- Quyển 01: Cảnh Đức Truyền Đăng Lục
- Quyển 02: Tổ thứ 15 đến Tổ thứ 27
- Quyển 03: Năm Vị Tổ Trung Quốc:
- Quyển 04: Pháp hệ chi nhánh của Tứ tổ Đạo Tín và Ngũ tổ Hoằng Nhẫn
- Quyển 05: Lục tổ Huệ Năng (慧能) và pháp hệ
- Quyển 06: Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一) và Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海).
- Quyển 07: Nga Hồ Đại Nghĩa (鵝湖大義) và Ma Cốc Bảo Triệt (麻谷寶徹)
- Quyển 08: Gồm 54 vị như: Nam Tuyền Phổ Nguyện
- Quyển 09: Gồm 30 vị nối pháp Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải
- Quyển 10: Gồm các vị nối pháp Thiền sư Nam Tuyền như: Triệu Châu Tòng Thẩm
- Quyển 11: Các đệ tử nối pháp của Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu, Tổ của Quy Ngưỡng tông
- Quyển 12: Lâm Tế Nghĩa Huyền, vị Tổ của Lâm Tế tông.
- Quyển 13: Pháp hệ của Hà Trạch tông. Truyện ký về hai vị Trừng Quán và Tông Mật thuộc Hoa Nghiêm tông.
- Quyển 14: Thạch Đầu Hi Thiên (石頭希遷) và pháp hệ.
- Quyển 15: Động Sơn Lương Giới (洞山良价)
- Quyển 16: Các đệ tử nối pháp của Thiền sư Đức Sơn Tuyên Giám
- Quyển 17: Pháp hệ của Tào Động tông
- Quyển 18: Pháp hệ của Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn - 1
- Quyển 19: Pháp hệ của Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn - 2
- Quyển 20: Pháp hệ của Thiền sư Tào Sơn Bản Tịch
- Quyển 21: Pháp hệ của Thiền sư Huyền Sa Sư Bị
- Quyển 22: Pháp hệ của Vân Môn tông - 1
- Quyển 23: Pháp hệ của Vân Môn tông - 2
- Quyển 24: Pháp hệ của Pháp Nhãn tông - 1
- Quyển 25: Pháp hệ của Pháp Nhãn tông - 2
- Quyển 26: Pháp hệ của Pháp Nhãn tông - 3
- Quyển 27: Các Thiền sư nổi tiếng không thuộc bất cứ tông phái nào
- Quyển 28: Các ngữ lục đặc biệt của 11 vị Thiền sư
- Quyển 29: Tán tụng kệ thi của 17 vị
- Quyển 30: 13 loại Minh, ký, châm, ca
QUYỂN 30
Sa-môn Đạo Nguyên đời Tống soạn
Việt dịch: Lý Việt Dũng
CÁC BÀI MINH, KÝ, CHÂM, CA
1- Tâm vương minh: Phó Đại sĩ
2- Tín tâm minh: Tam Tổ Đại sư Tăng Xán
3- Tâm minh: Sơ Tổ núi Ngưu Đầu Thiền sư Pháp Dung
4- Tức tâm minh: Tăng không biết tên
5- Lược biện Đại thừa nhập đạo tứ hành của Bồ-đề Đạt-ma
6- Hiển Tông ký: Đại sư Hà Trạch Thần Hội
7- Tham đồng khế: Đại sư Thạch Đầu Nam Nhạc
8- Đáp Hoàng Thái tử vấn tâm yếu: Trấn Quốc Đại sư Trừng Quán
9- Tọa thiền châm: Hòa thượng Ngũ Vân Hàng Châu
10- Chứng đạo ca: Đại sư Vĩnh Gia Huyền Giác
11- Liễu nguyên ca: Hòa thượng Đằng Đằng
12- Bài ca của Hòa thượng Lãn Toàn Nam Nhạc
13- Thảo am ca: Hòa thượng Thạch Đầu
14- Lạc đạo ca: Hòa thượng Đạo Ngô
15- Nhứt bát ca: Thiền sư Bôi Độ
16- Phù âu ca: Hòa thượng Lạc Phổ
17- Bài ca của Hòa thượng Mục Hộ
18- Ba bài Cổ kính ca: Thiền sư Pháp Đăng
19- Biến tham Tam-muội ca: Long Hội Đạo Tân Đàm Châu
20- Hai bài Ngoạn châu ngâm: Hòa thượng Đan Hà Thiên Nhiên
21- Hoạch Châu Ngâm: Trưởng lão Quan Nam
22- Hai bài Lệ giác ngâm và Qui tịch ngâm: Hòa thượng Hương Nghiêm Trí Nhàn
23- Tâm châu ngâm: Hòa thượng Thiều Sơn.
Phụ lục:
1- Thư Dương Ức gởi Lý Duy
2- Quan Thị lang hỏi đáp, luận bàn cùng nhiều người.
3- Cảnh Đức Truyền Đăng Lục hậu tự: Quan Tả Triều Phụng Đại Phu Sung Hữu Văn Điện Tu Soạn Quyền Phát Khiển Thai Châu Quân Châu Sự Lưu Bùi soạn.
BÀI MINH TÂM VƯƠNG
(Phó Đại Sĩ)
Nguyên văn:
觀心空王 玄妙難測 無形無相 有大神力 能滅千災 成就萬德 體性雖空 能施法則 觀之無形 呼之有聲 爲大法將 心戒傳經 水中鹽味 色裏膠清 決定是有 不見其形 心王亦爾 身内居停 面門出入 應物隨情 自在無礙 所作皆成 了本識心 識心見佛 是心是佛 是佛是心 念念佛心 佛心念佛 欲得早成 戒心自律 淨律淨心 心卽是佛 除此心王 更無別佛 欲求成佛 莫染一物 心性雖空 貪嗔體實 入此法門 端坐成佛 到彼岸已 得波羅密 慕道眞士 自觀自心 知佛在内 不向外尋 卽心卽佛 卽佛卽心 心明識佛 曉了識心 離心非佛 離佛非心 非佛莫測 無所堪任 執空滯寂 於此漂沈 諸佛菩薩 非此安心 明心灵士 悟此玄音 身心性妙 用無更改 是故智者 放心自在 莫言心王 空無體性 能使色身 作邪作正 非有非無 隱顯不定 心性離空 能凡能聖 是故相勸 好自防愼 剎那造作 還復漂沈 清淨心智 如世萬金 船苦法藏 並在身心 無爲法寶 非淺非深 諸佛菩薩 了此本心 有緣遇者 非去來今.
Phiên âm:
Quán tâm không vương Huyền diệu nan trắc Vô hình vô tướng Hữu đại thần lực Năng diệt thiên tai Thành tựu vạn đức Thể tánh tuy không Năng thi pháp tắc Quán chi vô hình Hô chi hữu thanh Vi đại pháp tướng Tâm giới truyền kinh Thủy trung diêm vị Sắc lý giao thanh Quyết định thị hữu Bất kiến kỳ hình Tâm vương diệc nhĩ Thân nội cư đình Diện môn xuất nhập Ứng vật tùy tình Tự tại vô ngại Sở tác giai thành Liễu bổn thức tâm Thức tâm kiến Phật Thị tâm thị Phật Thị Phật thị tâm Niệm niệm Phật tâm Phật tâm niệm Phật Dục đắc tảo thành Giới tâm tự luật Tịnh luật tịnh tâm Tâm tức thị Phật Trừ thử tâm vương Cánh vô biệt Phật Dục cầu thành Phật Mạc nhiễm nhất vật Tâm tánh tuy không Tham sân thể thật Nhập thử pháp môn Đoan tọa thành Phật Đáo bỉ ngạn dĩ Đắc Ba-la-mật Mộ đạo chân sĩ Tự quán tự tâm Tri Phật tại nội Bất hướng ngoại tầm Tức tâm tức Phật Tức Phật tức tâm Tâm minh thức Phật Hiểu liễu thức tâm Ly tâm phi Phật Ly Phật phi tâm Phi Phật mạc trắc Vô sở kham nhiệm Chấp không trệ tịch Ư thử phiêu trầm Chư Phật Bồ tát Phi thử an tâm Minh tâm Đại sĩ Ngộ thử huyền âm Thân tâm tánh diệu Dụng vô cánh cải Thị cố trí giả Phóng tâm tự tại Mạc ngôn tâm vương Không vô thể tánh Năng sử sắc thân Tác tà tác chánh Phi hữu phi vô Ấn hiển bất định Tâm tánh ly không Năng phàm năng Thánh Thị cố tương khuyến Hảo tự phòng thận Sát-na tạo tác Hoàn phục phiêu trầm
Thanh tịnh tâm trí Như thế vạn kim Bát nhã pháp tạng Tịnh tại thân tâm Vô vi pháp bảo Phi thiển phi thâm Chư Phật Bồ-tát Liễu thử bổn tâm Hữu duyên ngộ giả Phi khứ lai kim.
Tạm dịch:
Quán tâm không vương
Huyền diệu khó lường
Không hình không tướng
Có đại thần lực
Hay trừ ngàn nạn
Thành tựu muôn đức
Thể tánh tuy không
Thi hành phép tắc
Xem chẳng thấy hình
Gọi lên có tiếng
Làm đại pháp tướng
Tâm giới truyền kinh
Vị muối trong nước
Keo trong nơi màu
Quyết định là có
Chẳng thấy được hình
Tâm vương cũng vậy
Trong thân ở dừng
Trên mặt vào ra
Ứng vật theo tình
Tự tại vô ngại
Việc làm đều thành
Rõ gốc biết tâm
Biết tâm thấy Phật
Tâm ấy là Phật
Phật ấy là tâm
Niệm niệm tâm Phật
Tâm Phật niệm Phật
Muốn được sớm thành
Răn tâm tự luật
Tịnh luật tịnh tâm
Tâm tức là Phật
Trừ tâm vương đó
Chẳng Phật nào khác
Muốn cầu thành Phật
Chớ nhiễm một vật
Tâm tánh tuy không
Tham sân thể thật
Vào pháp môn đó
Ngồi nghiêm thành Phật
Đến bờ kia rồi
Được Ba-la-mật
Người thật mộ đạo
Tự xét tâm mình
Biết Phật bên trong
Chẳng hướng ngoài tìm
Tâm ấy là Phật
Phật ấy là tâm
Tâm sáng hiểu Phật
Hiểu rõ biết tâm
Rời tâm không Phật
Rời Phật không tâm
Phi Phật khó lường
Chẳng nơi kham nhiệm
Chấp không trệ tịch
Trôi chìm nơi đó
Chư Phật Bồ-tát
Chẳng đó an tâm
Đại sĩ minh tâm
Ngộ nguyên tâm đó
Thân tâm tánh diệu
Dùng chẳng đổi thay
Vì thế người trí
Buông tâm tự tại
Chẳng nói tâm vương
Không vô thể tánh
Hay khiến sắc thân
Làm tà làm chánh
Chẳng có, chẳng không
Ẩn hiện không chừng
Tâm tánh rời không
Hay phàm, hay Thánh
Cho nên khuyên nhau
Nên tự cẩn thận
Phút giây tạo tác
Sẽ lại trôi chìm
Thanh tịnh tâm trí
Như thể vàng ròng
Pháp tạng Bát-nhã
Đều tại thân tâm
Pháp bảo vô vi
Chẳng cạn, chẳng sâu
Chư Phật, Bồ-tát
Rành bổn tâm đó
Kẻ có duyên gặp
Chẳng xưa, nay, tới./.
BÀI MINH TÍN TÂM
(Tam Tổ Đại Sư Tăng Xán)
Nguyên văn:
至道無難 唯嫌揀擇 但莫憎愛 洞然明白 毫釐有差 天地懸隔 欲得現前 莫存順逆 違順相爭 是爲心病 不識玄旨 今勞念静 圓同太虚 無欠無餘 良由取捨 所以不如 莫逐有緣 勿逐空忍 一種平懷 泯然自蛊 止動歸止 止更彌動 唯滯兩邊 寧知一種 一種不通 兩處失功 遣有没有 從空背空 多言多慮 轉不相應 絕言絕慮 無處不通 歸根得旨 隨照失宗 須臾返照 勝却前空 前空轉變 皆由妄見 不用求眞 唯須息見 二見不住 愼莫追尋 才有是非 纷然失心 二由一有 一亦莫守 —心不生 萬法無咎 無咎無法 不生不心 能隨境滅 境逐能沈 境由能境 能由境能 欲知兩段 元是二竺 一空同兩 齊含萬象 不見精焱 寧有偏黨 大道體寬 無易無難 小見狐疑 轉急轉遲 執之失度 必入邪路 放之自然 體無去住 任性合道 逍遙絕惱 繫念乖眞 昏沈不好 不好勞神 何用疎親 欲取一乖 勿惡六塵 六塵不惡 還同正覺 智者無爲 愚人自缚 法無異法 妄自愛著 將心用心 豈非大錯 迷生寂亂 悟無好惡 一切二邊 良由斟著 夢幻虚華 何勞把捉 得失是非 一時放却 眼若不誰 諸夢自除 心碁不二 萬法一如 一如體玄 兀爾忘緣 萬法#觀 歸復自然 泯其所以 不可方比 止動無動 動止無止 兩旣不成 一何有爾 究竟窮極 不存軌則 契心平等 所作俱息 狐疑盡淨 正信調直 一切不留 無可記憶 虚明自照 不勞心力 非思量處 識情難測 眞如法界 無他無自 要急相應 唯言不二 不二皆同 無不包容 十方智者 皆入此宗 宗非促延 一念萬年 無在不在 十方目前 極小同大 妄絕境界 極大同小 不見邊表 有卽是無 無卽是有 若如不此 卽不須守 一卽一 切 一切卽一 但能如是 何慮不必 信心不二 不二信二 言語道斷 非去來金.
Phiên âm:
Chí đạo vô nan Duy hiềm giản trạch Đãn mạc tắng ái Động nhiên minh bạch Hào ly hữu sai Thiên địa huyền cách Dục đắc hiện tiền Mạc tồn thuận nghịch Vi thuận tương tranh Thị vi tâm bệnh Bất thức huyền chỉ Đồ lao niệm tịnh Viên đồng thái hư Vô khiếm vô dư Lương do thủ xả Sở dĩ bất như Mạc trục hữu duyên Vật trục không nhẫn Nhất chủng bình hoài Mẫn nhiên tự tận Chỉ động qui chỉ Chỉ cánh di động Duy trệ lưỡng biên Ninh tri nhất chủng Nhất chủng bất thông Lưỡng xứ thất công Khiển hữu một hữu Tùy không bội không Đa ngôn đa lự Chuyển bất tương ưng Tuyệt ngôn tuyệt lự Vô xứ bất thông Qui căn đắc chỉ Tùy chiếu thất tông Tu du phản chiếu Thắng khước tiền không Tiền không chuyển biến Giai do vọng kiến Bất dụng cầu chân Duy tu tức kiến Nhị kiến bất trụ Thận mạc truy tầm Tài hữu thị phi Phân nhiên thất tâm Nhị do nhất hữu Nhất diệc mạc thủ Nhất tâm bất sanh Vạn pháp vô cữu Vô cữu vô pháp Bất sanh bất tâm Năng tùy cảnh diệt Cảnh trục năng trầm Cảnh do năng cảnh Năng do cảnh năng Dục tri lưỡng đoạn Nguyên thị nhất không Nhất không đồng lưỡng Tề hàm vạn tượng Bất kiến tinh thô Ninh hữu thiên đảng Đại đạo thể khoan Vô dị vô nan Tiểu kiến hồ nghi Chuyển cấp chuyển trì Chấp chi thất độ Tất nhập tà lộ Phóng chi tự nhiên Thể vô khứ trụ Nhiệm tánh hợp đạo Tiêu diêu tuyệt não Hệ niệm quai chân Hôn trầm bất hảo Bất hảo lao thần Hà dụng sơ thân Dục thủ nhất quai Vật ố lục trần Lục trần bất ố Hoàn đồng chánh giác Trí giả vô vi Ngu nhân tự phược Pháp vô dị pháp Vọng tự ái trước Tương tâm dụng tâm Khởi phi đại thác Mê sanh tịch loạn Ngộ vô hảo ác Nhất thiết nhị biên Lương do châm trước Mộng ảo hư hoa Hà lao bả tróc Đắc thất thị phi Nhất thời phóng khước Nhãn nhược bất thùy Chư mộng tự trừ Tâm nhược bất dị Vạn pháp nhất như Nhất như thể huyền Ngột nhĩ vong duyên Vạn pháp tề quán Qui phục tự nhiên Mẫn kỳ sở dĩ Bất khả phương tỉ Chỉ động vô động Động chỉ vô chỉ Lưỡng ký bất thành Nhất hà hữu nhĩ Cứu cánh cùng cực Bất tồn quỹ tắc Khế tâm bình đẳng Sở tác câu tức Hồ nghi tận tịnh Chánh tín điều trực Nhất thiết bất lưu Vô khả ký ức Hư minh tự chiếu Bất lao tâm lực Phi tư lượng xứ Thức tình nan trắc Chân như pháp giới Vô tha vô tự Yếu cấp tương ưng Duy ngôn bất nhị Bất nhị giai đồng Vô bất bao dung Thập phương trí giả Giai nhập thử Tông Tông phi xúc diên Nhất niệm vạn niên Vô tại bất tại Thập phương mục tiền Cực tiểu đồng đại Vọng tuyệt cảnh giới Cực đại đồng tiểu Bất kiến biên biểu Hữu tức thị vô Vô tức thị hữu Nhược bất như thử Tức bất tu thủ Nhất tất nhất thiết Nhất thiết tức nhất Đãn năng như thị Hà lự bất tất Tín tâm bất nhị Bất nhị tín tâm Ngôn ngữ đạo đoạn Phi khứ lai kim.
Tạm dịch:
Chí đạo không khó, chỉ hiềm chọn lựa
Duy chớ ghét thương, tự nhiên sáng rõ
Mảy may sai khác, đất trời cách xa
Muốn được hiện tiền, chớ còn thuận nghịch
Thuận nghịch tranh nhau, chẳng thiếu chẳng dư
Bởi do buông bắt, cho nên chẳng như
Chớ đuổi hữu duyên, chớ trụ không nhẫn
Một loại bình hoài, man nhiên tự dứt
Ngăn động về tịnh, tịnh càng thêm động
Hễ kẹt hai bên, há biết một loại
Một loại không thông, hai nơi thất công
Trừ có kẹt có, theo không trái không
Lời nhiều lo nhiều, lại chẳng tương ưng
Dứt lời dứt lo, chẳng nơi không thông
Về gốc được chỉ, tùy chiếu mất tông
Phản chiếu chốc lát, thẳng cả không kia
Không kia chuyển biến, đều do vọng kiến
Chẳng dụng cầu chân, chi cần ngừng thấy
Hai kiến không trụ, cẩn thận chớ tìm
Vừa có phải trái, tự nhiên mất tâm
Hai do một có, một cũng chẳng giữ
Một tâm không sanh, muôn pháp không lỗi
Không lỗi không pháp, chẳng sanh chẳng tâm
Năng theo cảnh diệt, cảnh đuổi năng chìm
Cảnh do năng cảnh, năng do cảnh năng
Muốn biết hai đoạn, nguyên là một không
Một không giống hai, cùng ngậm vạn tượng
Chẳng thấy tinh thô, há có nghiêng lệch
Đại đạo thể rộng, không dễ không khó
Tiểu kiến nghi ngờ, thành mau thành chậm
Chấp thì thất độ, tất vào đường lệch
Buông thả tự nhiên, thể không khứ trụ
Mặc tánh hiệp đạo, tiêu diêu dứt não
Hệ niệm vướng chân, hôn trầm chẳng tốt
Chẳng tốt lao thần, kể chi sơ thân
Muốn chứng một thừa, chớ ghét sáu trần
Sáu trần chằng ghét, kể như chánh giác
Người trí vô vi, kẻ ngu tự trói
Pháp chẳng pháp khác, vọng tự ái trước
Đem tâm dụng tâm, há chẳng lầm to
Mê sanh tịch loạn, ngộ không xấu tốt
Nhứt thiết hai bên, là do châm chước
Mộng ảo không hoa, há nhọc nắm bắt
Được mất phải trái, cùng lúc buông bỏ
Mắt nếu không ngủ, các mộng tự trừ
Tâm không sai khác, muôn pháp nhứt như
Nhứt như thể huyền, trơ trơ quên duyên
Vạn pháp cùng quán, qui phục tự nhiên
Bặt hết lý giải, chẳng thể ví dụ
Dừng động chẳng động, động dừng không dừng
Hai đã không thành, một sao có được?
Rốt ráo cùng cực, chẳng còn quy tắc
Khế tâm bình đẳng, mọi tác đều ngưng
Hồ nghi sạch trơn, chánh tín vững chắc
Tất cả không giữ, chẳng thể nhớ được
Hư sáng tự chiếu, chẳng lao tâm lực
Chẳng chỗ tư lượng, thức tình khó lường
Chân như pháp giới, chẳng người chẳng ta
Cần gấp tương ưng, duy nói không hai
Chẳng hai đều đồng, chẳng không bao dung
Người trí mười phương, đều vào Tông này
Tông chẳng ngắn dài (lâu mau), một niệm ngàn năm
Không tại chẳng tại, quên dứt cảnh giới
Thật lớn đồng nhỏ, chẳng thấy mé lề
Có tức là không, không tức là có
Nếu không như thế, ắt chẳng cần giữ
Một là tất cả, tất cả là một
Nếu được như thế, lo gì không xong
Tín tâm chẳng hai, chẳng hai tín tâm
Ngôn ngữ đạo đoạn, chẳng xưa, nay, sắp./.
TÂM MINH
(Thiền Sư Pháp Dung, Sơ Tổ Núi Ngưu Đầu)
Nguyên văn:
心性不生 何須知見 本無一法 誰論熏鍊 往咢無苎 追尋不見 一切莫作 明寂自現 前際如空 知處迷宗 分明照境 隨照冥蒙 一心有滞 諸法不通 去來自爾 胡假推窮 生無相生 生照—同 欲得心淨 無心用功 最爲微妙 知法無知 無知知要 將心守淨 猶未離病 生死忘懷 卽是本性 至理無詮 非解非缠 靈通應物 常在目前 目前無物 無物宛然 不勞智鑒 體自虚玄 念起念滅 前後無別 後念不生 前念自絕 三世無物 無心無佛 衆生無心 依無心出 分別凡聖 煩惱轉盛 計校乖常 求眞背正 雙泯對治 湛然明淨 不須功巧 守婴兒行 惺惺了知 見網轉彌 寂寂無見 暗室不移 惺惺無妄 寂寂明亮 萬象常瓦 森羅一相 去來坐立 一切莫執 決定無方 誰爲出入 無合無散 不遲不疾 明寂自然 不可言及 心無異心 不斷脊淫 性空自離 任運浮沈 非清非濁 非淺非深 本來非古 見在非今 見在無住 見在本心 本來不存 本來卽今 菩提本有 不須用守 煩惱本無 不須用除 靈知自照 萬法歸如 無歸無受 絕觀妄守 四德不生 三身本有 六根對境 分別非識 一心無妄 萬緣調直 心性本齊 同居不七 無生順物 隨處幽棲 覺由不覺 卽覺無女 得失兩邊 誰論好惡 一切有爲 本無造作 知心不心 無病無藥 迷時捨事 悟罷非異 本無可取 今何用棄 謂有魔興 言空象備 莫滅凡情 唯教卽意 意無心焱 心無行絕 不用證空 自然明徹 滅盡生死 冥心入理 開目見相 心隨垅起 心處無境 境處無心 將心滅境 彼此由侵 心寂境如 不遣不拘 境随心滅 ^随境無 兩處不生 寂静虚明 菩提影現 心水舍清 德性如愚 不立親疎 窺辱不變 不擇所居 諸緣頓息 一切不憶 永曰如夜 永夜如曰 外似頑嚚 内心虚直 對境不動 有力大人 無人無見 無見常現 通達一切 未嘗不徧 思惟轉昏 汨亂精魂 將心止動 轉止轉奔 萬法無所 唯有一門 不入不出 非静非喧 聲聞緣覺 智不能論 實無二物 妙智獨存 本際虚沖 非心所窮 正覺無覺 眞空不空 三世諸佛 皆乘此宗 此宗毫末 沙界含容 一切莫顧 安心無處 無專安心 虚明自露 放曠縱橫 所作無滯 法住皆平 慧曰寂寂 定光明明 照無相菀 朗湼槃城 諸緣忘畢 詮神定質 不起法座 安眠虚室 樂道恬然 優遊眞實 無爲無得 依無自出 四等六度 同一乘路 心若不生 法無差互 知生無生 現前常住 智者方知 非言詮悟.
