦坐 生死樹下菩提果

亦無坐 亦無行 無生何用見無生

生亦得 死亦得 處處當來見彌勒

亦無生 亦無死 三世如來總如此

離則著 著則離 幻化門中無實義

無可離 無可著 何處更求無病藥

語時默 默時語 語默縱橫無處所

亦無語 亦無默 莫喚東西作南北

瞋卽喜 喜卽瞋 我自降魔轉法輪

亦無填 亦無喜 水不離波波卽水

慳時捨 捨時慳 不離内外及中間

亦無慳 亦無捨 寂寂寥寥無可把

苦時樂 樂時苦 只這修行斷門户

亦無苦 亦無樂 到頭兩事須拈却

亦無藥 亦無病 正是眞如靈覺性

麾作佛 佛作麾 鏡裏尋形水上波

亦無魔 亦無佛 三世本來無一物

凡卽聖 聖卽凡 色裏膠清水裏鹽

亦無凡 亦無聖 萬行總持無一行

眞中假 假中眞 自是凡夫起妄塵

亦無眞 亦無假

若不唤時何應嗓 本來無性亦無名 只麼騰騰信脚行

有時鄺市并屠肆 一兵紅蓮火上生 也曾策杖遊京洛

身自浮雲無定著 幻化由來似寄居 他家觸處更清虚

若見戒 三毒瘡痍幾時差

若見禪 我自縱横泪綸

大可憐 不是顛

世間出世天中天 時人不會此中意 打著南邊動北邊

若見法

難足山中問迦葉 大士持衣在此中 本來不用求專甲

若見經 法性眞源無可聽

若充律 窮子不須敎走出

若見修

八萬浮圖何處求 只知黃葉止啼哭 不覺黑雲遮曰頭

莫怪狂言無次第 碎羅漸入麤中細 只這麤中細也無

卽是圓明眞贵諦 本非眞

但是名聞卽是塵 若向塵中解眞實 便是堂堂出世人

出世人 莫造作

獨行獨步空策策 無生無死無遂槃 本來生死不相不

無是非 無動靜 莫謾將身入空井

無善惡 無去來

亦無明鏡掛高臺 山僧見解只如此 不信從他造劫灰

Phiên âm:

Át thích thích, náo quát quát

Tổng thị du du tạo mạt thát

Như cơ khiết diệm gia đắc khát

Uổng khước nhất sanh đầu nghiệt nghiệt

Cứu cánh bất năng tri thỉ mạt

Phao khước tử thi hà xứ thoát

Khuyến quân nỗ lực cầu giải thoát

Nhàn sự đáo đầu tu kết toát

Hỏa lạc thân thượng đương tu bát

Mạc đãi lâm thời khiếu Bồ-tát

Trượng phu ngữ thoại tu khoát khoát

Mạc học si nhân thụ ma loát

Sân thời kết lý học bãi bát

Dã học nhu hòa dã thô lệ

Dã thế đầu Dã phi hạt

Dã học phàm phu tác sanh hoạt

Trực ngữ hướng quân quân vị đạt

Cánh tác trường ca ca nhất bát

Nhất bát ca

Đa trung nhất, nhất trung đa

Mạc tiếu dã nhân ca nhất bát

Tằng tương nhất bát độ Ta-bà

Thanh thiên liêu liêu nguyệt sơ thượng

Thử thời ảnh không hàm vạn tượng

Kỷ xứ phù sanh tự thị phi

Nhất nguyên thanh tịnh vô lai vãng

Cánh mạc tương tâm tạo thủy bào

Bách mao lưu huyết thị thùy giáo

Bất như tĩnh tọa chân như địa

Đính thượng tùng tha thước tác sào

Vạn đại kim luân Thánh vương tử

Chỉ chá (giá) chân như linh giác thị

Bồ-đề thụ hạ độ chúng sanh

Độ tận chúng sanh bất sanh tử

Bất sanh bất tử chân trượng phu

Vô hình vô tướng đại Tì Lô

Trần lao diệt tận chân như tại

Nhất khỏa viên minh vô giá châu

Nhãn bất kiến, nhĩ bất văn

Bất kiến bất văn chân kiến văn

Tùng lai nhất cú vô ngôn thuyết

Kim nhật thiên ngôn cưỡng vi phân

Cưỡng vi phân, tu đế thính

Nhân nhân tận hữu chân như tánh

Kháp tự hoàng kim tại khoáng trung

Luyện khứ luyện lai kim thể tịnh

Chân thị vọng, vọng thị chân

Nhược trừ chân vọng cánh vô nhân

Chân tâm mạc mạn sanh phiền não

Y thực tùy thời dưỡng sắc thân

Hảo dã trước, nhược dã trước

Nhất thiết vô tâm mạc nhiễm trước

Diệc vô ác, diệc vô hảo

Nhị tế thản nhiên bình đẳng đạo

Thô dã xan, tế dã xan

Mạc học phàm phu tướng thượng quan

Dã vô thô, dã vô tế

Thượng phương hương tích vô căn đế

Tọa diệc hành, hành diệc tọa

Sanh tử thụ hạ Bồ-đề quả

Diệc vô tọa, diệc vô hành

Vô sanh hà dụng mịch vô sanh

Sanh diệc đắc, tử diệc đắc

Xứ xứ đương lai kiến Di Lặc

Diệc vô sanh, diệc vô tử

Tam thế Như Lai tổng như thử

Ly tắc trước, trước tắc ly

Ảo hóa môn trung vô thật nghĩa

Vô khả ly, vô khả trước

Hà xứ cánh cầu vô bệnh dược

Ngữ thời mặc, mặc thời ngữ

Ngữ mặc tunh hoành vô xứ sở

Diệc vô ngữ, diệc vô mặc

Mạc hoán Đông Tây tác Nam Bắc

Sân tức hỉ, hỉ tức sân

Ngã tự hàng ma chuyển pháp luân

Diệc vô sân, diệc vô hỉ

Thuy bất ly ba ba tức thủy

Xan (khan) thời xả Xả thời xan (khan)

Bất ly nội ngoại cập trung gian

Diệc vô xan (khan), diệc vô xả

Tịch tịch liêu liêu vô khả bả

Khổ thời lạc, lạc thời khổ

Chỉ chá (giá) tu hành đoạn môn hộ

Diệc vô khổ, diệc vô lạc

Đáo đầu lưỡng sự tu niêm khước

Diệc vô dược, diệc vô bệnh

Chánh thị chân như linh giác tánh

Ma tác Phật, Phật tác ma     

Kính lý tầm hình thủy thượng ba

Diệc vô ma, diệc vô Phật

Tam thế bổn lai vô nhất vật

Phàm tức Thánh, Thánh tức phàm

Sắc lý giao thanh thủy lý diêm

Diệc vô phàm, diệc vô Thánh

Vạn hạnh tổng trì vô nhất hạnh

Chân trung giả, giả trung chân

Tự thị phàm phu khởi vọng thần

Diệc vô chân, diệc vô giả

Nhược bất hoán thời hà ứng nặc

Bổn lai vô tánh diệc vô danh

Chỉ ma đằng đằng tín cước hành

Hữu thời triền thị tính đồ tứ

Nhất đóa hồng liên hỏa thượng sanh

Dã tằng sách trượng du kinh lạc

Thân tự phù vân vô định trước

Ảo hóa do lai tự kí cư

Tha gia xúc xứ cánh thanh hư

Nhược mịch giới

Tam độc sang di kỷ thời sai

Nhược mịch Thiền

Ngã tự tung hoành kịp miên

Đại khả lân, bất thị điên

Thế gian xuất thế thiên trung thiên

Thời nhân bất hội thử trung ý

Đả trước Nam biên động Bắc biên

Nhược mịch pháp

Kê Túc sơn trung vấn Ca Diếp

Đại sĩ trì y tại thử trung

Bổn lai bất dụng cầu chuyên giáp

Nhược mịch kinh

Pháp tánh chân nguyên vô khả thính

Nhược mịch luật

Cùng tử bất tu giáo tẩu xuất

Nhược mịch tu

Bát vạn phù đồ hà xứ cầu

Chỉ tri hoàng diệp chỉ đề khốc

Bất giác hắc vân già nhật đầu

Mạc quái cuồng ngôn vô thứ đệ

Si la tiệm nhập thô trung tế

Chỉ chá (giá) thô trung tế dã vô

Tức thị viên minh chân thật đế

Bổn phi chân

Đãn thị danh văn tức thị trần

Nhược hướng trần trung giải chân thật

Tiện thị đường đường xuất thế nhân

Xuất thế nhân Mạc tạo tác

Độc hành độc bộ không sách sách

Vô sanh vô tử vô Niết-bàn

Bổn lai sanh tử bất tương can

Vô thị phi, vô động tĩnh

Mạc mạn tương thân nhập không tỉnh

Vô thiện ác, vô khứ lai

Diệc vô minh kính quải cao đài

Sơn tăng kiến giải chỉ như thử

Bất tín tùng tha tạo kiếp khôi.

