Một Cõi Đi Về tập 2
Thơ & Tạp Bút
Lời Đầu Sách
Chủ đề Một Cõi Đi Về, Thơ và Tạp Bút tập hai, một lần nữa, được cái cơ duyên thuận lợi hân hạnh ra mắt quý độc giả. Cách đây ba năm tập một đã được xuất bản vào năm 2011. Hình thức và nội dung của tập hai nầy, cũng không khác tập một. Nghĩa là chúng tôi cũng chia ra làm hai phần: Phần đầu là thơ và phần sau là những bài viết rải rác đã được đăng tải trên các tờ Đặc san Phước Huệ. Tờ báo mỗi năm phát hành ba kỳ vào những dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Do đó nên những bài viết có những tiêu đề trùng hợp và nội dung có chút ít giống nhau. Tuy nhiên, mỗi bài đều có những sắc thái hương vị riêng của nó. Ngoài ra, có những bài viết với những tiêu đề khác không nằm trong phạm vi của những ngày đại lễ đặc biệt đó. Nay chúng tôi gom góp tất cả những bài viết đó lại để in chung thành một quyển sách tập hai nầy. Về ý nghĩa của chủ đề nói trên, chúng tôi cũng đã có trình bày rõ trong tập một. Ở đây, chúng tôi không muốn lặp lại. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn nói ở đây là, sách nầy được hình thành ra mắt quý độc giả là nhờ sự ủng hộ đóng góp tịnh tài của những vị thí chủ phát tâm cúng dường in ấn. Chúng tôi xin chân thành tri ân và tán dương công đức của quý vị qua việc cúng dường pháp thí nầy. Đồng thời, chúng tôi cũng xin thành kính tri ân:
- Đại Đức Thích Phước Quảng đã tận tình giúp cho phần phát họa hình bìa.
- Đại Đức Thích Phước Viên giúp cho phần trình bày và in ấn.
- Quý Sư Cô: Phước Thanh, Phước An và Phật tử Lệ Phượng đã giúp sửa bản in.
Xin tất cả nhận nơi đây lòng biết ân sâu xa của chúng tôi. Và chúng tôi cũng không quên nguyện cầu Phật lực gia hộ cho chư Tôn Đức và quý Đàn na thí chủ thân tâm thường an lạc, vạn sự kiết tường như ý.
Nguyện đem công đức pháp thí nầy hồi hướng cho pháp giới chúng sanh đều trọn thành Phật đạo.
Tịnh Lạc Niệm Phật Đường
Mùa Vu Lan Phật lịch 2558
Ngày 26 tháng 7 năm 2014
Trân Kính
Thích Phước Thái
Nhị Nguyên
Bên kia ngàn tiếng vọng
Bên nầy lời động vang
Nơi đây lòng biển rộng
Chốn nầy vẫn đợi trông
Tây đông còn vướng mắc
Biển thức vẫn ngập tràn
Nẻo về muôn lối rẽ
Chỉ có bầu trời trong
Sen Nở
Chuông ngân tan niềm tục
Lam chiều khói mù xa
Đời người như giấc mộng
Thoáng chốc trở nên già
Sự nghiệp làn sương sớm
Tài sản bóng nhanh qua
Giàu sang như mây nổi
Danh lợi nước trăng tà
Phù du đầu vạn vật
Niệm dừng sen nở ra
Nẻo Về
Tháp vàng lơ lửng ở trên cao
Muốn hái trăng sao hái được nào
Trần cảnh phan duyên ngàn muôn kiếp
Bao giờ sanh tử mới thoát nao?!
Ngàn suối trăm sông chảy biển vào
Lá cành tươi tốt rễ ăn sâu
Muôn ngàn lối rẽ nào đâu khác
Biển nước bao la đất một màu
Tranh cãi hơn thua hý luận chơi
Vẽ rồng vẽ rắn vẽ khơi khơi
Vẽ đi vẽ lại ngàn muôn kiếp
Vẽ đến bao giờ mới thảnh thơi!
Hoa Giải Thoát
Hoa giải thoát phát sanh từ giới đất
Tuệ sáng ngời mặt nhựt khỏi vầng mây
Núi kim cang kiên định mặc gió lay
Ngàn muôn thuở bầu trời luôn trong sáng.
Bảo Sở
Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài
Đông tây tìm kiếm mệt không hay
Xưa nay sẵn có tìm đâu nữa?
Lặng sáng an bình sẽ hiện bày
Học đạo chỉ cần dạ thẳng ngay
Quanh co gian dối kẻ ăn mày
Chìm sâu văn tự ngàn muôn kiếp
Chỉ bị gạt lừa thật chẳng hay!
Chân lý không nằm ở ngón tay
Cần nương nhìn rõ ánh trăng lay
Trăng kia tỏ sáng hằng luôn có
Chỉ dẹp mây mù tất thấy ngay
Đạo đời chớ chấp bởi không hai
Nước đục nước trong chẳng phải ngoài
Phiền não Bồ đề nào đâu khác
Bảo rằng là một cũng đã sai
Biển vắng
Biển vắng đảo hoang chẳng bóng người
Con tàu vượt sóng đến vui chơi
Người đi an lạc tâm thư thới
Sóng nước đưa người dạ thảnh thơi
Cát trắng lòng người thanh thoát quá
Thanh nhàn cây cỏ cũng vui tươi
Ra về ngoảnh lại còn lưu luyến
Kỷ niệm tình ta thật khó vơi!
&&&
Du ngoạn trên tàu giữa biển thanh
Trời trong nắng ấm nước trong xanh
Người ngồi kẻ đứng luôn trò chuyện
Nhiếp ảnh quay phim kỷ niệm nhanh
Cặp bến lên cầu thong thả bước
Trên bàn ăn uống dưới cây xanh
Chuyến đi thú vị người vui hưởng
Cảm niệm Tâm Hương tàu sẵn dành.
Kỷ niệm tới thăm một đảo hoang ở Tân Đảo
Ngày 26.5.13
Hòa Điệu Sống
Sống lâu phải khéo điều hòa
Tâm, sinh, vật lý khéo hòa bình an
Giận nhiều có hại cho gan
Buồn quá hại phổi nghĩ toan hại tỳ
Ăn uống đừng để béo phì
Vui mừng quá lố tim thì dễ ngưng
Sợ quá hại thận đau lưng
Tâm an thân khỏe dững dưng với đời
Niệm Phật lòng dạ thảnh thơi
Không còn cố chấp sáng ngời đạo tâm
Vọng tưởng dấy khởi chớ lầm
Thường hằng quán chiếu Phật tầm đâu xa
Sáng soi phân biệt chánh tà
Hạnh tu buông xả đó là Lạc bang
Niệm Phật cuộc sống an nhàn
Phải niệm cho đúng buộc ràng tháo tung
Niệm Phật Sự Lý viên dung
Mới là chơn niệm vô cùng an vui.
Ngày 9/6/2013
Nghiệp Trần Chưa Dứt
(Thân tặng các vị xuất gia ngắn hạn)
Từ lâu con đã ước mong
Xuất gia tu học thong dong tháng ngày
Duyên đâu đưa đến hôm nay
Quý Thầy tổ chức mười ngày tịnh tu
Sớm chiều gắng chí công phu
Cõi lòng thanh thoát lu bu không còn
Tối nằm yên giấc ngủ ngon
Giật mình thức dậy đầu tròn áo vuông
Bao nhiêu toan tính lo buồn
Nay đà phủi sạch in tuồng mây bay
Tiếc gì chỉ có mười ngày
Trở về trần thế mọc dài tóc ra
Lòng thì cũng muốn xuất gia
Nhưng khi nghĩ đến cửa nhà chưa xong
Khi buồn thì nói với lòng
Chuyến này bỏ hết một lòng xuất gia
Quăng đi gánh nặng cửa nhà
Hết buồn thì lại khó mà đi luôn
Có người còn kẹt bán buôn
Cháu con còn nợ dứt luôn khó lòng
Ôi thôi! tình cảm lòng thòng
Nay vầy mai khác biết xong đời nào
Vàng nâu tuy có khác màu
Mặc vào thanh thoát ra vào vui thay!
Có người trông hết mười ngày
Có người lại muốn kéo dài thêm ra
Phước lành mới được xuất gia
Duyên trần còn nặng khó mà tu luôn
Nghĩ cho số kiếp thật buồn
Trọn đời rốt lại khác dường bèo mây
Con nguyền quyết chí từ đây
Việc đời buông bỏ theo Thầy tu luôn.
Ngày 27/5/13
Dừng
Ta cô lữ trong muôn ngàn vạn kiếp
Gót phong sương dậm nát cõi Ta bà
Đã bao lần sanh tử mãi vào ra
Mang kiếp sống đọa đày trong khổ hải
Nhân với quả nhiều đời ta gặt hái
Nghiệp dữ lành cứ mãi trả với vay
Chốn bụi hồng trong cõi tạm trần ai
Biết "Dừng" lại trọn đời vui hạnh phúc.
Bông Hồng Trắng
Trải mấy mùa thu lá rụng vàng
Bao rằm tháng bảy đón Vu Lan
Lòng con quặn thắt vì thương nhớ
Hoa trắng cài lên lệ ướt tràn!
Mẹ đã cho con cả cuộc đời
Nhọc nhằn vất vả để con chơi
Còng lưng mẹ gánh thân nào quản
Chỉ muốn con mình sống vui thôi
Mẹ đã đi rồi bỏ lại con
Chiều thu bóng mẹ đã không còn
Bầu trời lặng chết còn đâu nữa
Biết đến bao giờ gặp lại con!
Tiếng dế kêu sầu khóc nỉ non
Đêm khuya tỉnh giấc mẹ tôi còn
Dòng sông vẫn chảy luôn còn đó
Nhịp thở tế bào mẹ trong con
Phổ Đà Cảm Tác
(Thân tặng các Phật tử chùa Nam Hải Phổ Đà)
Cảnh chùa Nam Hải Phổ Đà
Chung quanh cảnh trí thật là đẹp xinh
Quan Âm tôn tượng oai linh
Giữa trời ngự tọa cứu sinh độ đời
Thích Ca tôn tượng sáng ngời
Pháp âm hằng chuyển vạn lời vang xa
Nhìn qua "Tam Thánh" ngự tòa
Quan Âm, Thế Chí, Di Đà Tây Phương
Phật tử vui vẻ khôn lường
Bao nhiêu sóng gió vô thường đi qua
Cũng nhờ niệm Phật Di Đà
Quan Âm Bồ Tát linh mà độ cho
Qua sông thì phải có đò
Tu hành có bạn chẳng lo điều gì
Con đường Chánh giáo cứ đi
Mặc cho thế sự nói gì cũng qua
Tu hành lòng dạ thật thà
Tranh giành chi lắm khổ mà lụy thân
Cõi lòng trong sáng tịnh thanh
Phiền não gạn lọc mới thành hiền nhân
Đôi lời nhắn gởi xa gần
Chúc cho Phật tử sáng ngần đạo tâm
Vọng tưởng dấy khởi chớ lầm
An nhiên vui sống âm thầm mà tu
Sớm chiều sáng tối công phu
Não phiền tẩy sạch ngao du liên đài
Phổ Đà Nam Hải hằng ngày
An vui tu tập công dày quả cao
Chị em trước cũng như sau
Một lòng tu tập ngày sau an nhàn
Ráng mà gieo giống Tây phang
Chí thành niệm Phật sinh sang Phật đài
Chỉ cần lòng dạ thẳng ngay
Con đường tu niệm hằng ngày an vui.
Ngày 10/6/13
Khuyến tu
(Đặc biệt thân tặng cho những người mới quy y Tam bảo)
Phước lành con được quy y
Nương nơi Tam Bảo sân si xin chừa
Con nguyền chay lạt muối dưa
Siêng năng tu học sớm trưa dồi mài
Thị phi gác bỏ ngoài tai
Chẳng màn danh lợi hằng ngày tập tu
Gắng giữ thời khóa công phu
Kệ kinh tụng niệm hết ưu phiền hà
Đêm ngày nhớ niệm Di Đà
Thân tâm an lạc mới là người khôn
Đạo tâm gắng giữ vuông tròn
Làm lành lánh dữ chẳng hờn ghét ai
Từ bi thương xót muôn loài
Bền tâm nhẫn nại đắng cay chẳng màng
Cõi trần nhiều nỗi gian nan
Bao nhiêu thử thách con nguyền vượt qua
Bền lòng niệm Phật thiết tha
Quan Âm Bồ tát Di Đà nhớ luôn
Tu hành không thể nói suông
Vô thường nhanh chóng in tuồng mây bay
Giữ gìn giới cấm từ nay
Tin vào nhân quả chẳng sai chút nào
Diệt trừ ngã mạn cống cao
Chùa chiền lui tới trước sau giữ gìn
Hành trì bái sám tụng kinh
Việc mình mình biết chẳng nhìn lỗi ai
Con nguyền sám hối từ rày
Nói năng hành động từ nay giữ mình
Giàu sang quyền thế nhục vinh
Cuối đời buông hết thân mình còn chi
Ráng tu nhẹ gánh ra đi
Mấy lời nhắc nhở nhớ ghi vào lòng
Thầy Tổ chỉ có ước mong
Mỗi người tự tỉnh bền lòng gắng tu
Việc đời rối rắm lu bu
Con nguyền hỷ xả hết ưu não phiền
Tài bồi phước đức tịnh liên
Thong dong tự tại an nhiên cõi trần
Về chùa nghe tiếng chuông ngân
Não phiền phủi sạch lâng lâng an nhàn
Niệm Phật gieo giống Tây phang
Một lòng niệm Phật Lạc Bang mau về.
Khai chuỗi
Tay lần trăm tám hạt châu
Tội hằng sa số còn đâu mà tìm
Khỉ dừng hoạt động nằm im
Ba đường tội ác hết tìm đâu ra
Bền tâm niệm Phật Di Đà
Liên hoa khai phát ngồi tòa Như Lai
Niệm Phật chánh niệm chẳng sai
Tâm an Cực lạc ở ngay hiện tiền
Bạn sen pháp hội hữu duyên
Cùng nhau tu học hướng miền Lạc bang
Thân an tâm lạc cúng dàng
Như Lai thọ dụng sen vàng phẩm cao
Niềm vui đọc sách
Chồng sách bày trước mặt
Đọc lấy một vài trang
Ê a trong thầm lặng
Thanh thoát tâm nhẹ nhàng
Vui gì bằng đọc sách
Nói chuyện với người xưa
Trao nhau tình thân thiết
Quên hết chuyện lọc lừa
Đời người trong nháy mắt
Có chi phải tranh giành
Sắc tài thêm trói buộc
Hạnh phúc ngắm trời xanh
Vướng mắc trong sở tri
Phiền muộn lắm sầu bi
Thảnh thơi thùng rỗng đáy
Còn chi bận tháng ngày.
Ngày 19/9/2013
Phổ Đà Cảm Niệm
Phổ Đà tiếng hát êm như mây
Gió thổi chiều tà nhẹ mát thay
Chớn chở non cao tình mộng đẹp
Soi hình biển nước bóng in đây
Phổ Đà chuông sớm âm ngân vang
Tiếng khóc trẻ thơ lắm muộn màng
Ai bảo chào đời chi lại khóc?
Dỗ gì cho nín khỏi kêu than!
Phổ Đà soi sáng cảnh mê lầm
Thanh tịnh cam lồ rưới mát tâm
Quán niệm lòng ta thôi chấp trước
Thanh nhàn buông bỏ giữ tâm an
Cảm Niệm Ơn Thầy
Ơn Thầy dạy dỗ bao năm
Xả ly trần thế biệt tăm xa rồi
Trọn đời vì đạo cứu đời
Chúng sanh phổ độ biển trời bao la
Dung nghi bi nguyện thiết tha
Sanh linh độ chúng Ta bà khổ đau
Thầy về cõi Phật tiêu dao
An nhàn tự tại phẩm cao liên đài
Tổ Đình Phước Huệ đêm ngày
Không thầy dạy dỗ đêm dài tối tăm
Nghĩ tình sư đệ cao thâm
Trọn đời ghi nhớ ngàn năm vẫn còn.
***
Thiền môn Phước Huệ vắng Thầy
Mây sầu che lối trăng đầy khuyết hao
Lời Thầy giáo huấn ngọt ngào
Âm vang còn đó biết bao nhiêu tình
Phù du trong kiếp nhơn sinh
Dung nghi đức độ an bình Thầy trao
Đất bằng sóng dậy ba đào
Vô thường chia cắt buồn đau khôn cùng.
***
Núi cao biển rộng đức Thầy
Tâm từ độ chúng nơi nầy xứ kia
Bắc nam chẳng ngại phân chia
Vạn duyên Phật sự chẳng lìa bản tâm
Ơn Thầy gầy dựng bao năm
Xây chùa độ chúng tòng lâm vững vàng
Oai nghi đi đứng nghiêm trang
Gương soi đệ tử muôn vàn nhớ thương.
Đời Người
Đời người một thoáng qua
Mới trẻ đã thấy già
Như cây cằn khô rễ
Phút chốc phải lìa xa
Đời người phí phạm qua
Nếu không biết quay về
Nương tựa vào hơi thở
Chánh niệm ở trong ta
Đời người sống bôn ba
Từ trẻ cho đến già
Không phút giây an tỉnh
Khác gì một bóng ma
Đời người khó kiếm ra
Ý thức khổ đời ta
Phút giây hằng trân quý
Tu hành thoát lụy sa
Hơi thở nào cho ta
Một cuộc sống an bình
Hơi thở của chánh niệm
Không còn đắm lụy sa
Chết
Mai nầy ta sẽ chết
Hình hài tan rã ra
Trả về cho cát bụi
Hình bóng sẽ tiêu ma
Vô thường nào ai biết
Phút trước còn thấy mặt
Phút sau đã lìa đời
Nhanh chóng quá ai ơi!
Hãy nhìn lại người thân
Kẻ xa cùng người gần
Biết bao người đã chết
Chưa dứt tiếng chuông ngân
Chết là một sứ thần
Khi gọi chỉ biết vâng
Mấy ai nào trốn thoát?
Hãy dứt bỏ tham sân.
Thường quán niệm sự chết
Dặn lòng buông bỏ hết
Không vướng mắc điều gì
Nhẹ nhàng lúc ra đi
Nhìn lại thân của ta
Hơi thở vào lại ra
Sống chết trong hơi thở
Có gì là của ta?!
Hoa Tình Thương
Hoa tình thương trải dài trong cuộc sống
Như dòng sông chảy mãi đến tận cùng
Ngậm ngùi chi trong thế giới mông lung
Cho thêm khổ dệt sầu ngàn muôn kiếp
Hãy tỉnh mộng hành trình trong bất diệt
Hãy vươn lên đoạn tuyệt kiếp luân hồi
Đã bao đời mang kiếp sống nổi trôi
Như cùng tử lang thang không định hướng
Sống chánh niệm tiêu mòn bao nghiệp chướng
Chỉ một câu Phật hiệu niệm Di Đà
Vượt muôn ngàn bao nỗi khổ lụy sa
Ta thoát kiếp tử sanh từ muôn thuở.
13/11/13
Chăm sóc
Một khu vườn nhỏ để chăm nom
Cỏ dại mọc lên nhổ chẳng còn
Cải hạt gieo trồng đều lựa kỹ
Đất mềm phân bón tốt lên con
Thường xuyên chăm sóc đừng quên lãng
Gián đoạn bê tha khó vẹn tròn
Năm tháng an vui lòng tự biết
Âm thầm niệm Phật một lòng son.
13/11/13
Ngắm Cá Heo
Tàu chạy giữa dòng dọi bóng sông
Người ngồi kẻ đứng ngắm xem trông
Cá heo nổi lặn như đùa cợt
Nhảy múa phơi mình uốn lượn cong
Nhiếp ảnh quay phim cười thích thú
Buông lòng quên hết chuyện Tây Đông
Tàu dừng bến đậu lòng thanh thản
Vạn pháp vô thường thể tánh "Không"
16/11/13
Cưa Cây
(Thân tặng các Phật tử: Minh Lý, Trí Lạc, Minh Quang, Minh Thiệt, Mỹ Phương, Trí Bảo và Tâm Hoàng)
Thời tiết hôm nay chẳng đẹp trời
Mây đen vần vũ khắp mưa rơi
Tán cây che phủ sang nhà ngói
Lá rụng đầy sân khắp mọi nơi
Minh Lý leo lên dao chặt mé
Cưa cây Trí Lạc kéo như chơi
Minh Quang, Minh Thiệt dồn bao bố
Một buổi xong rồi nghỉ ăn chơi.
***
Một buổi xong rồi nghỉ ăn chơi
Có chi lo lắng khổ ai ơi!
Trên bàn rau cải cùng nhau cuốn
Bánh tráng sẵn sàng cứ mặc xơi
Trí Bảo, Tâm Hoàng vui có mặt
Mỹ Phương cùng dọn giúp chẳng lơi
Tình người bạn đạo là như thế
Ăn uống vui cười thật thảnh thơi
***
Ăn uống vui cười thật thảnh thơi
Cuộc đời rốt lại chỉ trò chơi
Có chi phiền muộn thêm đau khổ
Tuệ giác từ bi, trải khắp nơi
Thảo luận phát huy tình áo trắng
Bàn tìm phương pháp bớt khổ vơi
Nội quy cần soạn làm cương lĩnh
Biên bản ghi vào giữ một nơi
Ngày 27/11/13
Thạch Động
Thạch động hang sâu thẳm thẳm vào
Đoàn người chậm bước tiến theo nhau
Lấp lánh kim cương ngàn vẻ đẹp
Đèn vàng mờ ảo ánh trăng sao
Thạch nhũ sương sa hoa đá nở
Đạo vàng rực rỡ đạt thanh cao
Cảnh sắc thiên nhiên ơn tạo hóa
Đá vàng khắc đậm nét thanh tao.
18/10/2008
Biển Động
Biển sâu, biển vắng, biển bao la
Sóng biển ngàn trùng vỗ thanh ba
Sóng lòng luôn động ngàn đau khổ
Sóng lặng nghiệp dừng hết khổ đa!
Biển bọt thân nầy nào có khác
Vào bờ tan tác giống thây ma
Vô thường nhanh chóng nào ai biết
Thức tỉnh tu hành chóng thoát ra.
18/10/2008
Buông
Nắng rót vào hồn một sáng mơi
Cợt đùa hoa nở thắm tươi cười
Chim bay mỏi cánh qua đồng vắng
Chó sủa vang trời khắp mọi nơi
Trăng sáng vườn hoang ai bỏ trống
Trời chiều gió động chủ vui chơi
Dừng chân dục vọng đừng mơ ước
Một nẻo an nhàn "buông" thảnh thơi.
16/12/2013
Ơn Cha Mẹ
Cả một bầu trời gánh nặng mang
Công cha nghĩa mẹ sánh muôn ngàn
Mây trời khó phủ ơn nuôi dưỡng
Biển nước sao đầy nghĩa bảo ban
Tất tả ngược xuôi người lặn lội
Một mình vất vả tự lo toan
Thân gầy chẳng quản nuôi con lớn
Chịu cảnh phong sương quyết chẳng than!
16/12/2013
Liên Trì Cảm Tác
Liên Trì cảnh đổi bóng người xưa
Kinh kệ công phu sáng, tối trưa
Phú quý công danh thôi chẳng đoái
An bần thủ đạo giữ tương dưa
Việc đời gác bỏ ngoài tai hết
Việc đạo tùy duyên chẳng ghét ưa
Thế sự tình đời sao nói hết
Phù du muôn việc gió đong đưa.
Đu Đủ
(Riêng tặng cho Nhan Thanh Trung)
Đu đủ ai trồng trái rất sai
Tính ra nhỏ lớn cả trăm ngoài
Thật là giống tốt người chăm sóc
Quả đúng Trung trồng chớ chẳng ai
Khi trồng gieo giống lựa phân ra
Thắm thoát thời gian kết nở hoa
Trái chín đầy cây người khen thưởng
Ăn vào ngon ngọt mát cả da
Khen Trung tuổi trẻ tánh hiền hòa
Vui tánh nói nhiều chẳng ba hoa
Lễ độ mọi người đều ưa thích
Siêng năng học giỏi lại xuề xòa
Trung người có hiếu với ông bà
Kính mẹ thương cha giúp việc nhà
Khéo léo trưng bày trông đẹp mắt
Khen Trung khéo xử tánh thật thà
Già
Ngồi nhìn thấy rõ da ta
Da nhăn lông bạc biết ta đã già
Thân ta tuy đã có già
Tâm ta thì lại có già chi đâu
Soi gương mái tóc bạc đầu
Vô thường là thế buồn rầu ích chi
Mau già vì quá nghĩ suy
Tâm sầu bạch phát sách ghi rõ ràng
Biết già thì phải liệu toan
Gấp mau tu niệm chiều tan lối về
Người già cái chết cận kề
Nhớ nên "buông xả" mau về Tây phương
Việc đời thối chớ vấn vương
Ra đi một cõi mình thương lấy mình
Cái vòng sinh tử, tử sinh
Luân hồi lục đạo chữ TÌNH mà ra
Còn chi mà phải bôn ba
"Sống vui, sống đẹp" mới là người khôn.
Phật Đản
Phật đản đã về rồi đó anh
Chị ơi! dâng cúng một tâm thành
Về chùa lễ Phật thành tâm nguyện
Nguyện cõi nhơn gian hết chiến tranh
Phật đản đã về rồi đó em
Xe hoa lễ hội đón mừng xem
Hương thơm phảng phất mùa sen nở
Tiếng gọi tình thương chẳng nệ hèn
Phật đản đã về rồi đó ba
Từ bi trải rộng khắp chan hòa
Gương xưa đạo hạnh xa mùi tục
Đạo quả viên thành Tất Đạt Đa
Phật đản đã về rồi đó con
Vô ưu hoa nở mãi vẫn còn
Ngàn xưa vạn vật đều thay đổi
Tâm thể vĩnh hằng dạ sắc son
Tòng Lâm
Tòng lâm nắng ấm đẹp trời
Thiên nhiên ban tặng cho đời ấm êm
Tòng lâm nếp sống êm đềm
Suối reo, gió mát, chim kêu quanh mình
Tòng lâm phong cảnh hữu tình
Tình người, tình đạo an bình vui tươi
Tòng lâm muôn vạn tiếng cười
Mang nguồn diệu lý cho đời bớt đau
Tòng lâm an lạc xiết bao
Thắm mùi kinh kệ dạt dào ngàn mây
Tòng lâm người đó ta đây
Tuy hai mà một trọn đầy tình thâm
Tòng lâm cây cối âm thầm
Một màu vắng vẻ mạch ngầm duyên xưa
Tòng lâm hai buổi sớm trưa
Lòng người an thoát tương dưa qua ngày
Tòng lâm gió thổi chẳng lay
Niềm đau buông bỏ trăng say đạo mầu
Tòng lâm trước cũng như sau
Hướng về "Tịnh Xứ" vạn sầu tiêu tan.
Ngày 10/5/2014
Buông Bỏ
Thôi! buông bỏ những gì trong quá khứ,
Đừng luyến lưu, đừng tư lự nữa làm chi
Việc qua rồi chớ có buồn tủi nghĩ suy
Mà chuốc lấy thêm hận sầu trong khổ lụy
Hãy nhìn lại xét mình cho thật kỹ
Sự ghét thương, thương ghét bởi do đâu?
Oán hờn kia nghiệp dĩ đã trồng sâu
Nên hóa giải mọi oán hờn đừng ôm lấy
Bao buồn giận nghiệp duyên luôn đưa đẩy
Cứ trách người mà không nhận thấy lại ta
Đã có thân phải khổ lụy cõi Ta bà
Nay tỉnh thức ta không giận hờn ai nữa cả
Noi gương Phật ta quyết lòng buông hỷ xả
Dù ai kia đối xử rất lạnh lùng
Rất ác độc chanh chua ngàn cay đắng
Ta không giận, không buồn hay oán trách
Chỉ âm thầm xét lại lỗi mình thôi
Trải bao đời ta cứ mãi chìm đắm nổi trôi
Không giây phút đời ta luôn an ổn
Ta ý thức đời ta nhiều khốn đốn
Bởi vô minh nghiệp quả mãi vương mang
Trải bao đời ta phải chịu lầm than
Nay tỉnh giác ta nguyền buông bỏ hết.
Ma Chướng
Trong người ai chẳng có ma
Ma Phật cũng chính do ta tạo thành
Vì ma mới có tranh giành
Hơn thua phải trái chúng sanh nhiều đời
Muốn cho lòng dạ thảnh thơi
Diệt trừ ma chấp mới thời đặng yên
Bởi ma nên mới có phiền
Hằng soi quán chiếu ma liền tiêu tan
Vì ma phách lối ngang tàng
Cho rằng mình phải làm càng chẳng kiêng
Dù nơi cảnh giới linh thiêng
Ma nào có sợ có kiêng nể vì
Sợ nhứt là con ma si
Nói năng hành động cái gì cũng hơn
Bởi tham nên mới giận hờn
Chê bai mắng nhiếc khinh lờn người trên
Tu hành gần Phật mới nên
Gần ma sanh chuyện công kênh hại người
Ma ngoài giả bộ tươi cười
Ma trong tìm cách đâm mười nhát dao
Lập công ma rất tự hào
Chuyên đi nịnh bợ ngọt ngào thân thương
Con ma phiền não khó lường
Giả nhân giả nghĩa là phường ác nhân
Ma nầy ta chớ có gần
Phải nên xa lánh chơi thân người hiền
Là ma nên mới nổi điên
Đụng ai la nấy chao nghiêng trong chùa
Vào chùa cứ mãi hơn thua
Cứ lo tranh chấp bốn mùa chẳng tu
Tự mình giam hãm ngục tù
Chuốc bao khổ lụy như mù đi đêm
Muốn cho cuộc sống êm đềm
Trừ tà đuổi quỷ mới yên trong chùa
Người tu chớ có hơn thua
Ngoài đời tranh chấp vô chùa làm chi!
Cảnh chùa là chỗ để thi
Thị phi buông bỏ mới thì đậu cao
Mấy lời thức nhắc trước sau
Già lam thanh tịnh chớ đào hố sâu
Tu hành lập chí bền lâu
Đuổi con ma chướng khổ sầu tiêu tan
Tâm người khác thể trâu hoang
Chuyên đi phá phách xóm làng người ta
Người tu thì phải thật thà
Trâu ai nấy giữ thế là an thân
Khổ đau vì bởi tham sân
Nhớ lời Phật dạy chuyên cần lo tu
Sớm chiều tinh tấn công phu
Bền tâm niệm Phật dứt ưu não phiền.