Phiên âm:
Tâm tánh bất sanh Hà tu tri kiến Bổn vô nhất pháp Thùy luận huân luyện Vãng phản vô đoan Truy tầm bất kiến Nhất thiết mạc tác Minh tịch tự hiện Tiền tế như không Tri xứ mê Tông Phân minh chiếu cảnh Tùy chiếu minh mông Nhất tâm hữu trệ Chư pháp bất thông Khứ lai tự nhĩ Hồ giả suy cùng Sanh vô sanh tướng Sanh chiếu nhất đồng Dục đắc tâm tịnh Vô tâm dụng công Tối vi vi diệu Tri pháp vô tri Vô tri tri yếu Tương tâm thủ tịnh Do vị ly bệnh Sanh tử vong hoài Tức thị bổn tánh Chí lý vô thuyên Phi giải phi triền Linh thông ứng vật Thường tại mục tiền Mục tiền vô vật Vô vật uyển nhiên Bất lao trí giám Thể tự hư huyền Niệm khởi niệm diệt Tiền hậu vô biệt Hậu niệm bất sanh Tiền niệm tự tuyệt Tam thế vô vật Vô tâm vô Phật Chúng sanh vô tâm Y vô tâm xuất Phân biệt phàm Thánh Phiền não chuyển thịnh Kế giáo quai thường Cầu chân bội chánh Song mẫn đối trị Trạm nhiên minh tịnh Bất tu công xảo Thủ anh nhi hành Tỉnh tỉnh liễu tri Kiến võng chuyển di Tịch tịch vô kiến Ám thất bất di Tỉnh tỉnh vô vọng Tịch tịch minh lượng Vạn tượng thường chân Sum la nhất tướng Khứ lai tọa lập Nhất thiết mạc chấp Quyết định vô phương Thùy vi xuất nhập Vô hợp vô tán Bất trì bất tật Minh tịch tự nhiên Bất khả ngôn cập Tâm vô dị tâm Bất đoạn tham dâm Tánh không tự ly Nhiệm vận phù trầm Phi thanh phi trọc Phi thiển phi thâm Bổn lai phi cổ Kiến tại phi kim Kiến tại vô trụ Kiến tại bổn tâm Bổn lai bất tồn Bổn lai tóc kim Bồ-đề bổn hữu Bất tu dụng thủ Phiền não bổn vô Bất tu dụng trừ Linh tri tự chiếu Vạn pháp qui như Vô qui vô thụ Tuyệt quán vọng thủ Tứ đức bất sanh Tam thân bổn hữu Lục căn đối cảnh Phân biệt phi thức Nhất tâm vô vọng Vạn duyên điều trực Tâm tánh bổn tề Đồng cư bất huề Vô sanh thuận vật Tùy xứ u thê Giác do bất giác Tức giác vô giác Đắc thất lưỡng biên Thùy luận hảo ác Nhất thiết hữu vi Bổn vô tạo tác Tri tâm bất tâm Vô bệnh vô dược Mê thời xả sự Ngộ bãi phi dị Bổn vô khả thủ Kim hà dụng khí Vị hữu ma hưng Ngôn không tượng bị Mạc diệt phàm tình Duy giáo túc ý Ý vô tâm diệt Tâm vô hành tuyệt Bất dụng chứng không Tự nhiên minh triệt Diệt tận sanh tử Minh tâm nhập lý Khai mục kiến tướng Tâm tùy cảnh khởi Tâm xứ vô cảnh Cảnh xứ vô tâm Tương tâm diệt cảnh Bỉ thử do xâm Tâm tịch cảnh như Bất khiển bất câu Cảnh tùy tâm diệt Tâm tùy cảnh vô Lưỡng xứ bất sanh Tịch tịnh hư minh Bồ-đề ảnh hiện Đức tánh như ngu Bất lập thân sơ Sủng nhục bất biến Bất trạch sở cư Chư duyên đốn tức Nhất thiết bất ức Vĩnh nhật như dạ Vĩnh dạ như nhật Ngoại tự ngoan ngân Nội tâm hư trực Đối cảnh bất động Hữu lực đại nhân Vô nhân vô kiến Vô kiến thường hiện Thông đạt nhất thiết Vị thường bất biến Tư duy chuyển hôn Mịch loạn tinh hồn Tương tâm chỉ động Chuyển chỉ chuyển bôn Vạn pháp vô sở Duy hữu nhất môn Bất nhập bất xuất Phi tịnh phi huyên Thanh văn Duyên giác Trí bất năng luận Thật vô nhất vật Diệu trí độc tồn Bổn tế hư xung Phi tâm sở cùng Chánh giác vô giác Chân không bất không Tam thế chư Phật Giai thừa thử Tông Thử Tông hào mạt Sa giới hàm dung Nhất thiết mạc cố An tâm vô xứ Vô xứ an tâm Hư minh tự lộ Tịch tịnh bất sanh Sở tác vô trệ Pháp trụ giai bình Tuệ nhật tịch tịch Định quanh minh minh Chiếu vô tướng uyển Lãng Niết-bàn thành Chư duyên vong tất Thuyên thần định chất Bất khởi pháp tòa An miên hư thất Lạc đạo điềm nhiên Ưu du chân thật Vô vi vô đắc Y vô tự xuất Tứ đẳng lục độ Đồng nhất thừa lộ Tâm nhược bất sanh Pháp vô sai hỗ Tri sanh vô sanh Hiện tiền thường trụ Trí giả phương tri Phi ngôn thuyên ngộ.
Tạm dịch:
Tâm tánh chẳng sanh
Cần chi thấy biết
Vốn không một pháp
Ai luận đúc rèn
Tìm tòi không thấy
Nhứt thiết chẳng làm
Sáng mờ tự hiện
Mé trước như không
Chỗ biết mê Tông
Rõ ràng chiếu cảnh
Theo chiếu tối mờ
Một tâm có trệ
Các pháp không thông
Tới lui tự nhiên
Cần chi suy cùng
Sanh không tướng sanh
Sanh chiếu một đồng
Muốn được tâm tịnh
Ngang dọc không chiếu
Rất là vi diệu
Tri pháp vô tri
Vô tri tri yếu
Đem tâm thủ tịnh
Do chưa khỏi bịnh
Sanh tử quên hết
Tức là bản tánh
Chí lý vô thuyên
Không mở không trói
Linh thông ứng vật
Thường tại trước mắt
Trước mắt không vật
Không vật rõ ràng
Chẳng lao trí giám
Thể tự hư huyền
Niệm dậy niệm diệt
Trước sau không khác
Niệm sau không sanh
Niệm trước tự dứt
Ba đời không vật
Không tâm không Phật
Chúng sanh không tâm
Nương không tâm xuất
Phân biệt phàm Thánh
Phiền não thêm nhiều
Tính toán khác thường
Cầu chân bội chánh
Song mẫn đối trị
Trạm nhiên sạch làu
Chẳng cần công khéo
Giữ hạnh trẻ con
Tỉnh tỉnh liễu tri
Thấy lưới chuyển di
Tịch tịch không thấy
Phòng tối chẳng dời
Tinh tinh chẳng vọng
Tịch tịch sáng trưng
Vạn tượng thường chân
Sum la một tướng
Tới lui ngồi đứng
Tất cả chớ chấp
Quyết định vô phương
Ai là vào ra ?
Không hiệp không tan
Không chậm không mau
Sáng mờ tự nhiên
Chẳng thể nói kịp
Tâm chẳng tâm khác
Chẳng dứt tham dâm
Tánh không tự rời
Mặc cho nỗi chìm
Không trong không đục
Không cạn không sâu
Vốn trước không xưa
Giờ cũng không nay
Thấy nơi không trụ
Thấy tại bản tâm
Xưa nay chẳng còn
Xưa giờ tức nay
Bồ-đề vốn có
Chẳng cần phải giữ
Phiền não vốn không
Chẳng cần phải trừ
Linh tri tự chiếu
Vạn pháp về như
Chẳng về chẳng nhận
Dứt quán quên thủ
Bốn đức chẳng sanh
Sáu căn đối cảnh
Phân biệt chẳng thức
Một tâm không vọng
Vạn duyên điều trực
Tâm tánh vốn bằng
Cùng ở chẳng dắt
Vô sanh thuận vật
Tùy nơi dừng ở
Giác như chẳng giác
Ấy giác vô giác
Được mất hai bên
Nhứt thiết hữu vi
Vốn không tạo tác
Biết tâm chẳng tâm
Chẳng bệnh chẳng thuốc
Lúc mê bỏ việc
Ngộ rồi chẳng khác
Vốn không thể giữ
Nay há dùng bỏ ?
Cho có ma hưng
Ngôn không tượng bị
Chớ diệt phàm tình
Chỉ dạy dừng ý
Ý chẳng tâm diệt
Tâm chẳng hành dứt
Chẳng cần chứng không
Tự nhiên minh triệt
Diệt trọn sanh tử
Tâm mờ nhập lý
Mở mắt thấy tướng
Tâm tuy cảnh khởi
Tâm xứ không cảnh
Cảnh xứ không tâm
Đem tâm diệt cảnh
Đây đó chạm nhau
Tâm tịch cảnh như
Chẳng khiến chẳng câu
Cảnh tùy tâm diệt
Tâm tùy cảnh không
Hai nơi không sanh
Tịch tịnh hư minh
Bồ-đề ảnh hiện
Nước tâm thường trong
Đức tánh như khờ
Chẳng kể thân sơ
Sủng nhục chẳng đổi
Không chọn chỗ ở
Chư duyên bỗng dừng
Tất cả đều quên
Ngày ngày như đêm
Đêm đêm như ngày
Ngoài tự ngu khờ
Trong tâm hư chân
Đối cảnh chẳng động
Đại nhân có sức
Không thấy thường hiện
Thông đạt tất cả
Chưa từng chẳng khắp
Tư duy thành tối
Chìm loạn tinh hồn
Đem tâm dừng động
Chuyển dừng thành chạy
Muôn pháp không chỗ
Chỉ có một cửa
Không vào không ra
Chẳng im chẳng ồn
Thanh văn duyên giác
Trí chẳng thể bàn
Thật không một vật
Diệu trí riêng còn
Bổn tế trống rỗng
Chẳng phải tâm cùng
Chánh giác chẳng giác
Chân không chẳng không
Ba đời chư Phật
Đều nối Tông này
Mảy may Tông này
Ngậm trọn diệu giới
Tất cả chẳng đoái
An tâm không chỗ
Không chỗ an tâm
Hư minh tự lộ
Tịch tịnh không sanh
Phóng khoáng dọc ngang
Việc làm không kẹt
Tới dừng bằng phẳng
Ngày tuệ lẳng lặng
Định quang rờ rỡ
Chiếu vườn Vô tướng
Lãng thành Niết-bàn
Các duyên quên rồi
Thuyên thần định chất
Chẳng lên tòa pháp
Ngủ yên nhà trống
Vui đạo mừng rỡ
Thong thả chân thật
Chẳng làm chẳng đắc
Nương không tự ra
Bốn đẳng sáu độ
Cùng lộ một thừa
Tâm nếu chẳng sanh
Pháp chẳng sai trật
Biết sanh không sanh
Thường trụ trước mặt
Người trí mới biết
Thuyên ngộ chẳng lời./.
BÀI MINH DỪNG TÂM
(Tăng không tên)
Nguyên văn:
法界有如意寶 人焉久缄其身,銘其膺曰: 古之攝心人也 戒之哉戒之哉
無多事 無多知 多知多事 不如息意 多慮多失 不如守一 慮多志散 知多心亂 心亂生惱 志散妨道 勿謂何傷 其苦攸長 勿言何畏 其禍鼎沸 滴水不停 四海將盈 殲塵不拂 五敫將成 防在末本 雖小不輕 關爾七寂 閉爾六情 莫现於色 莫聽於聲 聞綦者聲 見色者盲 一文一藝 空中小蚋 一伎一能 日下孤燈 英賢才藝 是爲愚蔽 捨棄淳朴 耽溺淫麗 識馬易奔 心猿難制 神旣勞役 形必損斃 邪行終迷 修途永泥 莫貴才能 日益昏瞢 誇拙羨巧 其琴不弘 名厚行薄 其高速崩 内懷僑伐 外致怨憎 或談於口 或書於手 邀人令譽 亦孔之醜 凡謂之吉 聖謂之咎 賞觀踅時 悲哀長久 畏影畏跡 逾遠逾極 端坐樹陰 巧滅影沈 厭生患老 随思随造 心想若滅 生死長絕 不死不生 無相無名 一道虚寂 萬物齊平 何貴何賤 何辱何榮 何勝何劣 何重何輕 澄天愧淨 皎日慙明 安夫你嶺 同彼金城 敬貽賢哲 斯道利貞
Phiên âm:
Pháp giới hữu như ý bảo Nhân diên cửu giam kỳ thân, minh kỳ ưng viết: Cổ chi nhiếp tâm nhân dã Giới chi tai!
Vô đa lự Vô đa tri Đa tri đa sự Bất như tức ý Đa lự đa thất Bất như thủ nhất Lự đa chí tán Tri đa tâm loạn Tâm loạn sanh não Chí tán phương đạo Vật vị hà thương Kỳ khổ du trường Vật ngôn hà úy Kỳ họa đỉnh phí Trích thủy bất đình Tứ hải tương doanh Tiêm trần bất phất Ngũ Nhạc tương thành Phòng mạt tại bổn Tuy tiểu bất khinh Quan nhĩ thất khiếu Bế nhĩ lục tình Mạc hiện ư sắc Mạc thính ư thanh Văn thanh giả lung Kiến sắc giả manh Nhất văn nhất nghệ Không trung tiểu nhuế Nhất kỹ nhất năng Nhật hạ cô đăng Anh hiền tài nghệ Thị vi ngu tê Xả khí thuần phác Đam nịch dâm lệ Thức mã dị bôn Tâm viên nan chế Thần ký lao dịch Hình tất tổn tệ Tà hạnh chung mê Tu đồ vĩnh nê Mạc quí tài năng Nhật ích hôn măng Khoa chuyết tiện xảo Kỳ đức bất hoằng Danh hậu hạnh bạc Kỳ cao tốc băng Nội hoài kiêu phạt Ngoại trí oán táng Hoặc đàm ư khẩu Hoặc thư ư thủ
Yêu nhân linh dự Diệc Khổng chi xú Phàm vị chi cát Thánh vị chi cữu Thưởng ngoạn tạm thời Bi ai trường cữu Úy ảnh úy tích Du viễn du cực Đoan tọa thụ âm Tích diệt ảnh trầm Yếm sanh hoạn lão Tùy tư tùy tạo Tâm tưởng nhược diệt Sanh tử trường tuyệt Bất tử bất sanh Vô tướng vô danh Nhất đạo hư tịch Vạn vật tề bình Hà quý hà tiện Hà nhục hà vinh Hà thắng hà liệt Hà trọng hà khinh
An phù Đại lĩnh Đồng bỉ kim thành Kính di hiền triết Tư đạo lợi trinh.
Tạm dịch:
Pháp giới có báu như ý
Người sao có thể giấu lâu nơi thân mình, ghi vào ngực rằng:
Bậc nhiếp thân hồi xưa
Giới rằng!
Giới rằng!
Chẳng lo lắm
Chẳng biết nhiều
Biết nhiều lắm chuyện
Chi bằng dừng ý
Lo lắm mất nhiều
Chẳng bằng giữ một
Lo nhiều chí tan
Biết nhiều tâm loạn
Tâm loạn sanh não
Chí tan hại đạo
Chớ nói nhằm gì
Khổ ấy dài lâu
Chớ nói sợ chỉ
Họa ấy phừng phừng
Giọt nước chẳng dừng
Bốn biển đầy khắp
Mảy bụi chẳng ngưng
Ngũ Nhạc thành hình
Phòng ngọn tại gốc
Tuy nhỏ chẳng nhẹ
Đóng lại thất khiếu
Lấp đi lục tình
Đừng thấy nơi sắc
Đừng nghe nơi thanh
Người nghe tiếng điếc
Người nhìn sắc mù
Một văn một nghệ
Ve con trong không
Một tài một giỏi
Đèn côi dưới trời
Anh hiền tài nghệ
Là bị ngu che
Buông bỏ thuần phác
Đắm chìm dâm đẹp
Ngựa thức dễ vọt
Vượn tâm khó kềm
Thần đã lao dịch
Hình tấc tổn hại
Đi lệch rốt mê
Đường tu mãi bùn
Chớ quý tài năng
Ngày càng mê muội
Khoe khoang tài khéo
Đạo đức chẳng rộng
Danh to hạnh mỏng
Cao đó sớm đổ
Trong mang kiêu mạn
Ngoài dẫn oán ghét
Hoặc nói cửa miệng
Hoặc viết bằng tay
Khiến người khen mình
Là điều Nho ghét
Phàm cho là tốt
Thánh gọi là xấu
Thưởng ngoạn chốc lát
Bi ai lâu dài
Sợ hình sợ dấu
Càng lúc càng tăng
Ngồi nghiêm bóng cây
Dấu phai hình mất
Ghét sanh lo già
Tùy tư tùy tạo
Tâm tưởng nếu tắt
Sanh tử mãi dứt
Không chết không sanh
Không tướng không tên
Một đạo hư tịch
Muôn vật đều bằng
Nào quý nào tiện
Nào nhục nào vinh
Nào hơn nào thua
Nào nặng nào nhẹ
Trời trong thẹn tịnh
Trời rõ tạm sáng
An thay Đại lĩnh
Giống họ thành vàng
Kính ái hiền triết
Đạo ấy lợi trinh./.
BIỆN BIỆT SƠ LƯỢC “TỨ HÀNH NHẬP ĐẠO ĐẠI THỪA”
Của BỒ ĐỀ ĐẠT MA - Đệ tử Đàm Bân viết tựa
Pháp sư là con thứ ba của Quốc vương đại Bà-la-môn nước Nam Thiên Trúc Tây Vực. Sư thần tuệ sơ lãng, nghe là hiểu liền. Chí lưu tồn đạo lớn, cho nên bỏ tục theo Tăng để thiệu long mầm giống Thánh. Minh tâm hư tịch, thông giám sự đời, trong ngoài đều sáng tỏ. Đức vượt thế biểu, lòng từ bi thương xót bốn biên cương chính giáo suy đồi, nên xa xôi lặn lội núi biền, du hóa vùng Hán Ngụy. Những kẻ sĩ quên tâm đều qui phục tin tưởng, còn kẻ kiến chấp sanh lòng chê bai. Lúc bấy giờ, chỉ có hai vị Sa-môn là Đạo Dục và Huệ Khả, tuổi tuy sanh sau, nhưng chí khí cao xa, may mắn gặp được Pháp sư, phụng sự trong mấy năm, kiền thành rất mực, khéo vừa ý Sư. Pháp sư cảm lòng tinh thành hai người, dạy cho chân đạo, khiến được an tâm như thế, phát hành như thế, thuận vật như thế, phương tiện như thế. Đó là pháp an tâm của Đại thừa, khiến không sai lầm. An tâm như thế là nhìn vách. Pháp hành như thế là tứ hành. Thuận vật như thế là đề phòng chê bai, hiềm khích. Phương tiện như thế là khiến không chấp trước. Đây là nêu sơ lược nguyên do có bài tựa này ! Vào đạo có nhiều đường lối, chủ yếu mà nói, không ngoài hai cách. Một là lý nhập, hai là hành nhập.
Lý nhập là lịch giáo hộ tông, tin sâu hàm sanh đều cùng chân tánh, nhưng do bị vọng tưởng khách trần che phủ, cho nên không thể hiển lộ. Nếu như bỏ vọng quay về chân ngồi im ngưng thần nhìn vách, không mình, không người, phàm Thánh bằng nhau, kiên trụ không dời, lại cũng không theo văn giáo. Đó tức cùng với lý ngầm phù hợp, chẳng có chi phân biệt, rỗng rang vô vi, gọi là lý nhập.
Còn hành nhập chính thức gồm tứ hành. Còn các hành khác đều nhập vào bốn hành này. Thế nào là bốn ?
- Một là báo oán hành, hai là tùy duyên hành, ba là vô sở cầu hành, bốn là xứng pháp hành. Thế nào là báo oán hành ? Ấy là người tu đạo hành pháp mà nếu lại bị khổ sở thì nên tự nghĩ rằng: ‘Ta từ vô số kiếp xưa, bỏ gốc theo ngọn, trôi nổi trong chư hữu, khởi lắm oán ghét, làm sai trái hư hại rất nhiều. Nay tuy không phạm lỗi, nhưng đó là tai họa từ đời trước. Nghiệp ác đã muồi, người, trời chẳng thể đỡ cho. Vậy phải nên nhẫn chịu, chẳng lời than trách’. Kinh nói: ‘Gặp khổ không lo’ là tại sao vậy ? Ấy là người thức đạt vậy. Tâm này sanh ra cùng lý tương ưng. Thể oán tấn đạo, cho nên mới nói hành báo oán.
- Thứ hai là hành tùy duyên. Chúng sinh không ngã, cả duyên nghiệp sở chuyển, khổ vui thọ nhận bằng nhau, đều theo duyên sanh. Nếu được thắng báo vinh dự đủ thứ, ấy là do ta từ kiếp trước có túc nhân sở cảm, nay mới được như thế. Duyên hết rồi thì trở lại không nên có chi mà vui. Được mất tùy duyên, tâm chẳng thêm bớt. Gió vui chẳng động, ngầm thuận với đạo, cho nên mới nói là hạnh tùy duyên.
- Thứ ba là hành chẳng có chi cầu (vô sở cầu hành). Người đời mê dài lâu, nơi nơi tham trước, gọi là cầu. Người trí ngộ chân, lý khác với tục. An tâm vô vi, hình theo vận chuyển. Vạn vật đều không, chẳng có chi nguyện vui. Công đức đen tối, thường theo rượt đuổi. Ba giới ở lâu, như là nhà lửa. Có thân đều khổ, ai người được an ? Liễu đạt chỗ ấy, nên bỏ chư hữu. Ngừng tưởng không cầu. Kinh nói: ‘Có cầu đều khổ, không cầu mới vui’. Biết được vô cầu, ấy chính là đạo hành. Cho nên mới gọi là hành chẳng có chi cầu.
- Bốn là pháp hành. Lý tánh tịch tịnh, nhìn thấy gọi là pháp. Lý ấy, các tướng đều không. Chẳng nhiễm, chẳng trước, chẳng này, chăng kia. Kinh nói: ‘Pháp chẳng chúng sanh, do đó rời chúng sanh dơ bẩn’. Pháp chẳng có ta, vì thế rời ta dơ. Người trí nếu hay tin được lý ấy, thì nên xứng pháp mà hành. Pháp thể không xan lận. Đối thân tiền tài, lập đàn xả thí. Tâm không tiếc sẻn, đạt được nhị không. Không nương không trước, mà chỉ trừ dơ, gọi hóa chúng sanh, mà không thủ tướng. Đó gọi tự hành. Lại khá lợi người, lại có thể trang nghiêm đạo Bồ-đề. Đàn thí đã xong, từ năm trở đi cũng vậy. Để trừ vọng tưởng tu hành lục độ, mà chẳng có chi hành, gọi là pháp hành.
CHÚ GIẢI:
1. Khách trần: Skt là Akasmàt-klésa, cũng còn gọi là khách trần phiền não, tức là nghĩa của phiền não. Đây là nghĩa đối lại của tự tánh thanh tịnh. Cái gọi là phiền não vốn không do tám tánh có, mà nhân mê lý khởi lên, cho nên gọi là khách. Lại nhân phiền não có thể làm ô nhiêm tâm tánh chúng ta, giống như trần ai (bụi bặm) làm dơ vạn vật nên gọi là trần. Đứng về mặt chân lý Phật giáo mà nói, nhân tánh vốn thanh tịnh không ô nhiễm, không có trần cấu, nhưng do hiện tượng bên ngoài che chụp, đưa đến đối cảnh sinh mê, khiến tâm sanh phiền não. Quyển thứ năm kinh Duy-ma chép: ‘Tâm gặp ngoại duyên, phiền não dậy lên, cho nên gọi là khách trần’
2. Ngưng trụ bích quán:
Ngưng trụ nhìn vách. Trước hết là bích định. Nhìn vách tịnh quán, cho nên còn gọi là bích định, hay định như vách. Ác giác như gió, vách định kiên cố thì tám thứ gió độc không thể xâm hại được. Quyển 5, thượng Ma-ha Chỉ Quán chép: ‘Chỉ có định như vách thì tám gió ác giác không thể nhập vào được’.
Bích quán có hai nghĩa:
1- Chỉ nhìn vách tịnh quán. Đời Lương Bồ-đề Đạt-ma tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn nhìn vách chín năm, người đời gọi là ông Bà-la-môn nhìn vách. Theo quyển 3 sách Cảnh Đức Truyền Đăng Lục thì khi Bồ-đề Đạt-ma đến Kiến Nghiệp, lời lẽ cùng Lương Võ Đế không khế hợp, bèn vượt sông đến nước Ngụy ở tại núi Thiếu Thất Tung Nhạc nơi chùa Thiếu Lâm ngồi xây mặt vào vách, suốt ngày tịch lặng, người đương thời không biết gọi là ông Bà-la-môn nhìn vách, ông tăng Ấn Độ nhìn vách.
2- Nhất ý Thiền quán tâm như tường vách, tịch tịnh bất động, tất cả vọng tường đều không thể xâm nhập, tức chỉ sơ Tổ Thiền tông là Bồ-đề Đạt-ma truyền pháp đặc điểm tâm như tường vách. Đạt-ma chủ trương ai ai cũng có Phật tánh, nhưng nhận thức sai lạc, lấy giả làm chân. Vậy muốn đạt đến chân lý thì phải tu Thiền. Theo Thiếu Thất Lục Môn chép thì tu Thiền là: ‘Ngưng trụ nhìn vách, không mình không người, phàm Thánh như nhau, trụ vững không dời đổi, lại không theo văn chương giáo nghĩa, đó tức cùng với chân lý ngầm phù hợp, có chi phân biệt, tịch nhiên vô vi’. Cái gọi là ‘Cùng với chân lý ngầm phù hợp’ có nghĩa là cùng với Phật tánh của tự thân khế hợp. Ngưng trụ bích quán là để đạt đến mục đích của phương pháp tu Thiền, ngoại ngừng các duyên, nội tâm kiên cố như tường vách.
HIỂN TÔNG KÝ
(ĐẠI SƯ HÀ TRẠCH THẦN HỘI)
Nguyên văn:
無念爲宗 無作爲本 眞空爲體 妙有爲用 夫 眞如無念 非想念而能知 實相無生 豈色心而能見 無念念者 卽念眞如 無生生者 卽生實相 無住而住 常住涅槃 無行而行 卽超彼岸 如如不動 動用無窮 念念無求 求本無念 菩提無得 淨五眼而了三身 船苦無知 運六通而弘四智
是知
卽定無定
卽慧無慧 卽行無行
性等虚空 體同法界
六度自兹圓滿 道品於是無虧
是知
我法體空 女無雙民 心本無作 道常無念 無念無思 無求無得 不彼不此 不去不來 體悟三明 心通八解 功成十力 富有七珍 入不二門 獲一乘理 妙中之妙 卽妙法身 天中之天 乃金剛慧
湛然常寂 應用無方 用而常空 空而常用 用而不有 卽是眞空 空而不無 便成妙有 妙有卽 摩訶船苦 眞空卽清淨淫槃 船苦是涅槃之因 涅槃是船苦之果 船苦空見 能見涅槃 涅槃無生 能生船苦 涅槃船苦 名異體同 隨義立名
故云
法無定相 涅槃能生船苦
卽名
眞佛法身 船苦能見涅槃 故號如來知見 知卽知心空寂 見卽見性無生 知見分明 不一不異
故能
動寂常妙 理事皆空
如卽
處處能通 達卽 理事無礙 六根不染 卽定慧之功 六識不生 卽如如之力
心如境謝 境滅心空 心境雙亡 體用不異 眞如性淨 慧鑒無窮 如水分千月 能見聞覺知 見聞覺知 而常空寂 空相卽無相 寂卽無生 不被善惡所拘 不被静亂所攝 不厭生死 不樂涅槃 無不能無 有不能有 行住坐臥 心不動搖 一切時中 獲無所得 三世諸佛 敎旨如斯 卽菩薩慈悲 遞相傳受 自世尊滅後 西天二十八祖 共傳無住之心 同說如來知見
至於達磨 屆此爲初 遞代相承 於今不絕 所傳秘敎 要藉得人 如王髻珠 終不妄與 福德智慧 二種莊嚴 行解相應 方能建立 衣爲法信 法是衣宗 唯指衣法相傳 更無別法 内傳心印 印契本心 外傳袈裟 將表宗旨 非衣不傳於法 非法不受於衣 衣是法性之衣 法是無生之法 無生卽無虚妄 乃是心空寂之心
知空寂而了法身 了法身而眞解脫
Phiên âm:
Vô niệm vi Tông, vô tác vi bổn, Chân không vi thể, Diệu hữu vi dụng.