Tạm dịch:

Im thin thít, la quang quát

Đều là dằng dặc tạo mạt thát

Như đói ăn muối lại thêm khát

Uổng lấy một đời đầu nghiệt nghiệt

Rốt cùng không thể biết thỉ mạt

Quăng bỏ thây chết nơi nào thoát

Khuyên ông gắng sức cầu giải thoát

Chuyện nhàn đáo đầu cần kết toát

Lửa rơi trên mình phải nên bát

Đừng đợi lúc nguy kêu Bồ-tát

Trượng phu lời lẽ nên vỡ vạc

Đừng học kẻ ngu bị mài loát

Sấn thời cột bó học bãi bát

Cũng học nhu hòa cũng thô sơ

Cũng xuống tóc, cũng áo hạt

Cũng học phàm phu mà sinh hoạt

Nói thẳng với ông ông chưa đạt

Đành làm trường ca, ca Nhất Bát

Một trong nhiều, nhiều trong một

Chớ cười người quê nhất Bát ca

Từng mang một Bát độ Ta-bà

Trời xanh mênh mông trăng mới lên

Lúc đó ảnh không ngậm vạn tượng

Bao chỗ phù sanh tự phải trái

Một nguồn trong sạch không tới lui

Cũng đừng đem tâm tạo bọt nước

Trăm lông chảy máu là ai dạy

Chẳng bằng ngồi im đất chân như

Mặc cho trên trán chim làm tổ

Muôn đời con Thánh vương Kim Luân

Chỉ là linh giác chân như này

Dưới cây Bồ-đề độ chúng sanh

Độ trọn chúng sanh không sanh tử

Chẳng sanh chẳng tử chân trượng phu

Không hình không tướng đại Tỳ-lô

Trần lao diệt hết chân như tại

Một hạt tròn sáng châu vô giá

Mắt không thấy, tai chẳng nghe

Không thấy không nghe chân thấy nghe

Trước giờ một câu chẳng lời nói

Nay đây ngàn lời cố phản trần

Cố phân trần, nên nghe rõ

Ai ai đều có tánh chân như

Giống như vàng ròng tại trong quặng

Luyện tới luyện lui vàng mới ròng

Chân là vọng, vọng là chân

Nếu trừ chân vọng đâu còn người

Chân tâm đừng dối sanh phiền não

Ăn mặc tùy thời dưỡng sắc thân

Tốt cũng mặc, xấu cũng mặc

Nhất thiết vô tâm chớ dính mắc

Cũng chẳng xấu, cũng chẳng tốt

Hai phía thản nhiên đạo bình đẳng

Thô cũng ăn, tế cũng ăn

Đừng học phàm phu nhìn trên tướng

Cũng không thô, cũng không tế

Hương tích cõi trên không gốc rễ

Ngồi cũng đi, đi cũng ngồi

Dưới cây sanh tử trái Bồ-đề

Cũng không ngồi, cũng không đi

Vô sanh cần gì tìm vô sanh

Sanh cũng được, tử cũng được

Chốn chốn ngày sau thấy Di Lặc

Cũng không sanh, cũng không tử

Ba đời Như Lai đều như thế

Rời là dính, dính là rời

Trong cửa ảo hóa không thật nghĩa

Không thể rời, không thể dính

Nơi nào tìm được thuốc không bệnh

Lúc nói nín, lúc nín nói

Nói nín dọc ngang không xứ sở

Cũng không nói, cũng không nín

Chớ gọi Đông Tây là Nam Bắc

Giận tức vui, vui tức giận

Ta tự thuyết pháp trừ loài ma

Cũng không giận, cũng không vui

Nước chẳng rời sóng, sóng tức nước

Lúc sẻn buông, lúc buông sẻn

Chẳng rời trong ngoài cùng khoảng giữa

Cũng chẳng sẻn, cũng chẳng buông

Lặng lẽ minh mông không nắm được

Lúc khổ sướng, lúc sướng khổ

Chỉ tu hành đó dứt cửa nẻo

Cũng không khổ, cũng không sướng

Bổn lai tự tại không trói buộc

Dơ là sạch, sạch là dơ

Hai mẻ rốt lại không trước sau

Cũng không dơ, cũng không sạch

Đại thiên đồng một tánh chân như

Thuốc là bệnh, bệnh là thuốc

Đảo đầu hai chuyện nên nêu lên

Cũng không thuốc, cũng không bệnh

Chính là tánh linh giác chân như

Ma là Phật, Phật là ma

Trong gương tìm hình, sóng trên nước

Cũng không ma, cũng không Phật

Ba đời bổn lai không một vật

Phàm tức Thánh, Thánh tức phàm

Keo trong nơi màu, muối trong nước

Cũng chẳng phàm, cũng chẳng Thánh

Muôn hạnh Tổng trì không một hạnh

Giả trong chân, chân trong giả

Đều do phàm phu khởi vọng trần

Cũng không thật, cũng không giả

Nếu lúc không gọi nào lên tiếng

Bổn lai không họ cũng không tên

Chỉ là đằng đằng tín cước hành

Có lúc chợ búa cùng hàng thịt

Một đóa sen hồng trong lửa sanh

Cũng từng chống gậy chơi Kinh Lạc

Thân như mây nổi chẳng chỗ định

Ẩn hóa do lai như ở nhờ

Nhà người đụng vào là thanh hư

Nếu tìm giới, ba độc lở loét bao giờ lành

Nếu tìm thiền, ta tự dọc ngang gối đá ngủ

Khá thương thay, chẳng phải điên

Thế gian, xuất thế trời trong trời

Người đời chẳng hiểu ý trong ấy

Đánh vào mé Nam động mé Bắc

Nếu tìm pháp

Trong núi Kê Túc tìm Ca-diếp

Đại sĩ trì y trong chỗ đó

Bổn lai chẳng dụng cầu mỗ đây

Nếu tìm kinh

Pháp tánh chân nguyên chẳng thể nghe

Nếu tìm luật

Đứa nghèo chẳng cần bảo chạy ra

Nếu tìm tu

Tám muôn phù đồ biết tìm đâu

Chỉ biết lá dương dỗ nín trẻ

Bất giác mây đen che mặt trời

Chớ lạ lời cuồng chẳng thứ lớp

Sàng dần vào tạm tế trong thô

Ngay trong thô kia tế cũng không

Chính là tròn sáng chân thật đế

Chân thật đế, vốn không chân

Nhưng chỉ tên nghe tức là trần

Nếu hướng vào trần hiểu chân thật

Liền là đường đường người xuất thế

Người xuất thế, chớ tạo tác

Đi riêng bước lẽ trống thênh thang

Chẳng sanh, chẳng tử, chẳng Niết-bàn

Bổn lai sanh tử chẳng liên can

Chẳng phải trái, chẳng động tĩnh

Đừng dối đem thân vào giếng trống

Không lành dữ, không tới lui

Cũng chẳng gương sáng treo đài cao

Kiến giải sơn tăng chỉ như thế

Chẳng tin theo người tạo kiếp tro./.

 

 

PHÙ ÂU CA

(Hòa Thượng Lạc Phổ)

Nguyên văn:

雲天雨落庭中水 水上漂漂見沤起 前者已滅後者生

前後相續無窮已 本因雨滴水成漚 還緣風激漚歸水

不知漚水性無殊 隨他轉變將爲異

外明瑩 内含虚

内外玲瓏若寶珠 正在澄波看似有 及乎動著又如無

有無動靜事難明 無相之中者相形 只知漚向水中出

起知水亦從漚生 權將漚水類余身 五蘊虚攒假立人

解達蘊空漚不實 方能明見本來人

Phiên âm:

Vân thiên vũ lạc đình trung thủy

Thủy thượng phiêu phiêu kiến âu thời

Tiền giả dĩ diệt hậu giả sanh

Tiền hậu tương tục vô cùng dĩ

Bổn nhân vũ trích thủy thành âu

Hoàn duyên phong kích âu quy thủy

Bất tri âu thủy tánh vô thù

Tùy tha chuyển biến tương vi dị

Ngoại minh oánh, nội hàm hư

Nội ngoại linh lung nhược bảo châu

Chánh tại trừng ba khán tự hữu

Cập hồ động trước hựu như vô

Hữu vô động tĩnh sự nan minh

Vô tướng chi trung hữu tướng hình

Chỉ tri âu hướng thủy trung xuất

Khởi tri thủy diệc tùng âu sanh

Quyền tương âu thủy loại dư thân

Ngũ uẩn hư toàn giả lập nhân

Giải đạt uẩn không âu bất thật

Phương năng minh kiến bổn lai chân

Tạm dịch:

Mây trời mưa xuống nước trước sân

Trên nước phiêu phiêu thấy bọt nổi

Bọt trước vừa tan, bọt sau sanh

Trước sau nối tiếp mãi không dứt

Ấy bởi giọt mưa nước thành bọt

Hoàn duyên gió thổi bọt thành nước

Chẳng biết nước bọt tánh không hai

Theo sự chuyển biến mà thành khác

Ngoài sáng rỡ, trong ngậm không

Trong ngoài long lanh như châu quí

Chính lúc im sóng tưởng như có

Chừng vỡ ra rồi lại thành không

Có không, động tịnh chuyện khó rành

Vô tướng bên trong có hình tướng

Chỉ biết bọt là từ nước có

Nào hay nước cũng từ bọt sanh

Tạm coi nước bọt như thân mình

Năm uẩn hư kết giả lập người

Hiểu năm uẩn không, bọt chẳng thật

Mới mong thấy rõ bổn lai chân./.

 

 

MỤC HỘ CA

(Hòa Thượng Tố Khê)

Nguyên văn:

聽說衲僧牧護 任運逍遙無住 一條百枘缾盂 便是生涯調度

爲求至理參尋 不憚寒暑辛苦 還曾四海周遊 山水風雲滿肚

内除戒律精嚴 不學威儀行步 三乘笑我無能 我笑三乘謾做

智人權立階梯 大道本無迷悟 達者不假修治 不在能言能語

披厤目視雲霄 遮莫王候不顧 道人本體如然

不是知佛去

生也猶如著衫 死也還同脫袴 生也無喜無憂 八風豈能驚怖

外相猶似癡人 肚裏非常峭措 活計雖無一前 敢與君王鬬富

愚人擺手憎嫌 智者點頭相許 那知傀儡牽抽 歌舞盡由行主

一言爲報諸人 打破畫缾歸去

Phiên âm:

Thính thuyết nạp tăng Mục Hộ

Nhiệm vận tiêu dao vô trụ

Nhất điều bách nạp bình vu

Tiện thị sanh nhai điều độ

Vi cầu chí lý tham tầm

Bất đạn hàn thử tân khổ

Hoàn tằng tứ hải chu du

Sơn thủy phong vân mãn đỗ

Nội trừ giới luật tinh nghiêm

Bất học uy nghi hành bộ

Tam thừa tiếu ngã vô năng

Ngã tiếu Tam thừa mạn tố

Trí nhân quyền lập giai thê

Đại đạo bổn vô mê ngộ

Đạt giả bất giả tu trị

Bất tại năng ngôn năng ngữ

Phi ma mục thị vân tiêu

Già mạc vương hầu bất cố

Đạo nhân bản thể như nhiên

Bất thị tri Phật khứ xứ

Sanh dã do như trước sam

Tử dã hoàn đồng thoát khố

Sanh dã vô hỉ vô ưu

Bát phong khởi năng kinh bố

Ngoại tướng do tự si nhân

Đổ lý phi thường tiễu thố

Hoạt kế tuy vô nhất tiền

Cảm dữ quân vương đấu phú

Ngu nhân bãi thủ tăng hiêm

Trí giả điểm đầu tương hứa

Na tri khôi lỗi khiên trừu

Ca vũ tận do hành chủ

Nhất ngôn vi báo chư nhân

Đả phá họa bình qui khứ.