Bình Yên
(Riêng tặng Phật tử Vân Lan)
Đông phong không lạnh lòng lữ khách
Vì bởi hương sen một tách trà
Bình yên tìm kiếm đâu xa
Lòng ta đã có chẳng qua nhận lầm.
***
Gió ngại đường xa không rõ lối
Mây về cố quận vượt phong ba
Bình yên hỏi lại lòng ta
Tìm ngoài chẳng có cách xa muôn trùng.
***
Sương mờ phủ tuyết ngoài song cửa
Biển vắng thuyền không chẳng có người
Bình yên nở một nụ cười
Cho hay vạn vật bầu trời chính Ta.
***
Núi kia đứng sững ngàn thu ấy
Nguồn suối ngày đêm vẫn chảy hoài
Bình yên từng bước ai hay
Gió dừng biển lặng ngày ngày an vui.
Tưởng Niệm
Kính dâng giác linh Ni Sư Hải Triều Hạnh
Tịnh xá Cát Tường nơi tạm trú
Chiếc vàng y tự tại thong dong
Chí xuất gia tròn nguyện với lòng
Noi gương Phật tùy duyên hóa độ
Nguồn cội hiếu tạc lòng luôn ghi nhớ
Ơn Mẹ Cha không chút phai mờ
Cù lao giáo dưỡng tôn thờ
Huyên đường vắng bóng ai ngờ được đâu
Rồi từ đó ẩn sâu tu niệm
Sống một mình cho tiện đường tu
Tuy là thân phận nữ lưu
Chí thời cao cả đường tu đạt thành
Lão bệnh tử một đàng khó tránh
Thân vô thường khác tợ chiêm bao
Thân gầy hình ốm xanh xao
Tâm luôn kiên định vượt bao khổ nàn
Thân huyễn mộng gởi về cố quốc
Chốn cội nguồn sư đệ bên nhau
Hương Sen tình nghĩa trước sau
Duyên trần đã mãn nhập vào Tánh không
Trăng tròn khuyết giống như sương tuyết
Sáu mươi năm trụ thế với đời
Nêu cao chí nguyện tuyệt vời
Xuất trần thượng sĩ độ đời trầm luân
&&&
Ni dung phẩm hạnh rạng ngời
Sư nghi trì giới độ đời trầm luân
Hải hà khắp cõi thế nhân
Triều âm vang tiếng ân cần kệ kinh
Hạnh tu gương mẫu chúng sinh
Cát đằng nương tựa cội tùng vững kiên
Tường vân một đóa hương liên
Tịnh nhàn lạc cảnh đình tiền nở hoa
Thất an trong cõi Ta bà
Tùy duyên cảm hóa ruột rà thương nhau.
Một Cõi
Biển cả, ngàn sông gió gọi đùa
Bầu trời yên tĩnh chẵng tranh đua
Mảnh trăng lơ lửng nào ai hái
Một cõi đi về đất có vua
Nắng dọi lá xanh ở những cành
Nắng vàng xanh lá khó phân tranh
Làm sao tách biệt màu xanh nắng?
Nắng lá xanh kia chỉ một cành
Biển vắng đò đưa khách gọi mời
Vắng đò khách gọi chẳng ai ơi!
Khách đò bặt dấu nhưng còn biển
Ai biết biển kia chỉ có trời.
Trăng bóng in sâu nước biển dài
Trăng đùa với nước lắm vui thay!
Nước trăng nào khác phân đôi ngã
Trăng nước, nước trăng vượt tháng ngày
Túi rách
Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai
Nếu còn luận giải dong dài
Chỉ là túi rách ăn mày đó thôi!
Trò hý luận bao đời chấm dứt
Rắn thêm chưn vẽ mãi không dừng
Thêm đầu chi nữa hãy ngưng
Cành mai ló dạng tưng bừng nở hoa.
Hình với bóng ngày dài trong mộng
Bóng với hình luôn động nghĩ suy
Vượt ngoài cương tỏa thị phi
Bầu trời vắng lặng tư nghì bặt tăm.
Hương Trà
Trong nhà có chủ tìm đâu nữa
Lặng lẽ an nhiên chỉ uống trà
Hương vị trà thơm ngàn thế giới
Một là tất cả chẳng đâu xa
Hơn thua tranh chấp trò nhảm nhí
Chết ngợp đắm chìm bởi cái ta
Thế giới bao la đầu hạt cải
Ngại gì bọt biển với phong ba.
Không Trong Không Ngoài
Nơi nào chẵng có trời xanh
Tìm chi trong cõi mái tranh che đầu
Ngàn tia nắng dọi đâu đâu
Muôn màu cảnh vật một màu nắng thôi
Đến đâu cũng thấy biển trời
Hơn nhau tranh chấp ngàn lời rỗng không
Sao bằng cuộc sống thong dong
Đi về một cõi "không trong không ngoài"
Mục Lục
1. Hồi tưởng những mùa an cư.
2. Phù vân không khứ lai.
3. Tuổi thơ và ngày xuân
4. Giọt mưa mùa hạ
5. Phật Đản và niềm tin
6. Một cái nhìn về Phật đản
7. Một vài suy niệm về ngày Vu Lan
8. Chuyện bên lề Phật Đản
9. Vu Lan và tuổi thơ
10. Ngũ uẩn giai không.
11. Cây gậy trong nhà Thiền
12. Vu Lan nhớ bạn
13. Một vài nhận xét về bản văn Kinh Vu Lan
14. Phỏng vấn chuyến đi Perth
15. Lý Nhân Quả Qua Ca Dao Tục Ngữ
16. Vài Nét Về Đại Tòng Lâm Phật Giáo
17. Đào Mồ Xác Nghiệm
18. Hoa Vạn Thọ
19. Lời Chúc Đầu Năm
20. Hướng Về Phật Đản
21. Chuyến viếng thăm đảo Galang
22. Hiếu Đạo
23. Thân phận của trẻ mồ côi
24. Mùa Sen Nở
25. Phỏng Vấn Viếng Thăm Trại Tù Nữ
Hồi Tưởng Những Mùa An Cư
An cư là một truyền thống lâu đời của Phật giáo. Truyền thống nầy có từ thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế. Tuy nhiên, đối với Phật giáo Phát triển trên hình thức có khác hơn thời Phật. Bởi Tăng đoàn thời Phật nuôi sống bằng cách đi xin ăn. Cho nên Tăng đoàn thời Phật gọi là khất sĩ. Đối với các nước Phật giáo Nguyên Thủy thì Tăng đoàn vẫn còn duy trì truyền thống khất thực nầy. Phật giáo khác hơn các tôn giáo khác là ở chỗ, Phật giáo không có thiết lập giáo điều định chế sẵn dựa theo chủ quan của vị giáo chủ, mà mọi định chế của Phật giáo chỉ xuất hiện sau khi Tăng đoàn đã được thành lập. Những mùa an cư thời Phật đã được quy định phần lớn là dựa vào thời tiết và theo tinh thần giới luật. Bởi mùa mưa, còn gọi là vũ kỳ là mùa mà các loài côn trùng sinh sôi nẩy nở. Vì không muốn thấy những loài sinh vật nầy bị chết dưới bàn chân dẫm đạp của mình, nên Phật ra lệnh cho Tăng đoàn phải quy tụ lại một trú xứ để cấm túc an cư. Đó là do lòng từ bi sâu rộng của đức Phật.
Noi theo truyền thống đó, hằng năm, Tổ Đình Phước Huệ đều có tổ chức cho chư tăng, ni trong tông môn quy tụ về Tổ Đình để an cư tu học trong ba tháng. Trong suốt thời gian an cư, chư tăng, ni trong hàng tông môn đã được cố Đại lão Hòa thượng thượng Phước hạ Huệ đều trực tiếp hướng dẫn chỉ giáo. Vì Ngài nguyên là Tông Trưởng của Tổ Đình Phước Huệ. Từ trước cho tới khi Ngài viên tịch, không có mùa an cư nào mà vắng bóng Ngài. Dù già yếu trọng tuổi sức khỏe kém, nhưng Ngài vẫn luôn có mặt đều đặn trong những giờ giảng dạy do Ngài phụ trách. Nhờ sự tận tâm hướng dẫn chỉ giáo nhắc nhở của Ngài mà chư tăng, ni luôn nỗ lực tinh tấn tu học.
Riêng tôi, nhớ lại gần mười năm qua không có mùa an cư nào mà tôi không phụ lực tiếp sức với Ngài. Gần tới mùa an cư, Ngài nhắc nhở chúng tôi nhớ về Tổ Đình để giúp hướng dẫn cho chư tăng, ni tu học. Là đệ tử tất nhiên, tôi phải vâng theo lời Ngài dạy. Vì vậy kể từ mùa an cư kiết đông năm 2003 đến nay (2012) không mùa an cư nào tôi vắng mặt. Chỉ có năm 2005, tôi bị giải phẫu xương sống nên mới vắng mặt một kỳ đó thôi. Trong khi tôi nằm dưỡng bệnh tại tịnh thất của tôi, Ngài và thầy Phước Hựu có đến thăm. Lúc đó, gần tới ngày an cư, nên tôi kính trình với Ngài xin phép Ngài được tác bạch tùy thuận an cư. Ngài hứa khả và bảo tôi cứ lo dưỡng bệnh cho khỏe đến khi nghỉ Hè (holiday), Phước Thái lên phụ giúp khóa tu xuất gia ngắn hạn. Tôi nói, chừng đó khỏe con sẽ lên phụ giúp với Hòa thượng. Dù là một đệ tử, nhưng Ngài đối xử với chúng tôi như là một vị giáo thọ ở Tổ Đình Phước Huệ. Không có mùa an cư nào mà Ngài không bảo Thầy Phước Đạt với tư cách là một Tri Sự Tổ Đình đạt thơ mời tôi. Đó là điều mà chúng tôi luôn khắc ghi không bao giờ quên.
Mỗi lần lên, có dịp, Ngài gọi tôi đến phương trượng của Ngài để bàn bạc về chương trình giảng dạy cho học chúng. Phải nói Ngài rất quan tâm lo cho các đệ tử. Ngài thường bảo tôi: “Phước Thái nên soạn chương trình sắp xếp cho các môn học thích hợp với trình độ của học chúng. Thầy biết trong học chúng có nhiều trình độ chênh lệch, tuy vậy, mình nên chú ý nhiều đối với các vị tương đối còn trẻ tuổi, để cho họ có thêm kiến thức về giáo lý cũng như về các môn học khác như: văn học, sử học, huấn luyện diễn giảng và hành chánh v.v… Đó là điều thầy rất mong mỏi kỳ vọng vào họ để sau nầy họ có thể gánh vác những công tác Phật sự làm lợi ích cho chúng sinh”. Chính nhờ động lực khuyến tấn của Ngài, mà chúng tôi đã cố gắng biên soạn hoàn thành trọn bộ bốn quyển Kinh Pháp Cú Song Ngữ Chú Giải. Cứ mỗi mùa an cư, tôi biên soạn một cuốn để đem ra hướng dẫn giúp cho chư tăng, ni học chúng. Nhờ đó mà họ có thêm kiến thức căn bản về Phật Pháp.
Trong chương trình giảng dạy, thường là Ngài đảm trách hai buổi, tuy nhiên, khi nào vắng người hướng dẫn, thì Ngài thế vào. Ngoài ra, sau những giờ công phu sáng, tất cả học chúng già trẻ đều vân tập ở phương trượng để cung an sức khỏe của Ngài. Nhân đó Ngài giảng dạy thêm qua những kinh nghiệm trong cuộc đời tu học của Ngài. Đồng thời, Ngài cũng dẫn những lời Phật, Tổ dạy trong kinh điển đem ra trình bày cho học chúng, để mọi người lấy đó làm tấm gương soi sáng trên bước đường tu học. Đó là những dòng sữa ngọt ngào mà Ngài luôn quan tâm tưới tẩm cho mọi người. Chính nhờ những dòng sữa nầy mà các hàng đệ tử trong tông môn ngày càng tăng trưởng pháp thân huệ mạng. Đó là một ân đức quá cao sâu lớn lao thật không sao nói hết.
Đặc biệt mùa an cư năm nay (2012), tôi có đề nghị với Thượng tọa Thích Phước Tấn trụ trì chùa Quang Minh nên cho quý liên hữu trong đạo tràng Quang Minh thọ bát hằng tuần vào mỗi ngày chủ nhật. Thầy rất hoan hỷ hứa khả. Vì vậy, nên tôi chỉ đi lên xuống Phước Huệ chớ không có mặt thường xuyên như những năm trước. Sau khi làm lễ tác pháp an cư, chúng tôi ở lại Tổ Đình một tuần để giúp hướng dẫn cho đại chúng tu học. Qua một tuần tôi về lại Melbourne thì có Thượng tọa Thích An Chí từ Na Uy qua để hướng dẫn giúp cho chư tăng, ni được mười ngày. Sau đó, chúng tôi trở lên hướng dẫn tiếp. Ngoài ra, còn có pháp hữu Chúc Thanh hai tuần giúp cho một buổi tối vào mỗi thứ sáu. Tuy vắng bóng Hòa thượng và ít người giảng dạy như những mùa an cư trước kia, nhưng tinh thần tu học của đại chúng vẫn tiến triển đều đặn không có gì sa sút. Những lúc không có người hướng dẫn, thì học chúng vẫn đến lớp mở băng dĩa mà do Hòa thượng đã giảng giải trong các mùa an cư trước kia. Mỗi người lắng nghe theo dõi những lời giảng dạy của Ngài, rồi sau đó nếu có vị nào chưa hiểu rõ thì nêu ra những câu hỏi để cùng nhau trao đổi bàn thảo giải đáp. Nhờ vậy mà học chúng tăng thêm phần lợi ích trong sự học vấn. Đó cũng là cách ôn nhớ lại những gì mà Ân Sư đã hướng dẫn chỉ dạy trong những mùa an cư qua. Phải chăng nhờ đó mà tinh thần tu học của chư tăng, ni càng thêm dũng mãnh và đạo lực mỗi ngày càng thăng tiến. Dù Thầy đã không còn nhưng những lời dạy của Thầy vẫn còn đó. Những lời giáo huấn của Thầy như đã ăn sâu vào trong tâm khảm của mỗi người. Tuy không có Thầy trực tiếp chỉ dạy, nhưng không phải vì thế mà tinh thần tu học đoàn kết thương yêu đùm bọc giúp đỡ cho nhau trong thâm tình huynh đệ lại bị sút giảm đi. Ngược lại, tôi thấy tinh thần tu học và tình huynh đệ của mọi người lại càng tiến triển thắt chặt gắn bó nhau hơn. Chứng minh trong mùa an cư lần đầu không có Thầy mà mọi người vẫn coi như là có Thầy bên cạnh luôn nhắc nhở không khác gì trong những mùa an cư của những năm qua. Quả đúng với câu người xưa nói: “Cung kính bất như phụng mạng”. Thật vậy, cung kính không bằng vâng lời làm theo.
Tuy là vậy, nhưng tôi đoán biết quý vị học chúng khi vào trong lớp học cảm thấy như thiếu vắng đi một điều gì đó mà chỉ có tận thâm tâm của mỗi người mới thầm cảm nhận mà thôi. Bao nhiêu kỷ niệm êm đềm và những âm vang của ngày nào như còn đọng lại văng vẳng bên tai. Giọng nói trầm ấm thanh tao nhẹ nhàng chứa đựng đầy lòng từ bi vị tha nhân ái và những nụ cười cởi mở hoan hỷ trên môi của một bậc Thầy khả kính như vẫn còn đó. Hình ảnh từng bước đi khoan thai ung dung chậm rãi thanh thoát của một con Người hiền hòa đức độ mỗi khi lên bục giảng vẫn còn in đậm nét trong tâm tưởng của mỗi người. Có những lúc đi ngang qua phương trượng của Ngài tôi cứ tưởng là Ngài vẫn còn tịnh tu trong đó. Nói thế, không có nghĩa là tôi sống trong ảo tưởng. Tôi đang sống với thực tại và chính vì đang sống với thực tại nên tôi thấy Ngài vẫn còn hiện hữu có mặt khắp nơi. Những lời Ngài dạy vẫn luôn sống dậy trong tâm khảm của mỗi đệ tử.
Phải chăng tăng, ni học chúng cũng nhờ hưởng những dòng sữa ngọt ngào do Ngài đã dày công tưới tẩm nên hôm nay dù vắng bóng Ngài ở Tổ Đình, nhưng mỗi người vẫn khép mình tu học nghiêm chỉnh trong ba tháng an cư như lúc Ngài còn có mặt. Mỗi người càng tinh tấn nỗ lực tu học nhiều hơn. Đó là một tâm cảm thể hiện những gì mà họ đã thọ ân và họ đang trả ân cho Thầy Tổ bằng cách là nỗ lực tiến tu. Tôi nhìn thấy mỗi người đều gia công hết lòng cặm cụi miệt mài trong việc tu học. Tất cả vẫn giữ thời khóa đều đặn. Thời khóa tụng niệm hằng ngày vẫn giữ đúng như những mùa an cư trước đây. Mỗi người tự ý thức và tận tình giúp đỡ lẫn nhau. Vị nào trọng tuổi hay đau yếu thì ở tại phòng niệm Phật. Khi còn Hòa thượng thì các vị đó cũng vẫn giữ như thế. Đồng thời, những công việc Phật sự của Tổ Đình quý vị đó vẫn xúc tiến điều hành công việc một cách trôi chảy đều đặn không có gì khó khăn trở ngại. Bởi tất cả đồng tâm hiệp lực quyết chí làm sống dậy tinh thần của một người đệ tử khi không có mặt của Thầy.
Ngồi ghi lại những điều nầy để hồi tưởng lại một vài nét kỷ niệm của những mùa an cư đã qua. Đó là những kỷ niệm thật êm đềm lặng lẽ như dòng nước chảy trôi trong nguồn suối yêu thương an vui tươi mát thắm đượm tràn đầy của tình nghĩa thầy trò. Trong niềm hoài cảm nhớ thương đó, tôi không khỏi bùi ngùi cảm động khi nhớ lại những lời ân cần thức nhắc khuyên bảo sách tấn tu học của Ngài trong sau mỗi kỳ đại chúng tác pháp an cư. Nhớ lại mùa an cư kiết đông năm rồi, Ngài vẫn còn mạnh khỏe chứng minh nói những lời tâm tình thức nhắc cho các đệ tử bằng những kinh nghiệm trải dài trong suốt quá trình tu học của Ngài. Với một thân thể gầy yếu cao tuổi, nhưng tinh thần của Ngài vẫn còn rất minh mẫn sáng suốt. Mỗi lời Ngài dạy như toát ra cả một sức sống đầy năng lực trong tinh thần hướng thượng để mong mọi người chóng đạt thành sở nguyện.
Lời Thầy di huấn còn đây
Ngàn sau vẫn nhớ đắp xây đạo tình
Sá chi vinh nhục, nhục vinh
Gương xưa còn đó lặng nhìn trời trong
Bầu trời Viên Giác thong dong
Tịnh tâm lạc cảnh một lòng khắc sâu
Bóng Thầy chẳng định nơi đâu
Tùy duyên độ chúng chóng mau thoát nàn
Noi gương nếp sống thanh nhàn
Ung dung tự tại một đàn chim bay
Không gian vượt cả tháng ngày
Hoa mai rụng hết cành mai vẫn còn.
Phù Vân Không Khứ Lai
Thời gian âm thầm lặng lẽ trôi qua thật nhanh, mới đó mà đã tròn một năm. Lật bật đã đến ngày kỵ giỗ tiểu tường của cố Đại lão Hòa thượng Tông Trưởng Tổ Đình Phước Huệ. Để tưởng niệm ân đức sâu dày của một bậc Thầy đã dày công giáo hóa, các hàng đệ tử xuất gia và tại gia trong tông môn của Tổ Đình, đã đồng tâm hiệp lực tổ chức ba ngày đại lễ kỵ giỗ tiểu tường thật vô cùng trang nghiêm và trọng thể. Thời gian đã được Ban tổ chức quyết định vào các ngày: 17, 18, 19, 20, tháng 1 năm 2013, tức nhằm các ngày mùng 6, 7 ,8 , 9, tháng chạp năm Nhâm Thìn. Cần nói rõ, vì là năm nhuần, nên phải cúng trước một tháng. Thay vì là ngày mùng 6 tháng giêng năm Quý Tỵ, thì lại bắt đầu cúng vào ngày mùng 6 tháng chạp năm Nhâm Thìn. Riêng ngày mùng 6, đặc biệt chỉ có nội bộ trong tông môn thiết lễ tụng kinh và cung tiến Giác linh Hòa thượng vào buổi ngọ trưa mà thôi. Đến 10 giờ sáng của ngày 18/1/13/ tức nhằm ngày mùng 7 tháng chạp năm Nhâm Thìn mới chánh thức vào đám.
Sự sống chết của một đời người in như giấc mộng. Tuy biết là giấc mộng, nhưng có mấy ai thoát khỏi tử sanh! Đến có mặt với đời thì người ta vui, nhưng khi từ giã ra đi thì người ta không muốn. Sanh thì vui mà tử thì buồn. Đó là tâm bịnh chung của chúng sanh. Thiền Sư Trì Bát đời Lý cũng đã từng nói:
Hữu tử tất hữu sanh
Hữu sanh tất hữu tử
Tử vi thế sở bi
Sanh vi thế sở hỷ
Bi hỷ lưỡng vô cùng
Hốt nhiên thành bỉ thử
Ư chư sanh tử bất quan hoài
Án tô rô tố rô tất rị.
Tạm dịch:
Có tử ắt có sanh
Có sanh ắt có tử
Chết là người đời buồn
Sanh là người đời vui
Buồn vui hai không cùng
Chợt vậy thành kia đây
Đối sanh tử chẳng để lòng
Án tố rô tố rô tất rị
Theo quan niệm thông thường của người đời cho rằng, sống và chết là hai phạm trù sinh diệt đối đãi. Sống và chết là hai thực thể khác biệt. Chết để rồi sống và sống để rồi chết. Nói cách khác, diệt để rồi sinh và sinh để rồi diệt. Nhưng đối với người đạt đạo thì, sống và chết hay sinh và diệt chỉ là những hiện tượng ảo ảnh của một thực tại. Như biển là một thực tại của sóng và nước. Người có cái thấy vượt ngoài đối đãi sinh diệt như thế, thì đối với việc sống hay chết họ không còn gì phải bận tâm lo âu sợ hãi. Tuy nhiên, đối với hàng phàm phu tục tử chúng ta, vì còn kẹt trong cái phạm trù khái niệm sinh diệt, nên mãi tạo nghiệp thọ khổ. Vì vậy, nên chúng ta cứ mãi bị trầm luân nổi trôi trong biển đời sanh tử chịu nhiều tang thương hệ lụy.
Biển thì lúc nào cũng yên lặng, nhưng nó không yên lặng là bởi do gió thổi động tạo thành sóng. Khi đang nổi thành sóng thì ta thấy dường như mặt biển có chao động, nhưng kỳ thật thì mặt biển không phải vì thế mà mất đi cái thể tánh yên lặng. Tuy không mất đi, nhưng lúc đó chúng ta chỉ thấy sóng chớ không thấy được mặt biển. Nhìn sâu sắc hơn, chúng ta thấy toàn sóng cũng chính là nước. Ngược lại, trong nước đã có chứa sẵn mầm sóng. Như vậy, sóng và nước là hai thực thể bất khả phân ly. Nói hai thì không đúng mà nói một cũng không được. Sống không ngoài chết và chết cũng không ngoài sống. Nói cách khác phiền não không ngoài Bồ đề và Bồ đề cũng không ngoài phiền não mà có. Đó là ý nghĩa của lý “Pháp Môn Bất Nhị” trong Kinh Duy Ma và cũng là lý “Tương Tức, Tương Nhập” trong văn hệ tư tưởng siêu việt của Kinh Hoa Nghiêm. Đứng về mặt hiện tượng, thì thấy có chết, nhưng đứng về mặt bản thể thì nào có chết chóc gì đâu. Như sóng tan về biển, sóng có mất đi đâu. Nếu còn kẹt vào khái niệm sống chết thì, chúng ta không thể nào thấy được cái “tánh không” sống chết. Cũng như khi kẹt vào hiện tượng của phiền não thì làm sao ta thấy được cái tánh thể Bồ đề? Bồ đề và phiền não là hai thực thể không thể ly khai ra được. Tuy nhiên, Khi tức giận nổi lên, thì ta không thể nói đó là Bồ đề, nhưng khi tức giận không còn thì cái “tánh không giận” (trước khi khởi giận) sẽ hiện bày. Tánh không giận là Bồ đề còn giận là phiền não. Đó là lý tương tức tương nhập, mà ta không thể tách rời ra được. Nên nói phiền não tức Bồ đề, sanh tử tức Niết bàn là vậy. Nói một là sai mà nói hai thì không đúng. Bởi vậy, cuối bài kệ Ngài Trì Bát chỉ nêu ra câu chú: Án tố rô tố rô tất rị. Nhiều người ngộ nhận cho rằng sao Ngài tu Thiền mà còn tụng chú? Câu chú đó nói lên cái thấy vượt ngoài đối đãi. Bởi câu chú đó không cắt nghĩa được. Không cắt nghĩa tất nhiên, là bặt dòng suy tư khái niệm. Chính đó mới nhận ra cái không có sống chết.
Một bài kệ khác cũng nêu ra về ý nghĩa nầy:
Hữu sanh hữu tử hữu luân hồi
Vô sanh vô tử vô khứ lai
Sanh tử khứ lai đô thị mộng
Tốc phao trần thế thượng liên đài.
Tạm dịch:
Có sanh có tử có luân hồi
Không sanh không tử không tới lui
Sanh tử tới lui đều là mộng
Chóng ly trần thế thượng liên đài
Sự hành hoạt của các vị Bồ tát tới lui trong lòng cuộc đời để độ sanh, khác nào như những đám mây nổi qua lại trong bầu trời trong sáng thong dong tự tại. Đến và đi trong âm thầm lặng lẽ tùy duyên sinh khởi. Đi mà không có tướng đi, đến cũng không có tướng đến. Đến và đi chỉ là hai phạm trù sinh diệt trong thế giới hiện tượng vô thường. Một bậc chân tu khi đã nhận rõ cuộc đời là huyễn mộng, thì không có gì làm trở ngại bước tiến đến và đi của các ngài. Tùy duyên đến và tùy duyên đi. Vạn tượng chỉ là hoa đốm giữa hư không. Với cái nhìn Tục đế hay Thế giới tất đàn, thì không thể phủ nhận sự đến và đi của các ngài. Đến để có mặt với cuộc đời, có mặt trong hữu tướng nhưng hành hoạt Phật sự trong vô tướng. Do đó, nên không có gì làm trở ngại ý chí độ sanh của các ngài. Vì các ngài có một trái tim bao dung vị tha rộng lớn, chứa đựng sự có mặt của tất cả muôn loài.
Sự có mặt với cuộc đời của cố Hòa thượng Tông Trưởng là một chặng đường trong vô số chặng đường hành hoạt vị tha của Bồ tát đạo. Người đến trong lòng nhơn loại để làm lợi ích cho chúng sinh. Người đi cũng là một sự tiếp nối trong bước hành trình độ sanh kế tiếp - vô tận. Mây thì có bay qua bay lại, nhưng bầu trời nào có động tịnh chi đâu. Động hay tịnh là do cái nhìn vọng kiến điên đảo chấp trước của chúng sinh. Không phải vì mây bay mà bầu trời không có. Bầu trời trước sau vẫn là bầu trời trong tạnh. Bầu trời thì bao la rộng khắp trùm cả thái hư, không vật gì ngoài nó. Sao ta cứ nhìn vào đám mây tới lui mà quên mất đi cái bầu trời bao la yên lặng trong sáng kia? Như thế là ta đã bị dính kẹt vào đám mây rồi. Ngay đám mây đó cũng không có mất đi đâu. Chẳng qua là mây biểu hiện dưới một hình thức khác thôi. Mây sẽ trở thành những hạt mưa. Và những hạt mưa chính là tiếp nối của đám mây. Thiền quán sâu sắc hơn thì, ta sẽ thấy mây cũng không có đến và đi. Đến và đi đó là do cái thấy của ta bị kẹt vào đám mây. Tự thể của đám mây cũng không có tới lui qua lại. Mà mây chỉ là trong thế giới ảo tưởng của dòng tâm thức suy luận khái niệm đặt định của chúng ta mà thôi.
Có cái nhìn sắc bén như thế, thì sự đến và đi của ta không có gì phải bận tâm lo lắng và cũng không có gì phải sợ hãi mất đi. Bọt tan về biển, bóng đèn điện xài lâu thì bị đứt, nhưng dòng điện nào có mất đi đâu. Khi nhìn thấy bọt biển tan, bóng đèn đứt, thì ta lại hốt hoảng lo âu và sợ hãi, đó là vì ta chưa thấy được cái tự thể của bọt biển và của bóng đèn. Khi thấy được cái tự thể bất sanh bất diệt của chúng rồi thì, sự lo âu sợ hãi của chúng ta sẽ lập tức tan biến ngay.
Tuy nhiên, vì chưa đạt được cái thấy vô tướng đó, nên chúng ta cũng tùy duyên theo dòng Tục đế mà thi thiết lễ nghi trong tình nghĩa Thầy trò cho phải đạo. Đó cũng chỉ là phương tiện thể hiện trong thế giới giả lập nhị nguyên, trong mối tương duyên theo nguyên lý đạo đời. Đây cũng là thể hiện trong mối thâm tình báo đáp ân sâu của đạo làm người. Mang hình thức của một con người trần tục đi vào cuộc đời làm lợi lạc cho quần sanh. Như thế đời không ngoài đạo và đạo cũng không ngoài đời. Đạo và đời là hai thực thể bất khả phân ly. Nước trong và nước đục đâu phải là hai, nhưng nếu nói là một cũng không đúng. Sự hành hoạt của một vị Bồ tát đi vào cuộc đời cũng thế. Cư trần bất nhiễm trần là yếu lý của một con người hành hóa hòa quang đồng trần như đóa hoa sen ngát tỏa hương thơm mọc lên từ nơi bùn lầy ô uế.