Phù ! Chân như vô niệm, phi tưởng niệm nhi năng, tri thật tướng vô sanh, khởi sắc tâm nhi năng kiến. Vô niệm niệm giả, tức niệm chân như. Vô sanh sanh giả, tức sanh thật tướng. Vô trụ nhi trụ, thường trụ Niết-bàn. Vô hành nhi hành, tức siêu bỉ ngạn. Như như bất động, động dụng vô cùng. Niệm niệm vô cầu, cầu bổn vô niệm. Bồ-đề vô đắc, tịnh ngũ nhãn nhi liễu tam thân, Bát nhã vô tri, Vận lục thông nhi hoằng tứ trí.
Thị tri: Tức định vô định, tức tuệ vô tuệ, tức hạnh vô hạnh, tánh đẳng hư không, thể đồng pháp giới. Lục độ tự tư viên mãn, đạo phẩm ư thị vô khuy.
Thị tri: Ngã pháp thể không, hữu vô song mẫn, tâm bổn vô tác, vô cầu vô đắc. Bất bỉ bất thử, bất khứ bất lai, thể ngộ tam minh, tâm thông bát giải, công thành thập lực, phú hữu thất trân. Nhập bất nhị môn, hoạch nhất thừa lý, diệu trung chi diệu, tức diệu pháp thân. Thiên trung chi thiên, nãi kim cương tuệ, trạm nhiên thường tịch ứng dụng vô phương. Dụng nhi thường không, không nhi thường dụng, dụng nhi bất hữu, tức thị chân không. Không nhi bất vô, tiện thành diệu hữu, diệu hữu tức Ma-ha Bát nhã, Chân không tức thanh tịnh Niết-bàn. Bát-nhã thị Niết-bàn chi nhân, Niết-bàn thị Bát-nhã chi quả, Bát nhã không kiến, năng kiến Niết-bàn, Niết-bàn vô sanh, năng sanh Bát nhã, Niết-bàn Bát nhã danh dị thể đồng, tùy nghĩa lập danh.
Cố vân: Pháp vô định tướng, Niết-bàn năng sanh Bát nhã, tức danh chân Phật pháp thân. Bát-nhã năng kiến Niết-bàn, cố hiệu Như Lai tri kiến. Tri tức tri tâm không tịch, kiến tức kiến tánh vô sanh, tri kiến phân minh, bất nhất bất dị.
Cố năng : Động tịch thường diệu, lý sự giai không, như tức xứ xứ năng thông, đạt tức lý sự vô ngại. Lục căn bất nhiễm, tức định tuệ chi công, lục thức bất sanh, tức như như chi lực.
Tâm như cảnh tạ, cảnh diệt tâm không, tâm cảnh song vong, thể dụng bất dị. Chân như tánh tịnh, tuệ giám vô cùng, như thủy phân thiên nguyệt, năng kiến văn giác tri. Kiến văn giác tri nhi thường không tịch, không tướng tức vô tướng, tịch tức vô sanh.
Bất bị thiện ác sở câu, bất bị tịnh loạn sở nhiếp, bất yếm sanh tử, bất lạc Niết-bàn. Vô bất năng vô, hữu bất năng hữu, hành trụ tọa ngọa, tâm bất động diêu, nhất thiết thời trung, hoạch vô sở đắc.
Tam thế chư Phật Giáo chỉ như tư tức Bồ-tát từ bi đệ tương truyền thụ
Tự Thế Tôn diệt hậu, Tây Thiên nhị thập bát Tổ cộng truyền vô trụ chi tâm, đồng thuyết Như Lai tri kiến. Chí ư Đạt Ma giới thử vi sơ, đệ đại tương thừa, ư kim bất tuyệt. Sở truyền bí giáo, yếu tịch đắc nhân, như Vương kế châu, chung bất vọng dữ, phước đức trí tuệ, nhị chủng trang nghiêm, hành giải tương ưng, phương năng kiến lập. Y vi pháp tín, Pháp thị y Tông, duy chỉ y pháp tương truyền, cánh vô biệt pháp, nội truyền tâm ấn, ấn khế bổn tâm, ngoại truyền ca-sa tương biểu Tông chỉ.
Phi y bất truyền ư pháp, phi pháp bất thụ ư y, y thị pháp tín chi y, Pháp thị vô sanh chi pháp, Vô sanh tức vô hư vọng, nãi thị không tịch chi tâm.
Tri không tịch nhi liễu pháp thân, liễu pháp thân nhi chân giải thoát.
Tạm dịch:
Chẳng niệm là Tông, chẳng tác là bổn, Chân không là thể, Diệu hữu là dụng.
Nay, Chân như không niệm, chẳng tưởng niệm mà biết. Thật tướng không sanh. Há sắc tâm mà biết được, niệm mà không niệm, tức niệm chân như. Sanh mà chẳng sanh, tức sanh thật tướng. Vô trụ mà trụ, thường trụ Niết-bàn. Vô hành mà hành, tức vượt bờ kia, Như như bất động.
Động dụng vô cùng, niệm niệm chẳng cầu, cầu bổn không niệm. Bồ-đề chẳng đắc, tịnh ngũ nhãn mà liễu tam thân. Bát nhã vô tri, vận sáu thần thông mà hoằng bốn trí. Lại biết, tức định vô định, tức tuệ vô tuệ, tức hạnh vô hạnh, tánh đẳng hư không. Thể đồng pháp giới, lục độ tự đấy đầy tròn. Pháp ta vốn không, có không đều mất. Tâm vốn chẳng tác, chẳng niệm chẳng nghĩ, chẳng cầu chẳng được, chẳng đó chẳng đây, chẳng đến chẳng đi. Thể ngộ ba minh, tâm thông tám giải, công thành thập lực.
Giàu có bảy báu, vào cửa chẳng hai. Hoạch lý nhất thừa, diệu trong các diệu, là diệu Pháp thân, Trời trong các trời là tuệ kim cương. Trạm nhiên thường tịch, ứng dụng vô phương, dụng như thường không, không như thường dụng. Dụng nhưng chẳng hữu, tức là chân không, không mà chẳng vô, liền thành diệu hữu. Diệu hữu tức Ma-ha Bát-nhã, Chân không tức thanh tịnh Niết-bàn, Bát-nhã là nhân của Niết-bàn, Niết-bàn là quả của Bát-nhã.
Bát-nhã vô kiến, năng kiến Niết-bàn. Niết-bàn không sanh, năng sanh Bát-nhã; Niết-bàn Bát-nhã, tên khác thể đồng, tùy nghĩa lập danh.
Nên gọi : Pháp không định tướng, Niết-bàn hay sanh Bát-nhã, tên gọi Pháp thân chân Phật, nên kêu tri kiến Như Lai. Biết tức biết tâm không tịch, kiến tức kiến tánh vô sanh. Tri kiến rõ ràng, chẳng một chẳng khác.
Nên hay : Động tịch thường diệu, lý sự đều như, như thì chốn chốn năng thông. Đạt tức lý sự chẳng kẹt, sáu căn chẳng nhiễm. Ấy là công định tuệ, sáu thức chẳng sanh. Ấy là sức như như, tâm như cảnh tàn, cảnh diệt tâm không. Tâm cảnh đều mất, thể dụng chẳng khác, tánh chân như tịnh, tuệ giảm không cùng, như nước chia ngàn trăng. Hay kiến văn giác tri, kiến văn giác tri nhưng thường không tịch. Không tức chẳng tướng, tịch tức vô sanh. Không bị thiện ác câu chấp, chẳng bị tịnh loạn nhiếp phục, chẳng ghét sanh tử, không ưa Niết-bàn. Vô chẳng là vô, hữu không là hữu. Đi đứng nằm ngồi, tâm chẳng động dao. Trong mọi thời lúc, hoạch vô sở đắc.
Ba đời chư Phật, Giáo chỉ như thế, tức Bồ-tát từ bi lần lượt truyền thụ. Sau khi Thế Tôn nhập diệt, hai mươi tám Tổ Tây Thiên cùng truyền tâm, đồng thuyết tri kiến Như Lai.
Đến lúc Đạt-ma đến nơi này làm sơ Tổ, tương truyền từng đời, tới nay chẳng dứt, bỉ giáo sở truyền. Cần chọn được người, như ngọc trên tóc Vương (Chuyển luân pháp vương), rốt lại chẳng cho bừa. Phước đức trí tuệ, hai trang nghiêm đó, biết làm tương ưng, mới được kiến lập. Áo làm pháp tín, pháp là y Tông, chỉ có y pháp tương truyền. Rốt không biệt pháp, trong truyền tâm ấn, ấn khế bản tâm, ngoài truyền Cà-sa tương biểu Tông chỉ.
Chẳng y nào không truyền nơi pháp, không pháp nào chẳng truyền nơi y ; Y là biểu thị pháp tín, Pháp là biểu thị vô sanh, vô sanh là chẳng hư vọng. Ấy là không tịch của tâm.
Biết không tịch mà liễu pháp thân, liễu Pháp thân mà chân giải thoát.
THAM ĐỒNG KHẾ
(Hòa Thượng Thạch Đầu Nam Nhạc)
Nguyên văn:
竺土大倦心 東西密相付 人根有利鈍 道無南北祖 靈源明皎潔 枝派暗流注 執事元是迷 契理亦非悟 門門一切境 迴互不迴互 迴而更相涉 不爾依位住 色本殊質象 聲元異樂苦 暗合上中言 明明清濁句 四大性自復 如子得其母 火熱風動搖 水濕地堅固 眼色耳音聲 鼻香舌鹹醋 然依一一法 依根葉分布 本末须歸宗 尊卑用其語 當明中有暗 勿以暗相遇 當暗中有明 勿以明相蜆 明暗各相對 比如前後步 萬物自有功 當言用乃處 事存函蓋合 理應箭鋒拄 承言須會宗 勿自立规矩 觸目不會道 運足焉知路 進步非近遠 速鵑山河固 謹白參玄人 光除莫虚度
Phiên âm:
Trúc độ Đại Tiên tâm
Đông Tây mật tương phó
Nhân căn hữu lợi độn
Đạo vô Nam Bắc Tổ
Linh nguyên minh hiểu khiết
Chi phái ám lưu chú
Chấp sự nguyên thị mê
Khế lý diệc phi ngộ
Môn môn nhất thiết cảnh
Hồi hỗ bất hồi hỗ
Hồi nhi cánh tương thiệp
Bất nhĩ y vị trụ
Sắc bản thù chất tượng
Thanh nguyên dị lạc khổ
Ám hiệp thượng trung ngôn
Minh minh thanh trược cú !
Tứ đại tánh tự phục
Như tử đắc kỳ mẫu
Hỏa nhiệt phong động dao
Thủy thấp địa kiên cố
Nhãn sắc nhĩ âm thanh
Tị hương thiệt hàm thố
Nhiên y nhất nhất pháp
Y căn diệp phân bố
Bản mạt tu quy tông
Tôn ti dụng kỳ ngữ
Đương minh trung hữu ám
Vật dĩ ám tương ngộ
Đương ám trung hữu minh
Vật dĩ minh tương đỗ
Minh ám các tương đối
Ti như tiền hậu bộ
Vạn vật tự hữu công
Đương ngôn dụng cập xứ
Sự tồn hàm cái hạp
Lý ưng tiễn phong trụ
Thừa ngôn tu hội tông
Vật tự lập quy củ
Xúc mục bất hội dạo
Vận túc yên tri lộ
Tiến bộ phi cận viễn
Mê cách sơn hà cố
Cẩn bạch tham huyền nhân
Quang âm mạc hư độ
Tạm dịch:
Tâm Phật tại đất Trúc
Đông Tây thầm trao truyền
Người có cân nhanh chậm
Đạo chẳng Tổ Bắc Nam
Nguồn linh vốn trong sáng
Phái nhánh ngầm tuôn chảy
Chấp sự nguyên là mê
Khế lý cũng chẳng ngộ
Mọi vật bày cảnh giới
Hòa lẫn chẳng hòa lẫn
Hòa nên có giao thiệp
Không hòa chẳng một thể
Sắc vốn khác chất tượng
Thanh nguyên khác vui khổ
Ám hợp đạo thượng trung
Sáng rỡ câu trong đục
Bốn đại tánh tự phục
Như con gặp được mẹ
Lửa nóng gió lay động
Nước ấm đất cứng chắc
Mắt sắc tai âm thanh
Mũi mùi lưỡi chua mặn
Nhưng tùy mỗi mỗi pháp
Theo gốc cành lá chia
Gốc ngọn phải về Tông
Trên dưới dùng lời này
Nên trong sáng có tối
Đừng để tối gặp nhau
Nên trong tối có sáng
Đừng để sáng nhìn nhau
Sáng tối đều đối nhau
Tỉ như bước trước sau
Muôn vật tự có dụng
Nếu nói dụng và chốn
Sự tồn hộp cùng nắp
Lý như tên chọi nhau
Nương lời thấu rõ Tông
Chớ tự lập khuôn phép
Chạm mắt chẳng hiểu đạo
Dời chân há biết đường
Cất bước chẳng xa gần
Mê nên cách núi sông
Kính ngỏ người tham thiền
Quang âm chớ luống qua./.
Đại Sư TRỪNG QUÁN Trấn Quốc Núi Ngũ Đài
Đáp Hoàng Thái Tử Hỏi Tâm Yếu
Nguyên văn:
至道未乎其心 心法本乎無住 無住心體 靈知不昧
性相寂然 包含德用 該攝内外 能深能廣 非有非空
不生不滅 無終無始
求之而不得 棄之而不離
迷現量則感苦纷然 悟眞猛則空明廓徹
雖卽心卽佛 唯證者方知 然有證有知 則慧日沈於沒有地
若無照無悟 則昏雲掩蔽於空門
若一念不生 則前後際斷
照體獨立 物我皆如 直造心源 無知無得 不取不捨 無對無修
然迷悟更依 眞妄相待
若求眞去妄 猶去影勞形 若體妄卽眞 似處陰影滅 若無心忘照
則萬慮都捐 若任運寂知 則衆行爰起
放曠任其去住 靜鑒覺其源流 語默不失玄微 動靜未離法界
言止則雙亡知寂 論觀則雙照寂知 語證則不可示人
說理則非證不了 是以悟寂無寂 眞知無知
以知寂不二之一心 契空有雙融之中道
無住無著 莫攝莫歧 是非兩亡 能所雙絕 斯絕亦寂
則船苦現前 船苦非心外新生 智性乃本來具趸 然本寂不能自現
實由船苦之功 船苦之與智性
翻農相成 本知之誕始修 實無兩想 雙亡正入 則妙覺圓明
始末該融 則因果交徹 心心作佛 無一心而非佛心 處處成道
無一塵而非佛國 故眞妄物我 舉一全收 心佛衆生 渾然齊致
是知迷則人随於法 法法萬差而人不同 悟則於人
人—智而融萬境 言亨慮絕 何果何因 體本寂寥 孰同孰異
唯忘懷虚朗 消息沖融 其猶婴秀水月華
虚而可見 無心經象 照而常空矣
Phiên âm:
Chí đạo bổn hồ kỳ tâm, Tâm pháp bổn hồ vô trụ
Vô trụ tâm thế, Linh tri bất muội
Tánh tướng tịch nhiên, Bao hàm đức dụng
Cai nhiếp nội ngoại, Năng thâm năng quảng
Phi hữu phi không ,Bất sanh bất diệt, Vô chung vô thỉ
Cầu chi nhi bất đắc, Khí chi nhi bất ly
Mê hiện lượng tắc cảm khổ phân nhiên
Ngộ chân tánh tắc không minh khuếch triệt
Tuy tức tâm tức Phật, Duy chứng giả phương tri
Nhiên hữu chứng hữu tri, Tác tuệ nhật tràm một ư hữu địa
Nhược vô chiếu vô ngộ, Tắc hôn vân yểm tế ư không môn
Nhược nhất niệm bất sanh, Tắc tiền hậu tế đoạn
Chiếu thể độc lập, Vật ngã giai như
Trực tạo tâm nguyên, Vô tri vô đắc
Bất thủ bất xả, Vô đối vô tu
Nhiên mê ngộ cánh y, Chân vọng tương đãi
Nhược cầu chân khứ vọng, Do khứ ảnh lao hình
Nhược thể vọng tức chân, Tự xứ âm ảnh diệt
Nhược vô tâm vong chiêu, Tắc vạn lự đô quyên
Nhược nhiệm vận tịch tri, Tắc chúng hành viên khởi
Phóng khoáng nhiệm kỳ khứ trụ, Tĩnh giám giác kỳ nguyên lưu
Ngữ mặc bất thất huyền vi, Động tĩnh vị ly pháp giới
Ngôn chỉ tắc song vong tri tịch Luận quán tắc song chiếu tịch tri
Ngữ chứng tắc bất khả thị nhân, Thuyết lý tắc phi chứng bất liễu
Thị dĩ ngộ tịch vô tịch, Chân tri vô tri
Dĩ tri tịch bất nhị chi nhất tâm
Khế không hữu song dung chi trung đạo, Vô trụ vô trước
Thị phi lưỡng vong, Năng sở song tuyệt
Tư tuyệt diệc tịch, Tắc Bát nhã hiện tiền
Bát nhã phi tâm ngoại tân sanh, Trí tánh nãi bổn lai cụ túc
Nhiên bổn tịch bất năng tự hiện, Thật do Bát nhã chi công
Bát nhã chi dữ trí tánh, Phiên phúc tương thành
Bổn tri chi dữ thỉ tu, Thật vô lưỡng thể
Song vong chánh nhập, Tắc diệu giác viên minh
Thỉ mạt cai dung Tắc nhân quả giao triệt
Tâm tâm tác Phật, Vô nhất tâm nhi phi Phật tâm
Xứ xứ thành đạo, Vô nhất trần nhi phi Phật quốc
Cố chân vọng vật ngã, Cử nhất toàn thu
Tâm Phật chúng sanh, Hồn nhiên tề trí
Thị tri mê tắc nhân tùy ư pháp
Pháp pháp vạn sai nhi nhân bất đồng
Ngộ tắc pháp tùy ư nhân
Nhân nhân nhất trí nhi dung vạn cảnh
Ngôn cùng lự tuyệt, Hà quả hà nhân
Thể bổn tịch liêu, Thục đồng thục dị
Duy vong hoài hư lãng, Tiêu tức xung dung
Kỳ do tú thủy nguyệt hoa, Hư nhi khả kiến
Vô tâm giám tượng, Chiếu nhi thường không hĩ.
Tạm dịch:
Chí đạo vốn là ở tâm, tâm pháp vốn ở vô trụ
Tâm thể chẳng trụ, linh tri chẳng mờ
Tánh tướng tịch nhiên, bao hàm đức dụng
Trùm nắm trong ngoài, hay sâu hay rộng
Chẳng có chẳng không, chẳng sanh chẳng diệt
Không cuối không đầu, cầu thì không được, bỏ lại chẳng rời.
Mê hiện lượng tức cảm khổ bời bời
Ngộ chân tánh thì không minh khuyếch triệt
Tuy tâm ấy là Phật, duy kẻ chứng mới biết
Nhưng có chứng có tri thì tuệ nhật chìm mất nơi chỗ có
Nếu chẳng chiếu chẳng ngộ thì mây mù che phủ ở cửa không
Nếu một niệm không sanh thì trước sau tế đoạn
Chiếu thể độc lập, vật ta đều như.
Đến thẳng nguồn tâm, không biết không được
Không nắm không buông, chẳng đổi chẳng tu
Nhưng mê ngộ nương nhau, chân vọng tương đãi
Nếu cầu chân bỏ vọng là bỏ ảnh theo hình
Nếu thể vọng tức chân giống chỗ tối ảnh mất
Nếu chẳng tâm vọng chiếu tức muôn lo đều tan
Nếu mặc cho tịch tri thì chúng hành bèn dậy
Thông thoáng mặc tình đi ở, động lặng chưa rời pháp giới
Lời dừng tức đều quên tri tịch, luận quán tức song chiếu tịch tri
Lời chứng tức không thể chỉ cho người
Thuyết lý tức chẳng chứng nào không hiểu
Cho nên, ngộ tịch không tịch, chân tri không tri
Lấy một tâm tri tịch không hai
Khế trung đạo có không dung hiệp
Không trụ không trước, chẳng nắm chẳng thâu
Phải trái đều quên, năng sở đều dứt
Cái dứt ấy cũng tịch tức Bát-nhã hiện tiền
Bát-nhã chẳng ngoài tâm sanh mới
Trí tánh vốn xưa nay đầy đủ, nhưng bổn tịch chẳng thể tự hiện
Thật là do công của Bát-nhã.
Bát-nhã cùng với trí tánh xấp ngửa tương thành
Bổn trí cùng với thỉ tu thật không hai thể
Song vong chính nhân tức diệu giác viên minh
Gốc ngọn dung hiệp tức nhân quả giao triệt
Tâm tâm là Phật, chẳng tâm nào mà không là tâm Phật
Chốn chốn thành đạo, không trần nào mà không là nước Phật
Cho nên : Chân vọng, vật ta
Cử một thâu hết Tâm, Phật chúng sanh cùng khắp bằng nhau
Do đó mà biết : Mê tức người tùy theo pháp, Pháp pháp muôn sai nhưng người không đồng
Ngộ tức pháp tùy theo người, Người người nhất trí dung hiệp muôn cảnh. Lời cùng lo dứt, nhân nào quả nào
Thể vốn tịch liêu, ai giống ai khác
Duy quên hư lãng, tin tức xung hiệp
Đó là hoa nguyệt thấu nước, giả nhưng thấy được
Vô tâm giám tượng tuy chiếu nhưng thường không vậy./.
BÀI CHÂM NGỒI THIỀN
(Hòa Thượng Ngũ Vân Hàng Châu)
Nguyên văn:
坐不拘身 禪非涉境 拘必乃疲 涉則非静 不涉不拘 眞丄迫孤
六門齊應 萬行同敷 嗟爾初機 未達玄微 處沈随掉 能所支離
不有權巧 胡爲對治 驅策抑按 均調惽亂 息慮忘緣 乍同死漢
隨宜合開 靡專璧觀 驰想頗多 安那妹那 沿流劍閣 無滞木鹅
如火得水 如病得醫 病瘳醫罷 火滅水傾 一念清淨 體寂常靈
是靈是寂 非靈非寂 是非迭生 犯過無極 前滅後興 還如步走
患乎不知 知則無咎 目由背夜 鏡奚照後 此則不然 圓明通透
照而不緣 寂而誰守 萬象濃遐 太虚閃電 摧壞魔宫 衛倒佛殿
跛者得履 替者發見 法界塵寰 齊括頓現 曠蕩郊鄺 或坐或眠
旣明方便 乃號金倦 吾雖強說 爰符聖言 聖言何也 要假重宣
不動不禪 是無生禪
又云
若學諸三昧 是動非坐禪 心隨境界流 云何名爲定 故知歷代祖
唯傳此一心 祖光旣遠大 吾子幸堪任 聊述無言旨 乃曰坐禪箴
Phiên âm:
Tọa bất câu thân
Thiền phi thiệp cảnh
Câu tất nãi bì
Thiệp tắc phi tĩnh
Bất thiệp bất câu
Chân quang huýnh cô
Lục môn tề ứng
Vạn hạnh đồng phu
Ta nhĩ sơ cơ
Vị đạt huyền vi
Xứ trầm tùy điệu
Năng sở chi ly
Bất hữu quyền xảo
Hồ vi đối trị
Khu sách ức án
Quân điều hôn loạn
Tức lự vong duyên
Sạ đồng tử hán
Tùv nghi hợp khai
Mỹ chuyên bích quán
Trì tưởng phả đa
An na bát na
Diên lưu kiếm các
Vô trệ mộc nga
Như hỏa đắc thủy
Như bệnh đắc y
Bệnh sưu y bãi
Hỏa diệt thủy khuynh
Nhất niệm thanh tịnh
Thể tịch thường linh
Thị linh thị tịch
Phi linh phi tịch
Thị phi điệt sanh
Phạm quá vô cực
Tiền diệt hậu hưng
Hoàn như bộ tẩu
Hoạn hồ bất tri
Tri tắc vô cữu
Mục do bối dạ
Kính hề chiếu hậu
Thử tắc bất nhiên
Viên minh thông thấu
Chiếu nhi bất duyên
Tịch nhi thùy thu
Vạn tượng doanh âu
Thái hư thiểm điện
Tồi hoại ma cung
Xung đảo Phật điện
Bả giả đắc lý
Cổ giả phát kiến
Pháp giới trần hoàn
Tề luân đốn hiện
Khoáng đãng giao triền
Hoặc tọa hoặc miên
Ký minh phương tiện
Nãi hiệu Kim Tiên
Ngô tuy cưỡng thuyết
Viên phù Thánh ngôn
Thánh ngôn hà dã
Yếu giả trùng tuyên
Bất động bất Thiền
Thị vô sanh Thiền
Hựu vân
Nhược học chư Tam-muội
Thị động phi tọa Thiền
Tâm tuy cảnh giới lưu
Vân hà danh vị định
Cố tri lịch đại Tổ
Duy truyền thử nhất tâm
Tổ quang ký viễn đại
Ngô tử hạnh kham nhiệm
Liêu thuật vô ngôn chỉ
Nãi viết Tọa Thiền châm./.
Tạm dịch :
Ngồi chẳng bó thân
Thiền không thiệp cảnh
Bó thân tức mệt
Thiệp cảnh chẳng tĩnh
Chẳng thiệp chẳng bó
Chân quang chót vót
Sáu cửa đều ưng
Muôn hạnh cùng phô
Thương thay sơ cơ
Chưa đạt huyền vi
Nổi chìm tùy nậy
Năng sở chi ly
Chẳng có quyền xảo
Làm sao đối trị
Khu sách ngưỡng án
Đều điều hôn loạn
Dừng lự quên duyên
Khác nào gã chết
Tùy nghi đóng mở
Chẳng chuyên nhìn vách
Trì tưởng quá nhiều
An na bát na
Đi men gác kiếm
Chẳng kẹt ngỗng gỗ
Như bệnh gặp thuốc
Bệnh hết thuốc ngưng
Lửa tắt nước thôi
Một niệm thanh tịnh
Là linh là tịch
Chẳng linh chẳng tịch
Phái trái sanh ra
Phạm lồi vô cùng
Trước diệt sau hưng
Cũng như bước chạy
Lo là không biết
Biết tức không lỗi
Mắt bị đêm tối
Gương nào chiếu sau
Đó là không phải
Tròn sáng thông thấu
Chiếu mà không duyên
Tịch nhưng ai giữ
Vạn tượng bọt nổi
Thái hư điện xẹt
Gãy vỡ cung ma
Nghiêng ngửa điện Phật
Kẻ què được giày
Người mù được thấy
Pháp giới trần hoàn
Tề luân bỗng hiện
Khoáng đãng chợ đồng
Hoặc ngồi hoặc ngủ
Đã rõ phương tiện
Liền hiệu Kim Tiên
Ta tuy gượng nói
Bèn hợp lời Thánh
Lời Thánh thế nào
Nếu cần tuyên lại
Chẳng động chẳng Thiền
Là vô sanh Thiền
Lại nói,
Nếu học các Tam-muội
Là động chẳng ngồi Thiền
Tâm theo cảnh giới trôi
Làm sao gọi là định ?