Tạm dịch:

Nghe nói nạp tăng Mục Hộ

Mặc tình tiêu diêu chẳng trụ

Cà-sa trăm mảnh cùng bát

Ấy là sanh nhai điều độ

Để cầu tham tầm chỉ lý

Chẳng nề gian khổ nóng lạnh

Đã từng chu du bốn bể

Non nước, gió mây đầy bụng

Trong trừ giới luật tinh nghiêm

Không học oai nghi đi đứng

Ba thừa cười ta kém cỏi

Ta cười ba thừa làm càng

Người trí tạm lập thứ bậc

Đạo lớn vốn không mê ngộ

Kẻ đạt chẳng cần tu trì

Chẳng tại nơi nói chốn năng

Áo gai mắt nhìn mây xanh

Chẳng thèm ngó ngàng khanh tướng

Đạo nhân bản thể như nhiên

Chẳng phải chốn nơi biết Phật

Sống ấy giống như mặc áo

Chết là thoát khỏi áo quần

Sống thì không vui không khổ

Tám gió há làm kinh sợ

Ngoại tướng như đứa dại khờ

Trong bụng phi thường thi thổ

Cuộc sống tuy chẳng một ten (xu)

Lại dám cùng vua đầu phú

Kẻ ngu khoát tay giận ghét

Người trí gật đầu bằng lòng

Nào hay con rối múa may

Ca múa đều do người chủ

Một lời nhắn với anh em

Phá bỏ bình vẽ đi thôi./.

 

 

BA BÀI CA GƯƠNG XƯA

Thiền Sư Thái Khâm Pháp Đăng

1- Nguyên văn:

蛊道古鏡不曾見 借你時人看一徧 目前不親一纖毫

湛湛冷光凝一片

凝一片 勿背面

嫫母臨粒不稱情 潘生迴首頻嘉歎

何欣欣 何戚戚

好醜由來那箇是

只這是 轉沉醉

演苦晨窥怖走時 子細思量還有以 我問顚狂不暫迴

淚流向予聲哀哀 哽咽未能申吐聖 你頭與影悠悠哉

悠悠哉 爾許多時那裏來

迷雲開 行行攜手上高臺

Phiên âm:

Tận đạo cổ kính bất tằng kiến

Tá nễ thời nhân khán nhất biến

Mục tiền bất đỗ nhất tiêm hào

Trạm trạm lãnh quang ngưng nhất phiến

Ngưng nhất phiến Vật bối diện

Mô mẫu lâm trang bất xứng tình

Phan sanh hồi thủ tần gia thán

Hà hân hân Hà thích thích

Hảo xú do lai na cá thị

Chỉ giá thị Chuyển trầm túy

Diễn Nhã thần khuy bố tẩu thời

Tử tế tư lượng hoàn hữu dĩ

Ngã vấn điên cuồng bất tạm hồi

Lệ lưu hướng dư thanh ai ai

Ngạnh yết vị năng thân thổ thánh

Nễ đầu dữ ảnh du du tai

Du du tai, nhĩ hứa đa thời na lý lai

Mê vân khai, hành hành huề thủ thượng cao đài.

Tạm dịch:

Trọn nói gương xưa chưa từng thấy

Giúp kẻ đương thời nhìn một phen

Trước mắt chẳng thấy một may may

Trong sáng ánh quang ngưng một phiến

Ngưng một phiến, chớ quay mặt

Mô Mẫu điểm trang chẳng xứng tình

(Mô mẫu : Một bà phi của vua Hoàng Đế)

Trái lại quay đầu nhăn mặt than

Nào hớn hở, nào u buồn

Xấu đẹp do lai là cái đó

Chỉ cái đó, chuyển say mèm

Diễn-nhã sớm nhìn gương khiếp chạy

Tư lượng kỹ lưỡng còn đó mà

Ta hỏi điên cuồng chẳng tạm hồi

Lệ rơi hướng ta tiếng bi ai

Tức tưởi chưa thể tỏ lộ lời

Đầu ngươi cùng ảnh dằng dặc thay

Dằng dặc thay, anh đã từ lâu trong đó lại

Mây mê hé, tung tăng tay nắm lên cao đài.

2- Nguyên văn:

誰云古鏡無樣度 古今出入何門户 門户君看不見時

卽此爲君全顯露

全顯露

與汝二生終保護 若遇知音請益來 逢人不得輕分付

但任作見面 不須生怕怖

看取當時演寅苦多 直至如今成錯誤 如今不省影分明

還是當時同一顧

同一顧

苦苦苦

Phiên âm:

Thùy vân cổ kính vô dạng độ

Cổ kim xuất nhập hà môn hộ

Môn hộ quân khan bất kiến thời

Tức thử vi quân toàn hiển lộ

Toàn hiển lộ

Dữ nhữ nhất sanh chung bảo hộ

Nhược ngộ tri âm thỉnh ích lai

Phùng nhân bất đắc khinh phân phó

Đãn nhiệm tác kiến diện

Bất tu sanh phạ bố

Khán thủ đương thời Diễn Nhã Đa

Trực chí như kim thành thác ngộ

Như kim bất tỉnh ảnh phân minh

Hoàn thị đương thời đồng nhất cố

Đồng nhất cố

Khổ khổ khổ

Tạm dịch:

Ai bảo gương xưa không dạng độ

Xưa nay ra vào mấy môn hộ

Cửa nẻo lúc ông nhìn không thấy

Tức đó vì ông mà toàn lộ

Toàn lộ ra, cùng ông một đời luôn bảo hộ

Nếu gặp tri âm hỏi han lại

Gặp người chở khá nhẹ phân phó

Chỉ mặc cho nhìn mặt

Chẳng nên sanh ủy bố

Nhìn xem đương thời Diễn-nhã nhiều

Cho đến nay đây thành lầm ngộ

Như nay không tỉnh ảnh rõ ràng 

Vẫn là đương thời đồng nhất cố

Đồng nhất cố

Khổ! Khổ! Khổ!

3- Nguyên văn:

古鏡精明皎皎 皎皎徧照河沙 到處安名題字 除儂更有誰家

過去未來現在 諸佛鏡上纖瑕 織瑕垢蛊無物 此眞火裏蓮華

蓮華千朶萬朶 朶朶端然釋迦 誰云俱尸入滅 誰云穿膝蘆芽

不信鏡中看取 羊車鹿車牛車 時人不識古鏡 蛊道本來清淨

只看清淨是假 照淂形容不正 或員或短或長 若有纖毫俱病

勸君不如打破 鏡去瑕消可瑩 亦見杜口毘耶 亦知圓通少剩

Phiên âm:

Cổ kính tinh minh hiệu hiệu (kiêu kiêu)

Hiệu hiệu biến chiếu hà sa

Đáo xứ an danh đề tự

Trừ nông cánh hữu thùy gia

Quá khứ vị lai hiện tại

Chư Phật kính thượng tiêm hà

Tiêm hà cấu tận vô vật

Thử chân hỏa lý liên hoa

Liên hoa thiên đóa vạn đóa

Đóa đóa đoan nhiên Thích Ca

Thùy vân Câu Thi nhập diệt

Thùy vân xuyên tất lô nha

Bất tín kính trung khán thủ

Dương xa lộc xa ngưu xa

Thời nhân bất thức cổ kính

Tận đạo bổn lai thanh tịnh

Chỉ khán thanh tịnh thị giả

Chiếu đắc hình dung bất chính

Hoặc viên hoặc đoản hoặc trường

Nhược hữu tiêm hào câu bệnh

Khuyến quân bất như đả phá

Kính khứ hà tiêu khả oánh

Diệc kiến đỗ khẩu Tì Da

Diệc tri viên thông thiếu thặng.

Tạm dịch:

Gương xưa trong sáng rỡ ràng

Rỡ ràng chiếu khắp hà sa

Đến nơi an danh đề chữ

Trừ y có ai đâu nà

Quá khứ, tương lai và hiện tại

Chư Phật trên gương vết nhỏ

Vết nhỏ bẩn trọn không vật

Đó chính hoa sen trong hỏa

Hoa sen ngàn đóa muôn đóa

Đóa đóa đoan nhiên Thích-ca

Ai bảo Câu Thi nhập diệt

Ai bảo xuyên gối nhú ra

Chăng tin nhìn trong gương thấy

Xe dê, xe hươu, xe bò

Người đời không hiểu gương xưa

Trọn cho bổn lai thanh tịnh

Chỉ thấy thanh tịnh là giả

Chiếu được hình dung chẳng chính

Hoặc tròn, hoặc ngắn, hoặc dài

Nếu có mảy may đều bịnh

Khuyên ông chi bằng đả phá

Gương mất vết tiêu lung linh

Lại thấy Tỳ-da ngậm miệng

Lại biết Viên Thông thiếu thừa./.

 

 

BÀI CA THAM YẾT KHẮP TAM-MUỘI

(Long Hội Đạo Tầm Đàm Châu)

Nguyên văn:

天涯海角參知識 徧咨惠我全提力 師乃訶余退步追

省躬廓爾從兹息

報諸方 垂帶直

善財得處難藏匿 棒頭喝下露幽奇

縱去奪來看殊特

趙州關 雪嶺陟

築…峯前驗虚實 據證靈由關萬機 橫揮祖刃開三域

卷舒重重孰可委 休呈識意謾猜揣 衲子攢眉碧眼咦

黃河倒逆崑备觜

潙山牛 道吾唱

馬師奮迅呈圓相 執水投針作後規 把鏡持旛看先匠

廣陝歌 谁繮唱

擬續宫商調難況 石人慍色下鞭撾 木馬奔嘶梵天上

麗水金 藍田玉

祝融峯攢湘浪蹙 滿月澄終松韻清 雲從龍騰好觀矚

Phiên âm:

Thiên nhai hải giác tham tri thức

Biến tư huệ ngã toàn đề lực

Sư nãi kha dư thoái bộ truy

Tỉnh cung khuếch nhĩ tùng tư tức

Đỗ chư phương thùy đái trực

Thiện Tài đắc xứ nan tàng nặc

Bổng đầu hát hạ lộ u kỳ

Túng khứ đoạt lai khán thù đặc

Triệụ Châu quan, tuyết lĩnh trắc

Trúc... phong tiền nghiệm hư thật

Cứ chứng linh do tịch vạn cơ

Hoành huy Tổ nhận khai tam vực

Quyển thư trùng trùng thục khả ủy

Hưu trình thức ý mạn sai sủy

Nạp tử toàn mi bích nhãn di

Hoàng Hà đảo nghịch Côn Lôn chùy

Qui Sơn ngưu, Đạo Ngô xướng

Mã Sư phấn tấn trình viên tướng

Chấp thủy đầu châm tác hậu quy

Bả kính trì phan khán tiên tượng

Quảng Lăng ca Thùy kế xướng

Nghĩ tục cung thương điều nan huống

Thạch nhân uấn sắc hạ tiên qua

Mộc mã bôn tư phạm thiên thượng

Lệ Thủy kim Lam Điền ngọc

Chúc Dung phong toàn Tương Lãng túc

Mãn nguyệt trừng khê tùng vận thanh

Vân tùng long đằng hảo quan chúc.