Suốt cuộc đời hành hóa của cố Đại lão Hòa thượng Tông Trưởng là một đánh giá cao đẹp cho sự thăng hoa trong tiến trình tu chứng và nhập thế độ sanh. Một tiến trình chỉ biết hy hiến đời mình để phục vụ cho đạo pháp và nhơn sinh. Từ khi xuất gia vào đạo cho đến khi viên tịch, là một chuỗi dài thời gian thách thức trải nghiệm, đủ để hoàn thành sứ mệnh của một sứ giả Như Lai: “Tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”. Vì đó là bản nguyện của người xuất gia trong vai trò trách vụ hoằng pháp lợi sinh. Nhìn lại, suốt đoạn đường qua, Ngài đã dấn thân làm Phật sự ở các nơi, tùy theo nhu cầu của chúng sinh và sự cần đến của đạo pháp. Ngài đã thực hiện đúng theo lời nguyện:
“Chỗ nào chúng sanh cầu con đến
Nơi nào đạo pháp cần con đi
Chẳng nại gian lao
Chẳng nài khó nhọc”.
Và Ngài cũng đã thể hiện đúng như lời Cổ Đức đã dạy: “Thật tế lý địa bất thọ nhứt trần, vạn sự môn trung bất xả nhứt pháp”. Nghĩa là đến chỗ cứu cánh cùng tột thì không thọ một mảy may trần cảnh, vì “bản lai vô nhứt vật”, nhưng đối với cánh cửa quyền môn phương tiện, thì mọi Phật sự dù lớn hay nhỏ, Ngài quyết không thể bỏ qua. Được thế do đâu? Chính là do tấm lòng bi nguyện độ sanh tha thiết mà Ngài đã noi theo tấm gương công hạnh cao cả của chư Phật Tổ đã làm. Vì thế, nên trọn đời làm Phật sự mà chưa bao giờ Ngài biết than van mỏi mệt.
Có đôi lúc thấy Ngài tuổi già sức yếu, mà vẫn còn vân du đó đây gánh vác nhiều công việc Phật sự, nên các đệ tử trong tông môn nóng lòng sốt ruột thành kính thỉnh Ngài nên an dưỡng nghỉ ngơi cho khỏe. Ngài nói: “Người xuất gia phải lấy việc độ sanh làm trên hết, ngày nào mà chúng sanh còn đau khổ, thì ngày đó mình vẫn còn có trách nhiệm. Thượng hoằng hạ hóa đó là bổn phận trách nhiệm của người xuất gia. Khi nào không còn làm việc được nữa thì thôi, còn có chút sức khỏe thì vẫn còn phải làm”. Lời nói đó thật là tràn đầy lòng từ bi vị tha nhân ái của một bậc Thầy suốt đời chỉ biết tận tụy làm lợi ích cho chúng sanh.
Thật vậy, trải qua nhiều giai đoạn theo dòng biến chuyển của thời gian, Ngài đã đảm nhận gánh vác nhiều trọng trách, do các bậc Thầy Tổ giao phó. Nhưng làm mà không thấy có cái Ta sở hữu trong đó. Làm với tinh thần bất vụ lợi, vô trụ tướng, không dính kẹt vào bất cứ thứ gì. Tuy hiện tướng là có tất cả để lại cho người đương thời cũng như các thế hệ tương lai hưởng dụng, nhưng Ngài luôn coi đó chỉ là những thứ giả tướng hữu vi sinh diệt vô thường. Đã thế, thì không có một vật thể nào làm lay động lòng tham chấp của một con người chỉ biết xả thân cầu đạo, coi việc làm của mình như trăng dưới nước, như bóng trong gương. Ra đi bằng một tâm thái thư thả nhẹ nhàng hòa nhập trong bầu trời tự do giải thoát. Đúng như lời Ngài đã từng thức nhắc trong chúng: “Đủ duyên thì làm, hết duyên thì đi. Chúng ta đến cũng theo duyên, mà đi cũng theo duyên. Còn phút giây nào có mặt với đời thì các vị hãy ráng cố gắng làm lợi ích cho mình và người. Tự lợi, lợi tha đó là công hạnh của Bồ tát. Song tùy duyên nhưng phải bất biến, có thế, thì mới không luống uổng phí một đời xuất gia tu hành của mình, hạnh nguyện của người xuất gia thật cao cả không phải tầm thường”. Những dư âm của lời dạy đó như còn vang đọng lại trong tâm khảm của mỗi người. Một lời dạy tuy ngắn gọn, nhưng chứa đựng cả tấm lòng bi mẫn đối với tha nhân và mở rộng cõi lòng thênh thang tự tại trong bầu trời tự do giải thoát.
Hôm nay, chúng ta thiết lễ tưởng niệm đến ân đức hy sinh cao cả của Ngài, không ngoài mục đích nhằm để báo đáp thâm ân phần nào trong muôn một. Đó là đạo lý căn bản của con người, nhớ về nguồn cội cần phải có. Bởi tri ân và báo ân là hai đức tánh căn bản của đạo làm người. Tuy nhiên, nếu chỉ báo ân bằng cách phô trương qua những lễ nghi hình thức không thôi, thiết nghĩ, cũng chưa đủ, mà chúng ta còn cần phải thực hiện những gì mà Ngài đã từng thức nhắc chỉ dạy. Chỉ có thế, mới thực sự là người khéo biết tri ân và báo ân trong tinh thần của một người đệ tử. Tuy tất cả chỉ là hình thức, nhưng nếu không có hình thức thì cũng không ai biết được cái phẩm chất của nội dung là gì. Hình thức bên ngoài chỉ là biểu hiện những gì nội dung bên trong muốn nói. Nhưng, tất cả, rốt lại cũng chỉ là ảo ảnh vang bóng mà thôi.
Với cái nhìn của người đạt đạo như Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác thì, “Ngũ ấm phù vân không khứ lai, Tam độc thủy bào hư xuất một”. Đã thế thì sự đến và đi cũng chỉ là trò đùa hý luận hư ảo. Tuệ Trung Thượng Sĩ, một Thiền sư cư sĩ cự phách nổi tiếng đời Trần, khi có người hỏi về vấn đề sanh tử, Ngài trả lời bằng hai câu thơ: “Tùng không túng sử song phi cốc, cự hải hà phòng nhứt điểm âu”. Đại ý nói, hai vầng nhật nguyệt so với bầu trời bao la rộng khắp thì chẳng có nghĩa lý gì. Cũng như một bọt nước chút xíu nổi trên biển mà so với biển cả đại dương bao la thì thật chẳng có ngại chút nào. Sống và chết chẳng khác nào như hai vầng nhật nguyệt và bọt biển. Như vậy, chúng ta không nên dính kẹt vào hai vầng nhật nguyệt và bọt biển kia mà hãy nhận lại cái bầu trời và biển cả bao la. Cũng thế, đừng dính mắc vào cái thân tứ đại nhỏ bé giả dối nầy mà quên mất đi cái thể tánh chơn thường hằng hữu nơi mỗi cá thể.
Nhân ngày thiết lễ kỷ niệm kỵ giỗ tiểu tường của Hòa thượng, con xin thành kính dâng lên Giác linh Hòa thượng, bằng tất cả tâm thành ngưỡng vọng tri ân tưởng niệm. Kính mong Ngài chứng minh cho tấm lòng chân thật của con. Và con cũng xin thành tâm thắp nén hương lòng cầu nguyện Giác linh của Ngài:
Cao đăng thượng phẩm
Tốc chứng vô sanh
Bồ đề quả mãn
Hồi nhập Ta bà
Phổ độ quần sanh
Đồng thành Phật đạo.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ tát Ma ha tát
Tuổi Thơ Và Ngày Xuân
Tuổi thơ của tôi không được cái may mắn như các tuổi thơ khác, vì họ còn có đầy đủ tình yêu thương của cha mẹ. Còn tôi, lúc vừa tròn ba tuổi, thì tôi đã bất hạnh mất đi cái tình yêu thương cao quý của người cha. Với cái tuổi đầu đời còn quá thơ ngây trong trắng đó, làm sao tôi có thể biết được hình hài thân xác mặt mày của cha tôi. Từ khi cha tôi mất, tôi được mẹ tôi thương yêu nuông chiều rất mực, vì tôi là đứa con trai út trong gia đình. Tôi có cả thảy sáu anh chị em, nhưng mất hết ba người. Nghe mẹ tôi kể lại, người chị thứ tư của tôi mất khi chị ấy vừa tròn mười hai tuổi. Còn người anh thứ năm và thứ sáu của tôi cũng đã mất lúc lên năm lên sáu tuổi. Tất cả đều bị bịnh đau mà chết.
Thời đó, tức vào thập niên 1940, là thời kỳ chiến tranh giặc giã loạn lạc giữa Pháp và Việt Minh đánh nhau, nên gia đình tôi cũng như bao gia đình khác phải di tản đến nơi làng khác trú ẩn để được chút an ổn sinh sống. Thời gian nầy, tôi chỉ còn lại có hai người anh: Thứ hai và thứ ba. Cha tôi đã mất sau một cơn bạo bệnh cũng trong thời kỳ chiến tranh khói lửa loạn ly nầy. Từ đó, tôi sống bên cạnh mẹ và hai anh tôi. Nhưng người anh thứ hai của tôi cũng không có ở nhà. Anh đã thoát ly gia nhập vào đội ngũ thanh niên tiền phong để chống giặc Pháp. Thế là, trong gia đình tôi chỉ còn lại người anh thứ ba và mẹ tôi thôi. Ba mẹ con đùm bọc sống hui hút đạm bạc với nhau. Giữa thời buổi loạn ly thử hỏi làm sao mà có được nếp sống sung túc cho được? Ngoại trừ những người giàu có sẵn của mới có được nếp sống đầy đủ. Mẹ tôi tất tả ngược xuôi làm thân con cò lặn lội để nuôi con.
Cứ thế, theo dòng thời gian âm thầm trôi chảy, tôi được lớn lên trong vòng tay yêu thương của mẹ. Tuy mất cha, nhưng bù lại tôi còn có mẹ và anh. Anh tôi cũng yêu thương tôi lắm. Mẹ tôi cưng chiều tôi đến đổi khi tôi bị anh tôi trách phạt thì mẹ tôi la rầy anh tôi. Mẹ tôi lúc nào cũng bênh vực cho tôi, dù có lúc tôi bị lầm lỗi. Có lẽ mẹ tôi nghĩ, vì tôi không cha nên người mới cưng chiều tôi như thế. Được sự thương yêu nuông chiều của mẹ, tôi lại càng nũng nịu nhõng nhẽo nhiều hơn. Thậm chí đã 6, 7 tuổi đầu rồi mà tôi vẫn còn đòi mẹ phải bồng bế. Khi mẹ tôi bồng bế, thì mấy đứa bạn chế nhạo chê cười chọc quê tôi: “Ối cha! tụi mầy coi, cái thằng già đầu rồi mà nó còn nhõng nhẽo bắt mẹ nó phải ẵm bồng trên tay kìa”. Nghe chúng nói, chẳng những tôi không biết xấu hổ mà tôi còn căm ghét bọn chúng nữa. Bây giờ ngẫm nghĩ lại, tôi thấy thật là xấu hổ vô cùng, và tôi cũng thương nhớ mẹ tôi lắm! Tuy nhiên, lúc đó tôi cảm thấy rất sung sướng vì được mẹ tôi ẵm bồng trong niềm yêu thương đậm đà của mẹ.
Năm tôi được sáu tuổi là cái tuổi chập chững bước vào trường học. Mẹ tôi dẫn tôi đến trường để xin cho tôi nhập học. Đó là một ngôi trường làng cũ kỹ do dân làng xây dựng tạo nên. Một ngôi trường nghèo mái tranh vách lá xiêu vẹo và không rộng lớn lắm, chỉ đủ sức dung chứa khoảng vài mươi học sinh thôi. Ngày đầu tiên, tôi được mẹ tôi mua cho tôi một cuốn tập 50 trang và bút mực. Lớp tôi khoảng ba mươi đứa cùng trang lứa như tôi. Thầy dạy chúng tôi là một người đàn ông tuổi trạc ngoài bốn mươi. Ông nói tiếng Pháp rất giỏi. Có lần, một ông Tây vào trong lớp của tôi, hai người đối đáp qua lại với nhau bằng tiếng Pháp. Thầy giáo tôi rất khó và rất mẫu mực nghiêm khắc. Ông giữ đúng cung cách tác phong của một nhà giáo. Tôi nhớ có lần, một đứa bạn của tôi giỡn cười lớn tiếng làm ồn trong lớp, ông kêu lên bắt đứng khoanh tay và đánh cho ba roi. Bạn tôi khóc mếu máo và từ đó nó không còn dám làm ồn trong giờ học nữa. Hồi đó tôi rất sợ ăn đòn. Mẹ tôi chưa bao giờ đánh tôi một bạt tay hay một ngọn roi nào cả. Giận quá bà chỉ la rầy tôi thôi. Dù tuổi thơ có nghịch ngợm, nhưng cũng rất nhát đòn. Từ đó, tôi rất ngoan ngoãn chăm chỉ học hành không dám đùa giỡn trong lớp. Cái tuổi học trò hồn nhiên ngây thơ bao giờ cũng rất đẹp.
Cũng dạo đó, cứ mỗi lần nghe Tết đến, bọn trẻ chúng tôi mừng lắm. Tôi luôn háo hức trông cho ngày Tết mau đến. Với cái tuổi ngây thơ hồn nhiên đó, đâu có hiểu ý nghĩa Tết nhứt là gì. Chỉ biết ăn Tết là vui lắm, vì có đồ mới mặc chưng diện để khoe với chúng bạn, rồi còn nhận được các bao lì xì do người lớn tặng cho. Tôi còn nhớ, gần tới Tết mẹ tôi lo chuẩn bị đủ thứ. Ở quê, người dân nghèo ăn Tết tuy đơn giản, nhưng rất đậm đà tình nghĩa. Ba ngày xuân người ta ăn uống tiệc tùng vui chơi thỏa thích như để quên hết đi sự mệt nhọc. Suốt một năm dài người ta lam lũ làm việc miệt mài vất vả với những công việc đồng áng. Người có tiền hay không tiền ai cũng nghĩ đến ăn Tết cả. Người có tiền thì ăn uống sang trọng, mâm cao cỗ đầy, những thứ cao lương mỹ vị. Còn người không tiền thì cũng chạy vay nợ nần để ăn Tết, ít nhất cũng phải có vài mâm cơm để cúng kiến tổ tiên ông bà. Bởi Tết là một tục lệ cổ truyền nghiễm nhiên đã trở thành một truyền thống văn hóa cao đẹp lâu đời của người Việt. Người lớn thì lo chuẩn bị thức ăn và đồ vật bày biện trang trí trong nhà. Anh tôi năm nào cũng vậy, mẹ tôi giao cho anh phải chưng dọn bàn thờ trang nghiêm để cúng ông bà tổ tiên. Trên vách phía sau bàn thờ có treo bộ liễn và hai câu đối. Trên bàn thờ thì chưng hoa quả nhang đèn rất trang nghiêm sạch sẽ. Còn tuổi trẻ ngây thơ như tôi, thì chỉ biết xin tiền mẹ và đòi mua đồ mặc mà thôi. Tôi không thích ăn uống mấy, mà tôi chỉ thích mặc đồ đẹp và đi mừng tuổi để có được những cái bao đỏ lì xì. Chỉ có thế thôi!
Hằng năm, vào cái đêm đón giao thừa, bọn trẻ chúng tôi tụ tập nơi nầy, nơi kia để vui chơi. Chúng tôi bày ra nhiều trò chơi như đánh bài và chơi bầu tôm cá cọp v.v… Có khi chơi tới nửa đêm mà chúng tôi không biết buồn ngủ là gì. Mẹ tôi, dù rất thương yêu tôi, nhưng bà cũng rất nghiêm khắc. Bà cho tôi vui chơi với bạn bè chỉ tới nửa đêm là phải đi ngủ ngay. Bà nói, ngủ cho khỏe sáng sớm còn phải đi mừng tuổi ông bà. Hôm nào mê chơi thức hơi khuya thì bà la rầy bảo phải đi ngủ.
Sáng sớm ngày mồng một Tết, mẹ tôi thức dậy thật sớm, bà lo dọn dẹp và lo nấu thức ăn để cúng ông bà. Dù thức khuya, nhưng tôi cũng phải dậy sớm để lo mặc đồ mới. Khi mặc vào nhìn trong gương, tôi cảm thấy rất thích thú, vì chỉ có ngày Tết mình mới được chưng diện như thế nầy. Tôi vui mừng lắm, vì tôi được mẹ và anh tôi tặng cho tôi bao lì xì trước tiên. Nhưng trước khi tặng, mẹ và anh tôi bắt tôi phải mừng tuổi và chúc sao nghe được thì mới cho. Lời chúc mừng tuổi nầy, tôi cố học thuộc lòng để chúc cho mẹ, anh tôi và những cô bác họ hàng trọng tuổi khác. Tôi chúc thuộc lòng không một chút suy nghĩ. Câu chúc đầu tiên của tôi là: “Năm mới con kính chúc cho mẹ luôn được an vui mạnh khỏe đầu năm tới cuối năm, không có đau ốm bệnh hoạn chi cả. Câu chúc thứ hai là con kính chúc cho mẹ sống lâu trăm tuổi để con luôn được cận kề bên mẹ và lúc nào con cũng kính yêu thương mẹ, vì mẹ là tất cả của đời con”. Chúc xong, mẹ tôi chúc lại cho tôi luôn mạnh khỏe ngoan ngoãn học giỏi. Chúc xong, bà trao bao lì xì cho tôi. Tôi không ngờ lời cầu chúc ngây thơ của tôi năm nào mà nó đã trở thành sự thật. Một sự thật mà tôi vô cùng hạnh phúc là mẹ tôi sống tròn một trăm tuổi. Khi mất, mẹ tôi chỉ bệnh sơ sài rồi bà quy Tây.
Tôi còn nhớ, không có ăn Tết năm nào mà mẹ tôi không nấu bánh tét, bánh chưng. Vì ngày mồng một Tết là ngày ăn chay, nên mẹ tôi nấu chay cúng ông bà và cả nhà ăn chay luôn. Nhưng riêng tôi, thì chay mặn (nói đúng thì phải nói ăn mạng, tức giết mạng sống của loài vật để ăn) gì cũng nít hết. Vì là tuổi thơ, tôi chưa biết gì là ăn chay, ăn mặn. Mẹ tôi nói, tôi ăn chay đụng thì có. Nghĩa là đụng cái gì ăn cái nấy. Gặp chay thì ăn chay gặp mặn thì ăn mặn. Mẹ tôi lúc nào cũng tỏ ra nuông chiều tôi, nên tôi muốn gì bà cũng chiều theo. Mà tuổi thơ, đâu có ai bắt buộc phải ăn chay hay ăn mặn. Điều nầy, tùy theo sở thích và căn duyên của mỗi người.
Khi nhận được bao lì xì người lớn cho, tôi liền vội mở ra xem ngay. Ai cho mình nhiều tiền thì mừng lắm. Mà hồi đó, được năm đồng là mừng lắm rồi. Đâu có dễ gì được số tiền lớn như vậy. Được một đồng cũng là mừng rồi. Tuổi trẻ thích có tiền để ăn bánh và mua sắm. Riêng tôi, hồi đó có được bao nhiêu tiền thì tôi đưa cho mẹ tôi cất giữ giùm. Mẹ tôi nói: “Để mẹ cất giữ giùm cho con, khi nào con cần xài thì mẹ sẽ đưa lại cho con”. Thật ra, thì tôi không có xài gì chỉ để mua tập vở bút mực và những dụng cụ cần thiết trong việc học hành mà thôi.
Bây giờ có tuổi, nghe Tết đến, ôn lại tuổi thơ, thật có nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Ngày xuân đối với tuổi trẻ thơ ngây thật tràn đầy ấm êm hạnh phúc. Theo nhịp điệu vận hành biến dịch của thời tiết, thì mùa xuân có lẽ là mùa mà người ta yêu thích nhất. Bởi mùa xuân, ngoài việc khí trời ấm áp, trăm hoa thi nhau đua nở khoe hương, khoe sắc ra, nó còn có những tục lệ cúng kiến, tiệc tùng ăn uống vui chơi thỏa thích v.v… Người ta còn có nhiều hy vọng đặt định đầy hứa hẹn ở tương lai. Và nhất là đi lễ hội chùa lạy Phật đầu năm, xin xăm bói quẻ. Đêm giao thừa người ta tới lễ chùa rất đông thật vui. Nhưng bọn trẻ chúng tôi cứ mãi vui chơi với bạn bè đâu có biết chùa chiền là gì.
Đối với người già, mỗi lần nghe xuân đến cõi lòng như chùn lại, nghĩ đến kiếp người với biết bao tâm sự ngổn ngang chồng chất. Mỗi lần Tết đến như thầm thức nhắc người ta đừng quên là mình đã già thêm một tuổi. Nghĩ đến tuổi đời chồng chất thì phải ráng lo tu niệm để chuẩn bị cho ngày ra đi của mình. Vì chất liệu hiện tại là định hướng cho tương lai đời mình. Muốn có một tương lai tốt đẹp mà không chịu xây dựng những chất liệu tốt đẹp trong hiện tại thì đừng hòng có được một tương lai huy hoàng tươi sáng. Khi còn ở lứa tuổi xuân xanh thì mong đến lớn. Khi lớn lên vì sinh nhai nên người ta phải bon chen vật lộn với cuộc sống. Đến khi mỏi gối chồn chân, nhìn lại khoảng đời qua thì thật là giống như một giấc mộng. Đúng là xuân xanh mới đó bạc đầu rồi đây. Khi tuổi xế chiều mới thấy cuộc đời sao quá ngắn ngủi. Vì ý thức như thế, nên người trọng tuổi hay đi tìm cho mình một nếp sống an nhàn để nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Và chỉ có thế, người ta mới cảm thấy an ổn phần nào để mà vui sống với cuộc đời.
Đối với tuổi thơ thì chỉ mong Tết đến thôi mà không nghĩ điều gì khác. Vì Tết là ngày đánh dấu vui nhứt trong cuộc đời thơ ấu của tuổi trẻ. Càng lo nghĩ suy tính nhiều, người ta càng đánh mất cái tuổi xuân xanh ngây thơ trong trắng hồn nhiên của mình. Chính cái tuổi xuân xanh trong trắng đó mới gần với đạo lý giải thoát. Các bậc Cổ Đức thường nói: “Tâm xuân thì thế giới xuân. Tâm bình thì thế giới bình”. Khi tâm mình được an vui rồi thì nơi nào cũng là mùa xuân hết. Ngược lại, thì dù ở trên cảnh thiên đường người ta cũng không thấy có ý xuân. Sống lại với cái tuổi ngây thơ tôi cảm thấy lòng mình trẻ ra và gần với đạo lý nhiều hơn. Bởi nếp sống hồn nhiên của tuổi thơ là nếp sống tràn đầy vui tươi hạnh phúc. Nhưng người ta đâu có chịu sống lại với cái tuổi ngây thơ trong trắng nầy. Người ta thích làm người lớn theo nghĩa đen và nghĩa bóng. Bởi thích làm người lớn cho nên người ta đã đánh mất cái tuổi thơ ngây hồn nhiên. Đó là điều rất đau khổ mà không ai chịu làm trẻ con. Xin hiểu chữ “Trẻ Con” trong ý nghĩa siêu thoát. Bài thơ sau đây đã nói lên cái ý nghĩa siêu thoát đó:
Trong mây có một “Bé Thơ”
Ra vào tự tại ai ngờ được đâu
Thế gian muôn vẻ muôn màu
Bé không hình tướng làu làu suốt thông
Vượt ngoài thinh sắc đục trong
Vượt ngoài đắm nhiễm trong vòng trầm luân
Dù cho trong cõi bụi trần
Bé nào dính mắc sáng ngần tịnh thanh
Bé không vướng lụy tranh giành
Thênh thang rộng khắp diệt sanh ngoài vòng
Dạo chơi một cõi thong dong
Hòa cùng muôn vật không trong không ngoài.
Người ta vì tính toán, lo âu, sợ hãi, suy nghĩ nhiều quá đâm ra mất đi cái tuổi thơ ngây, mà mất đi cái tuổi thơ ngây là mất đi cái hạnh phúc tuyệt đẹp của đời người.
Xuân về tràn ngập vui tươi
Bình minh hé nụ hoa cười khắp nơi
Vạn duyên buông gánh dạo chơi
Làm thân “Đồng Tử” thảnh thơi an nhàn
Lo gì xuân khứ xuân sang
Xuân lòng đã có muôn ngàn an vui.
Giọt Mưa Mùa Hạ
Sanh, già, bệnh, chết, là một quy trình luật định không ai tránh khỏi. Tuy nhiên, tùy theo trình độ nhận thức của mỗi người mà những sự việc xảy ra có khác. Đời người ai rồi cũng phải một lần vĩnh viễn ra đi. Nhưng hướng đi của mỗi người có khác. Những hướng đi đó tùy nghiệp nhân của mỗi người gây tạo mà chiêu cảm hướng đến khác nhau. Nhân thế nào thì quả thế đó. Nhân quả báo ứng, như vang theo tiếng, như ảnh tùy hình. Nghiệp nhân gây tạo của chúng ta trong hiện tại sẽ quyết định cho hướng tương lai. Tương lai đó có thể tốt hơn hiện tại hoặc là xấu hơn. Tùy nghiệp nhân gây tạo tốt, xấu mà kết quả môi trường tái sinh có tốt, xấu. Cái chết đối với con người là một điều quan trọng mà ai cũng phải nghĩ đến. Dù người ta không biết trạng thái trong khi chết ra sao. Nhưng nghĩ đến cái chết ít nhiều gì, cũng đều gây cho người ta nhiều nỗi ưu tư băn khoăn lo âu sợ hãi. Cái lo nhứt là không biết sau khi chết mình sẽ thác sanh đi đâu và ở cảnh giới nào? Trong gia đình mất đi một người thân người ta rất đau khổ, buồn khóc như mưa. Khác nào như đang cơn nắng hạ, trời quang mây tạnh, bỗng nổi cơn giông gió bão bùng mây đen vần vũ kéo đến rồi cơn mưa đổ trút xuống. Đó là hiện trạng của cuộc đời, có người đang sống yên vui bỗng cái chết bất ngờ xảy đến. Trong đời ít nhiều gì chúng ta cũng đã từng chứng kiến những khổ cảnh sinh ly tử biệt. Ân ái biệt ly, đó là một trong những nỗi thống khổ lớn của kiếp nhơn sinh. Dù người ta vẫn biết cõi đời là phù du tạm bợ, là nơi quán trọ dừng chân. Đời là vô thường, có có, không không, không có gì tồn tại lâu dài. Biết vậy, nhưng người ta cũng vẫn nơm nớp lo sợ cơn vô thường xảy đến.
Không phải chỉ có người đời mới sợ chết, mà ngay cả những người tu hành biết chút ít đạo lý vô thường Phật dạy, nhưng khi đau yếu bệnh hoạn hoặc là lúc đang cận kề với tử thần, thì người ta cũng vẫn đâm ra hoang mang lo âu sợ hãi. Chỉ trừ phi những bậc chân tu đạo hạnh cao thâm, coi vạn pháp giai không, sanh tử như trò đùa, khác nào như hoa đốm lăng xăng chợt có chợt không, thì mới không sợ hãi. Đó là những bậc đạo cao xuất cách coi sanh tử như trò đùa huyễn mộng, sống tự tại mà chết cũng tự tại an vui. Thấu hiểu được lẽ sanh tử thường nhiên, nên các Ngài bình thản ra đi không một chút luyến tiếc.
Đọc sách Thiền ta thấy có những vị Thiền sư ngộ đạo, các Ngài ra đi một cách tự do, muốn sống thì sống, muốn chết thì chết. Bởi các Ngài đã làm chủ được hơi thở, muốn thở hay muốn ngừng lúc nào cũng được. Hiện tượng nầy, ta thấy rất nhiều sách sử ghi lại. Ngoài ra, đối với chúng ta sự tu hành còn non kém chưa có thâm hậu, sức huân tu đạo lực chưa có tới đâu, dĩ nhiên, ai trong chúng ta mà không rung động sợ hãi trước cái chết?! Bất cứ một sự ra đi nào cũng để lại cho người thân một mất mát lớn lao. Trong gia đình, nếu cha hoặc mẹ mất đi, thì đó là điều bất hạnh rất lớn cho con cái. Hòa thượng Nhất Hạnh có nói, ngày mà thân mẫu của Hòa thượng mất, Hòa thượng ghi một câu ngắn gọn vào trong quyển nhật ký: "Đời tôi đã mất tất cả". Thật vậy, mất mẹ là mất đi tất cả tình thương. Mất đi một cái gì to lớn, mà cả cuộc đời nầy không bao giờ ta tìm lại được. Nhà thơ Thanh Tịnh đã nói: “Mất mẹ là mất cả bầu trời”. Thật vậy, còn nỗi đau buồn trống vắng nào hơn khi đã mất mẹ.