Thế nên Tổ các đời
Chỉ truyền một tâm đó
Tổ quang đã xa rộng
Trò ta may kham nhiệm
Tạm thuật chi không lời
Gọi là châm Tọa Thiền./.
BÀI CHỨNG ĐẠO CA
Đại Sư Chân Giác - Vĩnh Gia Huyền Giác
Nguyên văn:
君不見:
絕學無爲閑道人 不除妄想不求眞 無明實性卽佛性
幻化空身卽法身 法身覺了無一物 本泳自性天眞佛
五陰浮雲空去來 三毒水泡虚出没
證實相 無人法
彼滅却阿鼻業 若將妄語誑衆生 自招拔舌塵沙劫
頓覺了 如來禪
六度萬行體中圓 夢裏明明有六趣 覺後空空無大千
無罪福 無拍益
寂滅性中莫問見 比來塵境未曾磨 今曰分明須剖析
誰無念 谁無生
若實無生無不生 喚取機關木人問 求佛施功早晚成
放四大 莫把捉
寂滅性中随飲啄 諸行無常一切空 卽是如來大圓覺
決定說 表眞乘
有人不肯任情徵 直截根源佛所印 摘葉尋枝我不能
摩尼珠 人不識
如來藏裏親收得 六般神用空不空 一顆圓光色非色
淨五眼 得五力
唯證乃知誰可測 鏡裏看形見不難 水中捉月爭拈得
常獨行 常獨步
達者同遊涅槃路 調古神凊風自高 貌悴骨剛人不顧
窮釋子 口稱貧
實是身貧道不貧 貧則身常披縷褐 道卽心藏無價珍
無償珍 用無蛊
利物應時終不吝 三身四智體中圓 八解六通心地印
上士一決一切了 中下多聞多不信 但自懷中解垢依
誰能向外誇精進
從他謗 任他非
把火燒天徒自疲 我聞恰似飲甘露 鎖融頓入不思議
觀惡言 是功德
此則成吾善知識 不因訕謗起怨親 何表無生慈忍力
宗亦通 說亦通
定慧圓明不滯空 非但我今獨達了 河沙诸佛體皆同
師孚吼 無畏說
百獸聞之皆惱裂 香象奔波失却成 天龍寂聽生欣悦
遊江海 涉山川
尋師訪道爲參禪 自從認得曹谿路 了知生苑呆相干
行亦禪 坐亦禪
語默動靜體安然 縱遇鋒刀徜坦坦 假饒毒藥也閑閑
我師得見然燈佛 多劫曾爲忍辱倦
幾迴生 幾迴死
生死悠悠無定止 自從頓悟了無生 於諸榮辱何憂喜
入深山 住蘭苦
岑卷幽邃長松下 優遊靜坐野僧閑 閒寂安然居實蕭麗
覺卽了 不施功
一切有爲法不同 住相布施生天福 猶如仰箭射虚空
勢力蛊 箭還适
招得來生不如意 爭似無爲實相門 一超直入如來地
但得本 莫愁末
如淨琉璃含寶月 旣能解此如意珠 自利利他終不竭
江月照 松風吹
永夜清宵何所爲 佛性戒珠心地印 霧露雲霞體上衣
降龍钵 解虎錫
兩股金鐶鳴歷歷 不是搮形虚事 如來寶杖身蹤路
不求眞 不斷妄
了知二法空無相 無相無空無不空 卽是如來眞實相
心銳明
錾無礙
夸然瑩徹周沙界 萬象森羅影現中 一顆圓明非内外
豁達空 撤因果
漭漭蕩蕩招殃禍 棄有著空病亦然 還如避溺而投火
捨妥心
取眞理
取捨之心成巧僞 學人不了用修才亍 眞成認賊將爲子
損法財 滅功德
莫不由斯心意識 是以禪門了却心 頓入無生知見力
大丈夫 秉慧劍
船姜鋒兮金剛燄 非但能摧外道心 早曾落却天魔膽
震法雷 擊法鼓
布慈雲兮灑甘露 龍象蹴蹋潤無邊 三乘五性皆惺悟
雪山肥腻更無雜 纯出醐醍我常纳 一性圓通一切性
一法徧含一切法
一月普現一切水 一切水月一月攝 諸佛法身入我性
我性還共如來合 一地具足一切地 非色非心非行業
彈指圓成八萬門 刹那滅却阿鼻業 一切數句非數句
與吾靈覺何交涉
不可毁 不可讚
體若虚空勿涯岸 不離當處常湛然 覓則知君不可見
取不得 捨不得
不可得中只麼得
默時説 說時默
大施門開無奎塞 有人問我解何宗 報道摩訶船苦力
或是或非人不識 逆行順行天莫測 吾早曾經多劫修
不是等閑相誑惑
建法幢 立宗旨
明明佛敕曹谿是 第一迦葉首傳燈 二十八代西天記
法東流 入此士
菩提達磨爲初祖 六代傳衣天工聞 後人得道無窮數
眞不立 妄本空
有無俱遣不空空 二十空門元不著 一性如來體自同
心是根 法是塵
兩種猶如鏡上痕 痕垢盡除光始現 心法雙亡性卽眞
嗟末法 惡時世
衆生福薄難調制 去聖遠兮邪見深 魔強法弱多怨害
聞說如來頓敎門 恨不滅除令瓦碎
作在心 块在身
不須怨訴更尤人 欲得不招無間業 莫镑如來正法輪
栴檀林 無雜樹
鬱密深沈師子住 境靜林閑獨自遊 走獸飛禽皆遠去
師子兒 衆隨後
三歲卽能大哮吼 若是野干逐法王 百年妖怪虚開口
圓頓教 勿人情
有疑不決直須争 不是山僧逞人我 修行恐落斷常坑
非不是 是不非
差之毫釐失千里 是卽龍女頓成佛 非卽善星生陷堕
吾早年來積學問 亦曾討疏尋經論 分別名相呆知休
入海算沙徒自困 却被如來苦詞責 數他珍寶有何益
從來蹭蹬覺虚行 多年枉作風塵客
種性邪 錯知解
不達如來圓頓制 二乘精進勿道心 外道聰明無智慧
亦愚癡 亦示駿
空拳指上生實解 執指爲月枉施功 根境法中虚捏怪
不見一法卽如來 方得名爲觀自在 了卽業障本來空
未了還須償宿债 饥逢王饍不能餐
病遇醫王爭得差 在欲行禪知見力 火中生蓮终不壤
勇施犯重悟無生 早時成佛於今在
師子吼 無畏說
深嗟懵懂頑皮靼 只知犯重障菩提 不見如來開秘訣
有三比丘犯婬殺 波離螢光增罪结 維摩大士頓除疑
還同赫日鎖霜雪
不思議 解脫力
此卽成吾善知識 四事供養敢辤勞 萬兩黃金亦鎖得
粉骨碎身未足酬 一句了然超百億
法中王 最高勝
河沙如來同共證 我各解此如意珠 信受之者皆相應
了了見 無一物
亦無人 亦無佛
大千世界海中沤 一切聖賢如電桃 假使娥輪頂上旋
定慧圓明終不失
曰可冷 月可熱
衆魔不能壞眞說 象巧崢碟謾道途 誰見螗蜋能拒轍
大象不遊於兔徑 大悟不拘於小節 莫將管見謗蒼蒼
未了吾今爲君決
Phiên âm:
Quân bất kiến
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân
Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân
Vô minh thật tánh tức Phật tánh
Ảo hóa không thân tức pháp thân
Pháp thân giác liễu vô nhất vật
Bổn nguyên tự tánh thiên chân Phật
Ngũ ấm phù vân không khứ lai
Tam độc thủy bào hư xuất một
Chứng thật tướng vô nhân pháp
Sác-na diệt khước A-tỳ nghiệp
Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh
Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp
Đốn giác liễu Như Lai thiền
Lục độ vạn hạnh thể trung viên
Mộng lý minh minh hữu lục thú
Giác hậu không không vô đại thiên
Vô tội phước, vô tổn ích
Tịch diệt tánh trung mạc vấn mịch
Tỉ lai trần cảnh vị tằng ma
Kim nhật phân minh tu phẫu tích
Thùy vô niệm Thùy vô sanh
Nhược thật vô sanh vô bất sanh
Hoán thủ cơ quan mộc nhân vấn
Cầu Phật thi công tảo vãn thành
Phóng tứ đại, mạc bả tróc
Tịch diệt tánh trung tày ẩm trác
Chư hành vô thường nhất thiết không
Tức thị Như Lai đại viên giác
Quyết định thuyết, biểu chân thừa
Hữu nhân bất khẳng nhiệm tình trưng
Trực tiệt căn nguyên Phật sở ấn
Trích diệp tầm chi ngã bất năng
Ma-ni châu, nhân bất thức
Như Lai tạng lý thân thâu đắc
Lục ban thần dụng không bất không
Nhất khỏa viên quang sắc phi sắc
Tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực
Duy chứng nãi tri thùy khả trắc
Kính lý khán hình kiến bất nan
Thủy trung tróc nguyệt tranh niêm đắc
Thường độc hành, thường độc bộ
Đạt giả đồng du Niết-bàn lộ
Điều cổ thần sảnh phong tự cao
Mạo tụy cốt cương nhân bất cố
Cùng Thích tử, khẩu xưng bần
Thật thị thân bần đạo bất bần
Bần tắc thân thường phi lũ hạt
Đạo tức tâm tàng vô giá trân
Vô giá trân, dụng vô tận
Lợi vật ứng thời chung bất lận
Tam thân tứ trí thể trung viên
Bát giải lục thông tâm địa ấn
Thượng sĩ nhất quyết nhất thiết liễu
Trung hạ đa văn đa bất tín
Đãn tự hoài trung giải cấu y
Thùy năng hướng ngoại khoa tinh tấn
Tùng tha báng, nhiệm tha phi
Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì
Ngã văn kháp tự âm cam lộ
Tỏa dung đốn nhập bất tư nghị
Quán ác ngôn thị công đức
Thử tắc thành ngô thiện tri thức
Bất nhân san báng khởi oán thân
Hà biểu vô sanh từ nhẫn lực
Tông diệc thông thuyết diệc thông
Định tuệ viên minh bất trệ không
Phi đãn ngã kim độc đạt liễu
Hà sa chư Phật thể giai đồng
Sư tử hống, vô úy thuyết
Bách thú văn chi giai não liệt
Hương tượng bôn ba thất khước uy
Thiên long tịch thính sanh hân duyệt
Du giang hải, thiệp sơn xuyên
Tầm sư phỏng đạo vi tham Thiền
Tự tùng nhận đắc Tào Khê lộ
Liễu tri sanh tử bất tương can
Hành diệc Thiền, tọa diệc Thiền
Ngữ mặc động tĩnh thể an nhiên
Túng ngộ phong đao thường thản thản
Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn
Ngã sư đắc kiến Nhiên Đăng Phật
Đa kiếp tằng vi nhẫn nhục tiên
Kỷ hồi sanh, kỷ hồi tử
Sanh tử du du vô định chỉ
Tự tùng đốn ngộ liễu vô sanh
Ư chư vinh nhục hà ưu hỉ
Nhập thâm sơn, trụ lan nhã
Sầm ngâm u thúy trưởng tùng hạ
Ưu du tĩnh tọa đã tăng gia
Nhàn tịch an cư thật tiêu sái
Giác tức liễu, bất thi công
Nhất thiết hữu vi pháp bất đồng
Trụ tương bố thí sanh thiên phước
Do như ngưỡng tiễn xạ hư không
Thế lực tận, tiễn hoàn đọa
Chiêu đắc lai sanh bất như ý
Tranh tự vô vi thật tướng môn
Nhất siêu trực nhập Như Lai địa
Đãn đắc bổn, mạc sầu mạt
Như tịnh lưu ly hàm bảo nguyệt
Ký năng giải thử như ý châu
Tự lợi lợi tha chung bất kiệt
Giang nguyệt chiếu, tùng phong xuy
Vĩnh dạ thanh tiêu hà sở vi
Phật tánh giới châu tâm địa ấn
Vụ lộ vân hà thể thượng y
Hàng long bát, giải hổ tích
Lưỡng cổ kim hoàn minh lịch lịch
Bất thị phiếu hình hư sự trì
Như Lai bảo trượng thân tung tích
Bất cầu chân, bất đoạn vọng
Liễu tri nhị pháp không vô tướng
Vô tướng vô không vô bất không
Tức thị Như Lai chân thật tướng
Tâm kính minh, giám vô ngại
Khuếch nhiên oánh triệt chu sa giới
Vạn tượng sum la ảnh hiện trung
Nhật khỏa viên minh phi nội ngoại
Khoát đạt không, bát nhân quả
Mãng mãng đãng đãng chiêu ương họa
Khí hữu trước không bệnh diệc nhiên
Hoàn như tị nịch nhi đầu hỏa
Xả vọng tâm, thủ chân lý
Thủ xả chi tâm thành xảo ngụy
Học nhân bất liễu dụng tu hành
Chân thành nhận tặc tương vi tử
Tổn pháp tài, diệt công đức
Mạc bất do tư tâm ý thức
Thị dĩ Thiền môn liễu khước tâm
Đốn nhập vô sanh tri kiến lực
Đại trượng phu, bỉnh tuệ (huệ) kiến
Bát nhã phong hề Kim Cương diễm
Phi đãn năng tồi ngoại đạo tâm
Tảo tằng lạc khước thiên ma đảm
Chấn pháp lôi, kích pháp cổ
Bố từ vân hề sái cam lộ
Long tượng xúc đạp nhuận vô biên
Tam thừa ngũ tánh giai tinh ngộ
Tuyết sơn phì nhị cánh vô tạp
Thuần xuất hồ đề ngã thường nạp
Nhất tánh viên thông nhất thiết tánh
Nhất pháp biến hàm nhất thiết pháp
Nhật nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy
Nhất thiết thủy nguyệt nhất nguyệt nhiếp
Chư Phật pháp thân nhập ngã tánh
Ngã tánh hoàn cộng Như Lai hợp
Nhất địa cụ túc nhất thiết địa
Phi sắc phi tâm phi hành nghiệp
Đàn chỉ viên thành bát vạn môn
Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp
Nhất thiết số cú phi số cú
Dữ ngô linh giác hà giao thiệp
Bất khả hủy, bất khá tán
Thể nhược hư không vật nhai ngạn
Bất ly đương xứ thường trạm nhiên
Mịch tắc tri quân bất khả kiến
Thủ bất đác, xả bất đắc.
Bất khả đắc trung chỉ ma đắc
Mặc thời thuyết, thuyết thời mặc
Đại thí môn khai vô ủng tắc
Hữu nhân vấn ngã giải hà tông
Báo đạo Ma-ha Bát-nhã lực
Hoặc thị hoặc phi nhân bất thức
Nghịch hành thuận hành thiên mạc trắc
Ngô tảo tằng kinh đa kiếp tu
Bất thị đẳng nhân tương cuống hoặc
Kiến pháp tràng, lập Tông chỉ
Minh minh Phật sắc Tào Khê thị
Đệ nhất Ca-diếp thủ truyền đăng
Nhị thập bát đại Tây Thiên ký
Pháp đông lưu, nhập thử sĩ
Bồ-đề Đạt-ma vi sơ Tổ
Lục đại truyền y thiên hạ văn
Hậu nhân đắc đạo vô cùng số
Chân bất lập, vọng bổn không
Hữu vô câu khiển bất không không
Nhị thập không môn nguyên bất trước
Nhất tánh Như Lai thể tự đồng
Tâm thị căn, Pháp thị trần
Lưỡng chủng do như kính thượng ngân
Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện
Tâm pháp song vông tánh tức chân
Ta mạt pháp, ác thời thế
Chúng sanh phước bạc nan điều chế
Khử Thánh viễn hề tà kiến thâm
Ma cường pháp nhược đa oán hại
Văn thuyết Như Lai đốn giáo môn
Hận bất diệt trừ linh ngõa toái
Tác tại tâm, ương tại thân
Bất tu oán tố cánh vưu nhân
Dục đắc bất chiêu vô gián nghiệp
Mạc báng Như Lai chánh pháp luân
Chiên đàn lâm Vô tạp thụ
Uất mật thâm trầm sư tử trụ
Cảnh tĩnh lâm nhàn độc tự du
Tẩu thú phi cầm giai viễn khứ
Sư tử nhi, chúng tùy hậu
Tam tuế tức năng đại hao hống
Nhược thị dã can trục pháp vương
Bách niên yêu quái hư khai khẩu
Viên đốn giáo, vật nhân tình
Hữu nghi bất quyết trực tu tranh
Bất thị sơn tăng trình nhân ngã
Tu hành khủng lạc đoạn thường khanh
Phi bất phi, thị bất thị
Sai chi hào li thất thiên lý
Thị tức Long Nữ đốn thành Phật
Phi tức Thiện Tinh sanh hãm đọa
Ngô tảo niên lai tích học vấn
Diệc tằng thảo sớ tầm kinh luận
Phân biệt danh tướng bất tri hưu
Nhập hải toán sa đồ tự khốn
Khước bị Như Lai khổ kha trách
Số tha trân bảo hữu hà ích
Tùng lai thặng đăng giác hư hành
Đa niên uổng tác phong trần khách
Chủng tánh tà, thác tri giải
Bất đạt Như Lai viên đốn chế
Nhị thừa tinh tấn vật đạo tâm
Ngoại đạo thông minh vô trí tuệ
Diệc ngu si, diệc tiểu ngãi
Không quyền chỉ thượng sanh thật giải
Chấp chỉ vi nguyệt uổng thi công
Căn cảnh pháp trung hư niết quái
Bất kiến nhất pháp tức Như Lai
Phương đắc danh vi Quán Tự Tại
Liễu tức nghiệp chướng bổn lai không
Vị liễu hoàn tu thường túc trái
Cơ phùng vương thiện bất năng xan
Bệnh ngộ y vương tranh đắc sai
Tại dục hành thiền tri kiến lực
Hỏa trung sanh liên chung bất hoại
Dũng thi phạm trọng ngộ vô sanh
Tảo thời thành Phật ư kim tại
Sư tử hống, vô úy thuyết
Thâm ta mộng đổng ngoan bì đát
Chỉ tri phạm trọng chướng Bồ-đề
Bất kiến Như Lai khai bí quyết
Hữu nhị Tỉ-khâu phạm dâm sát
Ba Ly huỳnh quang tăng tội kết
Duy-ma đại sĩ đốn trừ nghi
Hoàn đồng hách nhật tỏa sương tuyết
Bất tư nghị, giải thoát lực
Thử tức thành ngô thiện tri thức
Tứ sự cúng dường cảm từ lao
Vạn lưỡng hoàng kim diệc tỏa đắc
Phấn cốt toái thân vị túc thù
Nhất cú liễu nhiên siêu bách ức
Pháp trung vương, tối cao thẳng
Hà sa Như Lai đồng cộng chứng
Ngã kim giải thử như ý châu
Tín thụ chi giả giai tương ưng
Liễu liễu kiến, vô nhất vật
Diệc vô nhân, diệc vô Phật
Đại thiên thế giới hải trung âu
Nhất thiết Thánh Hiền như điện phất
Giả sử thiết luân đính thượng toàn
Định tuệ viên minh chung bất thất
Nhật khả lãnh, nguyệt khả nhiệt
Chúng ma bất năng hoại chân thuyết
Tượng giá tranh vanh mạn tấn đồ
Thùy kiến đường lang năng cự triệt
Đại tượng bất du ư thố kính
Đại ngộ bất câu ư tiểu tiết
Mạc tương quản kiến báng thương thương
Vị liễu ngô kim vi quân quyết
Tạm dịch:
Ông chẳng thấy
Dứt học, chẳng làm nhàn đạo nhân
Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân
Thật tánh vô minh tức Phật tánh
Thân không ảo hóa tức Pháp thân.
Pháp thân hiểu ra không một vật
Gốc nguồn tự tánh Thiên chân Phật
Năm ấm mây trôi luống tới lui
Ba độc bọt nước giả còn mất.
Chứng thật tướng, chẳng nhân pháp
Sát-na diệt dứt A-tỳ nghiệp
Nếu đem vọng ngữ gạt chúng sanh
Tự rước cắt lưỡi bao đời kiếp.
Bỗng thấy ra Như Lai Thiền
Sáu độ muôn hạnh thể tròn nguyên
Trong mộng rõ ràng đầy sáu nẻo
Tỉnh ra không không chẳng đại thiên.
Không tội phước, chẳng bớt thêm
Tịch diệt tánh kia chớ hỏi bắt
Bấy lâu gương bụi chưa từng lau
Hôm nay rõ ràng cần mổ cắt.
Ai không niệm, ai chẳng sanh
Nếu thật không sanh không chẳng sanh
Gọi người gỗ hỏi nguồn cơn ấy
Cầu Phật thi công mấy thuở thành.
Buông bốn đại, chớ nắm bắt
Trong tánh tịch diệt tùy ẩm trác
Các hành vô thường tất cả không
Ấy là Như Lai đại viên giác.
Quyết định nói, tỏ chân thừa
Có người chẳng chịu mặc tình trưng
Phăng tận cội nguồn Phật sở ấn
Vạch lá tìm cành ta không ưng.
Ngọc ma-ni, người chẳng biết
Trong tạng Như Lai thân thâu đắc
Sáu ban thần dụng không chẳng không
Một hạt viên quang sắc chẳng sắc.
Tịnh năm mắt, được năm lực
Chỉ chứng mới lường được nào ?
Trong gương xem hình thấy chẳng khó
Trong nước mò trăng mò được sao !?
Thường đi riêng, thường bước lẻ
Kẻ đạt cùng đi Niết-bàn lộ
Điệu cổ thần thanh dáng tự cao
Nét gầy xương xẩu ai chiếu cố.
Con Phật cùng, miệng xưng nghèo
Thật ra thân bần đạo không bần
Nghèo tức thân mang áo vải thô
Đạo tức tâm mang vô giá trân.
Vô giá trân, dùng không hết
Lợi vật ứng thời há keo lận
Ba thân bốn trí thể trong tròn
Tám rõ sáu thông tâm địa ấn.
Bồ-tát (Thượng sĩ) nhất quyết nhất thiết xong
Trung hạ nghe nhiều thêm lấn cấn
Nhưng tại trong lòng cởi áo dơ
Ai hay hướng ngoài khoe tinh tấn.
Nghe người mắng, mặc người chê
Quăng lửa đốt trời tự nhọc nhằn
Ta nghe vừa vặn uống cam lồ
Tiêu tan liền vào chẳng băn khoăn.
Xem lời ác, là công đức
Đó tức thiện tri thức của mình
Không nhân chê bai sanh oán thân
Sao tỏ sức từ nhẫn vô sanh.
Tông cũng thông, nói cũng thông
Định tuệ sáng tròn chẳng kẹt không
Chẳng chỉ ta nay riêng đạt đấy
Hà sa chư Phật thể đều đồng.
Sư tử rống, thuyết vô úy
Trăm thú nghe qua tê não tủy
Voi thiêng chạy tràn mất hết oai
Trời rồng lặng nghe sanh hoan hỉ.
Chơi sông biển, lội núi sông
Tìm thầy hỏi đạo ấy tham Thiền
Từ lúc nhận ra Tào Khê lộ
Hiểu rõ sanh tử chẳng tương liên.
Đi cũng Thiền, ngồi cũng Thiền
Nói nín động tịnh thể lặng yên
Dẫu gặp đao thương thường bình thản
Cho dù thuốc độc cũng thản nhiên.
Thầy ta thấy được Phật Nhiên Đăng
Bao kiếp từng làm tiên nhẫn nhục
Bao lần sanh, mấy lúc tử ?
Sanh tử mơ màng vẫn tiếp tục
Từ khi đốn ngộ hẳn vô sanh
Trong chốn vinh nhục vui buồn ha.
Vào núi sâu, trụ chùa chiền
Núi cao u thúy dưới tòng già
Nhà tăng đồng bái ngồi thong dong
Lặng lẽ ở yên tiêu sái quá !
Hiểu tức xong, chẳng thí công
Tất cả hữu vi pháp chẳng đồng
Trụ tướng bố thí sanh thiên phước
Do như lắp tên bắn hư không.
Sức mạnh hết, tên lại rơi
Rước lấy đời sau như ý ai
Sao bằng cửa thật tướng vô vi
Một vượt vào ngay đất Như Lai.
Cốt được gốc, lo chi ngọn
Như tịnh lưu ly ngậm trăng báu
Đã hay giải được như ý châu
Tự lợi lợi người thật rốt ráo.
Trăng sông chiếu, gió tòng reo
Suốt đêm trăng trong làm việc gì
Phật tánh giới châu tâm địa ấn
Sương mù mây ráng khoác làm y.
Bát hàng long, gậy đuổi hổ
Khoen hai vòng vàng kêu lịch lịch
Chẳng phải phiêu hình hư sự trì
Gậy báu Như Lai thân dấu tích.
Chẳng cầu chân, không dứt vọng
Hiểu rõ hai pháp không vô tướng
Không tướng, không không, không chẳng không
Tức là Như Lai chân thật tướng.
Gương tâm sáng, chiếu chẳng kẹt
Trống không sáng chói đầy sa giới
Vạn tượng sum la ảnh hiện trong
Chẳng trong ngoài kia hạt sáng ngời.
Khoát đạt không, bát nhân quả
Mãng mãng đãng đãng rước tai họa
Bỏ có chấp không bệnh cũng thế
Lại như tránh chìm mà gặp hỏa.
Bỏ vọng tâm, giữ chân lý
Tâm nắm buông kia thành xảo ngụy
Kẻ học chẳng hiểu dùng tu hành
Đúng là nhận giặc làm con quí.
Tổn pháp tài, dứt công đức
Chẳng phải chẳng do tâm ý thức
Do đó cửa Thiền bỏ hẳn tâm
Bỗng nhập vô sanh tri kiến lực.
Đại trượng phu, cầm gươm tuệ
Mũi nhọn kim cương lóe Bát-nhã
Chẳng những bẻ gãy (hàng phục) tâm ngoại đạo
Sớm từng làm vỡ mật thiên ma.
Chấn sấm pháp, đánh trống pháp
Giăng mây từ hề rưới cam lồ
Voi thiêng giẫm đạp nhuận vô biên
Ba thừa năm tánh đều tỉnh ngộ.
Núi tuyết cỏ phì chẳng lộn tạp
Toàn xuất đề-hồ ta liếm láp
Một tánh viên thông tất cả tánh
Một pháp trải khắp tất cả pháp.