Tạm dịch:

Chân trời góc bể tham tri thức

Khắp chốn huệ ta toàn đề lực

(nêu ra triệt để, siêu việt ngôn ngữ)

Sư liền nạt ta lui bước đi

Tỉnh cung khuếch nhĩ tùng tư tức

Nhìn các nơi, thùy đái trực

Thiện Tài được chỗ khó trốn núp

Đầu gậy nạt đùa, lộ u kỳ

Buông đi đoạt lại xem đặc kỳ

Ải Triệu Châu, sườn Tuyết lĩnh

Cất am ngọn núi xem hư thực

Cứ chứng linh do mở muôn cơ

Huơ ngang đao Tổ khai ba vực

Cuốn mở trùng trùng ai ủy khuất

Thôi trình thức ý dối suy lường

Ông tăng nhíu mày, mắt biếc gào

Hoàng Hà chảy ngược mỏm Côn Lôn

Qui Sơn làm bò, Đạo Ngô la hét

Mã sư khấp khởi trình tướng tròn

Bát nước bỏ kim làm hậu quy

(Tổ Ca-na-đề-bà bỏ kim vào bát nước của Tổ Long Thọ)

Nằm gương cầm phướn xem tiên tợ (Tiên tợ là Thiền sư lỗi lạc)

Quảng Lăng ca, ai tiếp hát

Định nối cung thương điệu khó hòa

Người đá khê sắc hạ roi vọt

Ngựa gỗ phóng hỉ trên Phạm thiên

Vàng Lệ Thủy, ngọc Lam Điền

Chúc Dung phong toản sóng Tương giục

Đầy trăng trong vắt vận tòng êm

Mây theo rồng dậy xem kỹ càng./.

 

 

HAI BÀI NGÂM NGOẠN CHÂU

(Hòa Thượng Đan Hà Thiên Nhiên)

1- Nguyên văn:

船若靈珠妙難測 法性海中親認得 隱顯常遊五薇中

内外光明大神力 此珠非大亦非小 畫夜光明皆悉照

免时無物又無蹤 起坐相隨常了了 黃帝曾遊於赤水

爭聽爭求都不遂 罔象無心却得珠 能見能文是虚僞

吾師權指喩摩尼 採人無數溺春士 爭拈瓦礫將爲寶

会者安然而得之 森羅萬象光中現 體用如如轉非轉

萬機消遣寸心中 一切时中巧方便

燒六根 爍衆魔

能摧我山竭愛河 龍女靈山親瓦佛 貧兒衣下幾蹉跎

亦名性 亦名心

非性非心超古今 全體明时明不得 權時題作弄珠吟

 

Phiên âm:

Bát nhã linh châu diệu nan trắc

Pháp tánh hải trung thân nhận đắc

Ẩn hiển thường du ngũ uẩn trung

Nội ngoại quang minh đại thần lực

Thử châu phi đại diệc phi tiểu

Trú dạ quang minh giai tất chiếu

Mịch thời vô vật hựu vô tung

Khởi tọa tương tùy thường liễu liễu

Hoàng đế tàng du ư Xích Thủy

Tranh thính tranh cầu đô bất toại

Võng tượng vô tâm khước đắc châu

Năng kiến năng văn thị hư ngụy

Ngô sư quyền chỉ dụ ma-ni

Thái nhân vô số nịch xuân trì

Tranh niêm ngõa lịch tương vi bảo

Trí giả an nhiên nhi đắc chi

Sum la vạn tượng quang trung hiện

Thể dụng như như chuyển phi chuyển

Vạn cơ tiêu khiển thốn tâm trung

Nhất thiết thời trung xảo phương tiện

Thiêu lục tặc, thước chúng ma

Năng tồi ngã sơn kiệt ái hà

Long nữ Linh Sơn thân kiến Phật

Bần nhi y hạ kỷ tha đà

Diệc danh tánh, diệc danh tâm

Phi tánh phi tâm siêu cổ kim

Toàn thể minh thời minh bất đắc

Quyền thời đề tác lộng châu ngâm.

Tạm dịch:

Châu linh Bát-nhã diệu khó trắc

Trong biển pháp tánh thân nhận đắc

Ân hiện thường du trong năm uẩn

Trong ngoài sáng rỡ đại thân lực

Châu nay không lớn cũng không nhỏ

Ngày đêm sáng rỡ đều chiếu rực

Lúc tìm không vật lại không dấu

Dậy ngồi đều theo hết mực

Hoàng Đế từng chơi nơi Xích Thủy

Tranh nghe tranh cầu đều bất lực

Võng tượng không tâm lại được châu

Hay thấy hay nghe là hư ngụy

Thầy ta tạm ví với ma-ni

Người rứt vô số chìm xuân trì

An nhiên lại được là người trí

Sum la vạn tượng hiện trong sáng

Thể, dụng như như chuyển chẳng chuyển

Muôn cơ tiêu khiển trong tấc lòng

Nhất thiết trong thời phương tiện chuyên

Thiêu sáu giặc, đốt bầy ma

Hay bẻ núi Ta cạn sông yêu

Long Nữ Linh Sơn thân hiến Phật

Thăng nghèo chéo áo luống tha đà

Cũng gọi tánh, cũng gọi tâm

Chẳng tánh, chẳng tâm siêu cổ câm

Toàn thể lúc sáng, sáng chẳng được

Tạm thời đề gọi ‘Lộng châu ngâm’./.

2- Nguyên văn:

誠得衣中寶 無明醉自醒 百骸雖潰散 一物鎮長靈 知境渾非體 神珠不定形 悟則三身佛 迷疑萬卷經 在心心可測 歷耳耳難聽 罔象先天地 玄泉出杳冥 本刚非鍛鍊 元淨莫澄淨 盤泊輪朝日 玲瓏映曉星 瑞光流不滅 眞氣觸還生 鑒照崆峒寂 羅籠法界明 挫凡功不滅 超聖果非盈 龍女心親獻 闍王口自呈 護鵝人却活 黃雀意猶輕 解語非關舌 能言不是聲 絕邊彌汗漫 無際等空平

演敎非爲說 聞名勿認名 兩邊俱莫立 中道不須行 見月休觀指 還家罷問呈 識心心則佛 何佛更堪成

Phiên âm:

Thức đắc y trung bảo

Vô minh túy tự tỉnh

Bách hài tuy hội tán

Nhất vật trấn trường linh

Tri cảnh hồn phi thể

Thần châu bất định hình

Ngộ tắc tam thân Phật

Mê nghi vạn quyển kinh

Tại tâm tâm khả trắc

Lịch nhĩ nhĩ nan thính

Võng tượng tiên thiên địa

Huyền tuyền xuất yểu minh

Bổn cương phi đoạn luyện

Nguyên tịnh mạc trừng đình

Bàn bạc luân triêu nhật

Linh lung ánh hiểu tinh

Thụy quang lưu bất diệt

Chân khí xúc hoàn sanh

Giám chiếu không đỗng tịch

La lung pháp giới minh

Tỏa phàm công bất diệt

Siêu Thánh quả phi doanh

Long nữ tâm thân hiến

Đồ vương khẩu tự trình

Hộ nga nhân khước hoạt

Hoàng tước ý do khinh

Giải ngữ phi quan thiệt

Năng ngôn bất thị thanh

Tuyệt biên di hãn mạn

Vô tế đẳng không bình

Diễn giáo phi vi thuyết

Văn danh vật nhận danh

Lưỡng biên câu mạc lập

Trung đạo bất tu hành

Kiến nguyệt hưu quan chi

Hoàn gia bãi vấn trình

Thức tâm tâm tắc Phật

Hà Phật cánh kham thành.

Tạm dịch:

Biết được báu trong áo

Say vô minh tự tỉnh

Trăm xương tuy tan rã

Một vật trấn trường linh

Biết cảnh toàn chẳng thế

Thần châu chẳng định hình

Ngộ tức ba thân Phật

Mê nghi muôn quyển kinh

Tại tâm tâm khá lường

Xuyên tai tai chẳng thính

Võng tượng trước trời đất

Suối huyền xuất tra minh

Vốn cứng không do luyện

Chẳng lọc vì nguyên tịnh

Vành trời sáng bàn bạc

Sao sớm sáng lung linh

Ánh lành chiếu chẳng dứt

Chân khí đụng hoàn sinh

Giám chiếu núi Không Đổng

Lưới lồng pháp giới minh

Bẻ phàm công không dính

Siêu Thánh quả không dầy

Long Nữ tâm thân hiến

Xà Vương miệng tụ trình

Hộ nga người lại sống

Sẻ vàng ý do khinh

Biết nói không do lưỡi

Nói được chẳng là thinh

Tuyệt biên di hãn mạn

Chẳng mé đẳng không bình

Diễn giảo không là nói

Nghe danh chớ nhận danh

Hai mé đều chẳng đứng

Trung đạo chẳng tu hành

Thấy trăng thôi nhìn ngón

Tới nhà chẳng hỏi đàng

Hiểu tâm tâm là Phật

Phật đâu để mà thành./.