Mẹ là tất cả đời con
Mẹ còn tất cả đều còn với con
Mẹ đi trống vắng mỏi mòn
Bầu trời đã mất có còn chi đâu
Biển khô sỏi đá âu sầu
Đời con mất hết buồn rầu nhớ thương
Cuộc đời vẫn biết vô thường
Nhưng sao ngăn được khóc thương mẹ hiền
Đối với trong đạo pháp, Thầy Tổ mất đi, đó là niềm bất hạnh cho người đệ tử. Dù cho chúng ta có trưởng thành đến đâu, chúng ta cũng vẫn cảm thấy như bị hụt hẫng lạc lõng bơ vơ, mất đi một cái gì quý giá quá lớn lao trong cuộc đời. Đọc Kinh Đại Bát Niết Bàn, trong đó diễn tả những nỗi đau thương của các hàng đệ tử, khi các Ngài nhận được tin đức Thế Tôn sắp vào Niết bàn. Có người khóc lóc nức nở, tiếng động trời đất, nước mắt như mưa. Đâu phải chỉ có những vị Ưu bà tắc hay Ưu bà di mới khóc la thảm thiết, mà ngay cả những vị Tỳ kheo lớn, như trong Kinh diễn tả: "Các Ngài đều là những bậc vô lậu A la hán, tâm được tự tại, chỗ làm đã xong, rời các phiền não, điều phục các căn, có oai đức lớn, thành tựu không huệ, đã khỏi sanh tử, tất cả đều là chơn Phật tử". Thế mà khi các Ngài biết được Phật sắp nhập diệt, toàn thân của các Ngài run lên, hai mắt đầy lệ, lòng rất buồn khổ. Cái khóc của các Ngài có thể khác hơn chúng ta. Có thể các Ngài khóc vì thương tưởng đến chúng sanh không được Phật tiếp tục trụ thế để cứu độ họ. Các Ngài tự than: "Phật nhập diệt thì cả thế gian nầy trống rỗng!" Mất đi một bậc Thầy vĩ đại, đức hạnh cao siêu, không còn chỗ để tựa nương. Đó là cái khóc vì người không phải vì mình. Bởi các Ngài không còn phiền não, nên việc bi lụy khóc than như người đời trần tục chắc chắn là không có. Còn chúng ta có thể nói, khóc vì mình hơn là vì người. Vì mất đi một người mà mình thương nhứt, thì mình cảm thấy bơ vơ lạc lõng. Nếu còn người đó bảo bọc che chở lo lắng cho mình, thì mình cảm thấy an vui và tất nhiên sẽ không có cô đơn khổ sở. Nhưng dù khóc vì người hay vì mình cũng là một sự mất mát lớn lao, không sao bù đắp lại cái khoảng trống quá lớn lao đó.
Nói thế, để thấy rằng sự ra đi của Hòa thượng Tông Trưởng Tổ Đình Phước Huệ là một mất mát lớn lao không những cho các hàng đệ tử trong tông môn mà còn cho tất cả mọi người. Dù vẫn biết ngũ uẩn giai không, pháp thân bất sanh bất diệt. Hay "hữu sanh hữu tử hữu luân hồi, vô sanh vô tử vô khứ lai, sanh tử khứ lai đô thị mộng..." Vâng! tất cả đều là mộng. Nhưng ngặt vì chúng ta chưa thoát khỏi cơn mộng, nên việc sống chết đâu có thể được coi là an nhiên tự tại! Người học Phật nào ít nhiều gì cũng hiểu đời là ảo mộng, kiếp phù sanh tụ tán mấy lâm hồi, nhưng trước sự ra đi của một bậc Thầy đạo cao đức trọng, trọn đời chỉ biết hy sinh phụng sự cho đạo pháp và dân tộc, tâm nguyện thì lúc nào cũng nghĩ đến tha nhân, tiếp dẫn hậu lai, phò trì mạt vận. Ngài đã dày công giáo huấn, hun đúc nuôi lớn pháp thân huệ mạng cho các hàng đệ tử xuất gia, một ân đức sánh tợ non cao bể cả thử hỏi làm sao không buồn đau cho được?!
Ân Thầy sánh tợ bằng non
Đức Thầy cao lớn vuông tròn ngoài trong.
***
"Chim non sao sớm buồn xa mẹ
Muôn dặm từ nay ai dẫn đầu?"
***
Nắng hạ mưa rơi khóc tiễn Thầy
Đường về Cực lạc đã đắp xây
Bao năm độ chúng không mòn mỏi
Xây dựng tòng lâm một áng mây
Nắng hạ mưa rơi nhớ đến Thầy
Trọn đời vì đạo quyết đắp xây
Khổ cực gian lao Thầy chẳng quản
Pháp lợi chúng sanh quyết chẳng màng
Nắng hạ mưa rơi nhớ đến Thầy
Độc hành độc bộ vững như cây
Bão táp phong ba Người vững lái
Con thuyền đạo pháp vượt sông lay
Nắng hạ mưa rơi nhớ đến Thầy
Nhẫn nại âm thầm mặc gió lay
Tuyết phủ sương rơi nào sá kể
Tình sư nghĩa đệ vẫn đông đầy.
Nắng hạ mưa rơi nhớ đến Thầy
Lời Thầy di chúc vẫn còn đây
Lăng Nghiêm trì niệm không xao lãng
Chánh pháp an hòa nhớ đắp xây.
Nhớ lại, khi hay tin Hòa thượng không may bị trợt té trong nhà tắm và rồi sau đó được chở vào bệnh viện để cấp cứu điều trị. Tất cả đệ tử trong tông môn ai nấy cũng đều quan tâm lo lắng cho sức khỏe của Hòa thượng. Nhất là đối với các vị đã được Hòa thượng giao phó trách nhiệm. Lúc đầu, ai cũng nghĩ, Hòa thượng sẽ không đến đổi trầm trọng lắm. Dù biết rằng, Hòa thượng đã trọng tuổi, ở vào cái tuổi chín mươi, tất nhiên sức khỏe rất kém. Hơn thế nữa, Hòa thượng cũng đã có bệnh sẵn. Tuy nhiên, dù mọi người có tỏ vẻ lo lắng, nhưng ai cũng tin rằng, Hòa thượng sẽ điều dưỡng chỉ một thời gian ngắn rồi sẽ hết. Đó là niềm tin tưởng ở nơi các đệ tử xuất gia và tại gia của Ngài. Khi nhận được tin, chúng tôi có vào bệnh viện thăm Hòa thượng. Tuy thấy sức khỏe của Ngài có phần hơi sút kém, nhưng tinh thần của Ngài thì vẫn còn rất minh mẫn sáng suốt, không lẫn lộn một điều gì. Ngài nhớ mọi việc rất rõ. Hòa thượng còn bảo chúng tôi ráng lo hướng dẫn cho khóa tu. Đó là khóa tu xuất gia ngắn hạn. Lần sau cùng, khi chúng tôi đến thăm để xin phép tạm biệt Hòa thượng trở về Melbourne, chúng tôi thấy sắc diện của Ngài rất tươi tỉnh, không lộ chút gì có triệu chứng ra đi cả. Nhưng... than ôi! vô thường không ai có thể biết trước được. Sớm còn, tối mất, đó là chuyện thường tình của thế nhân. Song có điều đối với những bậc tu hành đức hạnh cao thâm, duyên trần đã mãn, thì đối với các Ngài:
Thảnh thơi xả bỏ báo thân
Trở về cõi Phật an thần định tâm
Cõi trần tạm sống bao năm
Ra đi nhẹ gánh thẳng đàng về quê.
"Trần duyên nay đã dứt
Từ giã cõi vô minh
Sáng soi đèn trí tuệ
Bờ giác ngộ đăng trình".
Được biết, Hòa thượng đã an nhiên viên tịch trong bệnh viện giữa tiếng niệm Phật âm thanh vang dội của mọi người.
Điều bất hạnh cho tôi là lúc Hòa thượng ra đi, tôi không có mặt ở Úc. Vì có việc cần giải quyết gấp, nên tôi phải về Việt Nam. Một điều không may nữa là tôi bị tai nạn vào ngày mùng hai Tết. Cho nên bốn ngày sau, khi nhận được tin thầy Phước Viên cho hay là Hòa thượng đã viên tịch, thì lúc đó xương sống của tôi rất đau nhức nên không thể về được. Tôi có viết lá thư trình bày bệnh trạng của tôi gởi cho quý Thầy, quý huynh đệ trong tông môn được biết. Viết lên điều nầy, để thấy rằng tình thầy trò, lúc sống thì lại thường gần gũi chuyện trò bàn bạc thân thiết với nhau, nhưng đến giây phút cuối cùng của cuộc đời thì lại thiếu nhân duyên không gặp mặt nhau!
Sau khi trở lại Úc, gần đến ngày chung thất, dù cơn đau nhức của tôi cũng chưa hoàn toàn hết hẳn, nhưng tôi nhờ thầy Phước Viên đặt vé máy bay giùm và tôi lên Phước Huệ trước đó một ngày. Nghe nói, ngày làm lễ đưa kim quan Hòa thượng lên Đại Tòng Lâm Phật Giáo, ngày đó mưa rơi tầm tã. Kim quan nhục thân của Hòa thượng được an trí trên một khu đất rộng rãi ở Đại Tòng Lâm. Được biết, nhục thân của Ngài chỉ an trí tạm nơi đây, sau khi xây bảo tháp xong sẽ đưa vào trong bảo tháp.
Đúng ngày làm lễ cúng tuần chung thất (17/3/2012) cho Hòa thượng, nơi an trí tạm, trời lại đổ mưa lâm râm. Đó là những giọt mưa của đất trời hòa tan vào những giọt mưa của lòng người. Những giọt nước mắt nào tuôn rơi khi hay tin Thầy về cõi Phật. Những giọt nước mắt chung tình trong niềm đau trọn vẹn nào đã len lén khóc thầm trong đêm vắng trời khuya! Đó là những "giọt mưa mùa hạ" của những người con tinh thần của Hòa thượng.
Than ôi! Kể từ nay:
Tòng Lâm, Phước Huệ vắng Thầy
Mây sầu che lối trăng đầy khuyết hao
Lời Thầy giáo huấn ngọt ngào
Âm vang còn đó biết bao nhiêu tình
Phù du trong kiếp nhơn sinh
Dung nghi đức độ an bình Thầy trao
Đất bằng sóng dậy ba đào
Vô thường chia cắt buồn đau khôn cùng!
***
Núi cao biển rộng đức Thầy
Tâm từ độ chúng nơi nầy xứ kia
Bắc Nam chẳng ngại phân chia
Vạn duyên Phật sự chẳng lìa bản tâm
Ơn Thầy gầy dựng bao năm
Xây chùa, độ chúng tòng lâm vững vàng
Oai nghi đi đứng nghiêm trang
Gương soi đệ tử muôn vàn nhớ thương.
Thành kính dâng lên Thầy, bằng tất cả tấm lòng hoài vọng:
Khép kín tâm tư một cõi lòng
Thầy về cảnh Phật bước thong dong
Gương xưa Thầy dạy luôn vâng giữ
Sư đệ nguyện tròn một ước mong.
Kỷ niệm ngày tuần chung thất
17/3/2012 của Hòa thượng
viết tại Đại Tòng Lâm Phật Giáo.
Phật Đản Và Niềm Tin
Hằng năm, cứ mỗi lần Phật đản về, tôi lại hay nhớ đến những mùa Phật đản ở quê nhà. Đó cũng là cái bệnh "Nhớ" của tôi. Dù tôi cũng biết rằng, những gì đã qua không nên gợi lại. Tuy nhiên, tôi cũng có nghe một thầy giảng, nếu mình nhớ quá khứ để mà luyến tiếc hay để buồn vui với cái quá khứ đó, thì không nên. Còn nếu mình đem cái quá khứ đó để làm một bài học cho hiện tại, thì điều đó không có gì là sai trái. Tôi luôn áp dụng điều nầy. Nhớ để có thêm bài học kinh nghiệm và cũng để soi sáng cho việc làm hiện tại.
Nhớ lại, biết bao mùa Phật đản đã qua mà tôi đã có dịp tham dự. Lúc nhỏ, tôi thường theo mẹ tôi đến chùa dự lễ. Hồi đó, tôi chỉ biết vâng lời mẹ dạy thắp hương lạy Phật, mẹ bảo sao thì làm theo như vậy. Tuyệt nhiên, tôi không hiểu biết gì về Phật đản hết. Thậm chí, tôi thấy tượng Phật sơ sanh nhỏ đứng trên bàn, tôi còn cười và nói với mấy đứa bạn, tụi bây biết không ông Phật nhỏ nầy là ông Phật con. Còn ông Phật to lớn ngồi trên cao kia, đó là ông Phật cha. Với tuổi đời còn non dại khờ khạo thì làm sao tôi hiểu biết được. Vả lại, ở quê tôi, thời đó ít có được nghe thầy giảng pháp. Chỉ có những ngày đại lễ đặc biệt như lễ khánh thành chùa thì mới có thỉnh giảng sư ở nơi khác đến thuyết pháp mà thôi. Còn lại, những ngày đại lễ thường trong năm thì thầy trụ trì chỉ hướng dẫn Phật tử tụng kinh bái sám dâng hương cúng Phật, thế thôi.
Hơn nữa, đời sống của người dân quê, quanh năm suốt tháng họ lam lũ với những công việc đồng áng cực khổ mệt nhọc, thì thử hỏi làm sao họ có nhiều thời giờ rảnh rỗi để đến chùa nghe pháp học hỏi? Phần lớn, họ đi chùa là noi theo truyền thống cổ lệ của ông bà cha mẹ. Xưa ông bà cha mẹ đi thế nào thì nay họ bắt chước làm theo thế ấy. Một năm, họ chỉ đi chùa vào những dịp đại lễ như: Rằm tháng giêng (thượng ngươn) rằm tháng tư (Phật Đản) rằm tháng bảy (Vu Lan - Trung Ngươn) rằm tháng mười (hạ ngươn) và Tết Nguyên Đán. Thêm nữa là ngày mùng 8 tháng giêng cúng sao hội. Đó là lệ thường đi chùa của họ. Đến chùa họ chỉ biết thắp nhang cúng bái cầu khẩn van xin Phật, Bồ tát gia hộ cho họ và gia đình của họ luôn được bình an khỏe mạnh. Ngoài ra, họ không hiểu gì về những lễ nghi phép tắc thông thường của Phật giáo. Có người đi chùa cả đời mà họ cũng không hiểu Tam quy, Tam bảo là gì. Phần nhiều tới chùa họ chỉ biết làm công quả hoặc cúng bái. Đối với họ như thế cũng là đủ lắm rồi. Xin đừng đòi hỏi họ làm gì hơn nữa. Đối với họ đi chùa là để cầu phước hoặc để van xin theo ý muốn của họ. Nếu van xin mà đáp ứng theo sở cầu, sở nguyện của họ, thì Phật, Bồ tát đó linh thiêng. Ngược lại, thì họ cho là Phật, Bồ tát của ngôi chùa đó không linh. Nếu không linh, thì họ lại đi tìm cầu van xin ở nơi chùa khác hay bất cứ ở nơi đâu. Cứ thế mà họ đi hết nơi nầy đến nơi khác để khẩn cầu van xin lạy lục cho được. Thậm chí có người còn lạy Phật cầu Phật cho họ đánh trúng số đề. Đó tâm trạng và trình độ của họ đi chùa là như thế.
Điều nầy, ngẫm kỹ lại chúng ta cũng không nên vội trách họ. Bởi vì một phần, do hoàn cảnh sống eo hẹp vất vả lam lũ cực khổ, phần khác, thì trình độ học hỏi kiến thức của họ cũng không có được bao nhiêu. Vả lại, khi họ tới chùa, tăng, ni vì bận lu bu công việc cũng không có rảnh rỗi để dạy họ về những lễ nghi cung cách của một người Phật tử, và những giáo lý căn bản thiết yếu cần hiểu của Phật giáo. Phần lớn, họ chỉ biết công quả giúp cho chùa làm những công việc lặt vặt để có thêm chút phước đức thế là đủ lắm rồi. Còn nói Phật ra đời như thế nầy, hay giáo lý Phật cao siêu như thế kia, đối với họ thì thật là mù tịt xa vời. Vì không hiểu Phật pháp, nhất là giáo lý nhân quả, do đó, nên niềm tin của họ rất là cạn cợt và dễ bị lung lay. Từ đó, họ đâm ra mê tín, tin tưởng tạp nhạp đủ thứ và họ trở thành con mồi ngon cho những tay phù thủy lợi dụng niềm tin của họ để moi tiền thủ lợi. Tệ hơn nữa là dẫn họ đi vào con đường tà đạo mê tín dị đoan. Thật là đáng thương xót tội nghiệp biết bao!
Riêng tôi, như đã nói ở trên, cũng nhờ có chút ít duyên lành, nên từ thuở nhỏ tôi cũng đã có dịp tới lui chùa chiền và biết được chút ít Phật pháp, nhưng biết theo kiểu của một đứa con nít miệng còn hôi sữa thôi. Chỉ biết theo mẹ đi chùa để kiếm xôi chè ăn cho đỡ thèm. Cũng nhờ ăn xôi chè của chùa, mà sau nầy khi lớn lên tôi lại có cơ duyên may mắn là được sống hít thở trong môi trường của Phật pháp. Nghĩa là đời tôi được gắn liền chặt chẽ với Phật pháp một cách sâu đậm. Tôi nghĩ, đó không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà cũng do nhân duyên thiện căn của tôi đời trước. Đó là hạt giống Phật pháp không phải chỉ ở hiện tại mà nó đã có từ quá khứ. Nếu không như thế, thì làm gì tôi được gần gũi thầy hiền bạn tốt để học hỏi Phật pháp. Từ khi biết được Phật pháp không năm nào mà tôi không tham dự lễ Phật Đản.
Từ đó Phật đản đối với tôi đã nghiễm nhiên trở thành rất quen thuộc. Không phải chỉ quen thuộc trong những mẫu lễ nghi hình thức không thôi, mà tôi còn tìm hiểu về nội dung mang ý nghĩa trọng đại thiêng liêng của sự kiện Phật ra đời. Từ nhỏ, tôi không bao giờ tin đức Phật là một đấng thần linh có quyền năng thưởng phạt. Dù lúc đó tôi chưa học Phật pháp và trí hiểu biết của tôi còn thô sơ nông cạn chưa được phát triển. Nhưng tôi vẫn tin đức Phật là một con người như bao nhiêu con người khác. Sau nầy khi học lịch sử đời Ngài, tôi mới thấy cái ý nghĩ quan niệm của tôi khi còn nhỏ là đúng. Trong tờ báo Văn Hóa Phật Giáo số đặc biệt kính mừng Phật đản PL 2550, phát hành ngày 15-5-2010, có đăng bài phỏng vấn giữa biên tập viên Melvin McLeod của tờ Nguyệt san Shambhala Sun, ông có nêu ra nhiều câu hỏi với Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Trong số những câu hỏi đó, có một câu hỏi ông nêu ra là: Bụt là ai? Tôi xin trích nguyên văn người hỏi và người đáp như sau:
Melvin McLeod: Thầy nói Bụt là một con người. Nhưng Đại thừa nói có vô lượng Bụt và Bồ tát ở trong mọi cõi đang trải lòng từ đến mình. Làm sao có những người Tây Phương duy lý chúng tôi có thể hiểu những vị Bụt và Bồ tát nầy? Làm sao chúng ta có thể mở lòng ra với họ khi chúng ta không thể nhận biết họ qua năm giác quan?
Thích Nhất Hạnh: "Trong đạo Bụt, Bụt được xem như một vị Thầy, một con người, chứ không phải một vị thần linh. Ta cần phải nói cho mọi người biết cái điều thật quan trọng đó. Chúng ta không cần Bụt là một đấng thần linh. Ngài là một vị đạo sư, như vậy là đủ lắm cho chúng ta rồi! Tôi nghĩ chúng ta cần phải nói cho các bạn ở Tây phương biết như vậy. Và chính vì Bụt là một con người, cho nên vô lượng người mới thành Bụt được".
Chính vì đức Phật là một con người, cho nên Ngài mới hiểu và cảm thông những gì mà con người đã có. Và từ khi sanh ra cho đến khi xuất gia, suốt trong khoảng thời gian đó, Ngài cũng đã nếm đủ mùi vị lạc thú hay khổ đau của một con người. Nếu là một con người mà chỉ biết hưởng những lạc thú không thôi và không có những khổ đau thì e rằng chưa đúng lắm. Dù đó là một đông cung thái tử, sống trong ngai vàng điện ngọc, tất cả mọi thú vui Ngài đều có đủ, điều đó không ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên, nếu chỉ có thế không thôi thì thiết nghĩ, Ngài chưa hưởng đầy đủ trọn vẹn hương vị của một con người. Đã có thân, tất nhiên ít nhiều gì cũng phải có bệnh đau và những biến động của sinh lý và tâm lý. Nếu không có những biến động nầy, thì làm sao có đầy đủ chất liệu của một con người? Chẳng qua, Ngài ít đau khổ hơn người thường là vì mọi thứ tiện nghi vật dụng thiết yếu, nói rõ hơn là những nhu cầu vật chất của đời sống thông thường của một con người Ngài đều có đủ. Cứ nhìn Ngài ở góc độ của một con người bình thường như thế thì chúng ta sẽ dễ tu hơn. Bởi vì Ngài là con người nhờ ý thức giác ngộ được cuộc đời đau khổ, rồi gia công nỗ lực công phu tu hành mà được thành Phật. Sự khác biệt giữa Ngài và chúng sinh chỉ ở góc độ "Mê và Ngộ" đó thôi.
Nếu nhìn Ngài trên phương diện Tích môn hay Tục đế, thì ta thấy Ngài không khác gì những người khác. Ngài cũng có đầy đủ những gì mà người đời đều có. Đâu phải chỉ riêng Ngài là một thái tử, mà trên thế gian nầy từ xưa tới nay đã có biết bao là ông hoàng thái tử như Ngài. Nhưng không phải ông hoàng thái tử nào cũng có đời sống tâm linh như Ngài. Hơn nữa, Ngài còn có tấm lòng từ bi, vị tha, nhân ái, lòng độ lượng bao dung cao cả mà người đời khó có ai sánh kịp. Đó là điểm khác biệt mà chính Ngài đã dám từ bỏ tất cả. Từ bỏ tất cả vì Ngài thấu hiểu được cái chân lý vô ngã của vạn thể vũ trụ. Là một thái tử thông minh xuất chúng, lẽ nào Ngài không thấu hiểu được điều đó. Chính vì hiểu lẽ sinh tử luân hồi, cho nên Ngài là người đầu tiên dám khẳng quyết tuyên bố với mọi người là Ngài đã tìm ra lẽ sống miên viễn và hoàn toàn chấm dứt vòng luân hồi sinh tử khổ đau.
Muốn tựu thành con đường giác ngộ cứu cánh như Ngài, chúng ta cần phải tu tập và thật hành những gì mà Ngài đã chỉ dạy. Xưa kia, Ngài là người đích thực đơn thân độc mã tự một mình mò mẫm khám phá ra chân lý, không thầy chỉ dạy. Ngài đã độc hành độc bộ trải qua thiên nan vạn nan, phải đương đầu với biết bao chướng ngại khó khăn gian lao thử thách, từ nội và ngoại tại, nhưng cuối cùng, Ngài đã chiến thắng vượt qua tất cả. Nói thế để chúng ta thấy rằng, con đường Ngài đi đến đích giải thoát thật không phải dễ dàng. Đối với chúng ta ngày nay thì thật là may mắn, vì con đường đi đã có Ngài chỉ bày vạch sẵn. Ngài đã nêu ra nhiều con đường để đi đến đích tuyệt đối. Bản đồ chỉ dẫn Ngài đã vẽ chỉ bày rất rõ ràng. Hướng nào đi vào con đường trầm luân khổ hải và hướng nào sẽ đạt được giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Trên bản đồ chỉ dẫn nêu ra có nhiều lối, nhiều nẻo để đi. Tùy theo căn cơ trình độ và sở thích của mỗi người mà chọn lựa cho mình một con đường thích hợp để khởi hành tiến bước. Hướng đến cuối cùng thì chỉ có một, nhưng con đường tiến đến thì tạm phân chia có nhiều phương tiện pháp môn khác nhau. Nhưng đi con đường nào miễn sao đạt được đến đích giải thoát cuối cùng là được.
Điều quan trọng là chúng ta nên tránh những con đường tà kiến. Mỗi người hãy trang bị cho mình có được chánh kiến. Khi có chánh kiến thì chúng ta mới nhận định được con đường mình đang đi là đúng hay sai. Pháp môn Phật dạy tuy nhiều, cũng như cái nhà có nhiều cửa, hành giả muốn chọn cửa nào đi vào cũng được. Miễn sao vào được trong nhà thì thôi. Nhà thì chỉ có một, nhưng cửa vào thì có nhiều. Hành giả thích cửa nào đi vào cửa đó. Điều quan trọng đáng nói ở đây là, hành giả phải sáng suốt để chọn cho mình một cái cửa thích hợp và gần nhất. Cửa là pháp môn, là thông suốt, là đường vào, cho nên chúng ta có nguyên phẩm kinh trong Kinh Pháp Hoa gọi là Phẩm Phổ Môn. Phổ là khắp là cộng thông, là bao trùm không sót; môn là cửa có nghĩa là thông suốt không ngăn ngại. Phổ môn là cánh cửa đã mở toát ra để mọi người bước vào. Bước vào cửa nào cũng được. Dù cửa hẹp hay cửa rộng cũng là cửa để ta bước vào. Điều quan trọng không phải ở nơi cái cửa, vì cái cửa lúc nào cũng vẫn mở rộng, nhưng quan trọng là ở nơi người bước vào. Chúng ta phải bước vào đúng cái cửa mà ta đã chọn. Khi đã chọn thì không được dời đổi. Không thể nay đến cửa nầy mai chạy qua cửa khác. Cứ chạy lòng vòng như thế, rốt cuộc không vào được cửa nào hết.
Hơn thế nữa, chúng ta nên tránh cái bệnh là chê khen cái cửa. Cứ cho cái cửa nầy tốt, cái cửa kia xấu. Cả đời cứ có một việc là chê khen cửa không thôi. Như vậy, thử hỏi làm sao mà vào trong cái cửa được. Cũng thế, có người hết chê pháp môn nầy, lại khen pháp môn khác. Người tu Thiền thì nói chỉ có tu Thiền mới mau chứng quả. Ngýời tu Tịnh thì nói chỉ có tu Tịnh mới không bị sai lạc và chóng thành Phật. Người tu Mật, thì cho rằng, chỉ có tu Mật mới được thanh tịnh giải thoát ở nơi kiếp nầy. Cùng tu Phật, mà người nầy thì công kích người kia, thậm chí còn bài báng đả kích đủ thứ. Họ cứ chê khen như thế mà quên rằng, tất cả pháp môn đều do Phật nói. Đã do Phật nói thì tại sao lại công kích chê bai nói xấu lẫn nhau? Nếu chê bai công kích lẫn nhau, thì vô tình chúng ta đã bài báng kích bác đức Giáo Chủ Phật Thích Ca Mâu Ni của chúng ta rồi! Như thế, tu chưa tới đâu mà đã làm tổn thương đến Phật pháp. Thật là tội lỗi biết chừng nào! Pháp môn Phật nói không có tốt xấu, hay dở, cao thấp gì cả. Cao thấp, hay dở, chẳng qua là do căn cơ trình độ nhận thức tu học của mỗi người có sâu cạn sai khác đó thôi.
Kỷ niệm Phật đản không phải chỉ có phô trương hình thức bên ngoài không thôi là đủ, mà chúng ta cần phải hướng nội quán chiếu sâu sắc và đặt định niềm tin vững chắc ở nơi ta và ở nơi Ngài. Niềm tin phải được điều động của lý trí. Tin Ngài mà không hiểu Ngài vô tình chúng ta trở thành kẻ phỉ báng Ngài. Trong đạo Phật, niềm tin rất quan trọng đối với người Phật tử. Bởi niềm tin là công đức là cội gốc của muôn pháp và luôn nuôi lớn các căn lành. Nhưng niềm tin đó phải được đặt định đúng hướng vị trí chân lý. Nhất là phải tin sâu, tin chắc vào lý nhân quả. Phải tin mình có đầy đủ khả năng thành tựu đạo quả như Ngài. Bởi Ngài có chủng nhân Phật tánh tu hành thành Phật thì chúng ta cũng có cái chủng nhân Phật tánh đó. Đã thế, nếu chúng ta cố gắng vận dụng công phu tu hành thì chúng ta cũng thành Phật như Ngài. Hẳn chúng ta còn nhớ lời tuyên bố khẳng quyết của Ngài: "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành". Câu nói đó đã xác quyết niềm tin nơi ta. Phải tin chắc như thế, nếu không thì chúng ta dễ rơi vào con đường mê tín tà kiến. Một khi đã đặt định niềm tin sai lệch theo hướng chân lý nhân quả, thì ta phải chịu trầm luân đau khổ muôn đời.
Khởi đầu của niềm tin là chúng ta phải hướng niềm tin đặt định vào Tam bảo. Trong Tam bảo tin Phật là trước tiên. Tin Phật ngoài và tin Phật ở trong lòng ta. Có tin Phật vững chắc thì ta mới tin những lời dạy của Ngài, đó là tin pháp. Pháp ở đây là những giáo pháp: từ bi, trí tuệ, bình đẳng, thanh tịnh v.v...Và tin các bậc Thánh tăng cũng như phàm tăng là những bậc Thầy tu hành chơn chánh, đạo cao đức trọng, đời sống thanh cao, các ngài hy hiến trọn đời phụng sự cho đạo pháp và phục vụ làm lợi ích cho chúng sinh.
Mục đích của Phật ra đời là cốt để chuyển mê khai ngộ cho hết thảy chúng sinh. Còn mê là còn đi trong vòng luân hồi sinh tử thọ khổ. Hết mê, tức hết vô minh phiền não là giải thoát. Mê là chúng sinh, ngộ là Phật. Giáo pháp của Phật dạy có công năng xây dựng niềm tin vững chắc và đúng hướng chân lý. Người tu hành mà thiếu niềm tin thì có khác nào như cây thiếu rễ cái. Vì thế việc xây dựng niềm tin đúng với chánh pháp rất là quan trọng. Chúng ta hướng về Phật ra đời cũng là hướng về nội tâm để xây dựng niềm tin kiên cố nơi tự tâm của ta. Niềm tin là bước khởi đầu để xây dựng đời ta được an lạc hạnh phúc sau nầy. Do đó niềm tin đối với người Phật tử thật hết sức quan trọng. Vì niềm tin là lý tưởng chỉ hướng cho thuyền đời và làm nẩy hoa hạnh phúc trong đời sống hiện tại và tương lai.
Nhân kỷ niệm ngày Phật đản, mỗi người chúng ta nên kiểm định soát lại thật kỹ ở nơi niềm tin của chính mình. Phải đặt định cho mình một niềm tin vững chắc vào Tam bảo và nhân quả. Có thế, thì mới đem lại lợi ích thiết thực cho đời sống của chúng ta. Bằng không, thì chúng ta sẽ mãi bị chìm đắm trong vòng sanh tử khổ đau triền miên vậy.