Một trăng hiện khắp tất cả nước
Tất cả trăng nước một trăng nhiếp
Pháp thân chư Phật vào tánh ta
Tánh ta còn cùng Như Lai hiệp.
Một địa đầy đủ tất cả địa
Chẳng sắc chẳng tâm chẳng hạnh nghiệp
Búng tay viên thành tám muôn cửa
Phút chốc diệt tan ba kỳ kiếp.
Chú: Có bản chép ‘Tam kỳ kiếp’, có bản chép ‘A-tỳ nghiệp’)
Tất cả văn tự không văn tự
Với linh giác ta nào can dự
Chẳng thể chê, chẳng thể khen
Thể như hư không vốn vô biên
Tìm tức biết ông chẳng thể được
Chẳng rời đương xứ thường trạm nhiên.
Giữ không được, buông không được
Trong chẳng được kia lại được chứ
Lúc nín nói, lúc nói nín
Cửa đại thí mở chẳng nghẹt ứ.
Có người hỏi ta hiểu Tông nào ?
Bảo rằng Ma-ha Bát-nhã lực
Hoặc phải hoặc trái người không hay
Làm thuận làm nghịch trời khó biết.
Ta sớm đã từng tu nhiều kiếp
Chẳng phải sai nhã dối gạt nhau
Dựng phướn pháp, lập Tông chỉ
Rỡ ràng sắc Phật Tào Khê đạo.
Ca-diếp đầu tiên người truyền đèn
Hai mươi tám đời Tổ Tây Thiên
Pháp qua Đông vào đất này
Bồ-đề Đạt-ma là sơ Tổ
Sáu đời truyền y thiên hạ nghe
Người sau đắc đạo không kể số.
Chân chẳng lập, vọng vốn không
Có không đều dứt chẳng không không
Hai mươi cửa không nguyên chẳng chấp
Một tánh Như Lai thể tự đồng.
Tâm là căn, pháp là trần
Hai loại giống như trên gương ngấn
Ngấn dơ lau sạch sáng mới hiện
Tâm pháp đều quên tánh mới chân.
Than mạt pháp, ghét thời thế
Chúng sanh phước mỏng khó chống chế
Rời Thánh lâu xa tà kiến sâu
Ma mạnh pháp suy nhiều oán thế
Nghe nói đốn giáo của Như Lai
Hận chẳng diệt trừ như ngói bể.
Tác tạo tâm, hại tại thân
Chẳng nên than thở cùng trách người
Muốn chẳng rước lấy nghiệp vô gián
Chánh pháp Như Lai chớ nhạo cười.
Rừng chiên-đàn, chẳng cây tạp
Hang sâu thâm trầm sư tử trú
Cảnh tịnh nhàn nhã đi một mình
Cao chạy xa bay chim cùng thú.
Sư tử con, theo sau đông
Ba tuổi hay gầm rống
Nếu là chồn rừng giả Pháp vương
Trăm năm yêu quái luống hả họng.
Giáo viên đốn, vượt tình người
Có nghi chẳng quyết mãi vấn vương
Chẳng phải sơn tăng trình ta người
Tu hành chớ rơi hố đoạn thường.
Trái chẳng trái, phải chẳng phải
Sai một mảy may cách ngàn dặm
Phải tức Long Nữ thành Phật ngay
Trái tức Thiện Tinh rơi hố hầm.
Ta vốn nhiều năm chứa học vấn
Cũng từng kinh luận tìm ẩn ý
Phân biệt danh tướng chẳng biết dừng
Vào biển đếm cát nhọc được chi
Lại bị Như Lai khổ trách mắng
Đếm báu cho người có ích gì
Từ xưa trật đường biết đi sai
Khách gió bụi kia lúc nào về?
Chủng tánh tà, lầm tri giải
Chẳng đạt viên đốn Như Lai chế
Nhị thừa tinh tấn lấp đạo tâm
Ngoại đạo thông minh không trí tuệ.
Cũng ngu si, cũng lần khần
Trong nắm tay không sanh giải thật
Nhận ngón làm trăng uổng thi công
Trong pháp căn cảnh luống nặn mắt.
Chẳng thấy một pháp tức Như Lai
Mới được gọi là Quán tự tại
Hiểu tức nghiệp chướng vốn là không
Chưa hiểu còn phải lo trang trải.
Đói gặp tiệc vua chẳng được ăn
Bệnh gặp thuốc vua sao chẳng bớt
Tại dục hành Thiền biết kiến lực
Trong lửa sanh sen chẳng hao hớt
Dũng thí phạm trọng (1) ngộ vô sanh
Sớm sủa thành Phật ngay trong đợt.
Chú (1): Phạm trọng là xúc phạm trọng tội.
Sư từ rống, nói vô úy
Thương thay mê mờ thật đáng tiếc
Chỉ biết phạm trọng lấp Bồ-để
Chẳng thấy Như Lai mở bí quyết.
Có hai Tỳ-kheo phạm dâm sát
Ba-ly huỳnh quang tăng tai ương
Đại sĩ Duy Ma bỗng trừ nghi
Liền giống mặt trời tiêu tuyết sương.
Chẳng nghĩa bàn, sức giải thoát
Với ta đó là thiện tri thức (1)
(Nguyên văn: Thử tức thành ngô thiện tri thức)
Chú (1) Có bản chép câu này là 'Diệu dụng hằng sa dã vô cực').
Bốn sự cúng dường há tránh nhọc
Muôn lượng vàng ròng cũng tiêu dứt
Tan xương nát thịt chẳng đủ đền
Một câu hiểu trọn siêu trăm ức.
Vua trong pháp, cao đẹp nhất
Vô số Như Lai đều cùng chứng
Ta nay giải rõ như ý châu
Các kẻ tín thọ đều tương ưng.
Thấy rõ rành, chẳng một vật
Cũng không người, cũng không Phật
Bọt trong biển của đại thiên giới
Tất cả Thánh hiền như điện phất.
Giả sử niệt sắt trên trán siết
Định tuệ tròn sáng rốt không biến
Nhật có thể lạnh, nguyệt lại nóng
Lời thật các ma chẳng thể chuyển.
Ai hay bọ ngựa chống nổi xe
Tượng chở chênh vênh từ từ tiến
Tượng to chẳng đi lối mòn thỏ
Đại ngộ không nệ nơi chuyện nhỏ
Đừng nhìn qua ống nhạo trời xanh
Chưa hiểu ta nay nói ông rõ./.
LIỄU NGUYÊN CA
Hòa Thượng Đằng Đằng
Nguyên văn:
修道道無可修 問法法無可問 迷人不了色空 悟者本無逞順
八萬四千法門 至里不離方寸 識取自家城郭 莫謾尋他州郡
不用廣學多聞 不要辯才聰俊 不知月之大小 不管歲之餘閏
煩褊卽是菩提 淨華生於泥糞 人來問我若爲 不能共意談論
寅朝用粥充飢 齋時更餐一頓 今日任運騰騰 明日騰騰任運
心中了了總知 且作佯癡缚純.
Phiên âm:
Tu đạo đạo vô khả tu
Vấn pháp pháp vô khả vấn
Mê nhân bất liễu sắc không
Ngộ giả bổn vô nghịch thuận
Bát vạn tứ thiên pháp môn
Chí lý bất ly phương thốn
Thức thủ tự gia thành quách
Mạc mạn tầm tha châu quận
Bất dụng quảng học đa văn
Bất yếu biện tài thông tuấn
Bất tri nguyệt chi đại tiểu
Bất quản tuế chi dư nhuận
Phiền não tức thị Bồ-đề
Tịnh hoa sanh ư nê phấn
Nhân lai vấn ngã nhược vi
Bất năng cộng ý đàm luận
Dần triêu dụng chúc sung cơ
Trai thời cánh xan nhất đốn
Kim nhật nhiệm vận đằng đằng
Minh nhật đằng đằng nhiệm vận
Tâm trinh liễu liễu tổng tri
Thả tác dương si phược độn.
Tạm dịch:
Tu đạo, đạo chẳng phải tu
Hỏi pháp, pháp chẳng cần hỏi
Kẻ mê không hiểu sắc không
Người ngộ vốn chẳng nghịch thuận
Tám muôn bốn ngàn pháp môn
Chí lý chẳng rời tấc dạ
Khéo giữ tự mình thành quách
Đừng khờ tìm châu quận người
Không cần học rộng nghe nhiều
Không cần biện tài thông tuấn
Không cần biết trăng lớn nhỏ
Chẳng kể năm tháng thiếu nhuần
Phiền não tức là Bồ-đề
Hoa thơm sinh nơi bùn phẩn
Người đến hỏi ta làm gì ?
Không nên cùng y đàm luận
Sáng sớm dùng cháo đở lòng
Độ trai ăn một bữa cơm
Hôm nay nhiệm vận tàng tàng
Ngày mai tàng tàng nhiệm vận
Trong lòng rõ biết mồm một
Bề ngoài giả bộ ngu si./.
BÀI CA của HÒA THƯỢNG LÃN TOẢN NAM NHẠC
Nguyên văn:
兀然無事改換 無事何須論一段
直心無散亂 他事不修行 過去已過去 未來猶莫算 兀然無事坐
何曾有人喚 向外見功夫 總是癡頑漢 糧不畜一粒 逢飯但知…
世間多事人 相趁渾不及 我不樂生天 亦不受福田
饑來唉飯 困來卽眠 愚人笑我 不是癡鈍 本體如然 要去卽去
要住卽住
身披一破衲 脚著嬢生袴 多言復多語 由來反扁誤 若欲度衆生
無過且自度 赛護求眞佛 眞佛不可見 妙性及靈臺 何曾受熏鍊
心是無事心 面是嬢生面 劫石可移動 箇中無改變 無事本無事
何須讀文字 削除人我本 冥合箇中意 種種勞筋骨 不如林下睡
舉頭見日高
乞飯從頭 將功用功 展轉冥蒙 取卽不得 不取自通 吾有一言
絕慮亡緣 巧說不得 只用心傳 更有一語 無過直與 細如毫末
大無方所 本自圓成 不勞機抒 世事悠悠 不如山丘 青松蔽日
碧调長流 山雲當幕 夜月爲鉤 臥藤蔴下 塊石枕頭 不朝天子
豈羨王侯 生子無慮 更復何憂 水月無形 我常只寧 萬法皆爾
本自無生
兀然無事坐 春來草自青
Phiên âm:
Ngột nhiên vô sự vô cải hoán
Vô sự hà tu luận nhất đoạn
Trực tâm vô tán loạn
Tha sự bất tu đoạn
Quá khứ dĩ quá khứ
Vị lai do mạc toán
Ngột nhiên vô sự tọa
Hà tằng hữu nhân hoán
Hướng ngoại mịch công phu
Tổng thị si ngoan hán
Lương bất súc nhất lạp
Phùng phạn đãn tri trập
Thế gian đa sự nhân
Tương sấn hồn bất cập
Ngã bất lạc sanh thiên
Diệc bất thụ phước điền
Cơ lai khiết phạn
Khốn lai tức miên
Ngu nhân tiếu ngã
Trí nãi tri diên
Bất thị si độn
Bản thể như nhiên
Yếu khứ tức khứ
Yếu trụ tức trụ
Thân phi nhất phá nạp
Cước trước nương sanh khố
Đa ngôn phục đa ngữ
Do lai phản tương ngộ
Nhược dục độ chúng sanh
Vô quá thả tự độ
Mạc mạn cầu chân Phật
Chân Phật bất khả kiến
Diệu tánh cập linh đài
Hà tằng thụ huân luyện
Tâm thị vô sự tâm
Diện thị nương sanh diện
Kiếp thạch khả di động
Cá trung vô cải biến
Vô sự bổn vô sự
Hà tu độc văn tự
Tước trừ nhân ngã bổn
Minh hợp cá trung ý
Chủng chủng lao cân cốt
Bất như lâm hạ thụy
Cử đầu kiến nhật cao
Khất phạn tùng đầu
Tương công dụng công
Triển chuyển minh mông
Thủ tức bất đắc
Bất thủ tự thông
Ngô hữu nhất ngôn
Tuyệt lự vong duyên
Xảo thuyết bất đắc
Chỉ dụng tâm truyền
Cánh hữu nhất ngữ
Vô quá trực dữ
Tế như hào mạt
Đại vô phương sở
Bổn tự viên thành
Bất lao cơ trữ
Thế sự du du
Bất như sơn khâu
Thanh tùng tế nhật
Bích giản trường lưu
Sơn vân đương mộ
Dạ nguyệt vi câu
Ngọa đằng la hạ
Khối thạch chẩm đầu
Bất triều thiên tử
Khởi tiển vương hầu
Sanh tử vô lự
Cánh phục hà ưu
Thủy nguyệt vô hình
Ngã thường chỉ ninh
Vạn pháp giai nhĩ
Bổn tự vô sanh
Ngột nhiên vô sự tọa
Xuân lai thảo tự thanh./.
Tạm dịch:
Trơ trơ vô sự không đổi dời
Vô sự cần chi luận một đoạn
Tâm thẳng không tán loạn
Chuyện người không cần đoạn
Chuyện qua là đã qua
Chuyện tới đừng tính toán.
Trơ trơ vô sự ngồi
Chưa từng có người gọi
Hướng ngoài tìm công phu
Đều là kẻ khờ ngu
Lương chẳng dành một hột
Gặp cơm chỉ biết ăn.
Thế gian kẻ đa sự
Đuổi nhau trọn không kịp
Ta không ưa sanh trên trời
Cũng chẳng thích ruộng phước
Đói thì ăn cơm
Mệt thì nằm ngủ
Kẻ ngu cười ta
Người trí hiểu ta
Chẳng phải si độn
Bản thể như nhiên
Cần đi thì đi
Cần dừng thì dừng
Thân mặc một áo rách
Chân mang khố mẹ sanh
Nhiều lời lại lắm lẽ
Nguyên lai trở thành nhầm
Nếu muốn độ chúng sanh
Không gì bằng tự độ
Chớ dối cầu chân Phật
Chân Phật chẳng thể thấy
Diệu tánh cùng linh đài
Bao giờ học hun đúc
Tâm là tâm vô sự
Mặt là mặt mẹ sanh
Bao kiếp đá khá dời
Trong đó chẳng sửa đổi
Vô sự vốn vô sự
Cần chi dọc văn tự
Róc trừ gốc ta người
Ngầm hợp ý trong đó
Đủ thứ lao gân xương
Chẳng bằng ngủ dưới rừng
Cất đầu mặt trời cao
Xin cơm ăn no lòng
Đem công dụng công
Dần dần mù mờ
Nắm tức chẳng được
Chẳng nắm tự thông
Ta có một lời
Dứt lo quên duyên
Nói khéo chẳng được
Chỉ dụng tâm truyền
Lại có một lẻ
Chẳng ngại nói thẳng
Nhỏ như mảy may
Lớn chẳng chốn nơi
Vốn tự viên thành
Chẳng cần quay dệt
Chuyện đời dằng dặc
Chẳng như núi gò
Tòng xanh che trời
Khe biếc chảy mãi
Mây núi làm rèm
Trăng đêm làm móc
Nằm dưới lùm bụi
Khối đá gối đầu
Chẳng chầu Thiên tử
Há thích vương hầu
Sống chết chẳng lo
Há lại buồn gì
Trăng nước không hình
Ta thường yên ổn
Muôn pháp cũng thế
Vốn tự vô sanh
Trơ trơ vô sự ngồi
Xuân sang cỏ tự xanh./.
THẢO AM CA
Hòa Thượng Thạch Đầu
Nguyên văn :
吾结草庵無寶具 飯了從容圖睡快 成時初見茅草新
破後還將秦草蓋
住庵人 鎮常在
不屬中間與内外 世人住處我不住 世人愛處我不愛
庵雖小 含法界
方丈老人相體解 上乘菩薩信無疑 中下聞之必生怪
問此庵 壞不壞
壤與壞不主元在 不居南北與東西 基址堅牢以爲最
青松下 明窗内
王殿朱樓未爲對 衲被豫頭萬事休 此時山僧都不會
住此疮 休作解
誰誇鋪席圖人買 迴光返照便歸來 廓達靈根非向背
遇祖師 親訓誨
结草爲庵莫生退 百年抛却任縱橫 擺手便行且無罪
千種言 萬般解
只要敎君長不昧 欲識庵中不死人 豈離而今這皮袋
Phiên âm:
Ngô kết thảo am vô bảo cụ
Phạn liễu thung dung đồ thụy khoái
Thành thời sơ kiến mao thảo tân
Phá hậu hoàn tương mao thảo cái
Trụ am nhân trấn thường tại
Bất thuộc trung gian dữ nội ngoại
Thế nhân trụ xứ ngã bất trụ
Thế nhân ái xứ ngã bất ái
Am tuy tiểu hàm pháp giới
Phương trượng lão nhân tương thể giải
Thượng thừa Bồ-tát tín vô nghi
Trung hạ văn chi tức sanh quái
Vấn thử am hoại bất hoại
Hoại dữ bất hoại chủ nguyên tại
Bất cư Nam Bắc dữ Đông Tây
Cơ chỉ kiên lao dĩ vi tối
Thanh tùng hạ minh song nội
Ngọc điện châu lâu vị vi đối
Nạp bị mông đầu vạn sự hưu
Thử thời sơn tăng đô bất hội
Trụ thử am hưu tác giải
Thùy khoa phô tịch đồ nhân mãi
Hồi quang phản chiếu tiện qui lai
Khuếch đạt linh căn phi hướng bối
Ngộ Tổ sư thân huấn hối
Kết thảo vi am mạc sanh thoái
Bách niên phao khước nhiệm tung hoành
Bãi thủ tiện hành thả vô tội
Thiên chủng ngôn vạn ban giải
Chỉ yếu giáo quân trường bất muội
Dục thức am trung bất tử nhân
Khởi ly nhi kim giá bì đại.
Tạm dịch:
Ta kết am tranh không gì quí
Cơm xong ung dung đi ngủ liền
Cất xong mới nhìn cỏ rơm mới
Sau hư rồi lại lấy cỏ che
Người ở am, luôn thường tại
Không thuộc khoảng giữa cùng trong ngoài
Chỗ người đời trụ ta không trụ
Chỗ người đời thích ta không thích
Am tuy nhỏ, ngậm pháp giới
Phương trượng lão nhãn mới thể giải
Bồ-tát thượng thừa tin không nghi
Trung hạ căn nghe lấy làm lạ
Hỏi am đó, hoại hay không
Hoại cùng không hoại chủ nguyên tại
Không ở Nam Bắc cùng Đông Tây
Nền móng vững chắc là trên hết
Dưới tòng xanh, trong song sáng
Điện ngọc, lầu hồng chưa sánh nổi
Bị vải trùm đầu muôn sự xong
Lúc đó sơn tăng này không biết
Ở am này, thôi hiểu biết
Ai khoe trải chiếu mời người mua
Hồi quang phản chiếu tức về thôi
Rộng rãi linh căn không sau trước
Gặp Tổ sư, đích thân dạy
Kết cỏ làm am đừng thoái lui
Trăm năm ném cỏ mặc tung hoành
Thỏng tay mà đi chẳng có tội
Ngàn lời nói, muôn cách giải
Chỉ tổ khiến anh mãi không tối
Muốn biết trong am người bất tử
Há rời hôm nay cái bị da ?
LẠC ĐẠO CA
(Hòa Thượng Đạo Ngô)
Nguyên văn:
樂道山僧縱性多 天迴地轉任從他 閑臥孤峯無伴侣
獨唱無生一曲歌
無生歌 出世樂
堪笑時人和不著 暢情樂道過殘生 張三李四渾亡却
大丈夫 須棄槩
莫順人情無妨礙 汝言順是卽菩提 我謂從來自相背
有時憨 有時癡
非我途中爭得知 特達一生常任運 野客無螂可得歸
今日山僧只這是 元本山僧更若爲
探祖機 空王子
體似浮雲沒隈倚 自古長披一衲衣 曾經幾度遭寒暑
不是眞 不是僞
打鼓樂神施拜跪 明明一道漢江雲 青山綠水不相似
袁性成 無揩改
结巧羅紋不相礙 或運慈悲喜捨心 或卽逢人以棒闓
慈悲恩愛落牵纒 棒打敎伊破恩愛 報乎月下旅中人
若有恩情吾爲改.
Phiên âm:
Lạc đạo sơn tăng túng tánh đa
Thiên hồi địa chuyển nhiệm tùng tha
Nhàn ngọa cô phong vô bạn lữ
Độc xướng vô sanh nhất khúc ca
Vô sanh ca xuất thế lạc
Kham tiếu thời nhân hòa bất trước
Sướng tình lạc đạo quá tàn sanh
Trương Tam Lý Tứ hồn vong khước
Đại trượng phu tu khí khái
Mạc thuận nhân tình vô phương ngại
Nhữ ngôn thuận thị tức Bồ-đề
Ngã vị tùng lai tự tương bối
Hữu thời hàm hữu thời si
Phi ngã đồ trung tranh đắc tri
Đặc đạt nhất sanh thường nhiệm vận
Dã khách vô hương khả đắc qui
Kim nhật sơn tăng chỉ chá (giá) thị
Nguyên bổn sơn tăng cánh nhược vi
Thám Tổ cơ Không vương tử
Thể tự phù vân một ôi ỷ
Tự cổ trường phi nhất nạp y
Tằng kinh kỷ độ tao hàn thử
Bất thị chân bất thị ngụy
Đả cổ nhạc thần thi bái quị
Minh minh nhất đạo hán giang vân
Thanh sơn lục thủy bất tương tự
Bẩm tánh thành vô giai (khai) cải
Kết giác la văn bất tương ngại
Hoặc vận từ bi hi xả tâm
Hoặc tức phùng nhân dĩ bổng khải
Từ bi ân ái lạc khiên triền
Bổng đả giáo y phá ân ái
Báo hồ nguyệt hạ lữ trung nhân
Nhược hữu ân tình ngô vi cải.
Tạm dịch:
Lạc đạo sơn tăng túng tính nhiều
Trời hồi, đất chuyển cũng chiều va
Nhàn nằm cô phong không bầu bạn
Riêng hát vô sanh một khúc ca.
Vô sanh ca, vui xuất thế
Khá cười người đời khó nổi hòa
Thỏa tình vui đạo qua đời tàn
Anh Mít chú Xoài đều quên cả.
Đại trượng phu, nên khí khái
Chớ thuận nhân tình chẳng phương ngại
Anh nói thuận tức là Bồ-đề
Ta nói hồi giờ tự nghịch trái.
Có lúc ngây, có lúc dại
Chẳng phải trên đường làm sao tri
Đạt được một đời thường nhiệm vận
Dã khách không quê biết đâu qui
Hôm nay sơn tăng cũng như thế
Nguyên bổn sơn tăng cánh nhược vi.
Thám Tổ cơ, Không Vương tử
Thể tự mây nổi chẳng góc cạnh
Từ xưa mặc hoài một chiếc y
Từng đã trải qua bao nóng lạnh
Chẳng phải thật, không phải giả
Đánh trống nhạc thần quỳ thi lễ
Sáng trưng một đạo mây Ngân hà
Nước biếc, non xanh không một thể.
Bẩm tính thành không sửa đỗi
Kết giác la văn chằng phương ngại
Hoặc dùng tâm từ bỉ hỷ xả
Hoặc nếu gặp người lấy gậy khải.
Từ bi ân ái rơi rối rắm
Gậy bỗ dạy y phá ân ái
Báo người lữ khách dưới trăng kia
Nếu có ân tình ta sửa cải.