 

 

HOẠCH CHÂU NGÂM

(Trưởng Lão Quan Nam)

Nguyên văn:

三界兮如幻 六道兮如夢

聖賢出世兮如電 國土猶如水上泡 無常生滅日遷變

唯有摩訶船若堅 猶若金刚不可鑽 輭似兜羅大等空

小極微塵不可見 擁之令聚而不聚 撥之令散而不散

侧耳欲聞而不聞 瞪目觀之而不見

歌復歌 盤陀石上笑呵呵 笑復笑

青松影下高聲叫 自從獲得此心珠 帝—輪王俱不要

不是山僧獨施爲 自古先賢作此調

不坐禪 不修道

任運逍遙只麼了 但能萬法不干懷 無始何曾有生老

Phiên âm:

Tam giới hề như ảo, lục đạo hề như mộng

Thánh Hiền xuất thế hề như điện

Quốc độ do như thủy thượng bào

Vô thường sanh diệt nhật thiên biến

Duy hữu Ma-ha Bát nhã kiên

Do nhược Kim Cương bất khả toản

Nhuyễn tự đâu la đại đẳng không

Tiểu cực vi trần bất khả kiến

Ủng chi linh tụ nhi bất tụ

Bát chi linh tán nhi bất tán

Trắc nhĩ dục văn nhi bất văn

Trừng mục quan chi nhi bất kiến

Ca phục ca, bàn đà thạch thượng tiếu ha ha

Tiếu phục tiếu, thanh tùng ảnh hạ cao thanh khiếu

Tự tùng hoạch đắc thử tâm châu

Đế Thích Luân vưomg câu bất yếu

Bất thị sơn tăng độc thi vi

Tự cồ tiên hiền tác thử điều

Bất tọa thiền, bất tu đạo

Nhiệm vận tiêu diêu chỉ ma liễu

Đãn năng vạn pháp bất can hoài

Vô thỉ hà tằng hữu sanh lão

Tạm dịch:

Ba giới ấy như ảnh, sáu nẻo à như mộng

Thánh hiền ra đời à như điện

Quốc độ giống như bọt trên nước

Vô thường sanh diệt ngày biến đổi

Chỉ Ma-ha Bát-nhã là bền

Giống như kim cương không thể khoan

Mềm như Đâu-la (1) chẳng có gì

Nhỏ hơn vi trần không thể thấy

Bóp lại bảo tụ không thể tụ

Khều ra bảo tan không thể tan

Lắng tai muốn nghe không thể nghe

Nhướng mắt cố nhìn mà không thấy

Ca lại ca, trên phiến đá kia cười ha ha

Cười lại cười, dưới bóng tòng xanh lớn tiếng gọi

Từ ngày có được ngọc tâm này

Đế thích, Luân vương cũng chẳng màng

Chẳng tọa Thiền, chẳng tu đạo

Mặc tình tiêu diêu chi như thế

Lại hay vạn pháp chẳng để tâm

Vô thỉ hồi nào có sanh lão./.

Chú (1): Đâu-la Skt là tùla, chỉ bông gòn, bông vải mềm.

 

 

HAI BÀI CA KHUYÊN GIÁC NGỘ

Hòa Thượng Hương Nghiêm Trí Nhàn

1- Nguyên văn:

滿口語 無處說

明明向人道不決

急著力 勤咬餐

無常到來救不徹 日裏語暗磋切 快磨古錐淨挑揭

理盡覺 自護持

此生事 終不說

玄覺求他古老吟 禪學須窮心影絕

Phiên âm:

Mãn khẩu ngữ,  vô xứ thuyết

Minh minh hướng nhân đạo bất quyết

Cấp trước lực, cần giảo niết

Vô thường đáo lai cứu bất triệt

Nhật lý ngữ ám tha thiết

Khoái ma cổ trùy tịnh khiêu yết

Lý tận giác, tự hộ trì

Thử sanh sự, chung bất thuyết

Huyền Giác cầu tha cổ lão ngâm

Thiền học tu cùng tâm ảnh tuyệt.

Tạm dịch:

Đầy miệng lời, không chỗ thuyết 

Rõ rành hướng người nói chẳng quyết

Gấp trước lực, ngậm miệng thôi

Vô thường ập đến cứu không triệt

Dưới trời lời lẽ ám sai thiết

Mau mài chùy xưa tịnh thiêu yết

Lý hiển trọn, tự hô trì

Thử sanh sự, rốt chẳng thuyết

Huyền học cầu tha cổ lão ngâm

Thiền học nên cùng tâm ảnh tuyệt./.

2- Nguyên văn:

歸寂吟贈同住

同住道人七十餘 共辭城郭樂山居 身如寒木心牙絕

不話唐言休梵書 心期蛊處心雖喪 如來弟子沙門樣

深信共崇钵塔成 巍巍持在青山掌 觀夫參道不虛鉉

脫去形骸甚高上 從來不說今朝事 暗理埋頭隱玄暢

不留蹤迹異人間 深妙神光飽明亮

Phiên âm: Qui tịch ngâm tặng Đồng Trụ

Đồng Trụ đạo nhân thất thập dư

Cộng từ thành quách lạc sơn cư

Thân như hàn mộc tâm nha tuyệt

Bất thoại Đường ngôn hưu Phạn thư

Tâm kỳ tận xứ thân tuy táng

Như Lai đệ tử sa-môn dạng

Thâm tín cộng sùng bát tháp thành

Nguy nguy trì tại thanh sơn chưởng

Quan phù tham đạo bất hư nhiên

Thoát khứ hình hài thậm cao thượng

Tùng lai bất thuyết kim triêu sự

Ám lý mai đầu ẩn huyền sướng

Bất lưu tung tích dị nhân gian

Thâm diệu thần quang bão minh lượng

Tạm dịch: Bài ngâm quy tịch tặng Đồng Trụ

Đồng Trụ đạo nhân bảy mươi dư

Giã từ thành quách núi non cư

Thân như cây lạnh tâm nha tuyệt

Chăng nói tiếng Đường dứt Phạn thư

Tâm là trọn xứ thân tuy mất

Đệ tử Như Lai dạng Sa-môn

Tin sâu công sùng bát tháp thành

Sừng sững đặt tại thanh sơn chướng

Xem kìa tham đạo chẳng hư nhiên

Thoát bỏ hình hài thật cao thượng

Trước giờ chẳng nói chuyện hôm nay

Trong tối giấu đầu ẩn huyền sướng

Chẳng lưu giấu tích khác cõi đời

Thâm diệu thần quang no minh lượng./.

 

 

TÂM CHÂU CA

(Hòa Thượng Thiều Sơn)

Nguyên văn:

山僧自達空門久 淬鍊心珠功已搆 珠迫玲瓏主客分

往往聲如師子吼 師子吼 非常義

皆明佛性眞如現 有時往往自思惟 豁然大意心歡喜

或造經 或造論

或說漸兮或說頓 若在諸佛運神通 或在凡夫興鄙格

此心珠 如水月

地角天涯無殊別 只因迷悟有參差 所以如來多種說

地狱趣 餓鬼趣

六道輪迪無暫住 此非诸佛不慈悲 豈是閭王配交做

勸時流 深體悉

見在心珠勿浪失 五蘊身全尚不知 百骸散後何處見

Phiên âm:

Sơn tăng tự đạt không môn cửu

Thối luyện tâm châu công dĩ cấu

Châu huýnh linh lung chủ khách phân

Vãng vãng thanh như sư tử hống

Sư tử hống, Phi thường nghĩa

Giai minh Phật tánh chân như lý

Hữu thời vãng vãng tự tư duy

Khoát nhiên đại ý tâm hoan hỉ

Hoặc tạo kinh, hoặc tạo luận

Hoặc thuyết tiệm hề hoặc thuyết đốn

Nhược tại chư Phật vận thần thông

Hoặc tại phàm phu hưng bỉ lậu

Thử tâm châu, như thủy nguyệt

Địa giác thiên nhai vô thù biệt

Chỉ nhân mê ngộ hữu sâm sai

Sở dĩ Như Lai đa chủng thuyết

Địa ngục thú, ngạ quỷ thú

Lục đạo luân hồi vô tạm trú

Thử phi chư Phật bất từ bi

Khởi thị Diêm Vương phối giao tố

Khuyến thời lưu thâm thể tất

Kiến tại tâm châu vật lãng thất

Ngũ uẩn thân toàn thượng bất tri

Bách hài tán hậu hà xứ mịch

Tạm dịch:

Sơn tăng tự đạt cửa không lâu

Tôi luyện tâm châu công đã thành

Châu sáng long lanh chủ khách phân

Thường khi tiếng vang sư tử rống

Sư tử rống, nghĩa chẳng thường

Đều tỏ Phật tánh lý chân như

Có khi thỉnh thoảng tự tư duy

Bỗng nhiên đại ý tâm hoan hỷ

Hoặc tạo kinh, hoặc soạn luận

Hoặc nói tiệm rồi lại nói đốn

Như tại chư Phật vận thần thông

Hoặc tại phàm phu nổi dè sẻn

Tâm châu này như Trăng dưới nước

Góc đất, chân trời chẳng khác biệt

Chỉ nhân mê ngộ mới khác nhau

Cho nên Như Lai nói đủ cách

Đường địa ngục, nẻo quỷ đói

Sáu nẻo luân hồi chẳng tạm dừng

Chẳng phải chư Phật không từ bi

Hả lại Diêm vương cùng phối hợp

Khuyên thời lưu, thể tất sâu

Tâm châu có được đừng mất lãng

Ngũ uẩn thân kia còn chưa biết

Hài cốt tan rồi tìm nơi đâu?

 

 

Bài Cuối Quyển Thứ 30

Lời Thị Chúng Của Trưởng Lão Chùa Huê Nghiêm Ngụy Phủ

 