Kỷ niệm Phật Đản lần thứ 2637
Một Cái Nhìn Về Phật Đản
Đã có biết bao tài liệu, sách vở nói về sự ra đời của đức Phật. Tuy nhiên, ngôn ngữ của loài người nó cũng chỉ có một giới hạn chừng mực nào đó thôi, bản thân của nó cũng không làm sao diễn tả nói hết được những gì mà đức Phật đã chứng ngộ và đã làm. Bởi thế, nên người ta nói, ngôn ngữ phải đầu hàng trước chân lý. Chúng ta có vinh danh ca tụng xưng tán đức Phật đến đâu đi nữa, thì cũng chẳng khác nào như người xưa đã nói: "Họa hỗ hoạ bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm". Nghĩa là, người ta vẽ cọp chỉ có thể vẽ được cái lớp da bao bọc của nó ở ngoài, chớ không ai có tài nào mà có thể vẽ được cái xương của nó. Cũng vậy, đối với con người, người ta chỉ biết được qua hình hài dóc dáng hay gương mặt, chớ không ai có thể biết được cái lòng dạ sâu kín của con người.
Đứng về mặt Chơn đế hay Bản môn, thì tuyệt nhiên, bặt hết mọi dấu vết ngôn ngữ. Nhưng đứng về mặt Tục đế hay Tích môn, thì cần phải sử dụng đến phương tiện, mà ngôn ngữ là thứ phương tiện có thể nói dẫn đầu trong các thứ phương tiện. Vì không diễn đạt bằng tín hiệu ngôn ngữ, thì không ai hiểu được gì và tất nhiên, không làm sao cảm thông với nhau được. Do đó, mà trong Kinh Pháp Hoa sau khi Phật hiển bày những diệu dụng thần thông tiêu biểu bằng cách phóng quang, ngầm ý chỉ bày cái chơn lý, nó vượt ngoài đối đãi danh ngôn sắc tướng, nhưng rất tiếc cả đại chúng không ai hiểu được cái thâm ý tiêu biểu của Phật. Từ đó mới có ra phẩm Phương Tiện thứ hai. Mục đích của phẩm nầy, là Phật tạm mượn danh ngôn mà phô bày thuyết minh về cái lý Phật thừa, nói cách khác là "Phật tri kiến". Nhưng khổ nỗi, ở đời người ta chạy theo bám chặt vào phương tiện, mà người ta lại quên mất đi cái cứu cánh. chính cái cứu cánh rốt ráo đó, mới là cái mà Phật muốn tha thiết chỉ bày.
Phật ra đời cũng chỉ là phương tiện. Cho nên đối với cái nhìn của hệ tư tưởng giáo lý Phát Triển, thì gọi là Phật thị hiện. Thị hiện có nghĩa là giả đò làm bộ cho có mặt với thế gian trong một giai đoạn nào đó, chớ không phải là có thật. Do đó, nên từ khi Phật sanh ra cho đến khi Ngài nhập diệt, suốt khoảng thời gian đó, những việc làm của Ngài tất cả đều là thị hiện mà thôi. Kỳ thật thì Ngài đã thành Phật từ vô lượng kiếp lâu xa rồi. Quan điểm nầy ta thấy rất rõ trong phẩm Như Lai Thọ Lượng trong kinh Pháp Hoa. Phẩm nầy cho chúng ta biết rõ về Bản môn. Cho nên, khi đọc kinh điển ta phải nhận rõ đâu là Bản môn và đâu là Tích môn. Nếu không, thì chúng ta cũng dễ lầm nhận và cho lời Phật dạy như có sự mâu thuẫn chống trái nhau. Khi nhận rõ giữa cứu cánh và phương tiện rồi, thì nó sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều lợi ích trong việc tìm hiểu nghiên cứu tu học.
Nghiên cứu về ba thân Phật, cũng giúp cho chúng ta rất nhiều trong việc nhận định giữa Bản môn và Tích môn. Hiện tượng đức Phật ra đời ở Ấn Độ, theo lịch sử ghi lại, thì đó chỉ là nói về cái ứng thân Phật, tức nói về phần Tích môn. Hoàn toàn không đá động gì đến cái pháp thân Phật, tức Bản môn. Tuy nhiên, nếu nhìn theo lý "Tương Tức" trong Kinh Hoa Nghiêm, thì ba thân không rời nhau. Nhưng nói một cũng không đúng. Chúng ta không thể tách biệt từng thân riêng rẽ ra được. Cũng như không ai có thể tách biệt giữa sóng và nước. Toàn nước chính là sóng, mà toàn sóng cũng chính là nước. Nước và sóng không hai mà cũng không phải một. Nói một là sai mà nói hai thì không đúng. Cũng vậy, rời pháp thân thì không có ứng thân. Và nếu không có ứng thân, thì cũng không có hóa thân và pháp thân. Đây là lý Tương Tức Tương Nhập, thiết nghĩ, người học Phật cần phải lưu ý. Đây cũng là lý "Bất Nhị" trong kinh Duy Ma Cật đã nói.
Có cái nhìn như thế, thì ông Phật pháp thân không hạn cuộc vào ông Phật ứng thân. Phật pháp thân thì có mặt khắp nơi khắp chốn, không nơi nào mà chẳng có. Vì nó vượt ra ngoài những phạm trù đối đãi nhị nguyên thời gian và không gian. Như vậy, đứng về mặt Chơn đế, thì lúc nào Phật cũng ra đời. Không cần phải chạy tìm cầu Phật ở đâu. Dù chúng ta có đi qua bên Ấn Độ, thì cũng chỉ thấy được cái Phật tượng và cây Bồ đề mà thôi. Chớ làm gì chúng ta thấy được ông Phật ứng thân. Bởi ông Phật ứng thân cũng do nhân duyên giả hợp mà thành. Nói rõ hơn cũng do bốn yếu tố: đất, nước, gió, lửa, kết tụ mà thành thân. Cái thân đó cũng là cái giả thân, có hợp, có tan khác nào như bọt nước. Vậy thì ông Phật thiệt ở đâu? Ông Phật thiệt làm gì có nơi chốn mà hỏi ở đâu. Hỏi thế, khác nào chúng ta hỏi không khí ở đâu? Tuy không chỉ ra được nơi chốn mà thực tế có không khí không? Nếu không, thì chắc cả thiên hạ đều chết hết. Như vậy, ông Phật thiệt tuy không chỉ ra được mà không phải là không có. Muốn ông Phật thiệt hiện khởi, với điều kiện là tâm ta phải yên lặng bặt dứt mọi vọng tưởng. Bấy giờ tự mình mình biết, tự mình mình hay mà thôi. Làm sao mà diễn tả cho người khác biết được. Có diễn tả thì còn có "Năng" và có "Sở" rồi. Nghĩa là còn có cái nhận thức và cái đối tượng nhận thức. Đến đây, trong kinh thường nói là không thể suy nghĩ luận bàn. Chỉ cần hết vô minh vọng tưởng thì tánh giác hiện bày. Còn nếu để cho vô minh phiền não phủ lấp che mờ, thì lúc đó ông Phật thiệt bị che lấp ẩn khuất. Chỉ bị che lấp ẩn khuất thôi chớ không phải là không có. Bởi tánh giác thì hằng hữu bất sanh bất diệt. Sanh diệt là hiện tượng của vô minh phiền não. Chớ bản thể thì làm gì có sinh có diệt? Thí như ánh trăng sáng thì lúc nào cũng có, nhưng sở dĩ ánh trăng không hiện ra được là tại vì bị mây mù che khuất. Chỉ cần mây tan đi thì ánh trăng sẽ hiện ra, không cần phải tìm cầu ở đâu chi cho nhọc sức. Bởi vì:
Đoạn trừ phiền não trùng tăng bệnh
Thú hướng chơn như tổng thị tà.
(Tú Tài Trương Chuyết)
Như vậy, muốn tưởng niệm Phật ra đời không gì hơn là chúng ta hãy thực tập cho mình có những giây phút thật tỉnh lặng. Đó là cách hay nhứt để chúng ta nhận diện ông Phật thiệt của chúng ta. Bởi Phật ra đời cũng chỉ nhằm mục đích là chuyển mê khai ngộ cho hết thảy chúng sanh. Tất cả những pháp môn Phật dạy, không có pháp môn nào mà Phật không khuyên bảo chúng ta diệt trừ phiền não. Nói diệt trừ đó cũng chỉ là một cách nói, đúng hơn là phải nói: "chuyển". Nghĩa là "chuyển phiền não thành Bồ đề, chuyển sanh tử thành Niết bàn". Đi tìm Bồ đề hay Niết bàn mà rời phiền não, sanh tử thì làm gì có? Cũng như muốn có nước trong thì cũng phải từ nơi nước đục mà có. Chỉ cần lóng lặng gạn lọc sạch hết cặn cáu thì nước trong sẽ hiển hiện. Cho nên sự tu hành, Phật dạy không tìm cầu đâu xa. Mà hãy tìm lại ở nơi tâm ta. "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc". hay "hồi quang phản chiếu", đó là cái yếu lý của người tu. Ngày xưa, vua Trần Nhân Tông nhờ câu nói nầy của Tuệ Trung Thượng Sĩ mà Ngài lãnh hội tỏ ngộ được yếu chỉ tu hành thành Tổ. Nếu còn khởi vọng tìm cầu Phật thì đó là tà niệm, không khởi vọng mong cầu, tuyệt dứt đối đãi, đó là chơn niệm hay chánh niệm.
Kinh Kim Cang Phật dạy:
“Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai”.
Nếu thấy sắc cho là thấy Phật, hoặc cho rằng âm thanh của Phật nói ra, đó là Phật, Phật nói, cái thấy đó là cái thấy của người hành đạo tà. Như thế, thì thử hỏi làm sao thấy được Như Lai? Bởi Như Lai là thể tánh bất sinh bất diệt. Còn tất cả mọi hiện tượng đều nằm trong phạm trù sinh diệt. Cũng trong Kinh Kim Cang, ở một đoạn khác Phật nói: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai" Nghĩa là phàm cái gì có hình tướng đều là hư giả không thật, nếu thấy các tướng mà không dính mắc chấp chặt vào các tướng, thì cái thấy đó mới thật là thấy Như Lai. Vì Như Lai là thể tánh bất sanh bất diệt. Kinh đã dạy rõ ràng như thế, đâu có gì phải nghi ngờ.
Nhìn lại, thời đại của chúng ta hiện nay, phải nói là thời đại đặt nặng về phần lý giải. Tức nặng về phần lý thuyết nhiều hơn thật hành. Năng thuyết bất năng hành. Nhưng đạo Phật dạy chúng ta là phải tri hành hợp nhất. Vì nặng về phần lý giải suông nên mới xảy ra những hiện tượng tranh chấp đấu đá chém giết với nhau. Chỉ biết khéo lập ngôn, lập thuyết, mà không khéo thật hành đúng theo lập thuyết. Đó là đầu mối của sự tranh luận chống đối kích bác lẫn nhau. Không ai gây khổ đau cho ta mà chính chúng ta gây ra khổ đau cho nhau. Điều nầy trong Khởi Tín Luận gọi là "Kế danh tự tướng", còn trong Duy Biểu học thì gọi là "Biến kế sở chấp". Quả đó là một điều rất nguy hại. Hiện chúng ta đang sống trong một thế giới tranh chấp với nhau mãnh liệt. Khác nào như đang sống trong một ngôi nhà lửa. Nhưng khổ nỗi, không ai chịu nhận ra mình đang sống trong ngôi nhà lửa. Mà cứ tưởng mình đang sống trong ngôi nhà ngói nhà lầu êm ấm. Thân phận của con người ngày nay, có khác nào thân phận của những người con của ông trưởng giả mà ở phẩm Thí Dụ thứ ba trong Kinh Pháp Hoa đã diễn tả. Có khác chăng là những người con nhờ sự khéo dẫn dụ của ông trưởng giả mà cùng nhau chạy ra khỏi ngôi nhà lửa. Do đó, nên không ai bị chết cháy. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta vẫn còn đang say đắm rượt bắt chém giết tranh giành cấu xé lẫn nhau. Như vậy, thử hỏi làm sao tránh khỏi cái nạn chết cháy?! Ngày nào mà nhơn loại vẫn còn làm nô lệ cho ba độc tố: "Tham, Sân, Si" sai khiến, thì ngày đó nhơn loại vẫn còn phải chịu đựng nhiều nỗi tang thương hệ lụy.
Phật đản về như nhắc nhở chúng ta hãy trở về nhận diện lại chính mình. Chỉ có một phương cách là nhận diện và chuyển hóa những hạt giống xấu ác gây khổ đau cho mình và người, có thế, thì mới mong thế giới nầy trở nên an ổn. Được vậy, thì mới đúng ý nghĩa kính mừng Phật ra đời. Bằng không, thì cũng chỉ phô trương rầm rộ trên mặt hình thức nặng phần tín ngưỡng hời hợt ngoài da mà thôi. Ước mong sao mỗi người chúng ta nên ý thức được sự khổ đau chung của cộng đồng nhơn loại mà trở về nhận diện sâu sắc lại chính mình. Muốn trở về để nhận diện, tất nhiên chúng ta phải có phương pháp. Phương pháp đó, theo tôi, thì không ngoài ba yếu tố thiết yếu: "Niệm, Định Tuệ". Trong niệm đã có giữ giới, và chính nhờ giữ giới nên mới có định và từ định phát sanh tuệ. Khi đã có được tuệ giác rồi, thì mọi khổ đau sẽ lập tức chấm dứt ngay.
Nói thế, không có nghĩa là chúng tôi phủ bác việc phô trương hình thức. Vì những hình thức lễ nghi ngoại diện cũng rất cần thiết để trang nghiêm cho buổi lễ. Đó cũng là một hình thức cúng dường. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi muốn nói là mọi lễ nghi hình thức chỉ là những phương tiện bên ngoài, nó chỉ có tác dụng nhứt thời mà thôi. Chính cái nhận diện chiều sâu bên trong, để chuyển hóa vô minh phiền não và để tìm lại con người chơn thật bất tử của chính mình, chính đó mới là điều quan trọng cho sự giác ngộ giải thoát. Và như thế, thì mới thực sự tương hợp với bản hoài của đức Phật ra đời vậy.
Một vài suy niệm về ngày Vu Lan
Vu Lan, đối với tôi nó là một chủ đề quá lớn. Bởi nó nói lên tất cả những gì sâu sắc và rộng rãi bao la trong tình yêu thương. Vu Lan như là một chất keo nối kết lại với nhau trong tình người muôn thuở. Bởi con người vốn đã mang nặng ơn sâu giữa hai cội nguồn huyết thống và tâm linh. Cội nguồn huyết thống là hướng về quá khứ để tìm lại bóng dáng của các bậc tổ tiên tiền nhân. Gần nhứt là ông bà cha mẹ của chúng ta. Đó là những bậc đã dày công tạo dựng trong sự sinh thành giáo dưỡng về thể xác. Nói rộng ra, là những vị đã tạo cho chúng ta có một cuộc sống tương đối an ổn. Vì thế, trong đạo Phật thường nhắc nhở khuyên lơn người ta phải hằng nhớ đến bốn ơn sâu nặng: ơn đất nước của một quốc gia mà ta đang sống, ơn các đấng sanh thành tổ tiên ông bà cha mẹ, ơn các bậc thầy tổ và những thiện hữu tri thức, ơn xã hội nói rộng ra là ơn tất cả chúng sanh.
Ơn chúng sanh hằng tâm ghi nhớ
Ơn nước nhà cũng chớ có quên
Ơn thầy, ơn tổ đáp đền
Ơn cha ơn mẹ trọn nên thân người.
Đối với tứ trọng ơn nầy làm sao ta có thể trả nổi? Ơn nào cũng quá sâu nặng. Nội một ơn thôi, ta còn không thể nào đền đáp cho nổi, nói chi đến bốn ơn. Thường khi nói đến Vu Lan báo hiếu thì, người ta hay nghĩ đến ơn tổ tiên ông bà cha mẹ. Bởi đó là cội nguồn huyết thống trực tiếp với chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta bình tâm suy niệm sâu sắc hơn thì, chúng ta thấy tri ân và báo ân như thế cũng chưa đủ. Bởi tổ tiên ông bà cha mẹ cũng cần có sự sống. Mà sự sống thì đâu phải có một. Nếu không có đất, nước, rừng cây, sông núi, ánh sáng mặt trời, không khí, áng mây v.v...nói chung, những thứ liên quan giúp cho ta có được sống còn thì không thể kể hết. Trong đạo Phật gọi những thứ nầy là nhân duyên. Nhân duyên hay duyên khởi là một thứ giáo lý căn bản xây dựng tạo nên sự sống. Vạn hữu vũ trụ đều hình thành trong mối liên hệ chằng chịt tương quan tương duyên với nhau. Không thể có một vật gì độc lập mà có thể tồn tại được.
Chính vì dựa trên lý thuyết nhân duyên nầy, nên trong kinh thường nói: "Một là tất cả, tất cả là một". Nói theo lý tương tức tương nhập trong kinh Hoa Nghiêm thì, vạn hữu ở trong một hạt bụi và một hạt bụi chứa đựng tất cả vạn hữu. Như vậy, tổ tiên không ngoài ta và ta cũng không ngoài tổ tiên ta. Điều nầy thiết nghĩ không có gì khó hiểu. Thí dụ, bạn gieo hạt bắp xuống đất, khi hạt bắp hội đủ điều kiện để sinh thành cây bắp. Bấy giờ bạn không còn thấy hạt bắp nữa. Tuy bạn không thấy hạt bắp, nhưng hạt bắp đang tiềm tàng trong cây bắp. Nếu như không có hạt bắp thì làm gì có cây bắp? Như vậy, không thấy hạt bắp, bạn tưởng là hạt bắp đã bị mất hẳn đi, nhưng kỳ thật thì hạt bắp nào có mất đi đâu. Vì thế, nhìn sâu sắc hơn, bạn sẽ thấy cây bắp là mang tất cả những gì hạt bắp đã có. Nhìn vào cây bắp là ta biết được hạt bắp không mất. Tuy hạt bắp không mất, nhưng nó đã thay hình đổi dạng trở thành cây bắp rồi. Như vậy, cây bắp chỉ là sự tiếp nối của hạt bắp.
Chúng ta đâu có khờ khạo đến nỗi là phải tìm cho được cái hạt bắp nguyên thủy khi gieo xuống đất. Cái nhìn đó, theo đạo Phật là chúng ta thiếu tuệ giác, vì chúng ta đang kẹt vào hữu tướng. Nếu nhìn sự vật dính kẹt vào hữu tướng thì làm sao bạn có thể thấy được cái vô tướng của sự vật? Cũng thế, nhìn vào thân ta là ta biết có tất cả những tế bào của tổ tiên ông bà cha mẹ của ta. Hình hài ta đang mang đây là một tặng phẩm mà do ông bà cha mẹ tặng cho ta. Vì vậy ta cần phải trân quý giữ gìn và không thể làm tổn thương đến ông bà cha mẹ ta. Bởi ta chẳng qua là một sự tiếp nối của tổ tiên ông bà cha mẹ ta thôi. Ta phải gìn giữ cái truyền thống tốt đẹp đó.
Nếu ta gây ra có hại cho bản thân ta thì chính ta đã làm cho tổ tiên ông bà cha mẹ của ta phải đau khổ. Bởi cây bắp sinh trưởng hình thành từ hạt bắp. Làm sao bạn có thể lấy những tế bào tổ tiên ông bà cha mẹ ra khỏi thân hình bạn? Cũng như bạn không thể nào lấy hạt bắp ra khỏi cây bắp được. Nếu xây dựng bản thân ta tốt đẹp ăn ở cư xử có đạo đức, tất nhiên là ta đã là báo đáp thâm ân cho tổ tiên ông bà cha mẹ của ta rồi. Bởi chữ “Hiếu” nó không phải là cái gì bên ngoài bạn mà chính nó là bạn. Bạn khéo biết tôn trọng bảo vệ sự sống cho bạn và muôn loài, như vậy là bạn đang trả hiếu rồi. Đó là hiếu với chúng sanh, nói cách khác phụng sự chúng sanh là bạn trả hiếu rất rộng lớn. Cái hiếu đó mới thật sự là cái hiếu mà chư Phật và Bồ Tát đã và đang làm. Kinh dạy: “Phục vụ chúng sinh là cúng dường chư Phật”.
Là Phật tử ngoài việc tri ân và báo ân trong phạm vi nhỏ hẹp đối với các đấng sanh thành dưỡng dục có ân sâu nặng với chúng ta ra, thiết nghĩ, chúng ta còn phải trải rộng tấm lòng tri ân và báo ân đối với tất cả muôn loài. Tại sao thế? Bởi vì sự sống của ta không thể tách rời sự sống của muôn loài. Ngược lại sự sống của muôn loài cũng chính là sự sống của ta. Làm sao bạn có thể tách rời mọi thứ ra mà bạn có thể sống còn được? Chỉ cần thiếu một điều kiện thôi là bạn cũng không thể tồn tại được rồi. Như nếu không có không khí thì thử hỏi bạn có thể sống được không? Dù rằng bạn còn hai lá phổi tốt và lỗ mũi cũng không bị hư. Tuy nhiên, chỉ cần thiếu không khí thì làm sao bạn có thể hít thở mà sống được? Do đó, ta có được sinh tồn là phải nhờ ơn tất cả.
Hiểu theo lý nhân duyên như thế, thì chúng ta thấy rằng mình làm khổ đau cho người cũng chính là mình làm khổ đau cho mình. Mình gây ra làm tổn hại đau thương những gì chung quanh mình thì chính mình đã tự gây ra làm đau khổ cho bản thân mình rồi. Vu Lan là gợi nhắc cho chúng ta nhớ lại nguồn sống. Một nguồn sống cần phải được bảo vệ trong ý hướng phục vụ không làm tổn hại đến muôn loài. Bảo vệ sự sống chính đó là cách trả hiếu hay nhứt của đạo làm người. Mình có hiếu với chính mình thì mình mới nghĩ đến cách trả hiếu cho tha nhân vậy.
Chuyện Bên Lề Phật Đản
Mỗi lần Phật đản về, tôi lại nhớ đến một ông bạn Phật tử của tôi. Anh ta là một Phật tử khá thuần thành. Nhưng trước đó anh ta là một người ngang bướng không tin Phật trời thánh thần chi cả. Anh có vợ và hai con. Gia cảnh của anh cũng thuộc về hạng khá giả. Chúng tôi cách xa nhau cũng khá lâu. Lâu ngày không gặp vì hoàn cảnh và cuộc sống của mỗi người mỗi khác. Bỗng hôm nay tình cờ chúng tôi gặp lại nhau trong một khung cảnh vô cùng đặc biệt, đó là lễ kỷ niệm kính mừng ngày đức Phật ra đời. Khi gặp tôi anh ta rất vui mừng. Thấy tôi anh ta mừng rỡ chắp tay chào hỏi một cách rất lễ độ chân tình thân mật. Tôi cũng rất đổi ngạc nhiên và cũng rất xúc động. Thật chúng tôi không ngờ gặp lại nhau ở xứ người. Chúng tôi dắt nhau đến chỗ thanh vắng ít người để hàn huyên tâm sự. Tôi hỏi thăm về đời sống và gia cảnh của anh. Tôi thường gọi anh ta là anh Sáu. Bởi anh vừa là người con thứ sáu trong gia đình mà cũng vừa là tên Sáu. Anh sanh ra và lớn lên ở vùng đất Sài Gòn. Sài Gòn là một thành phố lớn dân cư đông đúc nổi tiếng ở miền Nam.
Sau khi thăm hỏi, anh Sáu liền kể cho tôi nghe một kỷ niệm của một mùa Phật đản mà suốt đời anh không thể nào quên được. Anh nói, trước năm 1975, lúc đó anh ham làm giàu nên ngày đêm chỉ biết miệt mài lo lam lũ làm ăn kiếm tiền, chớ chẵng biết chùa chiền hay nghiên cứu tìm hiểu đạo lý chi cả. Vì lúc đó anh không có niềm tin về bất cứ tôn giáo nào. Mặc dù ông bà cha mẹ của anh là những người có truyền thống theo đạo Phật, nhưng đến đời anh, thì anh hoàn toàn không có tin tưởng. Dù sống giữa thành phố chùa chiền tăng, ni không thiếu, nhưng anh chưa bao giờ quan tâm biết đến. Chưa lần nào anh bước chân đến chùa. Chẳng những thế, lắm khi anh còn bài bác chê bai, khi nghe ai nói đến tăng, ni hay chùa chiền. Anh cho rằng, có người mượn chiếc áo nhà tu để làm những điều trái với lương tâm đạo đức. Chính vì thế, nên anh không muốn đến chùa là vậy. Do đó, anh chưa bao giờ có ý là đến với đạo Phật hay quy y Tam bảo.
Cứ thế, thời gian âm thầm lặng lẽ trôi qua, cho đến khi có một hôm, mấy người bạn thân của anh đến rủ anh đi dự lễ Phật đản. Họ nói, nghe đâu đại lễ Phật đản lần nầy tổ chức lớn lắm. Người ta thiết trí xây dựng lễ đài rộng lớn ở ngoài trời, và có nhiều xe hoa diễn hành trên đường phố nữa. Nghe nói đồng bào Phật tử đến tham dự lễ rất đông. Vậy tụi mình đi xem thử một lần cho biết. Nghe bạn rủ, lúc đầu anh do dự không muốn đi. Bởi anh không có hứng thú gì đến chuyện đó. Nhưng các anh bạn thân nầy cứ hối thúc rủ rê hoài, nên cuối cùng anh cũng chiều theo bạn đi cho biết. Một phần vì ham vui với bạn, một phần cũng vì gợi tánh hiếu kỳ tò mò, để coi có đúng như lời người ta đồn đãi hay không.
Đến nơi, anh thấy cả một rừng người tham dự. Nghĩa là ngoài sức tưởng tượng của anh. Một lễ đài cao lớn được dựng lên ở ngoài trời. Nơi hành lễ là một khuôn viên rộng lớn. Chung quanh lễ đài trang trí cờ xí hoa đèn rất trang nghiêm. Anh nói, còn việc xe hoa diễn hành người ta trang trí thiết kế những chiếc xe hoa thật lộng lẫy. Trên mỗi chiếc xe hoa đều có tượng Phật nhỏ (anh không hiểu tượng Phật gì) và có bốn cô thiếu nữ xinh đẹp đứng bốn góc như để hầu Phật. Thỉnh thoảng, các cô tung hoa như để cúng dường Phật. Những chiếc xe hoa nầy nối đuôi nhau đi diễn hành xuyên qua một vài con đường ở trong thành phố. Thấy thế, anh vô cùng ngạc nhiên. Mọi người đều đứng đầy cả hai bên đường như để đón rước xe hoa và biểu lộ sự kính mừng của họ dâng lên đức Phật. Thú thật, tuy sinh sống ở Sài Gòn lâu năm nhưng anh chưa bao giờ thấy một cuộc diễn hành xe hoa nào lớn như thế.
Vì tới nơi lễ đài còn sớm, khi anh nhìn thấy người ta thiết trí một tượng Phật sơ sanh ở trên lễ đài, gây cho anh sự tò mò muốn biết, nên anh mới hỏi một người đang đứng gần bên anh.
- Dạ, xin lỗi anh, anh có thể cho tôi biết anh tên gì không?
- Tôi tên Thanh. Còn anh?
- Tôi tên Sáu.
- Anh Thanh có phải là Phật tử không?
- Vâng, tôi là Phật tử. Còn anh?
- Tôi chưa có quy y. Tôi chưa biết gì về đạo Phật cả.
- Sao anh đến đây?
- Đến để xem cho biết.
- Vậy anh muốn hỏi điều gì?
- Anh có thể cho tôi biết tượng Phật nhỏ đó ý nghĩa như thế nào? Và tại sao lại có một tay chỉ lên trời và một tay chỉ xuống đất? Anh Thanh nghe tôi hỏi thế, tôi thấy lúc đầu anh tỏ vẻ hơi lúng túng bối rối. Anh ấy hỏi lại tôi.
- Tại sao anh hỏi như thế?
- Vì tôi muốn tìm hiểu một chút vậy mà.
Nói đến đây, bỗng dưng anh Sáu ngừng lại vài giây như để nghĩ ngợi điều gì. Anh nhìn vào đôi mắt của tôi và nói một cách chậm rãi từ tốn. Anh nói, trước khi con kể tiếp cho thầy nghe về những thắc mắc hỏi đáp giữa con và anh Thanh, con muốn nói sơ qua vài nét về anh Thanh cho thầy nghe. Thật ra lần đầu khi con gặp anh Thanh tự nhiên con lại có cảm tình đặc biệt với anh ấy. Khi tiếp xúc, con thấy anh ấy tỏ ra có một cung cách đạo đức khác thường. Sau nầy, khi thân nhau, con mới biết anh ta là một Phật tử rất thuần thành đi chùa học đạo nhiều năm. Anh Thanh còn cho con biết, là anh đã học qua một vài khóa giáo lý Phật pháp căn bản do quý thầy khai giảng hướng dẫn. Đồng thời anh ấy cũng ăn chay trường mấy năm rồi. Anh ta rất hiền từ khiêm tốn nói năng lễ độ. Chính vì cái cung cách đạo đức của anh ấy gây cho con có một cái chú ý cảm tình đặc biệt. Thầy xem đó có phải là một nhân duyên sâu đậm ở tiền kiếp không?
Tôi nói theo lý nhân duyên, nhân quả của Phật giáo thì cũng có thể là như vậy. Nhưng tôi hỏi anh, có phải do cái cung cách đối xử đầy đạo đức tình người của anh ấy mà cảm hóa nhiếp phục làm cho anh phải thay chiều đổi hướng không còn ngang bướng như trước kia nữa phải không? Nếu thế, thì tôi cũng vô cùng cảm phục anh ấy. Vì anh ta có một hấp lực rất lớn làm cho anh phải thay đổi tánh tình. Có đúng như vậy không? Thầy nói như thế cũng có thể lắm. Thú thật với thầy con cũng không hiểu sao, sau khi tiếp xúc nói chuyện với anh ấy, tự nhiện con cảm thấy có cảm tình và mình như trở nên hiền từ mất đi cái tánh ngang tàng bướng bỉnh.
Tôi nói, vậy chớ anh hung dữ lắm sao? Anh chỉ có tánh ngang bướng một chút thôi, chớ kỳ thật anh vẫn là người tốt và anh cũng là con người biết phục thiện mà. Tôi nói thêm, là người biết tu hành thì phải hiền từ chớ. Vừa nói tới đây anh Sáu tỏ vẻ không đồng ý và cãi lại tôi ngay.