BÀI CA MỘT BÁT
Thiền Sư Bôi Độ
Nguyên văn:
遏喇喇 闇聒聒
總是悠悠造抹撻 如瘫禊鹽扣得渴 枉却一生領核核
究竞不毖知始末 拋却死屍何處既 勤君努力求解脫
閑事到頭須结撮 火落身上當煩振 莫待臨時叫菩蔆
丈夫語話須豁豁 莫學癡人受摩捋 趁時結裏學擺撥
也學柔和也麤糲
也剃頭 也披褐
也學凡夫作生活 直語向君君未達 更作長歌歌一鉢
一鉢歌 多中一 一中多
莫笑野人歌一钵 曾將一鉢度娑婆 青天寥寥月初上
此時影空含萬象 幾處浮生自是非 一源清淨無來往
更莫將心造水泡 百毛流血是誰教 不如靜坐眞如地
頂上從他鵲作巢 萬代金輪聖王不 只這眞如靈覺是
菩提樹下度衆生 度蛊衆生不生死 不生不死眞丈夫
無形無相大毗盧 塵勞滅蛊眞如在 一顆圓明如意珠
眼不見 耳不聞
不見不聞眞見聞 從來一句無言說 今曰千言強爲分
強爲分 須諦聽
人人盡有眞如性 恰似黃金在鑛中 鍊去鍊來金體淨
眞是妄 妄是眞
若除眞妄更無人 眞心莫謾生煩惱 衣食隨時養色身
好也著 弱也著 一切今心莫染著
亦無惡 亦無好 二際坦然平等道
蛊也餐 細也餐 莫學凡夫相上觀
也無焱 也無細 上方香積無根蒂
坐亦行 行亦坐 生死樹下菩提果
亦無坐 亦無行 無生何用見無生
生亦得 死亦得 處處當來見彌勒
亦無生 亦無死 三世如來總如此
離則著 著則離 幻化門中無實義
無可離 無可著 何處更求無病藥
語時默 默時語 語默縱橫無處所
亦無語 亦無默 莫喚東西作南北
瞋卽喜 喜卽瞋 我自降魔轉法輪
亦無填 亦無喜 水不離波波卽水
慳時捨 捨時慳 不離内外及中間
亦無慳 亦無捨 寂寂寥寥無可把
苦時樂 樂時苦 只這修行斷門户
亦無苦 亦無樂 到頭兩事須拈却
亦無藥 亦無病 正是眞如靈覺性
麾作佛 佛作麾 鏡裏尋形水上波
亦無魔 亦無佛 三世本來無一物
凡卽聖 聖卽凡 色裏膠清水裏鹽
亦無凡 亦無聖 萬行總持無一行
眞中假 假中眞 自是凡夫起妄塵
亦無眞 亦無假
若不唤時何應嗓 本來無性亦無名 只麼騰騰信脚行
有時鄺市并屠肆 一兵紅蓮火上生 也曾策杖遊京洛
身自浮雲無定著 幻化由來似寄居 他家觸處更清虚
若見戒 三毒瘡痍幾時差
若見禪 我自縱横泪綸
大可憐 不是顛
世間出世天中天 時人不會此中意 打著南邊動北邊
若見法
難足山中問迦葉 大士持衣在此中 本來不用求專甲
若見經 法性眞源無可聽
若充律 窮子不須敎走出
若見修
八萬浮圖何處求 只知黃葉止啼哭 不覺黑雲遮曰頭
莫怪狂言無次第 碎羅漸入麤中細 只這麤中細也無
卽是圓明眞贵諦 本非眞
但是名聞卽是塵 若向塵中解眞實 便是堂堂出世人
出世人 莫造作
獨行獨步空策策 無生無死無遂槃 本來生死不相不
無是非 無動靜 莫謾將身入空井
無善惡 無去來
亦無明鏡掛高臺 山僧見解只如此 不信從他造劫灰
Phiên âm:
Át thích thích, náo quát quát
Tổng thị du du tạo mạt thát
Như cơ khiết diệm gia đắc khát
Uổng khước nhất sanh đầu nghiệt nghiệt
Cứu cánh bất năng tri thỉ mạt
Phao khước tử thi hà xứ thoát
Khuyến quân nỗ lực cầu giải thoát
Nhàn sự đáo đầu tu kết toát
Hỏa lạc thân thượng đương tu bát
Mạc đãi lâm thời khiếu Bồ-tát
Trượng phu ngữ thoại tu khoát khoát
Mạc học si nhân thụ ma loát
Sân thời kết lý học bãi bát
Dã học nhu hòa dã thô lệ
Dã thế đầu Dã phi hạt
Dã học phàm phu tác sanh hoạt
Trực ngữ hướng quân quân vị đạt
Cánh tác trường ca ca nhất bát
Nhất bát ca
Đa trung nhất, nhất trung đa
Mạc tiếu dã nhân ca nhất bát
Tằng tương nhất bát độ Ta-bà
Thanh thiên liêu liêu nguyệt sơ thượng
Thử thời ảnh không hàm vạn tượng
Kỷ xứ phù sanh tự thị phi
Nhất nguyên thanh tịnh vô lai vãng
Cánh mạc tương tâm tạo thủy bào
Bách mao lưu huyết thị thùy giáo
Bất như tĩnh tọa chân như địa
Đính thượng tùng tha thước tác sào
Vạn đại kim luân Thánh vương tử
Chỉ chá (giá) chân như linh giác thị
Bồ-đề thụ hạ độ chúng sanh
Độ tận chúng sanh bất sanh tử
Bất sanh bất tử chân trượng phu
Vô hình vô tướng đại Tì Lô
Trần lao diệt tận chân như tại
Nhất khỏa viên minh vô giá châu
Nhãn bất kiến, nhĩ bất văn
Bất kiến bất văn chân kiến văn
Tùng lai nhất cú vô ngôn thuyết
Kim nhật thiên ngôn cưỡng vi phân
Cưỡng vi phân, tu đế thính
Nhân nhân tận hữu chân như tánh
Kháp tự hoàng kim tại khoáng trung
Luyện khứ luyện lai kim thể tịnh
Chân thị vọng, vọng thị chân
Nhược trừ chân vọng cánh vô nhân
Chân tâm mạc mạn sanh phiền não
Y thực tùy thời dưỡng sắc thân
Hảo dã trước, nhược dã trước
Nhất thiết vô tâm mạc nhiễm trước
Diệc vô ác, diệc vô hảo
Nhị tế thản nhiên bình đẳng đạo
Thô dã xan, tế dã xan
Mạc học phàm phu tướng thượng quan
Dã vô thô, dã vô tế
Thượng phương hương tích vô căn đế
Tọa diệc hành, hành diệc tọa
Sanh tử thụ hạ Bồ-đề quả
Diệc vô tọa, diệc vô hành
Vô sanh hà dụng mịch vô sanh
Sanh diệc đắc, tử diệc đắc
Xứ xứ đương lai kiến Di Lặc
Diệc vô sanh, diệc vô tử
Tam thế Như Lai tổng như thử
Ly tắc trước, trước tắc ly
Ảo hóa môn trung vô thật nghĩa
Vô khả ly, vô khả trước
Hà xứ cánh cầu vô bệnh dược
Ngữ thời mặc, mặc thời ngữ
Ngữ mặc tunh hoành vô xứ sở
Diệc vô ngữ, diệc vô mặc
Mạc hoán Đông Tây tác Nam Bắc
Sân tức hỉ, hỉ tức sân
Ngã tự hàng ma chuyển pháp luân
Diệc vô sân, diệc vô hỉ
Thuy bất ly ba ba tức thủy
Xan (khan) thời xả Xả thời xan (khan)
Bất ly nội ngoại cập trung gian
Diệc vô xan (khan), diệc vô xả
Tịch tịch liêu liêu vô khả bả
Khổ thời lạc, lạc thời khổ
Chỉ chá (giá) tu hành đoạn môn hộ
Diệc vô khổ, diệc vô lạc
Đáo đầu lưỡng sự tu niêm khước
Diệc vô dược, diệc vô bệnh
Chánh thị chân như linh giác tánh
Ma tác Phật, Phật tác ma
Kính lý tầm hình thủy thượng ba
Diệc vô ma, diệc vô Phật
Tam thế bổn lai vô nhất vật
Phàm tức Thánh, Thánh tức phàm
Sắc lý giao thanh thủy lý diêm
Diệc vô phàm, diệc vô Thánh
Vạn hạnh tổng trì vô nhất hạnh
Chân trung giả, giả trung chân
Tự thị phàm phu khởi vọng thần
Diệc vô chân, diệc vô giả
Nhược bất hoán thời hà ứng nặc
Bổn lai vô tánh diệc vô danh
Chỉ ma đằng đằng tín cước hành
Hữu thời triền thị tính đồ tứ
Nhất đóa hồng liên hỏa thượng sanh
Dã tằng sách trượng du kinh lạc
Thân tự phù vân vô định trước
Ảo hóa do lai tự kí cư
Tha gia xúc xứ cánh thanh hư
Nhược mịch giới
Tam độc sang di kỷ thời sai
Nhược mịch Thiền
Ngã tự tung hoành kịp miên
Đại khả lân, bất thị điên
Thế gian xuất thế thiên trung thiên
Thời nhân bất hội thử trung ý
Đả trước Nam biên động Bắc biên
Nhược mịch pháp
Kê Túc sơn trung vấn Ca Diếp
Đại sĩ trì y tại thử trung
Bổn lai bất dụng cầu chuyên giáp
Nhược mịch kinh
Pháp tánh chân nguyên vô khả thính
Nhược mịch luật
Cùng tử bất tu giáo tẩu xuất
Nhược mịch tu
Bát vạn phù đồ hà xứ cầu
Chỉ tri hoàng diệp chỉ đề khốc
Bất giác hắc vân già nhật đầu
Mạc quái cuồng ngôn vô thứ đệ
Si la tiệm nhập thô trung tế
Chỉ chá (giá) thô trung tế dã vô
Tức thị viên minh chân thật đế
Bổn phi chân
Đãn thị danh văn tức thị trần
Nhược hướng trần trung giải chân thật
Tiện thị đường đường xuất thế nhân
Xuất thế nhân Mạc tạo tác
Độc hành độc bộ không sách sách
Vô sanh vô tử vô Niết-bàn
Bổn lai sanh tử bất tương can
Vô thị phi, vô động tĩnh
Mạc mạn tương thân nhập không tỉnh
Vô thiện ác, vô khứ lai
Diệc vô minh kính quải cao đài
Sơn tăng kiến giải chỉ như thử
Bất tín tùng tha tạo kiếp khôi.
Tạm dịch:
Im thin thít, la quang quát
Đều là dằng dặc tạo mạt thát
Như đói ăn muối lại thêm khát
Uổng lấy một đời đầu nghiệt nghiệt
Rốt cùng không thể biết thỉ mạt
Quăng bỏ thây chết nơi nào thoát
Khuyên ông gắng sức cầu giải thoát
Chuyện nhàn đáo đầu cần kết toát
Lửa rơi trên mình phải nên bát
Đừng đợi lúc nguy kêu Bồ-tát
Trượng phu lời lẽ nên vỡ vạc
Đừng học kẻ ngu bị mài loát
Sấn thời cột bó học bãi bát
Cũng học nhu hòa cũng thô sơ
Cũng xuống tóc, cũng áo hạt
Cũng học phàm phu mà sinh hoạt
Nói thẳng với ông ông chưa đạt
Đành làm trường ca, ca Nhất Bát
Một trong nhiều, nhiều trong một
Chớ cười người quê nhất Bát ca
Từng mang một Bát độ Ta-bà
Trời xanh mênh mông trăng mới lên
Lúc đó ảnh không ngậm vạn tượng
Bao chỗ phù sanh tự phải trái
Một nguồn trong sạch không tới lui
Cũng đừng đem tâm tạo bọt nước
Trăm lông chảy máu là ai dạy
Chẳng bằng ngồi im đất chân như
Mặc cho trên trán chim làm tổ
Muôn đời con Thánh vương Kim Luân
Chỉ là linh giác chân như này
Dưới cây Bồ-đề độ chúng sanh
Độ trọn chúng sanh không sanh tử
Chẳng sanh chẳng tử chân trượng phu
Không hình không tướng đại Tỳ-lô
Trần lao diệt hết chân như tại
Một hạt tròn sáng châu vô giá
Mắt không thấy, tai chẳng nghe
Không thấy không nghe chân thấy nghe
Trước giờ một câu chẳng lời nói
Nay đây ngàn lời cố phản trần
Cố phân trần, nên nghe rõ
Ai ai đều có tánh chân như
Giống như vàng ròng tại trong quặng
Luyện tới luyện lui vàng mới ròng
Chân là vọng, vọng là chân
Nếu trừ chân vọng đâu còn người
Chân tâm đừng dối sanh phiền não
Ăn mặc tùy thời dưỡng sắc thân
Tốt cũng mặc, xấu cũng mặc
Nhất thiết vô tâm chớ dính mắc
Cũng chẳng xấu, cũng chẳng tốt
Hai phía thản nhiên đạo bình đẳng
Thô cũng ăn, tế cũng ăn
Đừng học phàm phu nhìn trên tướng
Cũng không thô, cũng không tế
Hương tích cõi trên không gốc rễ
Ngồi cũng đi, đi cũng ngồi
Dưới cây sanh tử trái Bồ-đề
Cũng không ngồi, cũng không đi
Vô sanh cần gì tìm vô sanh
Sanh cũng được, tử cũng được
Chốn chốn ngày sau thấy Di Lặc
Cũng không sanh, cũng không tử
Ba đời Như Lai đều như thế
Rời là dính, dính là rời
Trong cửa ảo hóa không thật nghĩa
Không thể rời, không thể dính
Nơi nào tìm được thuốc không bệnh
Lúc nói nín, lúc nín nói
Nói nín dọc ngang không xứ sở
Cũng không nói, cũng không nín
Chớ gọi Đông Tây là Nam Bắc
Giận tức vui, vui tức giận
Ta tự thuyết pháp trừ loài ma
Cũng không giận, cũng không vui
Nước chẳng rời sóng, sóng tức nước
Lúc sẻn buông, lúc buông sẻn
Chẳng rời trong ngoài cùng khoảng giữa
Cũng chẳng sẻn, cũng chẳng buông
Lặng lẽ minh mông không nắm được
Lúc khổ sướng, lúc sướng khổ
Chỉ tu hành đó dứt cửa nẻo
Cũng không khổ, cũng không sướng
Bổn lai tự tại không trói buộc
Dơ là sạch, sạch là dơ
Hai mẻ rốt lại không trước sau
Cũng không dơ, cũng không sạch
Đại thiên đồng một tánh chân như
Thuốc là bệnh, bệnh là thuốc
Đảo đầu hai chuyện nên nêu lên
Cũng không thuốc, cũng không bệnh
Chính là tánh linh giác chân như
Ma là Phật, Phật là ma
Trong gương tìm hình, sóng trên nước
Cũng không ma, cũng không Phật
Ba đời bổn lai không một vật
Phàm tức Thánh, Thánh tức phàm
Keo trong nơi màu, muối trong nước
Cũng chẳng phàm, cũng chẳng Thánh
Muôn hạnh Tổng trì không một hạnh
Giả trong chân, chân trong giả
Đều do phàm phu khởi vọng trần
Cũng không thật, cũng không giả
Nếu lúc không gọi nào lên tiếng
Bổn lai không họ cũng không tên
Chỉ là đằng đằng tín cước hành
Có lúc chợ búa cùng hàng thịt
Một đóa sen hồng trong lửa sanh
Cũng từng chống gậy chơi Kinh Lạc
Thân như mây nổi chẳng chỗ định
Ẩn hóa do lai như ở nhờ
Nhà người đụng vào là thanh hư
Nếu tìm giới, ba độc lở loét bao giờ lành
Nếu tìm thiền, ta tự dọc ngang gối đá ngủ
Khá thương thay, chẳng phải điên
Thế gian, xuất thế trời trong trời
Người đời chẳng hiểu ý trong ấy
Đánh vào mé Nam động mé Bắc
Nếu tìm pháp
Trong núi Kê Túc tìm Ca-diếp
Đại sĩ trì y trong chỗ đó
Bổn lai chẳng dụng cầu mỗ đây
Nếu tìm kinh
Pháp tánh chân nguyên chẳng thể nghe
Nếu tìm luật
Đứa nghèo chẳng cần bảo chạy ra
Nếu tìm tu
Tám muôn phù đồ biết tìm đâu
Chỉ biết lá dương dỗ nín trẻ
Bất giác mây đen che mặt trời
Chớ lạ lời cuồng chẳng thứ lớp
Sàng dần vào tạm tế trong thô
Ngay trong thô kia tế cũng không
Chính là tròn sáng chân thật đế
Chân thật đế, vốn không chân
Nhưng chỉ tên nghe tức là trần
Nếu hướng vào trần hiểu chân thật
Liền là đường đường người xuất thế
Người xuất thế, chớ tạo tác
Đi riêng bước lẽ trống thênh thang
Chẳng sanh, chẳng tử, chẳng Niết-bàn
Bổn lai sanh tử chẳng liên can
Chẳng phải trái, chẳng động tĩnh
Đừng dối đem thân vào giếng trống
Không lành dữ, không tới lui
Cũng chẳng gương sáng treo đài cao
Kiến giải sơn tăng chỉ như thế
Chẳng tin theo người tạo kiếp tro./.
PHÙ ÂU CA
(Hòa Thượng Lạc Phổ)
Nguyên văn:
雲天雨落庭中水 水上漂漂見沤起 前者已滅後者生
前後相續無窮已 本因雨滴水成漚 還緣風激漚歸水
不知漚水性無殊 隨他轉變將爲異
外明瑩 内含虚
内外玲瓏若寶珠 正在澄波看似有 及乎動著又如無
有無動靜事難明 無相之中者相形 只知漚向水中出
起知水亦從漚生 權將漚水類余身 五蘊虚攒假立人
解達蘊空漚不實 方能明見本來人
Phiên âm:
Vân thiên vũ lạc đình trung thủy
Thủy thượng phiêu phiêu kiến âu thời
Tiền giả dĩ diệt hậu giả sanh
Tiền hậu tương tục vô cùng dĩ
Bổn nhân vũ trích thủy thành âu
Hoàn duyên phong kích âu quy thủy
Bất tri âu thủy tánh vô thù
Tùy tha chuyển biến tương vi dị
Ngoại minh oánh, nội hàm hư
Nội ngoại linh lung nhược bảo châu
Chánh tại trừng ba khán tự hữu
Cập hồ động trước hựu như vô
Hữu vô động tĩnh sự nan minh
Vô tướng chi trung hữu tướng hình
Chỉ tri âu hướng thủy trung xuất
Khởi tri thủy diệc tùng âu sanh
Quyền tương âu thủy loại dư thân
Ngũ uẩn hư toàn giả lập nhân
Giải đạt uẩn không âu bất thật
Phương năng minh kiến bổn lai chân
Tạm dịch:
Mây trời mưa xuống nước trước sân
Trên nước phiêu phiêu thấy bọt nổi
Bọt trước vừa tan, bọt sau sanh
Trước sau nối tiếp mãi không dứt
Ấy bởi giọt mưa nước thành bọt
Hoàn duyên gió thổi bọt thành nước
Chẳng biết nước bọt tánh không hai
Theo sự chuyển biến mà thành khác
Ngoài sáng rỡ, trong ngậm không
Trong ngoài long lanh như châu quí
Chính lúc im sóng tưởng như có
Chừng vỡ ra rồi lại thành không
Có không, động tịnh chuyện khó rành
Vô tướng bên trong có hình tướng
Chỉ biết bọt là từ nước có
Nào hay nước cũng từ bọt sanh
Tạm coi nước bọt như thân mình
Năm uẩn hư kết giả lập người
Hiểu năm uẩn không, bọt chẳng thật
Mới mong thấy rõ bổn lai chân./.
MỤC HỘ CA
(Hòa Thượng Tố Khê)
Nguyên văn:
聽說衲僧牧護 任運逍遙無住 一條百枘缾盂 便是生涯調度
爲求至理參尋 不憚寒暑辛苦 還曾四海周遊 山水風雲滿肚
内除戒律精嚴 不學威儀行步 三乘笑我無能 我笑三乘謾做
智人權立階梯 大道本無迷悟 達者不假修治 不在能言能語
披厤目視雲霄 遮莫王候不顧 道人本體如然
不是知佛去
生也猶如著衫 死也還同脫袴 生也無喜無憂 八風豈能驚怖
外相猶似癡人 肚裏非常峭措 活計雖無一前 敢與君王鬬富
愚人擺手憎嫌 智者點頭相許 那知傀儡牽抽 歌舞盡由行主
一言爲報諸人 打破畫缾歸去
Phiên âm:
Thính thuyết nạp tăng Mục Hộ
Nhiệm vận tiêu dao vô trụ
Nhất điều bách nạp bình vu
Tiện thị sanh nhai điều độ
Vi cầu chí lý tham tầm
Bất đạn hàn thử tân khổ
Hoàn tằng tứ hải chu du
Sơn thủy phong vân mãn đỗ
Nội trừ giới luật tinh nghiêm
Bất học uy nghi hành bộ
Tam thừa tiếu ngã vô năng
Ngã tiếu Tam thừa mạn tố
Trí nhân quyền lập giai thê
Đại đạo bổn vô mê ngộ
Đạt giả bất giả tu trị
Bất tại năng ngôn năng ngữ
Phi ma mục thị vân tiêu
Già mạc vương hầu bất cố
Đạo nhân bản thể như nhiên
Bất thị tri Phật khứ xứ
Sanh dã do như trước sam
Tử dã hoàn đồng thoát khố
Sanh dã vô hỉ vô ưu
Bát phong khởi năng kinh bố
Ngoại tướng do tự si nhân
Đổ lý phi thường tiễu thố
Hoạt kế tuy vô nhất tiền
Cảm dữ quân vương đấu phú
Ngu nhân bãi thủ tăng hiêm
Trí giả điểm đầu tương hứa
Na tri khôi lỗi khiên trừu
Ca vũ tận do hành chủ
Nhất ngôn vi báo chư nhân
Đả phá họa bình qui khứ.
Tạm dịch:
Nghe nói nạp tăng Mục Hộ
Mặc tình tiêu diêu chẳng trụ
Cà-sa trăm mảnh cùng bát
Ấy là sanh nhai điều độ
Để cầu tham tầm chỉ lý
Chẳng nề gian khổ nóng lạnh
Đã từng chu du bốn bể
Non nước, gió mây đầy bụng
Trong trừ giới luật tinh nghiêm
Không học oai nghi đi đứng
Ba thừa cười ta kém cỏi
Ta cười ba thừa làm càng
Người trí tạm lập thứ bậc
Đạo lớn vốn không mê ngộ
Kẻ đạt chẳng cần tu trì
Chẳng tại nơi nói chốn năng
Áo gai mắt nhìn mây xanh
Chẳng thèm ngó ngàng khanh tướng
Đạo nhân bản thể như nhiên
Chẳng phải chốn nơi biết Phật
Sống ấy giống như mặc áo
Chết là thoát khỏi áo quần
Sống thì không vui không khổ
Tám gió há làm kinh sợ
Ngoại tướng như đứa dại khờ
Trong bụng phi thường thi thổ
Cuộc sống tuy chẳng một ten (xu)
Lại dám cùng vua đầu phú
Kẻ ngu khoát tay giận ghét
Người trí gật đầu bằng lòng
Nào hay con rối múa may
Ca múa đều do người chủ
Một lời nhắn với anh em
Phá bỏ bình vẽ đi thôi./.
BA BÀI CA GƯƠNG XƯA
Thiền Sư Thái Khâm Pháp Đăng
1- Nguyên văn:
蛊道古鏡不曾見 借你時人看一徧 目前不親一纖毫
湛湛冷光凝一片
凝一片 勿背面
嫫母臨粒不稱情 潘生迴首頻嘉歎
何欣欣 何戚戚
好醜由來那箇是
只這是 轉沉醉
演苦晨窥怖走時 子細思量還有以 我問顚狂不暫迴
淚流向予聲哀哀 哽咽未能申吐聖 你頭與影悠悠哉
悠悠哉 爾許多時那裏來
迷雲開 行行攜手上高臺
Phiên âm:
Tận đạo cổ kính bất tằng kiến
Tá nễ thời nhân khán nhất biến
Mục tiền bất đỗ nhất tiêm hào
Trạm trạm lãnh quang ngưng nhất phiến
Ngưng nhất phiến Vật bối diện
Mô mẫu lâm trang bất xứng tình
Phan sanh hồi thủ tần gia thán
Hà hân hân Hà thích thích
Hảo xú do lai na cá thị
Chỉ giá thị Chuyển trầm túy
Diễn Nhã thần khuy bố tẩu thời
Tử tế tư lượng hoàn hữu dĩ
Ngã vấn điên cuồng bất tạm hồi
Lệ lưu hướng dư thanh ai ai
Ngạnh yết vị năng thân thổ thánh
Nễ đầu dữ ảnh du du tai
Du du tai, nhĩ hứa đa thời na lý lai
Mê vân khai, hành hành huề thủ thượng cao đài.
Tạm dịch:
Trọn nói gương xưa chưa từng thấy
Giúp kẻ đương thời nhìn một phen
Trước mắt chẳng thấy một may may
Trong sáng ánh quang ngưng một phiến
Ngưng một phiến, chớ quay mặt
Mô Mẫu điểm trang chẳng xứng tình
(Mô mẫu : Một bà phi của vua Hoàng Đế)
Trái lại quay đầu nhăn mặt than
Nào hớn hở, nào u buồn
Xấu đẹp do lai là cái đó
Chỉ cái đó, chuyển say mèm
Diễn-nhã sớm nhìn gương khiếp chạy
Tư lượng kỹ lưỡng còn đó mà
Ta hỏi điên cuồng chẳng tạm hồi
Lệ rơi hướng ta tiếng bi ai
Tức tưởi chưa thể tỏ lộ lời
Đầu ngươi cùng ảnh dằng dặc thay
Dằng dặc thay, anh đã từ lâu trong đó lại
Mây mê hé, tung tăng tay nắm lên cao đài.
2- Nguyên văn:
誰云古鏡無樣度 古今出入何門户 門户君看不見時
卽此爲君全顯露
全顯露
與汝二生終保護 若遇知音請益來 逢人不得輕分付
但任作見面 不須生怕怖
看取當時演寅苦多 直至如今成錯誤 如今不省影分明
還是當時同一顧
同一顧
苦苦苦
Phiên âm:
Thùy vân cổ kính vô dạng độ
Cổ kim xuất nhập hà môn hộ
Môn hộ quân khan bất kiến thời
Tức thử vi quân toàn hiển lộ
Toàn hiển lộ
Dữ nhữ nhất sanh chung bảo hộ
Nhược ngộ tri âm thỉnh ích lai
Phùng nhân bất đắc khinh phân phó
Đãn nhiệm tác kiến diện
Bất tu sanh phạ bố
Khán thủ đương thời Diễn Nhã Đa
Trực chí như kim thành thác ngộ
Như kim bất tỉnh ảnh phân minh
Hoàn thị đương thời đồng nhất cố
Đồng nhất cố
Khổ khổ khổ
Tạm dịch:
Ai bảo gương xưa không dạng độ
Xưa nay ra vào mấy môn hộ
Cửa nẻo lúc ông nhìn không thấy
Tức đó vì ông mà toàn lộ
Toàn lộ ra, cùng ông một đời luôn bảo hộ
Nếu gặp tri âm hỏi han lại
Gặp người chở khá nhẹ phân phó
Chỉ mặc cho nhìn mặt
Chẳng nên sanh ủy bố
Nhìn xem đương thời Diễn-nhã nhiều
Cho đến nay đây thành lầm ngộ
Như nay không tỉnh ảnh rõ ràng
Vẫn là đương thời đồng nhất cố
Đồng nhất cố
Khổ! Khổ! Khổ!
3- Nguyên văn:
古鏡精明皎皎 皎皎徧照河沙 到處安名題字 除儂更有誰家
過去未來現在 諸佛鏡上纖瑕 織瑕垢蛊無物 此眞火裏蓮華
蓮華千朶萬朶 朶朶端然釋迦 誰云俱尸入滅 誰云穿膝蘆芽
不信鏡中看取 羊車鹿車牛車 時人不識古鏡 蛊道本來清淨
只看清淨是假 照淂形容不正 或員或短或長 若有纖毫俱病
勸君不如打破 鏡去瑕消可瑩 亦見杜口毘耶 亦知圓通少剩
Phiên âm:
Cổ kính tinh minh hiệu hiệu (kiêu kiêu)
Hiệu hiệu biến chiếu hà sa
Đáo xứ an danh đề tự
Trừ nông cánh hữu thùy gia
Quá khứ vị lai hiện tại
Chư Phật kính thượng tiêm hà
Tiêm hà cấu tận vô vật
Thử chân hỏa lý liên hoa
Liên hoa thiên đóa vạn đóa
Đóa đóa đoan nhiên Thích Ca
Thùy vân Câu Thi nhập diệt
Thùy vân xuyên tất lô nha
Bất tín kính trung khán thủ
Dương xa lộc xa ngưu xa
Thời nhân bất thức cổ kính
Tận đạo bổn lai thanh tịnh
Chỉ khán thanh tịnh thị giả
Chiếu đắc hình dung bất chính
Hoặc viên hoặc đoản hoặc trường
Nhược hữu tiêm hào câu bệnh
Khuyến quân bất như đả phá
Kính khứ hà tiêu khả oánh
Diệc kiến đỗ khẩu Tì Da
Diệc tri viên thông thiếu thặng.