Phật pháp tại chuyện dùng hằng ngày. Tại nơi các vị nằm ngồi đứng đi. Cùng là nơi ăn cơm uống trà, hay chỗ lời lẽ hỏi han. Làm này, làm nọ, khởi tâm động niệm. Mà lại cũng không phải thế. Lãnh hội không ? Nếu lãnh hội thì nay đây chân nhân vô ngại, tự tại. Nếu không lãnh hội, thì là người có tội nặng bị cùm xích gông xiềng. Tại sao như thế ? Phật pháp không xa cách trần sa kiếp. Các vị trong một niệm là thấy ngay. Ở tại lông mày, lỗ mũi các vị. Như các vị không thấy được thì chẳng khác nào nối trúc khều trăng. Tại chỗ xin đừng suy nghĩ, chẳng nên nói năng. Trong ngày các vị hưởng ân lực gì. Nếu biết được, các vị nên có chỗ hoan hỷ. Người xưa nói: ‘Thường lặng lặng, thường lịch lịch. Chư Phật chẳng cầu tìm’. Chúng sanh đoạn tin tức. Các vị có lãnh hội được không ? Tất cả các pháp vốn vô tình. Tất cả chư Phật vốn tự linh. Hỗn nhiên đồng thái hư. Không thiếu cũng không dư. Lãnh hội không ? Nếu không lãnh hội thì ngay đó đụng đâu cũng kẹt. Chẳng hiểu chỗ lạc địa của thân này. Man mát kiếp đời, chỉ là luyến vặt trước cảnh, nhận sắc là thật. Không buông ân ái, si mê tiền của, lập ta, tranh người. Một khối ý khí, mà mấy vi tình. Mặt xanh, mặt đỏ, nói mạnh nói yếu. Ta không để người lừa dối, ta là kẻ đại trượng phu. Nuôi vợ, nuôi con mà không biết đó là ở trong biển nghiệp, ở tại hầm tội. Ăn thịt như quỷ đói nuốt thây ma, nốc rượu như chó điên táp nước. Ái sắc như ruồi đói thọc mồm vô máu. Không biết thân này là đại họa hoạn, nối tiếp vô minh, nuôi dưỡng ngu muội ý khí. Chẳng bao lâu tan rã, chết uổng, sống hờ, kéo dài ngàn kiếp, nổi chìm đâu đâu. Sao chẳng biết giữ gìn thân thể kiên cố như kim cương, đạo pháp trường sanh bất diệt. Trong đời, đầu ù ù, miệng cạc cạc, mắt nháy lia, quỷ vô thường đến trước giường mà vẫn để lòng luyến tiền, tiếc của, bỗng chốc bị dẫn tới gặp lão Diêm vương, chẳng cho phân trần lời nào mà phải trải qua lắm trò vạc sôi lò nóng, cột đồng, rừng dao. Tới lúc đó hối lại thì một đại đoạn không thể miễn rời. Như nay các vị bệnh chưa tìm đến thân, thì tại sao 12 thời trong ngày lại chẳng cầu một chút thiện lợi, bắc cầu, đắp bến. Sắc thân ảo hóa này, bằng vào đâu làm sự thật. Chư Phật trong quá khứ để lại kinh, tạo ra luận, cùng nhất thiết thiện pháp để người sơ học các vị hối tội, sám chướng, dần dần tăng trưởng lợi ích, cầu bậc đại thiện tri thức giải bày pháp môn giải thoát, hướng vô minh tánh nhận ra vị chủ nhân chân thật. Trong muôn kiếp được làm thân người đâu phải chuyện dễ. Các vị nên biết, bản tánh của thân mình và Phật cùng lúc vốn không khiếm thiếu. Có một chuyện lớn tại bọng đái, đầu phân của các vị, sáng láng, tròn trịa. Các vị có tin tới không ? Nếu tin không tới, thì các vị sẽ vĩnh viễn trầm luân trong biển lớn, hầm sâu tội lỗi. Nếu các vị hồi quang phản chiếu, trong một sát-na tức trong một niệm, cuồng tình, mê hoặc phiền não, ngu tối, tức khắc ngừng tắt. Cảnh giới chư duyên sẽ biến thành quốc độ an lạc đề hồ cam lồ. Há chẳng tốt đó sao ? Thánh nhân nói: ‘Vạn vật theo tâm sanh ra, vạn vật theo tâm mà diệt’. Tất cả đều do tâm các vị. Thiện ác cũng đều do tâm các vị. Địa ngục, thiên đường cũng chỉ do tâm các vị. Chỉ nay nên tương ưng cùng Phật hiệp lại nhất trí, thì ấy chính là Phật vậy, chẳng có chi sai khác, dối gạt. Tức khắc tin tưởng chẳng nghi. Tâm là chánh giác, lại hà tất phải trải qua qua a-tăng-kỳ kiếp. Thân này đời này thật là khó gặp. Đừng có nói ta là phàm phu mà thành ra tự thoái khuất mình. Ngàn kinh, muôn luận cũng chẳng qua vì chúng sanh mê loạn không biết bản tánh. Các vị hãy tạm thời dùng ít công phu tham vật mà xem nghĩa lý của kinh sách chi nói chúng sanh nhất thiết cảnh nhiếp, cùng là trước dục. Sơn tăng ta khổ khẩu, thật ra chỉ lo đau đáu. Các vị chấp nhận không ? Có tin tưởng không ? Bình thường chịu ít đỉnh vi tình nóng lạnh, chịu cay, chịu đắng không nổi, lại trong công việc hằng ngày tự mình không tỉnh ngộ, chỉnh đốn tâm tốt, hay thân tốt. Trăm năm qua như tên xẹt, giàu sang như mộng, ân tình cũng chẳng bền lâu. Trăm năm chẳng mấy ngày, đầu bạc là bệnh tới, bệnh là nghiệp trái đến đòi, nghiệp trái là chết đến, chết là địa ngục. Các vị chớ có nói ta bình sanh lòng lành làm việc thiện, chỉ y theo bổn phận, không làm điều gì ác, ta không có tội lỗi. Khỏi nói các vị có chỗ sanh tốt, ta ngay hôm nay còn chưa tin các vị. Tại sao thế ? Các vị bình đẳng tại chỗ nào ? Các vị có biết không ? Không theo Phật pháp, tất cả các pháp khác đều là kiến giải của tà pháp ngoại đạo. Cũng đừng nói đảm nhân, đảm ngã, tham sắc thích tiền, ăn cá, ăn thịt, vọng ngôn, vọng ngữ, ngày phí kể trên, tội nghiệp rất nặng. Các vị đừng có nói tôi bỏ tiền ra tạo tháp, xây điện, thiết trai, thỉnh kinh là được công đức dài lâu. Cho đó là thật đi nữa, cũng chưa thề nương tựa được. Trong chúng, lão Hòa thượng cũng không thể thay cho các vị, các vị có biết không ? Các vị có muôn ngàn loại tội nghiệp vô minh, Phật cũng không giúp thay cho các vị được, vấn đề là do nơi tự mình cố gắng, tiền trình tự biện. Các vị nếu chỉ tạo được các công đức hữu vi, đó cũng chỉ là tạo nghiệp. Tăng trưởng phước ngu khờ mà không sanh tri kiến thanh tịnh, sơn tăng tuy cầu được cúng dường, nhưng đêm ngày không an, mảng lo là không đúng. Có lãnh hội không ? Mặc cho các vị hướng về lão túc các nơi cười ta, cũng hiềm ta không được. Muốn hỏi các thí chủ có tiền, nghĩ rằng các vị không giúp đở kẻ khác, không cứu bạt người khổ sở. Nên cố ăn thôi, nên cố làm thôi, nên cố tu hành thôi, nên cố độ thân này thôi, nên sám hối tâm thôi, sám hối tâm thôi. Xin tạm biệt!

 

PHỤ LỤC

Quan Hàn Lâm học sĩ Công Bộ Thị Lang tặng Thượng thư Bộ Lễ Văn Công Dương Ức Kiêm nhiệm Bí thư Giám Tri Nhữ Châu từng có bài thơ gửi Lý Duy trong đó trưng tập đầu đuôi sư thừa

 

Kẻ bệnh tôi khẩn ngu xuẩn lại nhận được tưởng thưởng. Từng nghe chỉ yếu của Nam Tông Tào Khê từ lâu bồi đắp thượng quốc chi du. Động tịnh tư tuân chu toàn sách phát, khiến cho có việc mổ tâm, nhìn mặt vào vách mà không hổ thẹn, thành xuất nơi dưới giường của pháp tịch.

Huống có An Công đại sư, thường dạy bảo rằng: ‘Từ diệt ảnh nơi Song Lâm, đến chiếc dép trở về Tây, trung tâm thẳng bằng, khôn biết đâu là chỉ ý. Nhưng do tháng rộng năm dài chìm đắm, thần lự mê hoảng, hại đến tiểu gian, tái biện phương vị. Lại được Vân Môn Lương công Đại sĩ xem đến cảo bồng. Chỉ thú của Thanh Lương chính là cùng với An Công đồng vết xe. Lại tính từ Vân Cư Qui Tông Lô Sơn đến nay, đều là lưu duệ của Đại Pháp Nhãn. Năm ngoái tại thú quận này vừa hay gặp được Thiền bá Quảng Tuệ thật là thừa tự Nam Viện Niệm, Niệm nối tự Phong Huyệt, Phong Huyệt thừa tự Nam Viện. Trước, Nam Viện nối tự Hưng Hóa, Hưng Hóa nối tự Lâm Tế, Lâm Tế nối tự Hoàng Bá, Hoàng Bá nối tự Bách Trượng Hoài Hải, Hoài Hải nối tự Mã Tổ, Mã Tổ nối tự Hòa thượng Hoài Nhượng. Hoài Nhượng chính là trưởng đích tử của Tào Khê.

Trong bữa chay nhằm giản tiện, ăn xong nhiều nhàn rỗi. Hoặc ngồi mời gọi đến, hoặc mệnh đánh xe theo gót, thưa hỏi khắp nơi. Mù mờ ngưng kẹt bỗng tháo mở. Chỉ sau nửa năm, khoáng nhiên hết nghi, như quên trực nhớ, như ngủ say bỗng thức dậy. Vật ngăn trong ngực từ trước giớ bỗng bất chợt tự rơi. Chuyện chẳng rõ rành từ bao kiếp, lô lộ hiện trước mặt. Cho nên lại cũng quyết trạch động phần, ứng tiếp chẳng lập vật. Niệm sâu tiên đức suất nhiều tham tầm, như Tuyết Phong chín lần đến Động Sơn, ba lần đến Đầu Tử, lại nối tự Đức Sơn. Lâm Tế đắc pháp với Đại Ngu mà rốt lại nối tự Hoàng Bá. Vân Nham mong được Đạo Ngô tận tình dạy dỗ, rốt lại làm đích tử của Dược Sơn. Đan Hà Thiên Nhiên đích thân thừa Mã Tổ ấn khả nhưng lại làm hậu duệ của Thạch Đầu. Tại xưa có nhiều tình trạng như thế, nơi lý chẳng có chi hiềm. Duyên kế thiệu của kẻ bệnh tôi nay thật thuộc Quảng Tuệ, nhưng chuyện đề kích do nơi Ngao Sơn vậy. Hân hạnh, hân hạnh !

 

 

THỊ LANG HỎI ĐÁP, LUẬN BÀN CÙNG NHIỀU NGƯỜI

 

Thị lang hỏi Hòa Thượng Quảng Tuệ:

- Thường thừa mong Hòa thượng có lời: ‘Mọi loại tội nghiệp đều do tiền tài và châu báu sanh ra. Khuyên người nên lìa xa tài lợi. Huống chi chúng sanh ở Nam Diêm-phù-đề lấy tiền tài làm sanh mạng. Các bang, các nước lấy tiền tài qui tụ người. Trong Giáo có tài và pháp hai thứ thí’. Tại sao lại khuyên người lìa xa tiền tài ?