- Thầy nói vậy, chớ con thấy có nhiều cha, nhiều chú, nhiều cô, nhiều bà, cũng đi chùa lâu năm, có người còn ăn chay trường nữa kia, ấy thế mà khi gặp việc trái ý nghịch lòng thì tam bành lục tặc của họ nổi lên cao như sóng cồn, họ múa tay quơ chân bậm trợn la ó om sòm hung hăng dữ tợn còn hơn là bà chằng tinh nữa. Nghe thế, tôi lắc đầu cười và nói:
- Anh Sáu ơi! đâu phải ai tu hành cũng hiền từ hết đâu anh. Anh biết, tham, sân, si là những thứ tập khí phiền não căn bản lâu đời và nó mạnh bạo dữ tợn độc hại lắm! Những thứ đó nói thật nhe, chúng nó không phải dễ trừ dễ đoạn đâu anh. Người tu hành phải vận dụng công phu tu hành già dặn miên mật lắm mới mong giảm bớt chúng nó được phần nào. Còn như chúng ta là những người chỉ mới tập sự bập bẹ tu hành, thì làm sao trừ hết lũ chúng nó được. Đã tập tu thì giảm bớt được chút nào tức đỡ được chút đó thôi. Chớ anh đòi hỏi phải hoàn thiện hết sao được. Nếu hoàn thiện hết thì người ta gọi mình là Phật, là Bồ tát rồi, chớ đâu có ai gọi mình là phàm phu tục tử nữa đâu. Chính vì còn vô minh phiền não lẫy lừng dẫy đầy nên mình mới còn là chúng sinh. Trên bước đường tu học mình phải cố gắng thực tập con đường: "Niệm, Định, Tuệ", đây là con đường rất quan trọng vì nó có công năng đưa chúng ta đến chỗ an lạc giải thoát hoàn toàn. Anh Sáu nghe tôi nói thế, có lẽ cũng đồng ý với tôi phần nào nên anh cũng không nói gì thêm.
Nói xong, tôi liền trở lại vấn đề để hỏi anh ta. Anh nói, anh hỏi anh Thanh về việc đó, rồi anh Thanh trả lời với anh như thế nào, anh có thể thuật lại cho tôi nghe được không?
- Được chớ. Con sẽ thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho thầy nghe. Con xin lặp lại câu hỏi của con với anh Thanh.
"Xin anh Thanh vui lòng cho tôi biết cái tượng Phật nhỏ đứng trên bàn, một tay chỉ lên trời và một tay chỉ xuống đất đó nó có ý nghĩa gì? Và tại sao người ta lại tạc tượng nhỏ như vậy?" Anh Thanh mỉm cười nhẹ và trả lời:
- Thưa anh, đó là tượng Phật Thích Ca sơ sanh. Nghĩa là người ta tạc tượng nầy để tưởng niệm lúc Ngài mới ra đời, giống như một đứa bé thơ ngây hồn nhiên vậy. Còn một tay chỉ trời và một tay chỉ xuống đất, rồi Ngài thốt lên câu nói: "Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn". Nghĩa là Ngài tuyên bố: trên trời dưới trời chỉ có cái "Ta" là cao tột là quan trọng hơn hết. Câu nói nầy chứa đựng ý nghĩa rất thâm trầm và sâu sắc. Anh Thanh chưa kịp nói hết lời, con vội cắt ngang liền hỏi tiếp:
- Tại sao cái "Ta" lại quan trọng hơn hết? Lẽ ra người tu hành thì phải diệt trừ cái ngã chớ, sao ở đây nói là nó cao hơn hết? Thật là khó hiểu quá.
Anh Thanh chậm rãi giải thích: cái ngã trong nhà Phật nói tạm chia ra làm hai thứ: giả ngã và chơn ngã. Hằng ngày chúng ta đang sống với cái giả ngã. Anh Sáu ơi! tôi nói cho ông bạn của mình nghe, ở trên cõi đời nầy, người ta đau khổ cũng chỉ vì người ta quá nô lệ cho cái bản ngã, tức cái giả ngã nầy. Ai cũng coi cái bản ngã của mình là quan trọng và cao lớn hơn núi Tu di. Chính vì thế, nên người ta mới có sự tranh chấp cãi vã, đấu đá, chém giết với nhau. Nếu anh được thì tôi phải mất. Hễ tôi thắng thì anh phải thua. Vì ai cũng thấy mình là trung tâm của vũ trụ cả. Kẻ nào hơn mình thì kẻ đó phải chết. Thế giới nầy chiến tranh triền miên không có ngày chấm dứt, cũng chỉ vì do cái chấp ngã tướng đó mà ra. Từ chỗ thấy mình quan trọng hơn hết rồi đến cái lập thuyết hay cái chủ thuyết của mình đặt ra, cũng là không có lập thuyết nào cao siêu hay bằng của mình. Do đó, nên bắt buộc người khác phải nghe và làm theo cái chủ thuyết của mình. Kẻ nào chống đối hay đi ngược lại thì bằng mọi cách là phải tiêu diệt họ. Đó là nói cái bản ngã thông thường của người đời vọng chấp gây ra đau khổ cho nhau là thế. Tuy nhiên, cái ngã ( Ta ) mà Phật nói ở đây không nằm trong phạm trù của cái ngã thông thường đó.
Anh Thanh nói đến đây, con liền hỏi:
- Ngoài cái ngã thông thường như anh đã nói, vậy còn cái chơn ngã là như thế nào? Xin anh vui lòng cho tôi biết thêm. Anh Thanh từ tốn nói:
- Cái ngã mà Phật muốn nói ở đây đó là cái chơn ngã, chớ không phải là cái giả ngã. Cái ngã nầy nó không nằm trong phạm trù duyên sinh đối đãi. Vì nó vượt ra ngoài thời gian và không gian. Tuy tôi và anh cũng như mọi người không thể thấy được cái chơn ngã nầy, nhưng không phải là nó không có. Như anh không thể thấy được điện hay gió, anh chỉ thấy được cái bóng đèn hoặc lá cây rung thôi, nhưng phải nhờ có hai hiện tượng nầy mà anh mới có thể biết được điện và gió. Vì nếu không có điện hay gió thì làm sao đèn cháy và lá cây rung? Tuy chúng ta không thấy nhưng nó vẫn có cái tác dụng. Vấn đề nầy thật là khó hiểu. Như trình độ của tôi và anh, chúng ta không thể nào hiểu thấu được hết đâu.
Anh Thanh nói tiếp: nếu chúng ta muốn nhận ra vấn đề nầy, thì cần phải trải qua thời gian tu học thực tập lâu dài. Vì đây là cần phải thân chứng chớ không thể chỉ nói suông trên ngôn ngữ văn tự mà hiểu được. Khi đức Phật nêu cao cái tôn chỉ nầy qua cái biểu tượng bằng cách: tay chỉ trời, tay chỉ đất, sau đó, khi lớn lên Ngài vượt thành xuất gia và trải qua thời gian tu tập thiền quán, cuối cùng, Ngài đã chứng nhập với cái đại ngã hay chơn ngã và trở thành một vị Phật mà người đời tôn xưng Ngài là ông Phật Thích Ca Mâu Ni.
Anh Sáu kể cho tôi nghe tới đây, chúng tôi lần bước vào trước cửa chánh điện và anh nhìn lên tượng Phật sơ sanh ở trên bàn, bỗng dưng như ngộ ra điều gì, anh ta liền nói với tôi: Bây giờ con mới hiểu lý do tại sao mỗi năm khi thiết lễ kỷ niệm ngày đức Phật ra đời, thì người ta lại tắm rửa Ngài và đặt Ngài vào một vị trí cố định đứng ở trên bàn để mọi người chiêm bái lễ lạy. Không chờ anh ta nói tiếp, tôi liền hỏi:
Vậy theo anh, thì anh hiểu như thế nào về ý nghĩa tượng trưng nầy?
Anh ta nói, theo con hiểu, sở dĩ mà Ngài có mặt ở cõi đời nầy cũng chỉ vì một mục đích duy nhất là Ngài muốn chỉ bày cho tất cả chúng sinh đều phải nhận ra cái ông Phật thiệt sẵn có của mình. Còn ông Phật bên ngoài chỉ là ông Phật tượng trưng thôi. Nương ông Phật tượng trưng bên ngoài để chúng ta thầm nhận lại ông Phật thiệt của chính mình. Nhà thiền gọi là "kiến sắc minh tâm". Vì tượng Phật bên ngoài cũng chỉ là hình tượng giả thôi. Tuy giả, nhưng mình cũng phải tôn kính cúng dường lễ bái. Mục đích là để cho mình tưởng nhớ đến những công hạnh từ bi vị tha của Ngài. Nhớ để mình học hỏi và thật hành theo những gì mà Ngài đã làm. Tuy nhiên, nếu mình một bề chỉ biết có ông Phật bên ngoài không thôi, thì mình sẽ trở thành là kẻ mê tín Phật, tức mê tín ở nơi sự tướng. Đó là những lời mà anh Thanh đã giải thích giảng giải cho con nghe.
Bây giờ tôi xin hỏi anh, anh có còn nhớ câu nói trong Kinh Kim Cang Bát Nhã Phật dạy như thế nào không? Anh Sáu trả lời, tất nhiên là con còn nhớ chớ. Tôi nói tiếp:
- Vậy, anh có thể đọc câu đó cho tôi nghe thử.
- Câu đó Phật dạy là: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai".
- Đó là anh đọc theo chữ Hán Việt, bây giờ xin anh dịch nghĩa ra tiếng Việt của mình.
- Nghĩa của câu đó là: Phàm cái gì có hình tướng đều là hư dối không thật. Nếu thấy các tướng chẳng phải là cái tướng chân thật, chính đó mới có thể thấy được Như Lai. Như lai ở đây có nghĩa là không sinh không diệt. Chớ không phải Như Lai là chỉ cho ông Phật ứng thân ở bên Ấn Độ.
- Đúng vậy. Thế là anh đã hiểu khá rồi đó.
- Xin thầy đừng nói thế. Con chỉ học được lõm bõm ở nơi kinh điển chỉ dạy chút đỉnh thôi. Tôi nói:
- Mình gặp nhau chỉ muốn trao đổi chút ít Phật pháp với nhau thôi. Tôi nói tiếp, lâu ngày gặp lại anh, phải thành thật mà nói, anh khá tiến bộ và khá giỏi giáo lý rồi đó nhe. Nói rồi, chúng tôi cười xòa với nhau bằng những nụ cười cảm thông và hiểu nhau hơn. Cứ ngỡ câu chuyện trao đổi đến đây là xong, nhưng anh Sáu lại nói tiếp:
- Thưa Thầy, đức Phật đâu có muốn cho mình dính mắc ở nơi hiện tượng. Bởi bất cứ hiện tượng nào trên thế gian nầy cũng đều là sinh diệt giả dối cả. Đã thế thì làm sao tồn tại được? Chỉ có ông Phật không hình, không tướng, không sinh, không diệt, không đến, không đi... chính ông Phật đó mới là chơn thật, mà thường trong kinh gọi là "Thật tướng", tức cái tướng "KHÔNG" của muôn pháp.
Còn cái ta mà mình đang có ở đây, chỉ là cái ta giả dối tạm bợ. Cái ta nầy nó chỉ tồn tại một thời gian nào đó rồi cũng sẽ bị hoại diệt. Bởi do mình không thấy được cái "Ta" chơn thật, mà lầm chấp chặt vào cái ta giả dối hư huyễn nầy, nên vì nó mà mình tạo ra không biết bao nhiêu thứ nghiệp ác, để rồi mình phải bị chiêu cảm vào con đường ác, chịu khổ trầm luân vĩnh kiếp không biết đến ngày nào mới được thoát ra! Thưa con hiểu như thế không biết có đúng không?
Tôi nói: Đúng thế.
Đến đây, tôi mới hỏi anh Sáu, xin lỗi anh, anh có thể cho tôi biết, sau ngày tôi từ giã chia tay với anh vào một buổi chiều cũng trong mùa Phật đản ở trước cửa nhà anh, sau đó, anh làm gì? và anh có thường đi chùa và thường đi dự lễ Phật đản hằng năm không?
Anh Sáu không ngần ngại liền cho tôi biết:
- Thưa Thầy, từ sau ngày con và thầy chia tay nhau, con được cái may mắn là nhờ gặp được anh Thanh và nhờ anh ấy hướng dẫn dìu dắt con đi vào con đường tìm hiểu Phật pháp thêm. Cũng do nhân duyên đi dự lễ Phật đản lần đầu rồi sau đó anh Thanh hướng dẫn con đến chùa quy y và thỉnh thoảng con đi dự nghe những buổi thuyết pháp. Sau đó, con lại gặp anh và anh cũng đã tận tình chỉ dẫn cho con về giáo lý, những lễ nghi và cách xưng hô đối với chư tăng, ni trong chùa. Nhờ đó nên con mới hiểu được phần nào về những lễ nghi phép tắc trong chùa và giáo lý.
Sau ngày thầy đi, con vẫn tiếp tục thường xuyên đến chùa và may mắn là con được tham dự vài khóa học giáo lý do quý thầy mở ra. Đó là những khóa học giáo lý cơ bản mà quý thầy đã dành riêng cho các cư sĩ nam nữ theo học. Nhờ vậy, nên bây giờ con mới hiểu được chút ít Phật pháp để trao đổi trò chuyện với thầy. Dẫu sao, con cũng cám ơn thầy nhiều, nhờ thầy mà con mới bước chân vào con đường đạo vững vàng hơn. Lúc mới gặp quen biết với thầy, thú thật lúc đó con chưa tin tưởng hiểu gì về Phật pháp cả. May nhờ gặp được anh Thanh rồi nhờ anh ấy dẫn dắt nên nay con mới hiểu được Phật pháp chút ít như vậy. Tôi nói, anh đừng quên người xưa có câu nói: "Học thầy không tầy học bạn" . Thầy bạn tốt đều là những vị thiện hữu tri thức của mình. Sự tu học của mình rất cần đến sự giúp đỡ chỉ giáo của các bậc thiện hữu tri thức. Tôi rất mừng cho anh, dù rằng xưa kia tôi được quen biết với anh không bao lâu thì chia tay, nay gặp lại thấy anh có sự thay đổi về tánh tình cũng như tiến bộ khá về sự cần chuyên tu học. Điều đó cho thấy anh là người có ý chí phục thiện cầu tiến và chịu khó học hỏi.
Chúng tôi trao đổi với nhau bằng những lời lẽ chân tình và thân mật. Sắp đến giờ hành lễ, tôi nói với anh Sáu là bây giờ tôi phải đi lo công việc và khi nào rảnh rỗi anh sẽ đến gặp tôi. Anh ta dạ và rồi bước vào bên trong chánh điện tìm chỗ ngồi cùng với quý Phật tử để chuẩn bị cho buổi đại lễ Phật đản chánh thức bắt đầu. Có một điều trùng hợp thật lạ là ngày chúng tôi chia tay nhau cũng trong mùa Phật đản, nay chúng tôi gặp lại nhau cũng trong mùa Phật đản. Chỉ có khác nhau về thời gian và không gian đó thôi. Đồng thời cũng khác nhau về sự thay đổi của một con người, từ một con người không có niềm tin Phật pháp mà nay trở thành một người không những có niềm tin thôi, mà còn tìm hiểu học hỏi Phật pháp khá sâu sắc. Quả đó là một nhân duyên túc căn kỳ đặc mà thông thường chúng ta thật khó hiểu được.
Hôm ấy, buổi lễ Phật đản diễn ra thật vô cùng trang nghiêm trọng thể với sự tham dự đông đảo của chư Tăng, Ni và quý đồng hương Phật tử. Chúng tôi thành tâm thắp nén hương lòng tụng kinh cầu nguyện hồng ân Tam bảo gia hộ cho âm siêu, dương thới và pháp giới chúng sinh đều trọn thành thành Phật đạo.
Ghi lại đôi dòng để tưởng niệm một người bạn đầy chân thành trong tình người và tình đạo.
Vu Lan và tuổi thơ
Kính dâng lên hương hồn Cha Mẹ
Thân tặng các bạn trẻ đồng cảnh ngộ.
Cứ mỗi độ Vu lan về, lòng tôi rộn lên bao nỗi nhớ nhung về khoảng đời thơ ấu. Người ta thường chia đời người ra làm ba giai đoạn: "thiếu niên, trung niên và lão niên". Trong ba giai đoạn đó, thì giai đoạn ở vào cái lứa tuổi thiếu niên, phải nói là có nhiều thơ mộng êm đẹp nhứt. Vì đó là cái tuổi thanh xuân rất hồn nhiên ngây thơ trong trắng. Cái tuổi nghĩ sao nói vậy, không biết lừa đảo, gian xảo, nịnh bợ, ton hót, mánh lới, thủ đoạn, gian ác, như ở vào cái tuổi của người lớn. (Xin lỗi không phải người lớn nào cũng gian ác hết cả, nhưng chung chung là như thế). Cái tuổi mà ngày hai buổi chỉ biết cắp sách đến trường học và đùa vui với chúng bạn.
Đó là lúc ở nhà trường, còn khi ở nhà, thì trẻ thơ thường hay đòi quà làm nũng nịu nhõng nhẽo với mẹ. Khi có lỗi, bị mẹ la rầy quở phạt, thì liền giãy nảy làm eo làm sách với mẹ, vì biết mẹ lúc nào cũng thương yêu chiều chuộng mình. Cái đánh của mẹ cũng là biểu lộ cái nỗi lòng thương yêu của mẹ. Vì tận thâm tâm của mẹ, lúc nào người mẹ cũng muốn cho con mình ngoan ngoãn, học hành giỏi giang, để có một tương lai sáng lạn huy hoàng. Mai sau thành tài đỗ đạt làm rạng danh nở mặt nở mày cho tông môn dòng họ và có một đời sống hanh thông hạnh phúc vui tươi không thua sút chúng bạn. Đồng thời cũng là để đóng góp giúp ích phần nào cho xã hội.
Đó là nỗi lòng ước muốn mong mỏi của bất cứ người cha mẹ nào bình thường cũng đều như thế cả. Nói bình thường, vì ở đời, cũng có những cha mẹ hành xử rất ác độc với con cái. Thậm chí, họ còn nhẫn tâm giết chết con mình mà không một chút thương xót ngại ngùng. Họ đã tán tận lương tâm. Lương tâm đạo đức làm người của họ đã thực sự mất hết nhơn tính. Họ không còn xứng đáng làm người trong xã hội loài người nữa. Ngoài một số ít người cha, người mẹ ác độc bất bình thường nầy ra, còn lại, tất cả là các bậc cha mẹ thật đáng yêu thương kính phục. Công lao sanh dưỡng con cái của cha mẹ thật quá lớn lao, như non cao bể cả, không sao nói hết.
Riêng tôi là một đứa trẻ thơ thật bất hạnh. Tôi ra đời vừa tròn ba tuổi là đã mất cha. Cha tôi mất, vì một cơn bạo bệnh, trong lúc gia đình đang lánh nạn chạy trốn giặc Pháp. Đó là vào thập niên 1940. Đây là thời kỳ chiến tranh nảy lửa bộc phát dữ dội giữa Việt Minh và giặc Pháp. Tôi chào đời vào thời điểm dầu sôi lửa bỏng đó, tức vào năm 1945. Như bao nhiêu dân làng khác, gia đình tôi phải tản cư đến một nơi tương đối an ổn để tạm trú. Nghĩa là tránh xa nơi mà giặc ít đi hành quân ruồng bố. Từ khi cha tôi mất (1947) , mẹ tôi phải đóng hai vai: "vừa làm cha vừa làm mẹ", sớm chiều bà phải lặn lội buôn bán tảo tần tất tả ngược xuôi vất vả để nuôi con.
Nhớ lại, có lần tôi trốn học theo mấy đứa bạn ra ngoài đồng đi kiếm châu chấu hoặc bắt dế cho đá chơi. Đây là trò chơi mà các lũ trẻ như bọn tôi thích nhất. Tôi bỏ học đi ngao du ngoài đồng nội, mãi cho đến chiều gần tối mới về nhà. Vì mải miết mê chơi, nên tôi quên mất thời gian. Cho nên, hôm đó tôi về trễ hơn mọi khi. Thấy tôi về trễ, mẹ tôi hỏi lý do tại sao? Có phải trốn học đi chơi không? Tôi chối quanh và viện cớ nói dối không dám nhận tội. Mẹ tôi tức giận, bà la quát lên và liền đi gặp đứa bạn học cùng lớp với tôi để hỏi cho ra lẽ. Sau khi biết được sự thật, tôi bị một trận đòn đau điếng. Tuổi trẻ vì quá ham vui, mà phải mang cái tội nói dối với mẹ. Nhưng làm sao qua mặt được mẹ chớ? Lần đầu tiên, tôi mới thấy mẹ tôi giận dữ như vậy. Đó là trận đòn chí tử để đời, mà tôi thật khó quên! Sau khi ăn đòn xong, bà phạt tôi bằng cách phải đứng yên khoanh tay, không được cục cựa nhúc nhích.
Bà nói, con có biết tại sao hôm nay mẹ đánh con đau và còn bắt phạt hành hạ con nữa không? Lúc đó, tôi không trả lời trả vốn chi cả, chỉ biết tức giận và khóc thút thít làm hờn dỗi mà thôi. Mẹ tôi nói tiếp: "con có biết không, từ ngày cha con mất tới giờ, một mình mẹ phải buôn tảo bán tần, gánh vác việc nhà lo lắng đủ thứ, dù cho có cực khổ đến đâu, mẹ cũng có thể chịu đựng được cả, nhưng miễn sao con cố gắng siêng năng học hành là mẹ đã vui lòng lắm rồi. Sao con lại bỏ học theo mấy đứa bạn không ra gì cặp bè cặp bạn đi rong chơi cho hết ngày hết buổi. Con có biết là con không có cha không? Con có biết là mẹ đã cực khổ lắm không? Mẹ chỉ mong con ráng học hành để mai sau đời con không phải cực khổ vất vả như mẹ. Đó là mẹ muốn cho con nên danh nên phận sau nầy. Từ nay trở đi, con không được bỏ bê việc học hành như thế nầy nữa nghe chưa".
Mẹ tôi răn dạy rất nhiều nhưng tôi chỉ còn nhớ loáng thoáng đại khái như thế. Chính những lời dạy dỗ chí tình chí thiết đó, mà tôi cưu mang trong tâm trí suốt cả cuộc đời. Bây giờ nghĩ lại, sao hồi đó tôi quá ngu ngơ khờ dại. Tôi chỉ biết làm cho mẹ giận, mà không biết làm cho mẹ vui. Tôi chỉ làm khổ mẹ thôi. Phải chi nghe mẹ nói như thế, tôi liền chạy đến ôm lấy mẹ thật chặt vào lòng và rồi khẽ nói với mẹ: "xin mẹ hãy tha thứ lỗi lầm cho con, vì con lỡ dại dột một lần, và chỉ một lần nầy thôi! Con xin hứa với mẹ từ giờ trở đi, không bao giờ con dám làm như thế nầy nữa". Nếu tôi thốt ra được những lời lẽ hối cải dịu ngọt như thế, thì chắc chắn là mẹ tôi cảm động vui mừng đến rơi lệ và bà sẽ thương yêu tôi nhiều lắm! Dĩ nhiên, lúc đó, chắc chắn là hai mẹ con tôi sẽ ôm chặt lấy nhau quyện trong vòng tay yêu thương mà cùng khóc. Được thế, thì quả đó là tôi đã tặng cho mẹ tôi một món quà vô giá rất lớn. Nhưng vì lòng tự ái tức giận bị đòn của tuổi thơ, tôi đâu có nghĩ ra và làm được như thế.
Bây giờ nghĩ lại, tôi mới thấy mình là kẻ quá ngu ngơ khờ dại. Đọc đến đây, chắc các bạn trẻ ở đây, cho là mẹ tôi ác quá! Tại sao phải dùng roi đánh đập con mình như thế? Nếu như ở Úc nầy mà có hành động như thế, thì mẹ tôi sẽ bị luật pháp ghép vào cái tội bạo hành trong gia đình. Nhưng, xin thưa với các bạn trẻ, nếu các bạn sống lùi lại với thế hệ của chúng tôi khi xưa, thì chắc các bạn không có ý nghĩ lên án gắt gao như thế đâu. Bởi vì mỗi thời đại mỗi khác. Nhất là mỗi nước có mỗi nền văn hóa khác nhau. Đối với nền văn hóa Việt Nam thời xưa, việc cha mẹ dạy dỗ con cái dùng roi vọt đánh con, đó là chuyện bình thường trong xã hội. Bởi thế có câu: "Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi". Đối với xã hội ngày nay, thì phải đổi câu nói nầy ngược lại. Nếu không đổi ngược lại, thì các bậc phụ huynh sẽ bị mang trọng tội bạo hành trong gia đình. Nhờ những ngọn đòn đó mà tôi cũng như những đứa trẻ cùng thế hệ như tôi mới trở nên người hữu dụng cho gia đình và xã hội sau nầy.
Từ dạo đó, tôi không còn dám tái phạm một lần thứ hai. Thú thật, khi bị mẹ đánh đau, dù biết mình có lỗi thật đó, nhưng vẫn buồn giận mẹ ghê lắm. Cứ nghĩ mẹ không còn thương mình nữa. Nếu thật tình thương thì bà đâu có đánh mình mạnh tay đau điếng như thế. Nếp nghĩ của tuổi ngây thơ như tôi hồi đó, thật đơn giản chỉ có thế thôi. Tôi nghĩ chắc những đứa trẻ khác đồng trang lứa tuổi như tôi chắc cũng có những nếp nghĩ ngây ngô đơn giản giống như tôi.
Dù gia đình tôi không khá giả, vì có mỗi một mình mẹ tôi phải lo trong, lo ngoài, thì làm sao đời sống kinh tế có thể sung túc cho được? Nhưng không phải vì thế, mà mẹ tôi bảo tôi phải nghỉ học. Mẹ tôi ngày đêm vất vả bán buôn kiếm từng đồng, từng cắc, chắt chiu để lo cho anh em tôi đi học. Nhưng hai anh tôi, thấy mẹ tôi cực khổ không thể chịu đựng được, nên hai anh quyết định nghỉ học để phụ giúp công việc với mẹ tôi. Đầu tiên, là người anh thứ hai nghỉ học trước, rồi thời gian sau đến người anh thứ ba. Nghĩa là hai anh tôi, chưa người nào học xong trung học. Vì thời buổi giặc giã đâu phải dễ kiếm ra tiền mà nuôi lo cho con ăn học thành tài. Nhất là chỉ có mỗi một mình mẹ tôi. Dù mẹ tôi không bằng lòng nhưng hai anh tôi vẫn quyết định như thế.
Thế là hai anh tôi bắt đầu dấn thân lăn lóc vào đời phụ kiếm thêm tiền để trang trải chi phí cho gia đình. Người anh thứ hai, chỉ giúp gia đình không bao lâu thì anh lại tham gia kháng chiến. Anh gia nhập bộ đội Việt Minh để chống Pháp. Còn lại người anh thứ ba phụ giúp công việc nhà với mẹ tôi. Như vậy, chỉ còn lại một mình tôi tiếp tục đi học.
Thú thật, lúc đầu, thấy hai anh tôi nghỉ học giúp việc cho mẹ tôi, tôi cũng có ý muốn xin mẹ nghỉ học. Có lẽ mẹ tôi hiểu ý, nên bà liền khuyên giải thiệt hơn cho tôi nghe về vấn đề lợi ích của việc học hành. Bà nói, con đừng bắt chước hai anh con mà nghỉ học. Dù mẹ có cực khổ vất vả đến đâu, mẹ cũng quyết cho con ăn học tới nơi tới chốn. Nếu con mà bỏ ngang việc học thì mẹ đây rất đau buồn lắm! Con có biết không, trước khi nhắm mắt lìa đời, cha con đã đôi lần trăn trối, người gắng gượng thều thào nói với mẹ. Ông ta dặn đi dặn lại là dù hoàn cảnh nào, bà cũng phải ráng lo nuôi cho con ăn học, đừng để cho con nó dốt nát mà tội nghiệp khổ cho đời nó! Vì lời trăn trối của cha con nên dù mẹ có chết, cũng phải ráng tận tụy hy sinh khoảng đời còn lại của mẹ để lo cho con ăn học. Mẹ không muốn đứa con không cha của mẹ, phải dốt nát hư hỏng để người ta chê cười. Rằng, mẹ không lo nổi cho con.
Những lời khuyên giải cặn kẽ của mẹ tôi hồi đó, dù nay đã trải qua mấy mươi năm rồi, nhưng nó vẫn còn in hằng trong tâm khảm của tôi. Mỗi năm Vu Lan về, như làm sống dậy cái tuổi thơ của tôi. Từ ngày học hỏi hiểu được chút ít giáo lý nhà Phật, tôi mới thấy rằng, cụm từ "Vu Lan, Mẹ và Tuổi thơ" của tôi, như có một nhân duyên kỳ lạ, chúng quyện chặt vào nhau tự bao giờ. Hễ mỗi lần nghĩ đến Vu Lan là nghĩ đến mẹ mà nghĩ đến mẹ, thì khoảng đời tuổi thơ của tôi lại sống dậy hiện về.
Giờ đây, tôi đã thật sự mất mẹ, ít ra cũng trên thể chất hình hài. Dù vẫn biết trong dòng máu luân lưu của tôi có hình bóng của mẹ tôi. Không những chỉ có mẹ tôi thôi, mà còn có cả cha tôi, anh em tôi và cho đến cả tổ tiên dòng họ huyết thống của tôi nữa. Vì tôi là sự tiếp nối của những dòng máu của các tế bào luân lưu đó. Làm sao tôi có thể lấy ra những tế bào đó trong tôi cho được? Chính vì vậy, khi tôi đang viết những dòng chữ nầy, vẫn có mặt dòng họ huyết thống tổ tiên ông bà cha mẹ nội ngoại của tôi. Những vị đó thường xuyên có mặt và luôn phù hộ độ trì cho tôi. Vì thế, tôi không cảm thấy trong lòng tôi trống vắng cô đơn như mọi người đã lầm tưởng. Tuy nhiên, nếu nhìn ở góc độ Tục đế hay Thế giới tất đàn như trong nhà Phật đã nói thì tôi đã thật sự mất đi cái hình hài thể xác của cha mẹ tôi. Và tôi cũng không còn có cơ hội để làm cho mẹ tôi vui lòng với tôi được nữa. Nhưng xét về lý tương quan nhân duyên, nhân quả, nếu như tôi cố gắng làm người tốt, sống có phẩm chất nhân cách đạo đức tu tâm sửa tánh đàng hoàng, thì chắc chắn cha mẹ tôi cũng sẽ cùng vui chung với tôi và chúc mừng cho tôi.