Tạm dịch:
Gương xưa trong sáng rỡ ràng
Rỡ ràng chiếu khắp hà sa
Đến nơi an danh đề chữ
Trừ y có ai đâu nà
Quá khứ, tương lai và hiện tại
Chư Phật trên gương vết nhỏ
Vết nhỏ bẩn trọn không vật
Đó chính hoa sen trong hỏa
Hoa sen ngàn đóa muôn đóa
Đóa đóa đoan nhiên Thích-ca
Ai bảo Câu Thi nhập diệt
Ai bảo xuyên gối nhú ra
Chăng tin nhìn trong gương thấy
Xe dê, xe hươu, xe bò
Người đời không hiểu gương xưa
Trọn cho bổn lai thanh tịnh
Chỉ thấy thanh tịnh là giả
Chiếu được hình dung chẳng chính
Hoặc tròn, hoặc ngắn, hoặc dài
Nếu có mảy may đều bịnh
Khuyên ông chi bằng đả phá
Gương mất vết tiêu lung linh
Lại thấy Tỳ-da ngậm miệng
Lại biết Viên Thông thiếu thừa./.
BÀI CA THAM YẾT KHẮP TAM-MUỘI
(Long Hội Đạo Tầm Đàm Châu)
Nguyên văn:
天涯海角參知識 徧咨惠我全提力 師乃訶余退步追
省躬廓爾從兹息
報諸方 垂帶直
善財得處難藏匿 棒頭喝下露幽奇
縱去奪來看殊特
趙州關 雪嶺陟
築…峯前驗虚實 據證靈由關萬機 橫揮祖刃開三域
卷舒重重孰可委 休呈識意謾猜揣 衲子攢眉碧眼咦
黃河倒逆崑备觜
潙山牛 道吾唱
馬師奮迅呈圓相 執水投針作後規 把鏡持旛看先匠
廣陝歌 谁繮唱
擬續宫商調難況 石人慍色下鞭撾 木馬奔嘶梵天上
麗水金 藍田玉
祝融峯攢湘浪蹙 滿月澄終松韻清 雲從龍騰好觀矚
Phiên âm:
Thiên nhai hải giác tham tri thức
Biến tư huệ ngã toàn đề lực
Sư nãi kha dư thoái bộ truy
Tỉnh cung khuếch nhĩ tùng tư tức
Đỗ chư phương thùy đái trực
Thiện Tài đắc xứ nan tàng nặc
Bổng đầu hát hạ lộ u kỳ
Túng khứ đoạt lai khán thù đặc
Triệụ Châu quan, tuyết lĩnh trắc
Trúc... phong tiền nghiệm hư thật
Cứ chứng linh do tịch vạn cơ
Hoành huy Tổ nhận khai tam vực
Quyển thư trùng trùng thục khả ủy
Hưu trình thức ý mạn sai sủy
Nạp tử toàn mi bích nhãn di
Hoàng Hà đảo nghịch Côn Lôn chùy
Qui Sơn ngưu, Đạo Ngô xướng
Mã Sư phấn tấn trình viên tướng
Chấp thủy đầu châm tác hậu quy
Bả kính trì phan khán tiên tượng
Quảng Lăng ca Thùy kế xướng
Nghĩ tục cung thương điều nan huống
Thạch nhân uấn sắc hạ tiên qua
Mộc mã bôn tư phạm thiên thượng
Lệ Thủy kim Lam Điền ngọc
Chúc Dung phong toàn Tương Lãng túc
Mãn nguyệt trừng khê tùng vận thanh
Vân tùng long đằng hảo quan chúc.
Tạm dịch:
Chân trời góc bể tham tri thức
Khắp chốn huệ ta toàn đề lực
(nêu ra triệt để, siêu việt ngôn ngữ)
Sư liền nạt ta lui bước đi
Tỉnh cung khuếch nhĩ tùng tư tức
Nhìn các nơi, thùy đái trực
Thiện Tài được chỗ khó trốn núp
Đầu gậy nạt đùa, lộ u kỳ
Buông đi đoạt lại xem đặc kỳ
Ải Triệu Châu, sườn Tuyết lĩnh
Cất am ngọn núi xem hư thực
Cứ chứng linh do mở muôn cơ
Huơ ngang đao Tổ khai ba vực
Cuốn mở trùng trùng ai ủy khuất
Thôi trình thức ý dối suy lường
Ông tăng nhíu mày, mắt biếc gào
Hoàng Hà chảy ngược mỏm Côn Lôn
Qui Sơn làm bò, Đạo Ngô la hét
Mã sư khấp khởi trình tướng tròn
Bát nước bỏ kim làm hậu quy
(Tổ Ca-na-đề-bà bỏ kim vào bát nước của Tổ Long Thọ)
Nằm gương cầm phướn xem tiên tợ (Tiên tợ là Thiền sư lỗi lạc)
Quảng Lăng ca, ai tiếp hát
Định nối cung thương điệu khó hòa
Người đá khê sắc hạ roi vọt
Ngựa gỗ phóng hỉ trên Phạm thiên
Vàng Lệ Thủy, ngọc Lam Điền
Chúc Dung phong toản sóng Tương giục
Đầy trăng trong vắt vận tòng êm
Mây theo rồng dậy xem kỹ càng./.
HAI BÀI NGÂM NGOẠN CHÂU
(Hòa Thượng Đan Hà Thiên Nhiên)
1- Nguyên văn:
船若靈珠妙難測 法性海中親認得 隱顯常遊五薇中
内外光明大神力 此珠非大亦非小 畫夜光明皆悉照
免时無物又無蹤 起坐相隨常了了 黃帝曾遊於赤水
爭聽爭求都不遂 罔象無心却得珠 能見能文是虚僞
吾師權指喩摩尼 採人無數溺春士 爭拈瓦礫將爲寶
会者安然而得之 森羅萬象光中現 體用如如轉非轉
萬機消遣寸心中 一切时中巧方便
燒六根 爍衆魔
能摧我山竭愛河 龍女靈山親瓦佛 貧兒衣下幾蹉跎
亦名性 亦名心
非性非心超古今 全體明时明不得 權時題作弄珠吟
Phiên âm:
Bát nhã linh châu diệu nan trắc
Pháp tánh hải trung thân nhận đắc
Ẩn hiển thường du ngũ uẩn trung
Nội ngoại quang minh đại thần lực
Thử châu phi đại diệc phi tiểu
Trú dạ quang minh giai tất chiếu
Mịch thời vô vật hựu vô tung
Khởi tọa tương tùy thường liễu liễu
Hoàng đế tàng du ư Xích Thủy
Tranh thính tranh cầu đô bất toại
Võng tượng vô tâm khước đắc châu
Năng kiến năng văn thị hư ngụy
Ngô sư quyền chỉ dụ ma-ni
Thái nhân vô số nịch xuân trì
Tranh niêm ngõa lịch tương vi bảo
Trí giả an nhiên nhi đắc chi
Sum la vạn tượng quang trung hiện
Thể dụng như như chuyển phi chuyển
Vạn cơ tiêu khiển thốn tâm trung
Nhất thiết thời trung xảo phương tiện
Thiêu lục tặc, thước chúng ma
Năng tồi ngã sơn kiệt ái hà
Long nữ Linh Sơn thân kiến Phật
Bần nhi y hạ kỷ tha đà
Diệc danh tánh, diệc danh tâm
Phi tánh phi tâm siêu cổ kim
Toàn thể minh thời minh bất đắc
Quyền thời đề tác lộng châu ngâm.
Tạm dịch:
Châu linh Bát-nhã diệu khó trắc
Trong biển pháp tánh thân nhận đắc
Ân hiện thường du trong năm uẩn
Trong ngoài sáng rỡ đại thân lực
Châu nay không lớn cũng không nhỏ
Ngày đêm sáng rỡ đều chiếu rực
Lúc tìm không vật lại không dấu
Dậy ngồi đều theo hết mực
Hoàng Đế từng chơi nơi Xích Thủy
Tranh nghe tranh cầu đều bất lực
Võng tượng không tâm lại được châu
Hay thấy hay nghe là hư ngụy
Thầy ta tạm ví với ma-ni
Người rứt vô số chìm xuân trì
An nhiên lại được là người trí
Sum la vạn tượng hiện trong sáng
Thể, dụng như như chuyển chẳng chuyển
Muôn cơ tiêu khiển trong tấc lòng
Nhất thiết trong thời phương tiện chuyên
Thiêu sáu giặc, đốt bầy ma
Hay bẻ núi Ta cạn sông yêu
Long Nữ Linh Sơn thân hiến Phật
Thăng nghèo chéo áo luống tha đà
Cũng gọi tánh, cũng gọi tâm
Chẳng tánh, chẳng tâm siêu cổ câm
Toàn thể lúc sáng, sáng chẳng được
Tạm thời đề gọi ‘Lộng châu ngâm’./.
2- Nguyên văn:
誠得衣中寶 無明醉自醒 百骸雖潰散 一物鎮長靈 知境渾非體 神珠不定形 悟則三身佛 迷疑萬卷經 在心心可測 歷耳耳難聽 罔象先天地 玄泉出杳冥 本刚非鍛鍊 元淨莫澄淨 盤泊輪朝日 玲瓏映曉星 瑞光流不滅 眞氣觸還生 鑒照崆峒寂 羅籠法界明 挫凡功不滅 超聖果非盈 龍女心親獻 闍王口自呈 護鵝人却活 黃雀意猶輕 解語非關舌 能言不是聲 絕邊彌汗漫 無際等空平
演敎非爲說 聞名勿認名 兩邊俱莫立 中道不須行 見月休觀指 還家罷問呈 識心心則佛 何佛更堪成
Phiên âm:
Thức đắc y trung bảo
Vô minh túy tự tỉnh
Bách hài tuy hội tán
Nhất vật trấn trường linh
Tri cảnh hồn phi thể
Thần châu bất định hình
Ngộ tắc tam thân Phật
Mê nghi vạn quyển kinh
Tại tâm tâm khả trắc
Lịch nhĩ nhĩ nan thính
Võng tượng tiên thiên địa
Huyền tuyền xuất yểu minh
Bổn cương phi đoạn luyện
Nguyên tịnh mạc trừng đình
Bàn bạc luân triêu nhật
Linh lung ánh hiểu tinh
Thụy quang lưu bất diệt
Chân khí xúc hoàn sanh
Giám chiếu không đỗng tịch
La lung pháp giới minh
Tỏa phàm công bất diệt
Siêu Thánh quả phi doanh
Long nữ tâm thân hiến
Đồ vương khẩu tự trình
Hộ nga nhân khước hoạt
Hoàng tước ý do khinh
Giải ngữ phi quan thiệt
Năng ngôn bất thị thanh
Tuyệt biên di hãn mạn
Vô tế đẳng không bình
Diễn giáo phi vi thuyết
Văn danh vật nhận danh
Lưỡng biên câu mạc lập
Trung đạo bất tu hành
Kiến nguyệt hưu quan chi
Hoàn gia bãi vấn trình
Thức tâm tâm tắc Phật
Hà Phật cánh kham thành.
Tạm dịch:
Biết được báu trong áo
Say vô minh tự tỉnh
Trăm xương tuy tan rã
Một vật trấn trường linh
Biết cảnh toàn chẳng thế
Thần châu chẳng định hình
Ngộ tức ba thân Phật
Mê nghi muôn quyển kinh
Tại tâm tâm khá lường
Xuyên tai tai chẳng thính
Võng tượng trước trời đất
Suối huyền xuất tra minh
Vốn cứng không do luyện
Chẳng lọc vì nguyên tịnh
Vành trời sáng bàn bạc
Sao sớm sáng lung linh
Ánh lành chiếu chẳng dứt
Chân khí đụng hoàn sinh
Giám chiếu núi Không Đổng
Lưới lồng pháp giới minh
Bẻ phàm công không dính
Siêu Thánh quả không dầy
Long Nữ tâm thân hiến
Xà Vương miệng tụ trình
Hộ nga người lại sống
Sẻ vàng ý do khinh
Biết nói không do lưỡi
Nói được chẳng là thinh
Tuyệt biên di hãn mạn
Chẳng mé đẳng không bình
Diễn giảo không là nói
Nghe danh chớ nhận danh
Hai mé đều chẳng đứng
Trung đạo chẳng tu hành
Thấy trăng thôi nhìn ngón
Tới nhà chẳng hỏi đàng
Hiểu tâm tâm là Phật
Phật đâu để mà thành./.
HOẠCH CHÂU NGÂM
(Trưởng Lão Quan Nam)
Nguyên văn:
三界兮如幻 六道兮如夢
聖賢出世兮如電 國土猶如水上泡 無常生滅日遷變
唯有摩訶船若堅 猶若金刚不可鑽 輭似兜羅大等空
小極微塵不可見 擁之令聚而不聚 撥之令散而不散
侧耳欲聞而不聞 瞪目觀之而不見
歌復歌 盤陀石上笑呵呵 笑復笑
青松影下高聲叫 自從獲得此心珠 帝—輪王俱不要
不是山僧獨施爲 自古先賢作此調
不坐禪 不修道
任運逍遙只麼了 但能萬法不干懷 無始何曾有生老
Phiên âm:
Tam giới hề như ảo, lục đạo hề như mộng
Thánh Hiền xuất thế hề như điện
Quốc độ do như thủy thượng bào
Vô thường sanh diệt nhật thiên biến
Duy hữu Ma-ha Bát nhã kiên
Do nhược Kim Cương bất khả toản
Nhuyễn tự đâu la đại đẳng không
Tiểu cực vi trần bất khả kiến
Ủng chi linh tụ nhi bất tụ
Bát chi linh tán nhi bất tán
Trắc nhĩ dục văn nhi bất văn
Trừng mục quan chi nhi bất kiến
Ca phục ca, bàn đà thạch thượng tiếu ha ha
Tiếu phục tiếu, thanh tùng ảnh hạ cao thanh khiếu
Tự tùng hoạch đắc thử tâm châu
Đế Thích Luân vưomg câu bất yếu
Bất thị sơn tăng độc thi vi
Tự cồ tiên hiền tác thử điều
Bất tọa thiền, bất tu đạo
Nhiệm vận tiêu diêu chỉ ma liễu
Đãn năng vạn pháp bất can hoài
Vô thỉ hà tằng hữu sanh lão
Tạm dịch:
Ba giới ấy như ảnh, sáu nẻo à như mộng
Thánh hiền ra đời à như điện
Quốc độ giống như bọt trên nước
Vô thường sanh diệt ngày biến đổi
Chỉ Ma-ha Bát-nhã là bền
Giống như kim cương không thể khoan
Mềm như Đâu-la (1) chẳng có gì
Nhỏ hơn vi trần không thể thấy
Bóp lại bảo tụ không thể tụ
Khều ra bảo tan không thể tan
Lắng tai muốn nghe không thể nghe
Nhướng mắt cố nhìn mà không thấy
Ca lại ca, trên phiến đá kia cười ha ha
Cười lại cười, dưới bóng tòng xanh lớn tiếng gọi
Từ ngày có được ngọc tâm này
Đế thích, Luân vương cũng chẳng màng
Chẳng tọa Thiền, chẳng tu đạo
Mặc tình tiêu diêu chi như thế
Lại hay vạn pháp chẳng để tâm
Vô thỉ hồi nào có sanh lão./.
Chú (1): Đâu-la Skt là tùla, chỉ bông gòn, bông vải mềm.
HAI BÀI CA KHUYÊN GIÁC NGỘ
Hòa Thượng Hương Nghiêm Trí Nhàn
1- Nguyên văn:
滿口語 無處說
明明向人道不決
急著力 勤咬餐
無常到來救不徹 日裏語暗磋切 快磨古錐淨挑揭
理盡覺 自護持
此生事 終不說
玄覺求他古老吟 禪學須窮心影絕
Phiên âm:
Mãn khẩu ngữ, vô xứ thuyết
Minh minh hướng nhân đạo bất quyết
Cấp trước lực, cần giảo niết
Vô thường đáo lai cứu bất triệt
Nhật lý ngữ ám tha thiết
Khoái ma cổ trùy tịnh khiêu yết
Lý tận giác, tự hộ trì
Thử sanh sự, chung bất thuyết
Huyền Giác cầu tha cổ lão ngâm
Thiền học tu cùng tâm ảnh tuyệt.
Tạm dịch:
Đầy miệng lời, không chỗ thuyết
Rõ rành hướng người nói chẳng quyết
Gấp trước lực, ngậm miệng thôi
Vô thường ập đến cứu không triệt
Dưới trời lời lẽ ám sai thiết
Mau mài chùy xưa tịnh thiêu yết
Lý hiển trọn, tự hô trì
Thử sanh sự, rốt chẳng thuyết
Huyền học cầu tha cổ lão ngâm
Thiền học nên cùng tâm ảnh tuyệt./.
2- Nguyên văn:
歸寂吟贈同住
同住道人七十餘 共辭城郭樂山居 身如寒木心牙絕
不話唐言休梵書 心期蛊處心雖喪 如來弟子沙門樣
深信共崇钵塔成 巍巍持在青山掌 觀夫參道不虛鉉
脫去形骸甚高上 從來不說今朝事 暗理埋頭隱玄暢
不留蹤迹異人間 深妙神光飽明亮
Phiên âm: Qui tịch ngâm tặng Đồng Trụ
Đồng Trụ đạo nhân thất thập dư
Cộng từ thành quách lạc sơn cư
Thân như hàn mộc tâm nha tuyệt
Bất thoại Đường ngôn hưu Phạn thư
Tâm kỳ tận xứ thân tuy táng
Như Lai đệ tử sa-môn dạng
Thâm tín cộng sùng bát tháp thành
Nguy nguy trì tại thanh sơn chưởng
Quan phù tham đạo bất hư nhiên
Thoát khứ hình hài thậm cao thượng
Tùng lai bất thuyết kim triêu sự
Ám lý mai đầu ẩn huyền sướng
Bất lưu tung tích dị nhân gian
Thâm diệu thần quang bão minh lượng
Tạm dịch: Bài ngâm quy tịch tặng Đồng Trụ
Đồng Trụ đạo nhân bảy mươi dư
Giã từ thành quách núi non cư
Thân như cây lạnh tâm nha tuyệt
Chăng nói tiếng Đường dứt Phạn thư
Tâm là trọn xứ thân tuy mất
Đệ tử Như Lai dạng Sa-môn
Tin sâu công sùng bát tháp thành
Sừng sững đặt tại thanh sơn chướng
Xem kìa tham đạo chẳng hư nhiên
Thoát bỏ hình hài thật cao thượng
Trước giờ chẳng nói chuyện hôm nay
Trong tối giấu đầu ẩn huyền sướng
Chẳng lưu giấu tích khác cõi đời
Thâm diệu thần quang no minh lượng./.
TÂM CHÂU CA
(Hòa Thượng Thiều Sơn)
Nguyên văn:
山僧自達空門久 淬鍊心珠功已搆 珠迫玲瓏主客分
往往聲如師子吼 師子吼 非常義
皆明佛性眞如現 有時往往自思惟 豁然大意心歡喜
或造經 或造論
或說漸兮或說頓 若在諸佛運神通 或在凡夫興鄙格
此心珠 如水月
地角天涯無殊別 只因迷悟有參差 所以如來多種說
地狱趣 餓鬼趣
六道輪迪無暫住 此非诸佛不慈悲 豈是閭王配交做
勸時流 深體悉
見在心珠勿浪失 五蘊身全尚不知 百骸散後何處見
Phiên âm:
Sơn tăng tự đạt không môn cửu
Thối luyện tâm châu công dĩ cấu
Châu huýnh linh lung chủ khách phân
Vãng vãng thanh như sư tử hống
Sư tử hống, Phi thường nghĩa
Giai minh Phật tánh chân như lý
Hữu thời vãng vãng tự tư duy
Khoát nhiên đại ý tâm hoan hỉ
Hoặc tạo kinh, hoặc tạo luận
Hoặc thuyết tiệm hề hoặc thuyết đốn
Nhược tại chư Phật vận thần thông
Hoặc tại phàm phu hưng bỉ lậu
Thử tâm châu, như thủy nguyệt
Địa giác thiên nhai vô thù biệt
Chỉ nhân mê ngộ hữu sâm sai
Sở dĩ Như Lai đa chủng thuyết
Địa ngục thú, ngạ quỷ thú
Lục đạo luân hồi vô tạm trú
Thử phi chư Phật bất từ bi
Khởi thị Diêm Vương phối giao tố
Khuyến thời lưu thâm thể tất
Kiến tại tâm châu vật lãng thất
Ngũ uẩn thân toàn thượng bất tri
Bách hài tán hậu hà xứ mịch
Tạm dịch:
Sơn tăng tự đạt cửa không lâu
Tôi luyện tâm châu công đã thành
Châu sáng long lanh chủ khách phân
Thường khi tiếng vang sư tử rống
Sư tử rống, nghĩa chẳng thường
Đều tỏ Phật tánh lý chân như
Có khi thỉnh thoảng tự tư duy
Bỗng nhiên đại ý tâm hoan hỷ
Hoặc tạo kinh, hoặc soạn luận
Hoặc nói tiệm rồi lại nói đốn
Như tại chư Phật vận thần thông
Hoặc tại phàm phu nổi dè sẻn
Tâm châu này như Trăng dưới nước
Góc đất, chân trời chẳng khác biệt
Chỉ nhân mê ngộ mới khác nhau
Cho nên Như Lai nói đủ cách
Đường địa ngục, nẻo quỷ đói
Sáu nẻo luân hồi chẳng tạm dừng
Chẳng phải chư Phật không từ bi
Hả lại Diêm vương cùng phối hợp
Khuyên thời lưu, thể tất sâu
Tâm châu có được đừng mất lãng
Ngũ uẩn thân kia còn chưa biết
Hài cốt tan rồi tìm nơi đâu?
Bài Cuối Quyển Thứ 30
Lời Thị Chúng Của Trưởng Lão Chùa Huê Nghiêm Ngụy Phủ
Phật pháp tại chuyện dùng hằng ngày. Tại nơi các vị nằm ngồi đứng đi. Cùng là nơi ăn cơm uống trà, hay chỗ lời lẽ hỏi han. Làm này, làm nọ, khởi tâm động niệm. Mà lại cũng không phải thế. Lãnh hội không ? Nếu lãnh hội thì nay đây chân nhân vô ngại, tự tại. Nếu không lãnh hội, thì là người có tội nặng bị cùm xích gông xiềng. Tại sao như thế ? Phật pháp không xa cách trần sa kiếp. Các vị trong một niệm là thấy ngay. Ở tại lông mày, lỗ mũi các vị. Như các vị không thấy được thì chẳng khác nào nối trúc khều trăng. Tại chỗ xin đừng suy nghĩ, chẳng nên nói năng. Trong ngày các vị hưởng ân lực gì. Nếu biết được, các vị nên có chỗ hoan hỷ. Người xưa nói: ‘Thường lặng lặng, thường lịch lịch. Chư Phật chẳng cầu tìm’. Chúng sanh đoạn tin tức. Các vị có lãnh hội được không ? Tất cả các pháp vốn vô tình. Tất cả chư Phật vốn tự linh. Hỗn nhiên đồng thái hư. Không thiếu cũng không dư. Lãnh hội không ? Nếu không lãnh hội thì ngay đó đụng đâu cũng kẹt. Chẳng hiểu chỗ lạc địa của thân này. Man mát kiếp đời, chỉ là luyến vặt trước cảnh, nhận sắc là thật. Không buông ân ái, si mê tiền của, lập ta, tranh người. Một khối ý khí, mà mấy vi tình. Mặt xanh, mặt đỏ, nói mạnh nói yếu. Ta không để người lừa dối, ta là kẻ đại trượng phu. Nuôi vợ, nuôi con mà không biết đó là ở trong biển nghiệp, ở tại hầm tội. Ăn thịt như quỷ đói nuốt thây ma, nốc rượu như chó điên táp nước. Ái sắc như ruồi đói thọc mồm vô máu. Không biết thân này là đại họa hoạn, nối tiếp vô minh, nuôi dưỡng ngu muội ý khí. Chẳng bao lâu tan rã, chết uổng, sống hờ, kéo dài ngàn kiếp, nổi chìm đâu đâu. Sao chẳng biết giữ gìn thân thể kiên cố như kim cương, đạo pháp trường sanh bất diệt. Trong đời, đầu ù ù, miệng cạc cạc, mắt nháy lia, quỷ vô thường đến trước giường mà vẫn để lòng luyến tiền, tiếc của, bỗng chốc bị dẫn tới gặp lão Diêm vương, chẳng cho phân trần lời nào mà phải trải qua lắm trò vạc sôi lò nóng, cột đồng, rừng dao. Tới lúc đó hối lại thì một đại đoạn không thể miễn rời. Như nay các vị bệnh chưa tìm đến thân, thì tại sao 12 thời trong ngày lại chẳng cầu một chút thiện lợi, bắc cầu, đắp bến. Sắc thân ảo hóa này, bằng vào đâu làm sự thật. Chư Phật trong quá khứ để lại kinh, tạo ra luận, cùng nhất thiết thiện pháp để người sơ học các vị hối tội, sám chướng, dần dần tăng trưởng lợi ích, cầu bậc đại thiện tri thức giải bày pháp môn giải thoát, hướng vô minh tánh nhận ra vị chủ nhân chân thật. Trong muôn kiếp được làm thân người đâu phải chuyện dễ. Các vị nên biết, bản tánh của thân mình và Phật cùng lúc vốn không khiếm thiếu. Có một chuyện lớn tại bọng đái, đầu phân của các vị, sáng láng, tròn trịa. Các vị có tin tới không ? Nếu tin không tới, thì các vị sẽ vĩnh viễn trầm luân trong biển lớn, hầm sâu tội lỗi. Nếu các vị hồi quang phản chiếu, trong một sát-na tức trong một niệm, cuồng tình, mê hoặc phiền não, ngu tối, tức khắc ngừng tắt. Cảnh giới chư duyên sẽ biến thành quốc độ an lạc đề hồ cam lồ. Há chẳng tốt đó sao ? Thánh nhân nói: ‘Vạn vật theo tâm sanh ra, vạn vật theo tâm mà diệt’. Tất cả đều do tâm các vị. Thiện ác cũng đều do tâm các vị. Địa ngục, thiên đường cũng chỉ do tâm các vị. Chỉ nay nên tương ưng cùng Phật hiệp lại nhất trí, thì ấy chính là Phật vậy, chẳng có chi sai khác, dối gạt. Tức khắc tin tưởng chẳng nghi. Tâm là chánh giác, lại hà tất phải trải qua qua a-tăng-kỳ kiếp. Thân này đời này thật là khó gặp. Đừng có nói ta là phàm phu mà thành ra tự thoái khuất mình. Ngàn kinh, muôn luận cũng chẳng qua vì chúng sanh mê loạn không biết bản tánh. Các vị hãy tạm thời dùng ít công phu tham vật mà xem nghĩa lý của kinh sách chi nói chúng sanh nhất thiết cảnh nhiếp, cùng là trước dục. Sơn tăng ta khổ khẩu, thật ra chỉ lo đau đáu. Các vị chấp nhận không ? Có tin tưởng không ? Bình thường chịu ít đỉnh vi tình nóng lạnh, chịu cay, chịu đắng không nổi, lại trong công việc hằng ngày tự mình không tỉnh ngộ, chỉnh đốn tâm tốt, hay thân tốt. Trăm năm qua như tên xẹt, giàu sang như mộng, ân tình cũng chẳng bền lâu. Trăm năm chẳng mấy ngày, đầu bạc là bệnh tới, bệnh là nghiệp trái đến đòi, nghiệp trái là chết đến, chết là địa ngục. Các vị chớ có nói ta bình sanh lòng lành làm việc thiện, chỉ y theo bổn phận, không làm điều gì ác, ta không có tội lỗi. Khỏi nói các vị có chỗ sanh tốt, ta ngay hôm nay còn chưa tin các vị. Tại sao thế ? Các vị bình đẳng tại chỗ nào ? Các vị có biết không ? Không theo Phật pháp, tất cả các pháp khác đều là kiến giải của tà pháp ngoại đạo. Cũng đừng nói đảm nhân, đảm ngã, tham sắc thích tiền, ăn cá, ăn thịt, vọng ngôn, vọng ngữ, ngày phí kể trên, tội nghiệp rất nặng. Các vị đừng có nói tôi bỏ tiền ra tạo tháp, xây điện, thiết trai, thỉnh kinh là được công đức dài lâu. Cho đó là thật đi nữa, cũng chưa thề nương tựa được. Trong chúng, lão Hòa thượng cũng không thể thay cho các vị, các vị có biết không ? Các vị có muôn ngàn loại tội nghiệp vô minh, Phật cũng không giúp thay cho các vị được, vấn đề là do nơi tự mình cố gắng, tiền trình tự biện. Các vị nếu chỉ tạo được các công đức hữu vi, đó cũng chỉ là tạo nghiệp. Tăng trưởng phước ngu khờ mà không sanh tri kiến thanh tịnh, sơn tăng tuy cầu được cúng dường, nhưng đêm ngày không an, mảng lo là không đúng. Có lãnh hội không ? Mặc cho các vị hướng về lão túc các nơi cười ta, cũng hiềm ta không được. Muốn hỏi các thí chủ có tiền, nghĩ rằng các vị không giúp đở kẻ khác, không cứu bạt người khổ sở. Nên cố ăn thôi, nên cố làm thôi, nên cố tu hành thôi, nên cố độ thân này thôi, nên sám hối tâm thôi, sám hối tâm thôi. Xin tạm biệt!