Quảng nói:

- Trên đầu cán phướn nhọn đầu rồng sắt.

Thị lang nói:

- Hai đàn ngựa con lớn như lừa.

Quảng nói:

- Gà Sở chẳng phải phụng núi Đan.

Thị lang nói:

- Phật diệt 2.000 năm, Tỳ-kheo ít người biết hổ thẹn.

***

Thị lang hỏi môn tăng Biểu Trừng:

- Thừa mong có lời: Trên trời không Di Lặc, dưới đất chẳng Di Lặc’. Xin hỏi Di Lặc ở tại chỗ nào ?

Biểu Trừng nói:

- Tay leo cây.

Thị nói:

- Tội có chỗ qui về.

Trừng nói:

- Người biết lỗi khó được.

Thị nói:

- Ăn gậy đấy !

Trừng hét lên. Thị nói:

- Bỏ qua lỗi tức chẳng thể.

***

Thị lang hỏi Phò mã Lý:

- Đức Thích-ca khổ hạnh trong sáu năm thành tựu được chuyện gì ?

Phò mã đô úy (1) đáp:

- Đòn gánh gãy, biết củi nặng.

Thị hỏi:

- Một kẻ mù dẫn đám mù thì thế nào ?

Phò mã nói:

- Dĩ nhiên.

Phò mã liền thôi.

***

Hoàng đế Đồng Quang hỏi Hòa thượng Hưng Hóa:

- Trẫm thâu được báu vật của Trung Nguyên, hiềm nổi chẳng ai định giá được.

Hưng Hóa nói:

- Xin tạm mượn báu vật của Bệ hạ xem.

Đế lấy tay tháo cái dải bịt đầu. Hưng Hóa nói:

-Vật báu của nhà vua, ai mà dám đánh giá.

Huyền Giác nói:

- Mắt của Hưng Hóa ở tại nơi nào ? Nếu không chịu, lỗi tại chỗ nào ? 

Thị nói:

- Hưng Hóa đối đáp thế là khẳng chịu Trang Tông hay chẳng khẳng chịu Trang Tông ? Hãy thử biện biệt xem nào !

***

Nhân tăng nói về đạo, Thị lang nói:

- Đạo chẳng rời người, người hay hoằng đạo. Phàm người tham học, trong 12 thời nên luôn chiếu cố. Há chẳng nghe Nam Tuyền nói: ‘Ba mươi năm coi chừng một con trâu tơ. Nếu nó giẫm đạp lúa mạ của người thì nắm dây mũi kéo về. Như nay biến thành con trâu trắng ngoài chỗ trống. Buông ra thong thả cũng không chịu đi’. Các ông phải dài lâu thể trước ít đỉnh tinh thái chớ không thể nói lúc bàn Thiền đạo, liền có đạo lý chiếu đái. Lúc làm rẫy, nhổ cải, chẳng khá không vậy. Như gà ấp trứng, nếu mà quăng nó đi chỗ khác, sức nóng không tiếp xúc được, liền không nở thành gà con. Như nay đây vạn cảnh sum la, sáu căn phiền động, tạm mất chiếu cố, liền táng thân mạng. Chẳng phải chuyện nhỏ. Từ đây thọ duyên sanh này, bị sanh tử trói buộc, ấy bởi từ bao đời kiếp tới giờ, thuận sanh diệt tâm, tùy tha lưu chuyển, cho đến hôm nay. Các ông hãy nói xem, nếu từng táng thất thì làm sao còn đến hôm nay. Có muốn con trâu trắng ở khoảng trống chăng. Thử nắm dây giàm mũi nó kéo xem.

Thị lang nói:

- Hòa thượng Huyền Sa Sư Bị nói: Trong nước Đại Đường đây, chuyện trong Tông môn chưa từng có người cử xướng. Có người cử xướng thì người trọn đại địa đều mất cả tánh mạng, giống như cây dùi sắt điếc đặc (1). Nhất thời quên mũi nhọn kết lưỡi. Hãy nói xem đó là đạo lý gì ? Như nay đây giả lập khách chủ, lép nhép hai vành môi, đưa đầu ngón tay, giơ cây xơ quất, toàn thành tri kiến điên đảo. Thuận theo ý điên cuồng của ông, dạy ông có chổ hỏi han. Nếu trước người sáng mắt thì làm sao đưa hứng được. Còn như Hòa thượng Lổ Tổ thấy tăng đến tham yết liền quay qua nhìn vách, Trường Khánh nói: Tiếp dẫn người như thế thì năm con lừa mới được một kẻ nửa người. Ta nói Lỗ Tổ cũng là chẳng biết thẹn. Là người sáng mắt sao lại khẳng chịu như thế nhĩ ? Chuyện từ đây về sau bất đắc dĩ cùng với các ông làm chuyện tri kiến điên đảo. Như xếp khăn thành ngựa, nặn mắt sanh hoa đốm. Thượng Tổ nói: ‘Khai tri kiến Phật, chỉ thị tri kiến Phật, ngộ tri kiến Phật, vào tri kiến Phật’. Bảo họ nói thế nào ? Ngước cúi ít nhiều uy quang. Hãy nói xem bổn phần thượng các ông thiếu khuyết cái gì nào ? Tuy nhiên dù là như vậy, nếu ta chẳng cùng với các ông nghe biết như thế, các ông lại thấy được ở chỗ nào ? Người xưa nói: ‘Kẻ biết ơn rất ít’. Hãy nói xem mang ơn của ai vậy ? Nơi đó mà chẳng rành rõ thì hãy hỏi cây lộ trụ kia đi !

Chú (1)Nguyên văn ‘Vô khổng thiết chùy’ nghĩa đen là cây dùi sắt đặc ruột. Thiền lâm dùng dụng ngữ này để chỉ cho kẻ tối dạ không thể giúp cho lãnh hội sự lý được.

***

Thị lang nói:

- Chuyện ấy rất khó. Lão Thích-ca kia suy nghĩ năm ba hôm liền muốn vào Niết-bàn, bị Đế thích, Phạm vương ân cần ba lần thỉnh cầu, bất đắc dĩ phải đồng ý. Cho nên khởi từ Lộc Uyển mà kết thúc nơi thành Câu-thi-la, khoảng giữa 49 năm làm Phật sự, nói năm thừa, mười hai phần giáo, như bình trút nước, về sau tại hội Linh Sơn, mắt nhìn Ca-diếp nói với đại chúng rằng: Ta có Chánh pháp nhãn tạng đã trao lại cho Đại Ca-diếp’. Lại nói: ‘Ta trong 49 năm chưa từng nói một chữ’, thì đó là đạo lý gì ? Nếu là bổn phần thượng của các ông, trước một chữ cũng không được. Vì các ông ai ai cũng có chuyện kỳ đặc. Gọi là kỳ đặc là đã sớm chẳng trúng. Ta nói: Thích-ca là ông tướng bại trận, còn Ca-diếp là kẻ táng thân mạng. Các ông đây lãnh hội thế nào cho phải ? Há chẳng nghe: Niết-bàn, sanh tử chỉ là lời trong mộng, Phật cùng chúng sanh đều là lời nói thêm. Cho dù hội thủ như thế, cũng không nên mò tìm bên ngoài. Nếu mà nơi đó chưa rành, dám nói là các ông vướng mắc chẳng ít.

***

Thị lang cử Triệu Luận rằng:

- Lãnh hội muôn vật là mình, điều đó chỉ duy Thánh nhân mà thôi. Như nay đây sơn hà đại địa, cây cối người vật đủ thứ, là đồng hay khác. Nếu nói là đồng, đó là đầu đầu vật vật, mỗi thứ đều không đồng nhau. Còn nếu nói là khác, thì người xưa sao lại nói lãnh hội muôn vật đều là mình. Phải lãnh hội thế nào đây ? Lại như trong Giáo có nói: ‘Nếu có một người phát chân về nguồn, mười phương hư không nhất thời tiêu hủy’. Bậc cổ đức lại nói: ‘Nếu người ý thức được tâm, đại địa không một tấc đất’. Đó là đạo lý gì vậy ? Cho dù trọn mười phương thế giới là con mắt pháp của ông thì tất cả chư Phật, trời, người và quần sanh loại nương theo uy quang của ông mà kiến lập thì nên biết là phải tin cho tới mới được.

***

Trước một ngày Thị lang lâm chung, đích thân làm một bài kệ đưa cho người nhà bảo ngày mai hãy trao lại cho phủ Phò mã Lý. Kệ rằng:

Phiên âm:

Âu sanh dừ âu diệt

Nhị pháp bổn lai tề

Dục thức chân quy xứ

Triệu Châu Đông viện tê

Tạm dịch:

Bọt sanh cùng bọt vỡ

Hai pháp vốn dĩ tề

Muốn biết chốn chân quy

Triệu Châu Đông viện tê

Phò mã đô úy tiếp được kệ nói:

- Trong miếu Thái Sơn bán vàng mã.

(Trích Thiên Thánh Quảng Đăng Lục quyển 18)

 

 

 

 

CẢNH ĐỨC TRUYỀN ĐĂNG LỤC HẬU TỰ

景 德 傳 燈 錄 後 序

A- Nguyên văn:

傳燈籙鏤行舊矣. 兵興以來, 其版灰飛. 慕心宗者, 患無 其書.僧思鑒, 婺人也, 芒屦訪道, 三十年矣. 亦欲人同悟涅榮妙心, 而思有以資發之也. 廣慕淨信, 復鏤其板. 緇素贊歎而助成焉. 或曰: 自心之法無形, 不從人得. 初祖釋迦而降, 無一祖師非默契而自證者.故達磨直指, 不立文字, 少林九年面壁而已. 雖二祖立雪斷臂, 二字亦不爲說. 但遮其知見之非二祖因是, 得正知見, 豁然大省. 則二祖亦不從達磨言句中入, 迺自證也. 且百丈卷席, 雪峯輥毯, 魯祖面壁, 石鞏駕箭, 道吾舞笏, 烏窠吹布毛, 俱胝舉一指. 古德如此示人甚多. 不在言句之間故也. 言句且爾, 況文字乎 ! 心宗要當自參. 祖師言句於我何與焉. 余曰: 不然心法雖曰無形, 然遍 一切處. 翠竹, 眞如也, 黃花船若也. 蛙蚓發機,  管玄乃 至籍壁瓦磔, 無非說法. 故靈當見桃花语道. 玄沙謂語燕深談實相. 然則大地皆是悟門. 孰非此道, 況明心宗言句乎 ! 況載明心宗文字乎 ! 若二者, 於心宗果無與那. 萬福古何爲 閱雲門錄而省. 黃龍心何爲讀多福語而悟. 蓋言詞相寂, 文字性空, 亦此道耳. 若即言句文字而見性相寂, 是乃一超而直入也. 吾故知是兔之流布, 發明心地者衆矣.且鑒之募緣也, 台之寧海邑民周氏歎曰: “吾地有大梨木閱三世矣. 比歲, 我家之人各嘗夢其上有樓各行處, 而無數僧往來於其間, 每疑之. 乃今方悟當刊此錄耶 ? 遂捨以析版. 且遨鑒卽其家僦工而刻之”. 旣刻, 周氏夢六僧求已刻者觀焉. 周問赛曰:“此六代傳衣祖師特來證明此事也”嗚呼, 是書用爲一大事, 則宜有感發之祥以發寤人心. 佘故並列之. 庶觀者知非小緣而堅其信心云

紹興四年, 上元日, 等慈庵善男子睢陪劉栾仲忱序.