Theo cái nhìn của khoa học thực nghiệm, thì đó là một sự thật, không thể chối cãi được. Vì khi hạt bắp mất đi, ta tưởng là hạt bắp mất hẳn, nhưng ta đâu có biết rằng, hạt bắp đã biến thành cây bắp. Nếu không có hạt bắp, thì làm gì có cây bắp? Với cái nhìn sắc bén theo nhãn quan tuệ giác của đạo Phật, thì nhìn cây bắp ta có thể thấy rõ được hạt bắp đang tiềm tàng trong cây bắp. Vì cây bắp là kết quả của hạt bắp. Và chính cây bắp đó đủ nhân duyên sẽ kết thành trái bắp. Cứ thế mà luân lưu tồn tại, không có gì mất hẳn đi cả.
Trải mấy mùa thu lá rụng vàng
Bao rằm tháng bảy đón Vu Lan
Lòng con quặn thắt vì thương nhớ
Hoa trắng cài lên lệ ướt tràn!
Mẹ đã cho con cả cuộc đời
Nhọc nhằn vất vả để con chơi
Còng lưng mẹ gánh thân nào quản
Chỉ muốn con mình sống vui thôi
Mẹ đã đi rồi bỏ lại con
Chiều thu bóng mẹ đã không còn
Bầu trời lặng chết còn đâu nữa
Biết đến bao giờ gặp lại con!
Tiếng dế kêu sầu khóc nỉ non
Đêm khuya tỉnh giấc mẹ tôi còn
Dòng sông vẫn chảy luôn còn đó
Nhịp thở tế bào mẹ trong con
Hôm nay viết lại những dòng chữ nầy, trước hết là để tạ lỗi với mẹ tôi, người đã ban tặng hy sinh cho tôi cả cuộc đời. Một cuộc đời cực khổ đắng cay mà người chẳng quản gian lao khó nhọc suốt đời chỉ biết tận tụy hy sinh cho chồng, cho con. Tôi biết mẹ tôi phải chịu đựng đau khổ lắm, vì chỉ trong vòng hai năm thôi, mẹ tôi phải mất đi ba người con. Hai người con trai thứ năm, thứ sáu và người con gái thứ tư. Đó là sự chia ly vĩnh viễn đau thương nhất trong cuộc đời. Theo lời mẹ tôi kể lại, lúc đó, cha tôi như người điên dại, ông bỏ phế hết việc nhà để cho một mình mẹ tôi gánh vác. Ông đi lang thang như người mất hồn. Như thế, là ông cũng khổ tâm lắm! Ông có thể khổ hơn mẹ tôi nữa. Mẹ tôi không trách cứ cha tôi. Ngược lại, bà rất thông cảm cho sự quẩn trí của ông. Vì bà biết rằng, đó cũng là nghiệp quả của mình phải gánh chịu. Dù mẹ tôi có đau khổ tận đáy lòng, nhưng bà cũng phải can đảm cắn răng chịu đựng, chớ biết than trách cùng ai! Ái biệt ly khổ là thế đấy! Đó là lẽ thật của cuộc đời, ít nhiều không ai tránh khỏi. Thế mới biết sức nhẫn nại dẻo dai và đảm đang quán xuyến việc nhà của người phụ nữ Việt Nam. Người phụ nữ Việt Nam có đức tánh hy sinh cao cả rạng ngời, quyết làm tròn bổn phận của một người vợ, người mẹ trong gia đình.
Nói lên điều nầy, mục đích của tôi cũng là để tri ân công lao sanh thành giáo dưỡng nặng mang của cha mẹ, người đã cho tôi có một hình hài vóc huyễn để góp mặt với cuộc đời và làm lợi ích chút ít cho đời. Đó là tâm nguyện duy nhất của cha mẹ tôi khi người còn sanh tiền. Nói lên điều nầy, chúng tôi không có ý muốn khuyên các bạn trẻ đừng phải để hối hận ăn năn luyến tiếc như tôi. Tôi chỉ muốn các bạn khi còn cha mẹ, các bạn nên khéo biết tận hưởng tất cả những gì mà cha mẹ đã thật sự ban tặng cho các bạn. Nhất là đừng bao giờ khờ khạo như tôi: "chỉ biết làm cho mẹ giận mà không biết làm cho mẹ vui". Mong các bạn hãy trân quý hiếu dưỡng khi cha mẹ còn hiện tiền. Bạc tiền của cải hay bất cứ những thứ gì khác, ngay cả việc thay vợ đổi chồng, bạn đều có thể làm và tạo ra được cả, nhưng đối với cha mẹ một khi đã mất rồi, thì bạn đừng mong tìm kiếm lại được. Xin các bạn nên lưu tâm qua hai câu thơ bất hủ mà cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã nhắn gởi, thức nhắc chúng ta trong truyện Kiều:
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao.
Ngũ Uẩn Giai Không
Trong văn hệ Bát nhã cụm từ nầy hầu như đại đa số Phật tử chúng ta đều biết. Dù chúng ta đọc tụng bất cứ quyển kinh nào trong những dịp lễ lộc như cầu an, cầu siêu, cúng ngọ, sám hối v.v… thì cũng đều có đọc tụng bài Bát nhã tâm kinh. Bởi bài kinh nầy rất quan trọng nên đã được chư Tổ liệt nó vào trong những thời khóa tụng. Mở đầu bài Tâm kinh có câu: “Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến “ngũ uẩn giai không” độ nhứt thiết khổ ách”. Câu nầy có nghĩa là: “Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ tát thật hành sâu xa pháp Bát nhã Ba la mật đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách”. Quán Tự Tại là danh hiệu khác của Bồ tát Quán Thế Âm. Tại sao không gọi Quán Thế Âm mà gọi là Quán Tự Tại? Bởi Quán Thế Âm là nói về cái nhân địa mà Bồ tát trong lúc tu nhân, còn Quán Tự Tại là nói về cái quả vị mà Bồ tát đã đạt được. Tự Tại, ý nói Bồ tát không còn kẹt dính mắc vào các pháp đối đãi nhị nguyên, vì Ngài đã vượt ra ngoài những phạm trù sinh, diệt hai đầu đối đãi. Nói cách khác, là không còn dính kẹt vào ngã và pháp chấp. Vì thế, nên Ngài tới lui qua lại tự tại trong bầu trời tự do giải thoát không có gì bị ngăn ngại cả.
Khi Bồ tát thật hành sâu xa pháp Bát nhã Ba la mật đa, Ngài thấy năm uẩn đều không. Thế nào gọi là hành thâm? Nghĩa là Bồ tát nhờ vận dụng trí Bát nhã chiếu soi nên thấy “Ngã, Pháp” đều không. Chỉ có trí Bát nhã mới thấy được như thế. Ở đây, chúng tôi muốn trình bày qua vài nét về ý nghĩa của tiêu đề “Ngũ uẩn giai không”, mà lâu nay chúng ta thường gặp trong lúc đọc tụng kinh điển. Vẫn biết tiêu đề nầy nghĩa lý rất là thâm sâu huyền diệu, mà sự hiểu biết của chúng tôi thì có giới hạn, nên chúng tôi chỉ nói lên những gì qua sự nghiên tầm học hỏi hiểu biết thô thiển của chúng tôi thôi. Đó là điều mà chúng tôi xin được thưa trước cùng quý độc giả. Nếu trong khi trình bày có điều gì sai sót lầm lẫn thì xin các bậc cao minh cụ nhãn cũng hoan hỷ bỏ qua và chỉ giáo cho. Kẻ hậu học thô lậu nầy xin hết lòng tri ân và đa tạ.
Trước hết, chúng ta thử tìm hiểu từ ngữ Ngũ uẩn là gì? Ngũ uẩn tiếng Sanskrit là Panca Skandha, Pali là Panca Khandhà, Trung Hoa dịch là Sắc uẩn (Rùpaskandha), Thọ uẩn (Vedanàskandha), Tưởng uẩn (Samjnàs-kandha), Hành uẩn (Samskàra-skandha) và Thức uẩn (Vijnànaskandha).
Trong lịch sử dịch kinh điển ở Trung Hoa, trải qua nhiều giai đoạn, tùy theo mỗi thời đại mà sự phiên dịch có phần sai khác. Trong quyển Ngũ Uẩn Vô Ngã, do Nhà Xuất Bản Tôn Giáo – Hà Nội – 1999, cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu có nêu ra qua nhiều giai đoạn phiên dịch như sau: “Giai đoạn đầu, các Ngài chỉ dịch âm chứ ít dịch nghĩa; ví như Skandha là chữ Sanskrit, dịch âm là Kiền độ hay Tắc kiền đà, đó là vào khoảng năm 300 Tây lịch trở về trước. Chữ Kiền độ hay Tắc kiền đà nầy có thể tìm thấy trong Luật tạng, như Ngũ phần giới luật ở chương nói về Giới, phần Tác trì nói có 20 Kiền độ… Giai đoạn hai, đến khi Ngài Cưu ma la thập qua Trung Hoa vào năm 402 thì không dịch âm nữa mà chuyển sang dịch nghĩa, tức là dịch thẳng từ tiếng Sanskrit ra chữ Trung Hoa; ví như Ngũ chúng, Ngũ ấm, Ngũ thọ ấm hay Ngũ thủ uẩn”.
Chữ Skandha dịch đúng nghĩa phải dịch là Ngũ uẩn. Ngài Huyền Trang sau thời gian du học ở Ấn Độ trải qua 16 năm, khi trở về nước Ngài cũng dịch chữ skandha là uẩn. Chữ uẩn có nghĩa là tụ tập, tích tập, theo từng loại, nhóm họp theo từng loại, cùng loại, cùng với tính chất giống nhau, nhóm lại một nhóm gọi là Uẩn. Ngũ uẩn tức là năm nhóm bị Ái, Thủ chấp trước nên gọi là Ngũ thủ uẩn. Như vậy, Skandha dịch sát nghĩa là Uẩn đó là dịch theo văn Hán. Ngược lại, chữ Skandha nầy Ngài Cưu ma la thập dịch là Ấm. Lý do tại sao Ngài dịch như thế? Bởi vì Ngài dựa vào năm thứ đó mà diễn dịch. Năm thứ đó che ngăn làm cho người ta không liễu đạt được chơn tánh. Đó là sự khác biệt giữa chữ Uẩn và chữ Ấm. Hai chữ nầy xét về mặt thể tính thì nó giống nhau, còn xét về mặt nghĩa thì nó khác nhau. Vì sao? Khi đề cập đến năm Uẩn tức là nói Năm nhóm, Năm sự tập hợp, Năm sự tích tụ. Còn nói Năm ấm tức là nói Năm sự ngăn che , thành Năm cái nghĩa khác nhau nhưng thể tính vẫn là một. Như vậy Ngũ uẩn gồm có: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức uẩn. Bây giờ chúng ta thử phân tích ý nghĩa qua từng loại một.
a. Sao gọi là Sắc uẩn? Chữ “Sắc” (Rupaskandha) nó có nghĩa là biến ngại hay chất ngại. Biến có nghĩa là nó thay đổi biến dịch luôn luôn không định hình đứng yên một chỗ. Còn nói chất ngại là vì cái nầy nó ngăn ngại với cái kia. Nói về hình thể thì, nó dài, ngắn, vuông, tròn, lớn, nhỏ không đồng v.v… Nói về màu thì không có một vật thể nào mà không có màu sắc. Bởi chữ sắc cũng có nghĩa là màu. Nói chung là mọi hiện tượng vật thể có hình tướng dù vi tế cũng đều gọi là sắc cả.
b. Sao gọi là Thọ uẩn? Thọ uẩn (Vedànaskandha): Chữ “Thọ” có nghĩa là lãnh nạp. Căn lãnh nạp trần, nhãn lãnh nạp sắc, nhĩ lãnh nạp thanh, tỷ lãnh nạp hương, thiệt lãnh nạp vị, thân lãnh nạp xúc. Do vì năm căn lãnh nạp sự vật bên ngoài vào bên trong tâm thức, cho nên gọi là Thọ” (theo sự giải thích của cố HT Thiện Siêu)
c. Sao gọi là Tưởng uẩn? Tưởng uẩn (Samjnaskandha) : Thủ tượng vi nghĩa, là lấy cái ảnh tượng bên ngoài đưa vào trong tâm gọi là Tưởng. Thường chúng ta hay nói tưởng tượng. Có nghĩa là ta nhớ một hình bóng của một vật thể nào đó, dù rằng vật thể đó không có trước mắt ta. Như hôm qua ta đi sở thú, thấy con voi khổng lồ, khi về nhà ta nhớ lại hình ảnh con voi khổng lồ đó. Đó là tưởng tượng. Tượng có nghĩa là hình bóng không có thật trước mắt. Như vậy, tưởng ở đây là nhận lấy, thủ lấy, chấp lấy cái tướng cái hình tượng, ảnh tượng trong tâm thức ta.
d. Sao gọi là Hành uẩn? Hành uẩn (Samskaraskandha): Chữ Hành nầy có hai nghĩa: Thiên lưu và tạo tác. Thiên lưu có nghĩa là mọi hiện tượng trên đời nầy luôn luôn biến dịch thay đổi không ngừng, như một dòng nước chảy trôi không phút giây nào dừng lại. Sự biến chuyển nhanh chóng của vạn pháp gọi là thiên lưu. Vì thế nên nói chư hành vô thường là ý nầy. Còn nói chư pháp vô ngã, nghĩa có hơi khác với chư hành vô thường. Bởi vô thường là đứng về mặt biến chuyển thay đổi theo thời gian. Bất cứ một hiện tượng nào cũng phải trải qua một chu kỳ theo một quy trình chuyển biến: “sinh, trụ, dị, diệt hay thành, trụ, hoại, không”. Còn nói vô ngã là đứng về mặt không gian, bởi các pháp do nhân duyên sinh nên tự tánh của nó là không. Nghĩa là mỗi pháp không có tự tánh riêng. Vì thế nên nói chư pháp là vô ngã. Hành cũng có nghĩa là tạo tác: Khi chúng ta nói năng, hành động hay suy nghĩ điều gì, đều gọi là hành. Đó là nói sự tạo tác qua ba chỗ: Thân, miệng và ý, tức ba nghiệp vậy.
e. Sao gọi là Thức uẩn? Thức uẩn (Vijnanaskandha): Thức lấy liễu biệt làm nghĩa. Chữ “Liễu” là rõ ràng, “Biệt” là biện biệt một cách rõ ràng. Liễu biệt có tính cách trực giác, hiện lượng. Sự nhận thức rõ ràng cái nào ra cái đó không lộn lạo đó là nhiệm vụ của ý thức. Biết một cách trực tiếp mà không qua sự so sánh, bởi so sánh thuộc về “Tỷ lượng” chứ không còn là trực giác hay “Hiện lượng” nữa.
Qua những phân tích định nghĩa sơ lược trên, cho chúng ta thấy, Năm uẩn bao gồm cả hai phần: vật chất và tinh thần. Nói cách khác bao gồm cả vật lý và tâm lý. Vật lý thuộc về Sắc, tức Tứ đại: đất, nước, gió, lửa. Còn lại bốn thứ kia: thọ, tưởng, hành, thức thuộc về phần tâm lý. Nói một cách dễ hiểu hơn, thì sắc là thể chất, thọ là cảm tình, cảm giác, tưởng là tri giác là so sánh, hành là chọn lựa, quyết định, thức là nhận thức. Chúng ta cũng có thể nói, sắc là thể xác, thọ là tình cảm, tưởng là lý trí, hành là ý chí, thức là nhận thức. Như vậy, trong mỗi con người chúng ta không có cái gì ngoài Năm uẩn nầy. Chính Năm uẩn nầy là những yếu tố kết hợp thành con người chúng ta. Đã nói kết hợp, tất nhiên không có cái gì độc lập riêng rẽ mà thành. Nếu chỉ có một thứ không thôi, thì thử hỏi làm sao đầy đủ các yếu tố để tạo thành con người?
Theo lý duyên khởi thì không có vật gì tồn tại độc lập cả. Tất cả đều nương nhau mà sinh thành tồn tại. Cái nầy có vì cái kia có, cái nầy sinh vì cái kia sinh, cái nầy diệt vì cái kia diệt. Vạn vật đều tương quan tương duyên với nhau. Sinh diệt diệt sinh, không có gì là chơn thật. Thế thì Năm uẩn cũng chỉ là do duyên sinh mà hình thành tạm gọi là con người. Thể xác thì phải có đủ bốn yếu tố: đất (chất cứng) nước (thể lỏng) gió (thể hơi) lửa (nhiệt độ) mới tạo thành. Nếu nói theo khoa học hiện đại thì phải hội đủ các tế bào mới tạo thành một vật thể. Như vậy, bất cứ một vật thể nào cũng đều duyên hợp mới có. Như thân xác ta nếu thiếu một điều kiện vật lý hoặc tâm lý thì không thành thân nầy. Phàm cái gì do duyên hợp thì cái đó không thật. Vì nó không có tự tánh. Nên nói là Ngũ uẩn giai không.
Trong Trung Quán Luận, có bài kệ nêu rõ lý nhân duyên để hiển bày lý trung đạo:
Nhân duyên sở sanh pháp
Ngã thuyết tức thị không
Diệc danh thị giả danh
Diệc danh trung đạo nghĩa
Tạm dịch:
Các pháp từ duyên sanh
Ta nói tức là không
Cũng chính là giả danh
Cũng là nghĩa trung đạo
Có người hỏi: Nếu các pháp không thực có, tại sao vẫn thấy chúng hiện diện rõ ràng, các giác quan vẫn cảm nhận chính xác?
Đáp: “Các pháp chỉ có Danh (tên gọi) và Tướng (hình tượng) mà KHÔNG TỰ TÁNH, nên nói không thực có. Các pháp chỉ do tự tâm bất giác vọng hiện, dường như có sanh khởi nhưng không tự tánh nên nói là vô sanh. Đức Phật nói các pháp như mộng huyễn, như hoa đốm trong không. Khi đang mộng mọi thứ rõ ràng, không thể nói không. Nhưng chỉ là mộng, thì không thể nói có. Lỗi của ta là nhập thực và mộng, nhớ mộng quên thực, chấp trước tạo nghiệp luân chuyển khổ đau. Khi đau khổ lại tìm một Niết bàn để trú ẩn (các vị Thanh Văn), mà không nhận chân được thực tánh của các pháp là KHÔNG: không sanh cũng không diệt, không khổ cũng không lạc…” (Trung Quán Luận - CHT Chánh tấn Tuệ dịch & giải, trang 29)
Đã biết các pháp là giả không thật, thì đừng nói có hay là không. Bởi “Có” và “Không” hay “Sinh” và “Diệt” v.v… đó là những cặp đối đãi nhau. Phàm cái gì có đối đãi thì cái đó không thật. Ngài Long Thọ cho rằng các pháp hiện đời nầy không phải là không có. Nhưng cái có đó chỉ là hư giả không thật. Khác nào như bóng trong gương hay trăng dưới nước. Thiền Sư Đạo Hạnh đời Lý cũng diễn đạt cái ý nầy bằng bài kệ như sau:
“Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhứt thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không”
Dịch:
Có thì muôn sự có
Không thì tất cả không
Có không trăng đáy nước
Đừng mắc có cùng không
Có và không chỉ là những khái niệm, nếu thấy có thì vật gì cũng có với ta cả. Ngược lại, nếu ta cho là không thì muôn vật đối với ta thảy đều là không cả. Ngài cũng đâu có phủ nhận vạn vật trên đời nầy là không, Ngài cũng xác quyết có mà chỉ là giả có thôi. Nói thế sợ chúng ta khó hiểu nên Ngài mới nêu ra thí dụ cụ thể: “Cái mà chúng ta cho có đó khác nào như trăng đáy nước”. Ánh trăng dưới nước không phải là không, nhưng chỉ là giả có không thật. Bởi thế, nên Ngài khuyên chúng ta đừng có dính mắc vào cái “Có” và cái “Không”. Có không là hai cái ngục tù giam hãm chúng ta không có lối thoát.
Như cái xác thân của chúng ta đang mang đây, ai dám bảo là không có. Nếu không có thì cái gì nói năng, hành động và suy nghĩ biết việc nầy việc nọ. Tất nhiên là có đó, tuy nhiên nó chỉ là giả có mà thôi. Giống như các nhà ảo thuật họ ảo thuật ra nhiều thứ mà ta cứ tưởng là thật, nhưng đó chỉ hư ảo không thành. Chứng minh về cái hư giả huyễn ảo nầy, trong Kinh Kim Cang Bát Nhã có bài kệ:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán
Nghĩa là:
Tất cả các pháp hữu vi
Như chiêm bao, bọt, bóng
Như sương mốc, điện chớp
Nên thường quán như thế.
Mọi sự vật ở đời người ta cứ tưởng là thật có, nhưng đâu biết rằng, tất cả giống như là giấc chiêm bao, như chùm bọt nước, như bóng tùy hình, như sương buổi sớm, như lằn điện chớp, tất cả đều là hư giả thấy đó rồi mất, không có gì là thật cả. Phật bảo chúng ta phải hằng quán sát các pháp như thế. Phải vận dụng trí tuệ Bát nhã để nhìn sự vật theo lăng kính khách quan của tuệ giác. Đừng nhìn theo lối mòn của dòng vô minh nghiệp thức vọng chấp rồi tạo nghiệp bất thiện mà phải chịu nhiều hệ lụy khổ đau. Chỉ cần nhìn đúng thực lý của vạn pháp thì chúng ta sẽ thoát ra mọi ràng buộc phiền não kiết sử. Có thế thì mới mong thoát mọi khổ ách. Bằng ngược lại nếu chúng ta thấy mọi vật đều có thật, khởi tâm tham đắm chấp trước, như thế thì làm sao qua khỏi khổ ách được?
Nói tóm lại, Phật nói Ngũ uẩn giai không như là một bức thông điệp nhằm thức tỉnh mọi người hãy nhìn cái thân nầy chỉ là hư huyễn giả dối không thật. Bởi tất cả đều do nhân duyên giả hợp, tự tánh của các pháp là KHÔNG. Nhận hiểu được như thế là chúng ta đã hiểu được tánh không của vạn pháp rồi. Đã là không thì có gì mà phải tranh chấp, hơn thua, phải quấy, đấu đá, chém giết với nhau. Đó là con đường vượt qua mọi khổ nạn mà Bồ tát Quán Thế Âm đã cảnh tỉnh thức nhắc chúng ta.
Để kết thúc bài viết nầy, chúng tôi xin nêu ra đây một bài kệ trong Trung Quán Luận ở Phẩm Phá Tứ Đế:
Vị tầng hữu nhất pháp
Bất tùng nhân duyên sanh
Thị cố nhất thiết pháp
Vô bất thị không giả
Dịch nghĩa:
Chưa từng có một pháp
Chẳng từ nhân duyên sanh
Thế nên tất cả pháp
Không gì chẳng phải không.
Cây Gậy Trong Nhà Thiền
Thời xưa, đức Phật và Tăng đoàn đi khất thực, các Ngài thường hay sử dụng đến cây gậy. Cây gậy có chỗ còn gọi là cây tích trượng. Kích thước của một cây gậy dài, ngắn không cố định. Tùy theo người sử dụng mà kích thước của cây gậy có dài hoặc ngắn khác nhau. Công dụng của cây gậy là để người ta chống đỡ. Đối với những người già cả chân yếu thì thường dùng gậy chống đỡ để khỏi phải bị vấp té. Có cây gậy thì việc đi đứng tới lui sẽ được dễ dàng hơn. Vì thế, nên người già yếu cần có gậy để chống. Cây gậy tuy nó là vật vô tri, nhưng nó rất trung thành với con người. Và vì thế, nên người ta luôn biết ân nó. Sớm hôm tối sáng gì nó cũng luôn cận kề bên mình. Nó như là một người bạn chí thân dẫn đường cho mình đi. Ngoài ra, người ta còn sử dụng nó để xua đuổi những loài thú độc như rắn rết dưới bước chân đi. Nhờ đó mà người ta tránh được tai hại của các loại độc vật nầy.
Như chúng ta đã biết, ở Ấn Độ thời xưa, có rất nhiều loại rắn rết. Những loài vật nầy rất độc hại có thể cắn chết người. Thường nó hay trú ẩn ở những nơi khe suối lùm rừng có nhiều loại cỏ cây che phủ rậm rạp. Vì thế, nên Phật và các Tăng đoàn thời xưa, khi đi khất thực trải qua những nơi làng mạc vắng vẻ ít người qua lại, có nhiều loại cây cỏ hoang dại mọc um tùm, thì các Ngài cần phải có cây gậy hay tích trượng để xua đuổi chúng. Nên nhớ, thời đó làm gì có những con đường giao thông tráng nhựa sạch sẽ như ngày nay. Riêng cây tích trượng thì có thêm cái tiện lợi là trên đầu cây gậy người ta gắn vài cái khoen bằng kim loại để khi rung lên thì nó tạo thành tiếng kêu lắc cắc leng keng như tiếng chuông. Mỗi khi Phật và Tăng chúng đi khất thực đến trước cửa nhà của vị thí chủ nào, mà người trong nhà không hay biết, thì các Ngài rung chuông để người ta biết mà mang thức ăn ra cúng dường để vào bát.
Đó là nói cây gậy hay tích trượng được sử dụng trong bình diện thông thường. Ngoài việc sử dụng thông thường ra, ta thấy trong nhà Thiền, các vị Thiền sư cũng thường hay sử dụng cây gậy đánh đập các đệ tử. Mục đích là nhằm thức nhắc cho Thiền sinh phải trực nhận lại cái tánh giác sẵn có của chính mình. Đây là một hình thức để cảnh tỉnh người học đạo. Vì thông thường người tu hành hay hướng ngoại tìm cầu. Mà cái chân lý không phải ở ngoài mình. Đi tìm cái chân lý ở ngoài mình, thì muôn đời vạn kiếp cũng không bao giờ có được tỏ ngộ. Câu nói: “Phản quan tự kỷ, bổn phận sự, bất tùng tha đắc” của Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đời Trần, dạy cho Vua Trần Nhân Tôn đã nói rõ về ý nầy. Chính nhờ lời dạy nầy mà nhà Vua đã lãnh hội được yếu chỉ tu Thiền. Cho nên việc các Ngài sử dụng cây gậy để đánh đập các vị đệ tử của mình, mới nhìn qua ta thấy dường như các Ngài thiếu lòng từ bi đạo đức và nếu là thời nay thì người ta sẽ lên án gắt gao cho các Ngài là phạm vào cái tội bạo hành. Và cái tội nầy sẽ được pháp luật truy tố đưa ra tòa. Tuy nhiên, việc làm đó có phải các Ngài thiếu tấm lòng nhân đức từ bi hay không? xin mời quý độc giả sẽ tìm hiểu qua một vài mẫu chuyện ngắn sau đây mà chúng tôi xin trích dẫn để chứng minh.
1. Cây gậy của Lục Tổ Huệ Năng với Ngài Thần Hội.
Đọc kinh Pháp Bảo Đàn, hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện xảy ra giữa đức Lục Tổ Huệ Năng và Ngài Thần Hội. Năm đó, Ngài Thần Hội còn là Sa di mới 14 tuổi, tuy tuổi còn nhỏ nhưng Ngài rất thông minh, thông suốt Ngũ kinh, hiểu rành Lão Trang. Sau khi xuất gia, Ngài nghiên tầm Phật pháp, thông suốt kinh luật. Thời gian ở chùa Ngọc Tuyền, nghe danh đức Lục Tổ Huệ Năng, bấy giờ Ngài tìm đến yết kiến Lục Tổ. Tổ hỏi:
- “Tri thức từ phương xa nhọc nhằn tìm đến có đem được gốc theo chăng? Nếu có gốc phải biết chủ, thử nói xem?
- Sư thưa:
- Lấy không trụ làm gốc, thấy tức là chủ.
Tổ bảo:
- Sa di! Ông đâu nên dùng lời đó!
Sư thưa:
- Hòa thượng ngồi thiền là thấy hay chẳng thấy?
Tổ cầm gậy đánh Sư ba gậy, hỏi:
- Ta đánh ngươi đau hay chẳng đau?
Ngài nói:
- Con cũng đau, cũng chẳng đau.
Lục Tổ bảo:
- Ta cũng thấy cũng chẳng thấy.
Ngài hỏi:
- Thế nào cũng thấy, cũng chẳng thấy?
Tổ bảo:
- Ta thấy là thường thấy lỗi lầm nơi tâm mình, không thấy việc phải quấy của người khác. Ấy là cũng thấy cũng chẳng thấy.
Tổ hỏi: “Ngươi nói cũng đau cũng chẳng đau là sao? Nếu ngươi chẳng đau thì đồng cây cỏ, nếu ngươi nói đau thì đồng với phàm phu ắt khởi tâm giận hờn. Trước ngươi nói thấy cũng chẳng thấy là hai bên, đau chẳng đau là sanh diệt. Ngươi không thấy tự tánh mà dám cợt với người”. Sư liền lễ bái sám hối.
Tổ bảo: “Nếu ngươi tâm mê không thấy, nên hỏi thiện tri thức chỉ đường. Nếu ngươi tâm ngộ liền tự thấy tánh, y pháp tu hành. Ngươi đã mê không thấy tâm mình, trở lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy. Ta thấy thì ta tự biết, đâu thế cái mê cho ngươi. Nếu ngươi tự thấy cũng không thế được cái mê cho ta . Tại sao không tự biết, tự thấy lại hỏi ta thấy cùng chẳng thấy”.