PHỤ LỤC
Quan Hàn Lâm học sĩ Công Bộ Thị Lang tặng Thượng thư Bộ Lễ Văn Công Dương Ức Kiêm nhiệm Bí thư Giám Tri Nhữ Châu từng có bài thơ gửi Lý Duy trong đó trưng tập đầu đuôi sư thừa
Kẻ bệnh tôi khẩn ngu xuẩn lại nhận được tưởng thưởng. Từng nghe chỉ yếu của Nam Tông Tào Khê từ lâu bồi đắp thượng quốc chi du. Động tịnh tư tuân chu toàn sách phát, khiến cho có việc mổ tâm, nhìn mặt vào vách mà không hổ thẹn, thành xuất nơi dưới giường của pháp tịch.
Huống có An Công đại sư, thường dạy bảo rằng: ‘Từ diệt ảnh nơi Song Lâm, đến chiếc dép trở về Tây, trung tâm thẳng bằng, khôn biết đâu là chỉ ý. Nhưng do tháng rộng năm dài chìm đắm, thần lự mê hoảng, hại đến tiểu gian, tái biện phương vị. Lại được Vân Môn Lương công Đại sĩ xem đến cảo bồng. Chỉ thú của Thanh Lương chính là cùng với An Công đồng vết xe. Lại tính từ Vân Cư Qui Tông Lô Sơn đến nay, đều là lưu duệ của Đại Pháp Nhãn. Năm ngoái tại thú quận này vừa hay gặp được Thiền bá Quảng Tuệ thật là thừa tự Nam Viện Niệm, Niệm nối tự Phong Huyệt, Phong Huyệt thừa tự Nam Viện. Trước, Nam Viện nối tự Hưng Hóa, Hưng Hóa nối tự Lâm Tế, Lâm Tế nối tự Hoàng Bá, Hoàng Bá nối tự Bách Trượng Hoài Hải, Hoài Hải nối tự Mã Tổ, Mã Tổ nối tự Hòa thượng Hoài Nhượng. Hoài Nhượng chính là trưởng đích tử của Tào Khê.
Trong bữa chay nhằm giản tiện, ăn xong nhiều nhàn rỗi. Hoặc ngồi mời gọi đến, hoặc mệnh đánh xe theo gót, thưa hỏi khắp nơi. Mù mờ ngưng kẹt bỗng tháo mở. Chỉ sau nửa năm, khoáng nhiên hết nghi, như quên trực nhớ, như ngủ say bỗng thức dậy. Vật ngăn trong ngực từ trước giớ bỗng bất chợt tự rơi. Chuyện chẳng rõ rành từ bao kiếp, lô lộ hiện trước mặt. Cho nên lại cũng quyết trạch động phần, ứng tiếp chẳng lập vật. Niệm sâu tiên đức suất nhiều tham tầm, như Tuyết Phong chín lần đến Động Sơn, ba lần đến Đầu Tử, lại nối tự Đức Sơn. Lâm Tế đắc pháp với Đại Ngu mà rốt lại nối tự Hoàng Bá. Vân Nham mong được Đạo Ngô tận tình dạy dỗ, rốt lại làm đích tử của Dược Sơn. Đan Hà Thiên Nhiên đích thân thừa Mã Tổ ấn khả nhưng lại làm hậu duệ của Thạch Đầu. Tại xưa có nhiều tình trạng như thế, nơi lý chẳng có chi hiềm. Duyên kế thiệu của kẻ bệnh tôi nay thật thuộc Quảng Tuệ, nhưng chuyện đề kích do nơi Ngao Sơn vậy. Hân hạnh, hân hạnh !
THỊ LANG HỎI ĐÁP, LUẬN BÀN CÙNG NHIỀU NGƯỜI
Thị lang hỏi Hòa Thượng Quảng Tuệ:
- Thường thừa mong Hòa thượng có lời: ‘Mọi loại tội nghiệp đều do tiền tài và châu báu sanh ra. Khuyên người nên lìa xa tài lợi. Huống chi chúng sanh ở Nam Diêm-phù-đề lấy tiền tài làm sanh mạng. Các bang, các nước lấy tiền tài qui tụ người. Trong Giáo có tài và pháp hai thứ thí’. Tại sao lại khuyên người lìa xa tiền tài ?
Quảng nói:
- Trên đầu cán phướn nhọn đầu rồng sắt.
Thị lang nói:
- Hai đàn ngựa con lớn như lừa.
Quảng nói:
- Gà Sở chẳng phải phụng núi Đan.
Thị lang nói:
- Phật diệt 2.000 năm, Tỳ-kheo ít người biết hổ thẹn.
***
Thị lang hỏi môn tăng Biểu Trừng:
- Thừa mong có lời: Trên trời không Di Lặc, dưới đất chẳng Di Lặc’. Xin hỏi Di Lặc ở tại chỗ nào ?
Biểu Trừng nói:
- Tay leo cây.
Thị nói:
- Tội có chỗ qui về.
Trừng nói:
- Người biết lỗi khó được.
Thị nói:
- Ăn gậy đấy !
Trừng hét lên. Thị nói:
- Bỏ qua lỗi tức chẳng thể.
***
Thị lang hỏi Phò mã Lý:
- Đức Thích-ca khổ hạnh trong sáu năm thành tựu được chuyện gì ?
Phò mã đô úy (1) đáp:
- Đòn gánh gãy, biết củi nặng.
Thị hỏi:
- Một kẻ mù dẫn đám mù thì thế nào ?
Phò mã nói:
- Dĩ nhiên.
Phò mã liền thôi.
***
Hoàng đế Đồng Quang hỏi Hòa thượng Hưng Hóa:
- Trẫm thâu được báu vật của Trung Nguyên, hiềm nổi chẳng ai định giá được.
Hưng Hóa nói:
- Xin tạm mượn báu vật của Bệ hạ xem.
Đế lấy tay tháo cái dải bịt đầu. Hưng Hóa nói:
-Vật báu của nhà vua, ai mà dám đánh giá.
Huyền Giác nói:
- Mắt của Hưng Hóa ở tại nơi nào ? Nếu không chịu, lỗi tại chỗ nào ?
Thị nói:
- Hưng Hóa đối đáp thế là khẳng chịu Trang Tông hay chẳng khẳng chịu Trang Tông ? Hãy thử biện biệt xem nào !
***
Nhân tăng nói về đạo, Thị lang nói:
- Đạo chẳng rời người, người hay hoằng đạo. Phàm người tham học, trong 12 thời nên luôn chiếu cố. Há chẳng nghe Nam Tuyền nói: ‘Ba mươi năm coi chừng một con trâu tơ. Nếu nó giẫm đạp lúa mạ của người thì nắm dây mũi kéo về. Như nay biến thành con trâu trắng ngoài chỗ trống. Buông ra thong thả cũng không chịu đi’. Các ông phải dài lâu thể trước ít đỉnh tinh thái chớ không thể nói lúc bàn Thiền đạo, liền có đạo lý chiếu đái. Lúc làm rẫy, nhổ cải, chẳng khá không vậy. Như gà ấp trứng, nếu mà quăng nó đi chỗ khác, sức nóng không tiếp xúc được, liền không nở thành gà con. Như nay đây vạn cảnh sum la, sáu căn phiền động, tạm mất chiếu cố, liền táng thân mạng. Chẳng phải chuyện nhỏ. Từ đây thọ duyên sanh này, bị sanh tử trói buộc, ấy bởi từ bao đời kiếp tới giờ, thuận sanh diệt tâm, tùy tha lưu chuyển, cho đến hôm nay. Các ông hãy nói xem, nếu từng táng thất thì làm sao còn đến hôm nay. Có muốn con trâu trắng ở khoảng trống chăng. Thử nắm dây giàm mũi nó kéo xem.
Thị lang nói:
- Hòa thượng Huyền Sa Sư Bị nói: Trong nước Đại Đường đây, chuyện trong Tông môn chưa từng có người cử xướng. Có người cử xướng thì người trọn đại địa đều mất cả tánh mạng, giống như cây dùi sắt điếc đặc (1). Nhất thời quên mũi nhọn kết lưỡi. Hãy nói xem đó là đạo lý gì ? Như nay đây giả lập khách chủ, lép nhép hai vành môi, đưa đầu ngón tay, giơ cây xơ quất, toàn thành tri kiến điên đảo. Thuận theo ý điên cuồng của ông, dạy ông có chổ hỏi han. Nếu trước người sáng mắt thì làm sao đưa hứng được. Còn như Hòa thượng Lổ Tổ thấy tăng đến tham yết liền quay qua nhìn vách, Trường Khánh nói: Tiếp dẫn người như thế thì năm con lừa mới được một kẻ nửa người. Ta nói Lỗ Tổ cũng là chẳng biết thẹn. Là người sáng mắt sao lại khẳng chịu như thế nhĩ ? Chuyện từ đây về sau bất đắc dĩ cùng với các ông làm chuyện tri kiến điên đảo. Như xếp khăn thành ngựa, nặn mắt sanh hoa đốm. Thượng Tổ nói: ‘Khai tri kiến Phật, chỉ thị tri kiến Phật, ngộ tri kiến Phật, vào tri kiến Phật’. Bảo họ nói thế nào ? Ngước cúi ít nhiều uy quang. Hãy nói xem bổn phần thượng các ông thiếu khuyết cái gì nào ? Tuy nhiên dù là như vậy, nếu ta chẳng cùng với các ông nghe biết như thế, các ông lại thấy được ở chỗ nào ? Người xưa nói: ‘Kẻ biết ơn rất ít’. Hãy nói xem mang ơn của ai vậy ? Nơi đó mà chẳng rành rõ thì hãy hỏi cây lộ trụ kia đi !
Chú (1)Nguyên văn ‘Vô khổng thiết chùy’ nghĩa đen là cây dùi sắt đặc ruột. Thiền lâm dùng dụng ngữ này để chỉ cho kẻ tối dạ không thể giúp cho lãnh hội sự lý được.
***
Thị lang nói:
- Chuyện ấy rất khó. Lão Thích-ca kia suy nghĩ năm ba hôm liền muốn vào Niết-bàn, bị Đế thích, Phạm vương ân cần ba lần thỉnh cầu, bất đắc dĩ phải đồng ý. Cho nên khởi từ Lộc Uyển mà kết thúc nơi thành Câu-thi-la, khoảng giữa 49 năm làm Phật sự, nói năm thừa, mười hai phần giáo, như bình trút nước, về sau tại hội Linh Sơn, mắt nhìn Ca-diếp nói với đại chúng rằng: Ta có Chánh pháp nhãn tạng đã trao lại cho Đại Ca-diếp’. Lại nói: ‘Ta trong 49 năm chưa từng nói một chữ’, thì đó là đạo lý gì ? Nếu là bổn phần thượng của các ông, trước một chữ cũng không được. Vì các ông ai ai cũng có chuyện kỳ đặc. Gọi là kỳ đặc là đã sớm chẳng trúng. Ta nói: Thích-ca là ông tướng bại trận, còn Ca-diếp là kẻ táng thân mạng. Các ông đây lãnh hội thế nào cho phải ? Há chẳng nghe: Niết-bàn, sanh tử chỉ là lời trong mộng, Phật cùng chúng sanh đều là lời nói thêm. Cho dù hội thủ như thế, cũng không nên mò tìm bên ngoài. Nếu mà nơi đó chưa rành, dám nói là các ông vướng mắc chẳng ít.
***
Thị lang cử Triệu Luận rằng:
- Lãnh hội muôn vật là mình, điều đó chỉ duy Thánh nhân mà thôi. Như nay đây sơn hà đại địa, cây cối người vật đủ thứ, là đồng hay khác. Nếu nói là đồng, đó là đầu đầu vật vật, mỗi thứ đều không đồng nhau. Còn nếu nói là khác, thì người xưa sao lại nói lãnh hội muôn vật đều là mình. Phải lãnh hội thế nào đây ? Lại như trong Giáo có nói: ‘Nếu có một người phát chân về nguồn, mười phương hư không nhất thời tiêu hủy’. Bậc cổ đức lại nói: ‘Nếu người ý thức được tâm, đại địa không một tấc đất’. Đó là đạo lý gì vậy ? Cho dù trọn mười phương thế giới là con mắt pháp của ông thì tất cả chư Phật, trời, người và quần sanh loại nương theo uy quang của ông mà kiến lập thì nên biết là phải tin cho tới mới được.
***
Trước một ngày Thị lang lâm chung, đích thân làm một bài kệ đưa cho người nhà bảo ngày mai hãy trao lại cho phủ Phò mã Lý. Kệ rằng:
Phiên âm:
Âu sanh dừ âu diệt
Nhị pháp bổn lai tề
Dục thức chân quy xứ
Triệu Châu Đông viện tê
Tạm dịch:
Bọt sanh cùng bọt vỡ
Hai pháp vốn dĩ tề
Muốn biết chốn chân quy
Triệu Châu Đông viện tê
Phò mã đô úy tiếp được kệ nói:
- Trong miếu Thái Sơn bán vàng mã.
(Trích Thiên Thánh Quảng Đăng Lục quyển 18)
CẢNH ĐỨC TRUYỀN ĐĂNG LỤC HẬU TỰ
景 德 傳 燈 錄 後 序
A- Nguyên văn:
傳燈籙鏤行舊矣. 兵興以來, 其版灰飛. 慕心宗者, 患無 其書.僧思鑒, 婺人也, 芒屦訪道, 三十年矣. 亦欲人同悟涅榮妙心, 而思有以資發之也. 廣慕淨信, 復鏤其板. 緇素贊歎而助成焉. 或曰: 自心之法無形, 不從人得. 初祖釋迦而降, 無一祖師非默契而自證者.故達磨直指, 不立文字, 少林九年面壁而已. 雖二祖立雪斷臂, 二字亦不爲說. 但遮其知見之非二祖因是, 得正知見, 豁然大省. 則二祖亦不從達磨言句中入, 迺自證也. 且百丈卷席, 雪峯輥毯, 魯祖面壁, 石鞏駕箭, 道吾舞笏, 烏窠吹布毛, 俱胝舉一指. 古德如此示人甚多. 不在言句之間故也. 言句且爾, 況文字乎 ! 心宗要當自參. 祖師言句於我何與焉. 余曰: 不然心法雖曰無形, 然遍 一切處. 翠竹, 眞如也, 黃花船若也. 蛙蚓發機, 管玄乃 至籍壁瓦磔, 無非說法. 故靈當見桃花语道. 玄沙謂語燕深談實相. 然則大地皆是悟門. 孰非此道, 況明心宗言句乎 ! 況載明心宗文字乎 ! 若二者, 於心宗果無與那. 萬福古何爲 閱雲門錄而省. 黃龍心何爲讀多福語而悟. 蓋言詞相寂, 文字性空, 亦此道耳. 若即言句文字而見性相寂, 是乃一超而直入也. 吾故知是兔之流布, 發明心地者衆矣.且鑒之募緣也, 台之寧海邑民周氏歎曰: “吾地有大梨木閱三世矣. 比歲, 我家之人各嘗夢其上有樓各行處, 而無數僧往來於其間, 每疑之. 乃今方悟當刊此錄耶 ? 遂捨以析版. 且遨鑒卽其家僦工而刻之”. 旣刻, 周氏夢六僧求已刻者觀焉. 周問赛曰:“此六代傳衣祖師特來證明此事也”嗚呼, 是書用爲一大事, 則宜有感發之祥以發寤人心. 佘故並列之. 庶觀者知非小緣而堅其信心云
紹興四年, 上元日, 等慈庵善男子睢陪劉栾仲忱序.
B- Phiên âm:
Truyền Đăng lục lũ hành cựu hĩ. Binh hưng dĩ lai, kỳ bản hôi phi. Mộ tâm tông giả, hoạn vô kỳ thư. Tăng Tư Giám, Vụ nhân dã, mang cược phỏng đạo, tam thập niên hĩ. Diệc dục nhân đồng ngộ Niết-bàn diệu tâm, nhi tư hữu dĩ tư phát chi dã. Quảng mộ tịnh tín, phục lũ kỳ bản. Truy tố tán thán nhi trợ thành diên. Hoặc viết: Tự tâm chi pháp vô hình, bất tùng nhân đắc. Sơ Tổ Thích Ca nhi giáng, vô nhất Tổ sư phi mặc khế nhi tự chứng giả. Cố Đạt Ma trực chỉ, bất lập văn tự, Thiếu Lâm cửu niên diện bích nhi dĩ. Tuy nhị Tổ lập tuyết đoạn tý, nhất tự diệc bất vi thuyết. Đãn già kỳ tri kiến chi phi. Nhị Tổ nhân thị, đắc chánh tri kiến, khoát nhiên đại tỉnh. Tắc nhị Tổ diệc bất tùng Đạt Ma ngôn cú trung nhập, nãi tự chứng dã. Thả Bách Trượng quyến tịch, Tuyết Phong cổn cầu, Lổ Tổ diện bích, Thạch Củng giá tiền, Đạo Ngô vũ hốt, Ô Khòa xuy bố mao, Câu Chi cử nhất chỉ. Cổ đức như thử thị nhân thậm đa. Bất tại ngôn cú chi gian cố dã. Ngôn cú thả nhĩ, huống vân tự hồ ! Tâm tông yếu đương tự tham. Tổ sư ngôn cú ư ngã hà dữ diên. Dư viết: ‘Bất nhiên, tâm pháp tuy viết vô hình, nhiên biến nhất thiết xứ. Thúy trúc, chân như dã, Hoàng hoa, Bát nhã dã. Oa dẫn phát cơ, quản huyền truyền tâm. Nãi chí tường bích ngõa lịch, vô phi thuyết pháp, cố Linh Vân kiến đào hoa ngộ đạo. Huyền Sa vị ngữ yến thâm đàm thật tướng. Nhiên tắc đại địa giai thị ngộ môn. Thục phi thử đạo, huống minh tâm tông ngôn cú hồ. Huống tái minh tâm tông văn tự hồ. Nhược nhị giả, ư tâm tông quả vô dữ da. Tiến Phước cổ hà vi duyệt Vân Môn lục nhi tỉnh. Hoàng Long tâm hà vi độc Đa Phước ngữ nhi ngộ. Cái ngôn từ tương tịch, văn tự tính không, diệc thử đạo nhĩ. Nhược tức ngôn cú, văn tự nhi kiến tánh tướng chi không tịch, thị nãi nhất siêu nhi trực nhập dã. Ngô cố tri thị thư chi lưu bố, phát minh tâm địa giả chúng hĩ. Thả Giám chi mộ duyên dã, Thai chi Ninh Hải ấp dân Châu thị thán viết: ‘Ngô địa hữu đại lê mộc duyệt tam thế hĩ. Tỉ tuế, ngã gia chi nhân các thường mộng kỳ thượng hữu lâu các hành vũ, nhi vô số tăng vãng lai ư kỳ gian, mỗi nghi chi. Nãi kim phương ngộ đương san thử lục da ? Toại xả dĩ tích bản. Thả yêu Giám tức kỳ gia tựu công nhi khắc chi’. Ký khắc, Chu thị mộng lục tăng cầu dĩ khắc giả quan diên. Chu vấn Giám viết: ‘Thử hà tăng da ?’. Giám viết: ‘Thử lục đại truyền y Tổ sư đặc lai chứng minh thử sự dã’. Ô hô, thị thư dụng vi nhất đại sự, tắc nghi hữu cảm phát chi tường dĩ phát mụ nhân tâm. Ngô cố tịnh liệt chi. Thứ quan giả tri phi tiểu duyên nhi kiên kỳ tín tâm vân.
Thiệu Hưng tứ niên, thượng nguyên nhật, Đẳng Từ am Thiện nam tử Tuy Dương Lưu Phỉ trọng thầm tự.
(Tả triều phụng đại phu sung hữu văn điện tu soạn quyền phát khiển Thai Châu, Quân Châu sự Lưu Bùi soạn).
C- Tạm dịch:
Sách Truyền Đăng Lục khắc in và lưu hành đã lâu lắm rồi. Từ binh lửa nổi lên đến nay, bản gỗ đã thành tro bụi. Người mộ Thiền tông đều lo sợ không còn sách ấy. Có tăng Tư Giám, người Vụ Châu, lê giày gai tìm đạo đã 30 năm rồi, những muốn mọi người cùng ngộ diệu tâm Niết-bàn, nên nghĩ rộng quyên tiền của để khắc in lại sách ấy. Tăng tục tán thán, giúp đỡ thành toàn. Có người nói:
- Pháp tự tâm không hình, chẳng từ nơi người khác mà đắc. Từ lúc sơ Tổ Thích-ca Mâu-ni giáng hạ, chẳng có một Tổ sư nào không mặc khế mà tự chứng được. Cho nên Tổ sư Đạt-ma mới chỉ thẳng, chẳng lập văn tự, chỉ chín năm nhìn vách ở Thiếu Lâm mà thôi. Tuy nhị Tổ Huệ Khả đứng ở trong tuyết sâu chặt tay, nhưng Đạt-ma cũng chẳng nói một lời nào, để tránh đi cái nhầm lẫn của tri kiến, cho nên nhị Tổ mới đắc Chánh tri kiến, khoát nhiên đại tỉnh ngộ. Thế thì nhị Tổ cũng chẳng theo ngôn cú của Đạt-ma mà ngộ nhập, chỉ là tự chứng vậy. Thế nên Bách Trượng cuốn chiếu, Tuyết Phong đá cầu, Lỗ Tổ nhìn vách, Thạch Củng buông tên, Đạo Ngô múa hốt, Ô Khòa rứt thổi sợi vải, Câu Chi đưa ngón tay… bậc cổ đức khải thị người như thế rất nhiều. Ấy là không tại chỗ lời lẽ vậy. Lời lẽ là như thế, huống chi là chữ nghĩa. Tâm tông (Thiền tông) cần ở tự tham, lời lẽ của Tổ sư đối với ta có dính gì đâu ?
Tôi nói: Không phải vậy. Tâm pháp tuy nói là không hình, nhưng lan rộng khắp nơi. Trúc biếc ấy chân như, hoa vàng là Bát-nhã. Giun ếch phát cơ, đàn sáo truyền tâm. Cho tới tường vách gạch ngói, chẳng không là thuyết pháp. Cho nên Linh Vân thấy hoa đào mà ngộ đạo, Huyền Sa do nghe tiếng én mà ngộ bàn sâu thật tướng. Thế thì sơn hà đại địa đều là cửa ngộ nhập. Ai không phải qua con đường ấy, huống là làm sáng lời lẽ tâm tông, huống tái làm trong sáng văn tự tâm tông. Nếu cả hai đối với tâm tông chẳng là gì cả, thì tại sao Tiên Phước Cổ nhờ đọc Vân Môn lục mà tỉnh ngộ. Hoàng Long vì sao đọc lời lẽ của Đa Phước mà ngộ. Bởi lời lẽ rỗng rang, chữ nghĩa tánh không, cũng là đạo ấy vậy. Nếu lời lẽ mà thấy được tánh tướng không tịch, thì đó cũng là nhất siêu mà trực nhập vậy. Tôi vốn biết sách này lưu bố, khiến người phát được tâm địa rất đông. Vả lại công việc mộ duyên của Tư Giám, người dân thường họ Chu trong huyện Ninh Hải nói rằng: ‘Đất nhà chúng tôi có cây lê to đã ba đời rồi. Luôn các năm gần đây, cả nhà tôi đều nằm mộng thấy trên cây ấy có lầu gác, đình miếu, có rất nhiều tăng nhân tới lui trong đó, nên luôn nghi ngờ, giờ hiểu ra là san khắc bộ lục ấy, liền đốn bỏ để làm bản gỗ, lại khuyến khích Tư Giám đem về nhà gọi người đến khắc bản. Khi đã khắc, họ Chu mộng thấy sáu vị tăng yêu cầu cho xem phần đã khắc xong. Chu hỏi Tư Giám rằng: ‘Đấy là tăng nào vậy ?’. Giám đáp: ‘Đó là Tổ sư sáu đời được truyền y bát đặc biệt đến đây để chứng minh cho công việc đấy’.
Than ôi, sách này dùng làm một công việc lớn, tức phải cảm phát điềm lành để phấn phát tâm kẻ ngủ mê, cho nên tôi cũng liệt kê vô đây, ngỏ hầu người xem biết rằng đó không phải là cơ duyên nhỏ, để kiên định lòng tin của họ.
Ngày thượng nguyên năm thứ tư niên hiệu Thiệu Hưng tại am Đẳng Từ, thiện nam tử Tuy Dương Lưu Phỉ trọng kính đề lời hậu tự.
(Do quan Tả Triều phụng đại phu sung hữu văn điện tu soạn quyền phát khiển Thai Châu, Quân Châu sự Lưu Bùi soạn)./.