B- Phiên âm:

Truyền Đăng lục lũ hành cựu hĩ. Binh hưng dĩ lai, kỳ bản hôi phi. Mộ tâm tông giả, hoạn vô kỳ thư. Tăng Tư Giám, Vụ nhân dã, mang cược phỏng đạo, tam thập niên hĩ. Diệc dục nhân đồng ngộ Niết-bàn diệu tâm, nhi tư hữu dĩ tư phát chi dã. Quảng mộ tịnh tín, phục lũ kỳ bản. Truy tố tán thán nhi trợ thành diên. Hoặc viết: Tự tâm chi pháp vô hình, bất tùng nhân đắc. Sơ Tổ Thích Ca nhi giáng, vô nhất Tổ sư phi mặc khế nhi tự chứng giả. Cố Đạt Ma trực chỉ, bất lập văn tự, Thiếu Lâm cửu niên diện bích nhi dĩ. Tuy nhị Tổ lập tuyết đoạn tý, nhất tự diệc bất vi thuyết. Đãn già kỳ tri kiến chi phi. Nhị Tổ nhân thị, đắc chánh tri kiến, khoát nhiên đại tỉnh. Tắc nhị Tổ diệc bất tùng Đạt Ma ngôn cú trung nhập, nãi tự chứng dã. Thả Bách Trượng quyến tịch, Tuyết Phong cổn cầu, Lổ Tổ diện bích, Thạch Củng giá tiền, Đạo Ngô vũ hốt, Ô Khòa xuy bố mao, Câu Chi cử nhất chỉ. Cổ đức như thử thị nhân thậm đa. Bất tại ngôn cú chi gian cố dã. Ngôn cú thả nhĩ, huống vân tự hồ ! Tâm tông yếu đương tự tham. Tổ sư ngôn cú ư ngã hà dữ diên. Dư viết: ‘Bất nhiên, tâm pháp tuy viết vô hình, nhiên biến nhất thiết xứ. Thúy trúc, chân như dã, Hoàng hoa, Bát nhã dã. Oa dẫn phát cơ, quản huyền truyền tâm. Nãi chí tường bích ngõa lịch, vô phi thuyết pháp, cố Linh Vân kiến đào hoa ngộ đạo. Huyền Sa vị ngữ yến thâm đàm thật tướng. Nhiên tắc đại địa giai thị ngộ môn. Thục phi thử đạo, huống minh tâm tông ngôn cú hồ. Huống tái minh tâm tông văn tự hồ. Nhược nhị giả, ư tâm tông quả vô dữ da. Tiến Phước cổ hà vi duyệt Vân Môn lục nhi tỉnh. Hoàng Long tâm hà vi độc Đa Phước ngữ nhi ngộ. Cái ngôn từ tương tịch, văn tự tính không, diệc thử đạo nhĩ. Nhược tức ngôn cú, văn tự nhi kiến tánh tướng chi không tịch, thị nãi nhất siêu nhi trực nhập dã. Ngô cố tri thị thư chi lưu bố, phát minh tâm địa giả chúng hĩ. Thả Giám chi mộ duyên dã, Thai chi Ninh Hải ấp dân Châu thị thán viết: ‘Ngô địa hữu đại lê mộc duyệt tam thế hĩ. Tỉ tuế, ngã gia chi nhân các thường mộng kỳ thượng hữu lâu các hành vũ, nhi vô số tăng vãng lai ư kỳ gian, mỗi nghi chi. Nãi kim phương ngộ đương san thử lục da ? Toại xả dĩ tích bản. Thả yêu Giám tức kỳ gia tựu công nhi khắc chi’. Ký khắc, Chu thị mộng lục tăng cầu dĩ khắc giả quan diên. Chu vấn Giám viết: ‘Thử hà tăng da ?’. Giám viết: ‘Thử lục đại truyền y Tổ sư đặc lai chứng minh thử sự dã’. Ô hô, thị thư dụng vi nhất đại sự, tắc nghi hữu cảm phát chi tường dĩ phát mụ nhân tâm. Ngô cố tịnh liệt chi. Thứ quan giả tri phi tiểu duyên nhi kiên kỳ tín tâm vân.

Thiệu Hưng tứ niên, thượng nguyên nhật, Đẳng Từ am Thiện nam tử Tuy Dương Lưu Phỉ trọng thầm tự.

(Tả triều phụng đại phu sung hữu văn điện tu soạn quyền phát khiển Thai Châu, Quân Châu sự Lưu Bùi soạn).

C- Tạm dịch:

Sách Truyền Đăng Lục khắc in và lưu hành đã lâu lắm rồi. Từ binh lửa nổi lên đến nay, bản gỗ đã thành tro bụi. Người mộ Thiền tông đều lo sợ không còn sách ấy. Có tăng Tư Giám, người Vụ Châu, lê giày gai tìm đạo đã 30 năm rồi, những muốn mọi người cùng ngộ diệu tâm Niết-bàn, nên nghĩ rộng quyên tiền của để khắc in lại sách ấy. Tăng tục tán thán, giúp đỡ thành toàn. Có người nói: 

- Pháp tự tâm không hình, chẳng từ nơi người khác mà đắc. Từ lúc sơ Tổ Thích-ca Mâu-ni giáng hạ, chẳng có một Tổ sư nào không mặc khế mà tự chứng được. Cho nên Tổ sư Đạt-ma mới chỉ thẳng, chẳng lập văn tự, chỉ chín năm nhìn vách ở Thiếu Lâm mà thôi. Tuy nhị Tổ Huệ Khả đứng ở trong tuyết sâu chặt tay, nhưng Đạt-ma cũng chẳng nói một lời nào, để tránh đi cái nhầm lẫn của tri kiến, cho nên nhị Tổ mới đắc Chánh tri kiến, khoát nhiên đại tỉnh ngộ. Thế thì nhị Tổ cũng chẳng theo ngôn cú của Đạt-ma mà ngộ nhập, chỉ là tự chứng vậy. Thế nên Bách Trượng cuốn chiếu, Tuyết Phong đá cầu, Lỗ Tổ nhìn vách, Thạch Củng buông tên, Đạo Ngô múa hốt, Ô Khòa rứt thổi sợi vải, Câu Chi đưa ngón tay… bậc cổ đức khải thị người như thế rất nhiều. Ấy là không tại chỗ lời lẽ vậy. Lời lẽ là như thế, huống chi là chữ nghĩa. Tâm tông (Thiền tông) cần ở tự tham, lời lẽ của Tổ sư đối với ta có dính gì đâu ?

Tôi nói: Không phải vậy. Tâm pháp tuy nói là không hình, nhưng lan rộng khắp nơi. Trúc biếc ấy chân như, hoa vàng là Bát-nhã. Giun ếch phát cơ, đàn sáo truyền tâm. Cho tới tường vách gạch ngói, chẳng không là thuyết pháp. Cho nên Linh Vân thấy hoa đào mà ngộ đạo, Huyền Sa do nghe tiếng én mà ngộ bàn sâu thật tướng. Thế thì sơn hà đại địa đều là cửa ngộ nhập. Ai không phải qua con đường ấy, huống là làm sáng lời lẽ tâm tông, huống tái làm trong sáng văn tự tâm tông. Nếu cả hai đối với tâm tông chẳng là gì cả, thì tại sao Tiên Phước Cổ nhờ đọc Vân Môn lục mà tỉnh ngộ. Hoàng Long vì sao đọc lời lẽ của Đa Phước mà ngộ. Bởi lời lẽ rỗng rang, chữ nghĩa tánh không, cũng là đạo ấy vậy. Nếu lời lẽ mà thấy được tánh tướng không tịch, thì đó cũng là nhất siêu mà trực nhập vậy. Tôi vốn biết sách này lưu bố, khiến người phát được tâm địa rất đông. Vả lại công việc mộ duyên của Tư Giám, người dân thường họ Chu trong huyện Ninh Hải nói rằng: ‘Đất nhà chúng tôi có cây lê to đã ba đời rồi. Luôn các năm gần đây, cả nhà tôi đều nằm mộng thấy trên cây ấy có lầu gác, đình miếu, có rất nhiều tăng nhân tới lui trong đó, nên luôn nghi ngờ, giờ hiểu ra là san khắc bộ lục ấy, liền đốn bỏ để làm bản gỗ, lại khuyến khích Tư Giám đem về nhà gọi người đến khắc bản. Khi đã khắc, họ Chu mộng thấy sáu vị tăng yêu cầu cho xem phần đã khắc xong. Chu hỏi Tư Giám rằng: ‘Đấy là tăng nào vậy ?’. Giám đáp: ‘Đó là Tổ sư sáu đời được truyền y bát đặc biệt đến đây để chứng minh cho công việc đấy’.

Than ôi, sách này dùng làm một công việc lớn, tức phải cảm phát điềm lành để phấn phát tâm kẻ ngủ mê, cho nên tôi cũng liệt kê vô đây, ngỏ hầu người xem biết rằng đó không phải là cơ duyên nhỏ, để kiên định lòng tin của họ.

Ngày thượng nguyên năm thứ tư niên hiệu Thiệu Hưng tại am Đẳng Từ, thiện nam tử Tuy Dương Lưu Phỉ trọng kính đề lời hậu tự.

(Do quan Tả Triều phụng đại phu sung hữu văn điện tu soạn quyền phát khiển Thai Châu, Quân Châu sự Lưu Bùi soạn)./.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com