Sư lễ bái hơn trăm lạy, cầu xin sám hối. Từ đây Sư ở lại hầu hạ Tổ không lúc nào rời. (Thiền Sư Thần Hội Giảng Giải tr 8, HT Thích Thanh Từ)
Chúng ta thấy Ngài Thần Hội nhờ ăn ba cây gậy đó của đức Lục Tổ Huệ Năng, mà sau nầy Ngài trở thành một vị Thiền sư thượng thặng nối tiếp làm hưng thạnh nổi sóng nổi gió của dòng Thiền Tào Khê. Qua câu chuyện trên, Tổ còn cảnh tỉnh cho những ai tu hành mà còn hay thấy bươi móc lỗi của người khác, không chịu nhìn thấy lỗi mình. Người tu hành thời nay họ thích nhìn thấy lỗi người nhiều hơn là thấy lỗi mình. Rác rến nhà mình thì tràn ngập đầy nhà mà không lo dọn quét, cứ thích cầm chổi đi quét rác rến nhà thiên hạ. Quả đúng với câu: “Chân mình còn lắm lê mê, mà đi xách đuốc lại rê chân người”. Khác nào như con lươn chê con lịch, nhìn lại cả hai con đều nhớt nhợt như nhau. Vậy mà có mấy ai chịu nhìn thấy mình là lịch, là lươn đâu. Nếu ai cũng ý thức được mình cũng là lươn, là lịch, thì chắc chắn người ta sẽ không còn có thái độ “bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu” để rồi phê bình chỉ trích nói xấu chê bai lẫn nhau. Người nào còn mang nặng cái thói quen tật xấu đó, thì Tổ khuyên nên bỏ đi đừng cưu mang nó nữa. Vì người biết thức tỉnh tu hành thì không ai lại có thái độ như thế. Chúng ta hãy nhìn vào cách hành xử của Tổ thì rõ biết. Tuy Ngài ở vào cương vị của một vị Tổ, mà Tổ còn nói: “Ta thấy là thấy lỗi lầm của ta, còn không thấy là không thấy lỗi lầm của người”. Câu nói nầy đối với chúng ta thì phải nói ngược lại: “Ta thấy là thấy lỗi của người, còn không thấy là không thấy lỗi của mình”. Người tu hành dù xuất gia hay tại gia, Phật Tổ thường khuyên bảo chúng ta phải nên bối trần hiệp giác, chứ đừng có bối giác hiệp trần. Vì như thế thì muôn đời vạn kiếp khổ công tu hành thì cũng không thể nào đạt được giác ngộ và giải thoát. Chỗ khác, đức Lục Tổ cũng có dạy:
“Bằng thật người tu đạo
Không thấy lỗi thế gian
Vì thấy lỗi thế gian
Thì lỗi mình đã đến bên”.
Chúng ta có thói quen hay thích làm cảnh sát quốc tế. Tối ngày cứ đi thổi tu hít thiên hạ, chưa bao giờ biết thổi lại chính mình. Bởi vậy mà suốt đời ta lún sâu vào con đường trầm luân đau khổ hệ lụy. Càng thấy lỗi người bao nhiêu thì ta lại càng sanh ra nhiều chuyện thị phi phiền phức bấy nhiêu. Chi bằng:
Tôi lo quét lá sân lòng
Tôi không quét lá bao đồng thế gian
Lá lòng còn quá ngổn ngang
Ngày đêm lo quét mới an tấm lòng
Bao giờ hết lá thong dong
Bao giờ sân trống mới hòng thảnh thơi
Bấy giờ mới thật vui chơi
Bấy giờ mới thật thảnh thơi an nhàn.
2. Cây gậy của Thiền sư Hy Vận (Hoàng Bá) với Ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền.
Thiền Sư Lâm Tế ở hội Hoàng Bá trải qua ba năm, chưa lần nào tham vấn với Thầy mình là Ngài Hoàng Bá. Thủ Tọa là Ngài Trần Tôn Túc thấy Sư oai nghi đức hạnh chu toàn, mới khuyên bảo Sư đến hỏi Hòa thượng Đường Đầu là Ngài Hoàng Bá. Nhờ sự chỉ bảo đốc xúi của Trần Tôn Túc, Sư liền đến hỏi Thiền sư Hoàng Bá:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Chưa dứt lời Hoàng Bá liền đánh. Cứ thế ba lần hỏi bị ba lần ăn gậy. Buồn quá, Sư định đi nơi khác, vì xét thấy không có nhân duyên với Thầy mình. Biết ý định của Sư, Thủ Tọa đến trước thưa trình với Hòa thượng Hoàng Bá về ý định của Sư. Khi Sư đến trình thưa giã từ, thì Hoàng bá bảo:
- “Chẳng nên đi chỗ nào khác, ngươi đi thẳng đến Cao An chỗ Thiền Sư Đại Ngu, ông ấy sẽ vì ngươi nói.
Sư đến Đại Ngu, Đại Ngu hỏi:
- Ở chỗ nào đến?
Sư thưa:
- Ở Hoàng Bá đến
- Hoàng Bá có dạy lời gì?
- Con ba phen hỏi Đại ý Phật pháp, ba lần bị đánh, chẳng biết con có lỗi hay không lỗi?
- Bà già Hoàng Bá đã vì ngươi chỉ chỗ tột khổ, lại đến trong ấy hỏi có lỗi không lỗi?
Ngay câu nói ấy, Sư đại ngộ, thưa:
- Xưa nay Phật pháp của Hoàng Bá không nhiều.
Đại Ngu nắm đứng lại, bảo:
- Con quỉ đái dưới sàng, vừa nói có lỗi không lỗi, giờ lại nói Phật pháp của Hoàng Bá không nhiều, ngươi thấy đạo lý gì, nói mau! Nói mau!
Sư liền cho vào hông Đại Ngu ba thoi, Đại Ngu buông ra nói:
- Thầy của ngươi là Hoàng Bá, chẳng can hệ gì việc của ta. Sư từ tạ Đại Ngu trở về Hoàng Bá.
Hoàng Bá thấy Sư về liền bảo:
- Kẻ nầy đến đến đi đi, biết bao giờ liễu ngộ.
Sư thưa:
- Chỉ vì tâm lão bà quá thiết tha, nên nhơn sự đã xong, đứng hầu.
- Đến đâu về?
- Hôm trước, vâng lời dạy của Hòa thượng đến tham vấn Đại Ngu trở về.
Đại Ngu có lời dạy gì?
Sư liền thuật lại việc trước, Hoàng Bá bảo:
- Lão Đại Ngu nầy đã buông lời, đợi đến đây ta cho ăn đòn.
Sư tiếp:
- Nói gì đợi đến, ngay bây giờ cho ăn.
Sư liền bước tới sau lưng Hoàng Bá tát một tát, Hoàng Bá bảo:
- Gã phong điên nầy lại đến trong ấy nhổ râu cọp.
Sư liền hét, Hoàng Bá gọi:
- Thị giả! dẫn gã phong điên nầy lại nhà thiền…” (Trung Hoa Chư Thiền Đức Hành Trạng tập hai tr 72 của HT Thích Thanh Từ soạn dịch)
Đọc qua mẫu chuyện trên, ta thấy giữa thầy trò đối xử với nhau như có vẻ bạo hành thất lễ, nhưng thật ra đó là lòng từ bi chí thiết của ông Thầy đối với người học trò mình không thể nào dùng lời diễn tả hết được. Nếu Ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền không ăn ba cây gậy của Thiền sư Hoàng Bá, thì thử hỏi sau nầy Ngài làm sao mở rộng nối thạnh tông môn của dòng Thiền Tào khê vang dội cho đến ngày nay? Ba gậy đó là ba gậy dạy bảo bằng tất cả tấm lòng bi mẫn của một vị Thầy, đã nhìn thấu được cái khả năng giác ngộ tiềm tàng và lãnh hội sâu sắc của người học trò nên cần phải có đủ duyên khai ngộ.
Người học đạo, đôi khi không tỏ ngộ với vị Bổn sư của mình mà lại tỏ ngộ đến một vị thiện tri thức khác. Người xưa, họ đối xử với nhau thật là quá đẹp. Lúc nào cũng muốn cho người đệ tử của mình phải tỏ ngộ bằng hoặc hơn mình. Bởi trò mà hơn thầy thì đó là đại phước. Đó là tấm gương mà người thời nay cần phải nghiền ngẫm suy xét lại trong việc hành xử giữa tình thầy trò với nhau cho phải lễ nghĩa đạo đức. Người nay không thể bắt chước người xưa qua những hành động táo bạo đánh đập như thế được. Căn cơ mỗi thời mỗi khác. Ngày nay chỉ cần nói hơi nặng lời một chút thôi, thì người đệ tử đã cuốn gói bỏ đi rồi chứ nói chi đến việc đánh đập. Có ăn gậy thì mới nhớ đời và mới thấm sâu vào tận xương tủy của người học. Không một phen tắm mình trong tuyết giá trời đông thì ta không thể nào tận hưởng hết cái lạnh lẽo của mùa đông được.
Thiền tiếp kỷ xử vật rất là cụ thể. Thiền không giấu giếm điều gì, tất cả đã phơi bày trước mắt ta. Thiền không muốn cho chúng ta phải phiêu lưu trong mê hồn trận của thế giới ngôn ngữ. Vì như thế chỉ là vẽ rắn thêm chân hay “đầu lại che đầu” mà thôi. Thiền muốn chúng ta hãy trở về sống với cái hiện hữu thực tại. Bởi lâu nay, chúng ta đã bị chết chìm trong những khái niệm của ngôn từ. Chúng ta thường nhìn theo lăng kính “Biến kế sở chấp”, cho sợi dây thừng là con rắn. Đó là những ảo giác tưởng tượng. Do nhận lầm ở nơi các pháp giả cho là thật nên ta mới bị đảo điên đau khổ. Nếu ta nhận rõ sợi dây thừng không phải là con rắn, thì những ảo giác gây ra cho ta đau khổ sẽ không còn. Thiếu cái nhìn “Trực giác Hiện lượng”, thì chúng ta sẽ không bao giờ nắm bắt được Thiền. Thiền không có gì cao xa bên ngoài mà ta phải khổ công nhọc sức tìm cầu. Trong bài kệ Cư Trần Lạc Đạo của sơ Tổ Trúc Lâm có hai câu đã cho chúng ta thấy rất rõ điều đó: “Gia trung hữu bảo hưu tầm mích, đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền” Mỗi người đều sẵn có cái kho báu vô giá, xin chớ vọng cầu tìm kiếm ở nơi đâu, chỉ cần đối với sáu trần ta không khởi tâm dính mắc thì còn hỏi Thiền làm gì nữa.
Cái hiện hữu phơi bày một cách trần trụi mà chúng ta lại thích tô điểm vẻ vời làm mất đi cái tính chất hiện thực của nó. Thiền là một nghệ thuật sống, hướng dẫn chúng ta trở lại đầu nguồn của hạnh phúc. Càng nói nhiều chỉ có thể trình bày được những cái kiến giải vay mượn qua những kinh nghiệm có được từ những người khác. Mà như thế, thì chúng ta đã đánh mất thực tại rồi. Cho nên, các Thiền sư không muốn cho người học phải rơi vào những trạng huống không bình thường. Thiền trực tiếp hướng dẫn chúng ta trở về với cuộc sống “Bình Thường”.
Ngày kia, có ông đạo hỏi Thiền sư Mục Châu, một cao tăng ở hậu bán thế kỷ IX:
“Suốt ngày mặc áo ăn cơm, làm sao khỏi mặc áo ăn cơm?” Sư đáp: “Mặc áo, ăn cơm”. Thầy kia trả lời không hiểu. Sư đáp: “Không hiểu thì mặc áo ăn cơm”. Thiền sư Nam Tuyền có câu nói: “Bình thường tâm thị đạo”. Ăn cơm, mặc áo, hay làm bất cứ những công việc gì khác, đó là những chuyện rất bình thường. Nhưng khổ nổi đâu có ai chịu sống “Bình Thường” như thế. Vì không sống tiếp xúc được với cái Bình Thường, nên chúng ta thích sống với cái “Bất Bình Thường”. Chính vì vậy, nên Phật quở chúng ta tối ngày sống trong điên đảo mê loạn là vậy.
3. Cây gậy của Thiền sư Vân Môn
Đọc thiền sử, ta thấy mỗi Thiền sư có một lối dạy độc đáo khác nhau. Thiền sư Vân Môn, một hôm, Ngài đưa cây gậy lên bảo chúng:
- “Phàm phu gọi nó là thật, Nhị thừa phân tích gọi nó là không, Viên giác gọi nó là huyễn có, Bồ tát thì đương thể tức không, Thiền gia thì thấy cây gậy gọi là cây gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi, không được động đến”.
Cùng là một cây gậy, mà cách nhìn của mỗi người có khác. Thiền sư dùng cây gậy để tiêu biểu cho vạn pháp. Phàm phu thấy mọi hiện tượng phô bày trước mắt đều cho là thật có. Vì họ đang sống trong vòng vô minh nghiệp thức vọng chấp, nên thấy cái gì cũng đều là thật cả. Giống như người mang kiếng màu đỏ thấy cái gì cũng là màu đỏ. Ngược lại, đối với hàng Nhị thừa, do phân tích theo lối mòn Phật dạy, nên họ thấy các pháp đều là hư huyễn. Nói huyễn là vì vạn pháp do nhân duyên tạo thành. Đã do nhân duyên, thì không có một pháp nào tự nó hình thành được cả. Như vậy, bản thân của vạn vật đều là vô ngã. Như cây gậy, không phải tự nhiên nó có, mà nó phải nhờ tất cả những thứ khác không phải là cây gậy khi đủ duyên tạo thành ra cây gậy. Như đất, nước, ánh sáng, không khí v.v… những thứ đó không có thứ nào gọi là cây gậy cả. Đã thế, thì tự thể của cây gậy là không tự tánh.
Tuy nhiên, nếu ly khai những thứ đó ra thì không thể có cây gậy. Đó là cái nhìn phân tích theo lý duyên sinh hay duyên khởi của hàng Nhị thừa. Có, nhưng chỉ là giả có, khác nào như trăng dưới nước, như bóng trong gương. Đối với Bồ tát, cái nhìn của các Ngài không cần phải qua sự phân tích theo lối mòn của Phật dạy mới thấy cây gậy là hư huyễn. Mà các Ngài nhìn thẳng vào đương thể của cây gậy thấy rõ thực thể của cây gậy là không. Bởi vì cây gậy không có một thực thể cố định. Đó là “Tánh Không” của cây gậy, rộng ra là vạn pháp đều như thế cả. Nên nói “vạn vật đồng nhứt thể” là vậy. Trong Tâm Kinh có câu: “Thị chư pháp Không Tướng”, nghĩa là tướng “KHÔNG” của các pháp. Vì tướng không ( thật tướng – vô tướng ) nên tiếp theo mới nói là bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh v.v…
Đối với các vị Thiền gia thì các Ngài có cái nhìn kỳ đặc hơn. Các Thiền sư không nhìn theo lối mòn mà Phật đã dạy theo hệ giáo lý từ thấp lên cao. Nghĩa là không có cái nhìn xuyên qua các thừa như từng bậc nấc thang giáo lý. Bởi vậy, mới có câu nói là: “Giáo ngoại biệt truyền”. Nói một cách nào đó gọi là truyền riêng, nhưng kỳ thật thì không có cái gì gọi là truyền riêng cả. Chẳng qua, các Thiền sư diễn tả cô động khúc chiết bằng một hình thái khác đó thôi. Tại sao như thế? Bởi vì tất cả đều là chân lý. Chân lý là lẽ thật của vạn pháp. Nhìn một sự vật mà còn có khái niệm phân tích thì sự vật đó đâu còn là khách quan, mà là bắt sự vật đó phải theo cái lăng kính chủ quan của mình rồi.
Nhìn cây gậy chỉ biết là cây gậy. Thế là đủ lắm rồi. Cần gì phải tô điểm thêm cho cây gậy phải có thêm chân. Đừng có vẽ rồng vẽ rắn thêm chân nhiều quá. Có cái nhìn trực giác hay hiện lượng thì mới thấy đúng với bản thể của sự vật. Như trên cây gậy ta không cần phải có thêm một khái niệm gì khác cả. Như thế thì cây gậy đó nó mới thật sự là cây gậy. Cây gậy, nó không tự nói là tốt hay xấu, là dài hay ngắn… mà tất cả là do chúng ta đặt định cho nó thế nầy hoặc thế kia thôi. Như thế, là ta đã vo tròn bóp méo cây gậy mất rồi. Nếu nhìn các pháp hiện đời nầy như nhìn một cây gậy dưới con mắt của Thiền gia, thì cuộc đời nầy đâu có gì phải tranh chấp, hơn thua, phải trái, tạo nên những hận thù để rồi đấu đá tàn sát lẫn nhau! Tiếc gì người ta không chịu nhìn như vậy. Do đó mới gây ra lắm điều tang thương hệ lụy và thế giới luôn bị điên đảo, đảo điên thác loạn, không lúc nào an ổn. Hòa bình hay chiến tranh là tùy theo cách nhìn của mỗi người. Vì nhìn theo lăng kính của phàm phu nên cõi đời nầy không bao giờ có được cuộc sống an bình và nhơn loại sẽ không bao giờ có được hạnh phúc. Muốn có hạnh phúc, sống chung hòa bình, thì mỗi người cần phải điều chỉnh thay đổi cách nhìn theo hướng chánh kiến. Còn có những lối nhìn thiên kiến, hoặc tà kiến, vọng ngoại tìm cầu, thì cuộc đời nầy vĩnh viễn sẽ không bao giờ có được sự an bình hạnh phúc trong đời sống. Khổ hay vui, hòa bình hay loạn lạc, tất cả đều từ tâm ta tạo lấy. Thiền là tỉnh thức. Nếu chúng ta hằng sống với cái tâm tỉnh thức hay chánh niệm, thì chúng ta sẽ có được một đời sống an lạc hạnh phúc ngay trong thế giới hiện tượng nầy.
Một Vài Nhận Xét Về Bản Kinh Vu Lan
Theo truyền thống lễ hội Phật giáo thì, Vu Lan là một trong những lễ hội lớn mà hầu như người Việt Nam nào cũng đều biết đến. Truyền thống nầy bắt nguồn từ thời đức Phật còn tại thế. Khởi nguyên là do Tôn giả Mục Kiền Liên cứu thoát mẹ Ngài khỏi cảnh ngục hình. Theo văn học Phật giáo, Ngài là một người con chí hiếu. Điều nầy đã được ghi lại rất rõ trong bản văn Kinh Vu Lan Bồn. Từ đó, ngày đại lễ Vu Lan hay còn gọi là Mùa báo hiếu đã nghiễm nhiên trở thành một lễ hội lớn trong dòng sống dân tộc Việt và Phật giáo.
Kinh Vu Lan, hầu hết Phật tử thuộc Phật giáo Bắc Tông đều trì tụng trong Mùa báo hiếu. Phải thành thật mà nói, đa số Phật tử chúng ta tuy có tụng đọc, nhưng hiểu về nghĩa lý thâm sâu của kinh, thì chắc chúng ta cũng chưa hiểu được rõ lắm. Trong tinh thần trao đổi học hỏi tìm hiểu, chúng tôi xin được nêu ra một vài nhận xét về bản kinh nầy theo sự hiểu biết thô thiển nông cạn của chúng tôi. Dĩ nhiên, đây chỉ là một vài nhận xét mang tính thông thường mà thôi.
Trước hết, chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa của hai chữ Vu Lan là gì? Vu Lan nói đủ là Vu Lan Bồn. Cụm từ nầy do người Trung Hoa phiên âm từ tiếng Phạn Ullambana, mà người Việt mình quen đọc là Ô lam bà noa. Cụm từ Ô lam bà noa có nghĩa là hiếu thuận, cúng dường, báo ân, cứu đảo huyền, giải thoát sự thống khổ. Danh từ Ullambana có gốc động từ Ud-vlamb, nghĩa là “treo ngược lên”. Do đó, người Trung Hoa đã dịch là đảo huyền và thêm vào cho đủ nghĩa là cứu đảo huyền chi khổ, Việt dịch là cứu cái khổ bị treo ngược. Còn Bồn là Hán ngữ có nghĩa là cái chậu, đồ dùng để chứa đựng.
1.Đạo nghĩa
Đối với người Á Đông rất coi trọng đạo nghĩa. Nói cách khác rất tôn trọng đạo hiếu. Sách Nho có câu: “Thiên hữu tứ thời xuân tại thủ, nhơn sanh bách hạnh hiếu vi tiên”. Nghĩa là trời đất có bốn mùa mà mùa xuân là đứng đầu, con người có trăm hạnh, hạnh hiếu là trên hết. Chỗ khác lại nói: “Thiên kinh vạn quyển hiếu nghĩa vi tiên”. Nghĩa là ngàn quyển kinh vạn quyển sách đều lấy hiếu nghĩa làm trước. Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều câu ca dao và tục ngữ luôn đề cập đến vấn đề cội nguồn và hiếu hạnh. Tiêu biểu như câu: “Uống nước nhớ nguồn”. Hoặc: “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ người đào giếng”. Hay: “Ăn cây nào rào cây nấy”. Bài ca dao mà hầu hết người Việt Nam chúng ta ai cũng đều thuộc nằm lòng:
Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Còn và còn rất nhiều những câu ca dao tục ngữ … đề cao ca ngợi về đức hiếu hạnh của con người.
Trong khế kinh Phật có dạy: “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”. Ta cũng thường nghe người ta nói: “Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế”. Hay là: “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ hơn là đi tu”.
Ngần ấy cũng đủ chứng minh rằng kinh sách nào cũng đều nêu cao chữ Hiếu cả.
Mở đầu Kinh Vu lan Phật cho chúng ta thấy rất rõ điều đó.
Chúng tôi xin dẫn chứng một vài câu sau đây để chứng minh:
“Công dưỡng dục thâm ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên
Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm”.
Trên thế gian nầy không có công lao nào lớn lao hơn là công lao sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Chính vì ý thức được điều đó, mà bổn phận làm con phải lo báo đáp. Tri ân và báo ân là hai đức tánh căn bản đạo đức của đạo làm người. Thiếu hay mất đi hai đức tánh nầy, thì đạo đức của con người sẽ không còn gì cả. Và nếu thế, thì sẽ gây ra lắm điều tệ hại làm đảo lộn nếp sống của xã hội loài người. Bởi thế, mà mở đầu kinh Vu Lan đức Phật đã ân cần nhấn mạnh đề cao công lao sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Ngài cho đó là một nền tảng căn bản đạo đức cao cả mà người con cần phải lo phụng dưỡng đáp đền. “Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền”. Tôn giả Đại hiếu mục kiền liên, xưa nay đã được nhơn loại ca tụng đề cao là một người con chí hiếu. Ngài đã bày tỏ lòng hiếu thảo cao tột của mình đối với người mẹ đang thọ khổ. Ngài dùng tuệ nhãn tìm kiếm mẹ Ngài. Tuệ nhãn là con mắt được soi sáng bằng chất liệu tình thương. Đây là đôi mắt “Từ nhãn thị chúng sanh” của Bồ tát Quán Thế Âm. Người có đạo đức tình người, có trái tim yêu thương đồng loại, tất nhiên là thường dùng đôi mắt tuệ giác nầy để quán chiếu. Nhưng quán chiếu trước tiên là đối với các đấng sanh thành giáo dưỡng của mình. Phải có đôi mắt hiền từ đó để phụng dưỡng báo ân cho ông bà cha mẹ và rộng ra là cho khắp cả chúng sinh.
2. Nghiệp lực
Nghiệp lực là sức mạnh của một thói quen khi đã thuần thục. Bà Mục liên thanh đề vì bị sức mạnh của một thói quen tạo ác nên bà phải bị sa đọa làm thân ngạ quỉ đói khát. Sự đau khổ đó không do ai gây nên mà chính do cái thói quen tạo ác của bà tạo nên. Đã có gây nhân tất nhiên phải có trả quả. Gây nhân ác thì làm sao tránh khỏi quả ác? Ác lai ác báo là thế!
“Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỉ
Không uống ăn tiều tụy hình hài
Mục Liên thấy vậy bi ai
Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm”
Luật nhân quả rất công bằng không thiên vị một ai. Làm lành, làm ác cuối cùng cũng phải trả. Nêu ra hình ảnh của bà Thanh đề, đức Phật nhằm thức nhắc cho tất cả chúng ta hãy cẩn thận trong lúc gây nhân. Trước khi làm điều gì, chúng ta cần phải suy nghĩ chín chắn đến cái hậu quả của nó. Đó là một câu nói có giá trị cả ngàn lượng vàng. Thuở xưa, đã có người bỏ ra ngàn lượng vàng để mua câu nói nầy. Điều nầy sách sử đã ghi lại rất rõ. Tránh nhân thì không có quả. Câu nói: “Bồ tát sợ nhân chúng sanh sợ quả” chính là ý nầy. Người có tuệ giác khi hành xử, nói năng, suy nghĩ hoặc hành động, họ đều cân nhắc cẩn trọng kỹ lưỡng. Bởi họ rất sợ nhân quả. Ngược lại, đối với người mê thì họ không cần nghĩ đến cái hậu quả mà mình đã gây ra. Một khi quả báo đến thì họ mới thấy hối hận. Khi biết hối hận thì đã quá muộn màng rồi! Chi bằng, học theo hạnh Bồ tát phàm làm việc gì phải nghĩ đến cái hậu quả của nó. Như thế thì làm sao có quả báo đau khổ như bà Thanh Đề cho được? Như vậy mới thấy nghiệp lực là một điều tối ư quan trọng mà chúng ta cần phải lưu ý. Làm lành, lánh dữ là điều căn bản quan trọng mà chư Thánh Hiền xưa nay thường khuyên bảo thức nhắc chúng ta. Các Ngài thường khuyến nhắc chúng ta nên ý thức gây nhân tốt trong cuộc sống hằng ngày. Có thế, thì đời ta mới có được an vui hạnh phúc vậy.
3. Thần thông
Điều mà không ai lại không biết vị đệ tử thần thông đệ nhứt của đức Phật là Ngài Mục kiền liên. Chính đức Phật còn ca ngợi tán thán thần thông quảng đại biến hóa phi thường của Ngài. Một con người tu hành đắc quả A la hán và có thần thông siêu việt như thế, vậy mà vẫn không cứu thoát được mẹ mình thọ khổ. Lẽ ra với sức thần thông quảng đại của Ngài, việc cứu mẹ Ngài ra khỏi chốn ngục hình đau khổ đâu có khó khăn gì. Thế nhưng, tại sao Ngài không cứu mẹ Ngài được? Câu trả lời dứt khoát là “thần thông không thể thắng được nghiệp lực”. Dù có thần thông biến hóa phi thường đến đâu, cỡ như Tề thiên đại thánh hóa phép thăng thiên, độn thổ tàng hình cũng không có chỗ đứng trong vòng nghiệp lực. Như vậy, cho ta thấy nghiệp lực quả là một sức mạnh phi thường mà thần thông không thể nào chạm đến được. Giả như, Ngài Mục kiền liên có thể dùng thần thông cứu thoát mẹ Ngài thoát khỏi tội khổ nơi chốn ngục hình, như thế, thì luật nhân quả Phật dạy đâu có còn hiệu nghiệm gì nữa. Vì mình tạo tội thì sẽ có người cứu thoát cho mình. Thế thì có phải trái với luật nhân quả không? Nếu thế, thì cả thế gian nầy sẽ trở thành đại loạn, vì không còn ai tin tưởng vào luật nhân quả nữa.
Do đó, sự tu hành chúng ta đừng mong cầu cho mình có được thần thông biến hóa để lòe thiên hạ. Bởi thần thông không thể nào cứu thoát cho mình hết khổ được. Chỉ có vận dụng công phu nỗ lực tu hành, khi nào dứt sạch hết vô minh nghiệp hoặc thì mới mong được giải thoát đó thôi. Đó là tấm gương cảnh báo cho những ai còn coi trọng thần thông và ước mong cho mình có được phép lạ. Phép lạ siêu việt đến đâu cũng không thể nào thoát khỏi định nghiệp. Người khéo biết tu hành là chỉ lo đoạn trừ phiền não chớ không ai nghĩ đến mong cầu cho mình có được thần thông bao giờ. Thần thông theo kiểu tập luyện có ra như Đề bà đạt đa đó là thứ thần thông dổm chỉ để hù dọa người ta mà thôi.
Trong luật Phật dạy, vô cớ mà hiện thần thông thì coi như vị đó đã phạm cấm giới. Vì đó là mê hoặc lòng người và phá niềm tin nhân quả của người ta. Đó là một trọng tội rất lớn. Điển hình cho việc sử dụng thần thông trái phép nầy là Thiền sư Đặng ẩn phong. Theo thiền sử kể lại, một hôm trên đường đến núi Ngũ Đài, giữa đường Ngài thấy giữa hai đội binh đánh nhau; một đội binh của triều đình và một đội binh phiến loạn. Động lòng từ bi trắc ẩn của kẻ tu hành, nếu không có thần thông thì thôi, đằng nầy Ngài có thần thông nên Ngài không thể ngoảnh mặt làm ngơ. Thế là Ngài quăng cây gậy lên trời và phi thân lên giữa hư không đứng trên cây gậy. Hai đội binh thấy vậy tưởng đâu vị thần linh nào xuất hiện quở phạt, nên cả hai đều sợ hãi rút binh không còn tiếp tục giao chiến nữa. Xong rồi, Ngài biết mình đã phạm giới luật Phật cấm, vì gây ra sự mê hoặc cho người ta. Sợ rằng người ta đồn đãi với nhau rồi thiên hạ đua nhau luyện tập cho có được thần thông mà quên đi sự tu hành mong cầu giải thoát. Do đó, nên Ngài lên núi Ngũ Đài và đến hang Kim Cang viên tịch ở đó.
Xin trân trọng được phép nhắc lại: “Thần thông dù có siêu việt đến đâu cũng không thể nào thắng được nghiệp lực”. Và cũng không thể nào thoát khỏi vòng sinh tử khổ đau vậy. Thần thông quảng đại siêu quần bạt chúng của Tôn giả Mục kiền liên, cuối cùng rồi Ngài cũng phải chết dưới tay một đám côn đồ. Đó là định nghiệp của Ngài mà thần thông không thể nào vượt thắng được.
4. Năng lượng của sự cầu nguyện
Khi thấy mẹ mình bị đói khát ốm o tiều tụy, động lòng trắc ẩn bi tâm, nên Tôn giả Mục kiền liên liền đem phẩm vật dâng lên cho mẹ. Nhưng bà mẹ vì lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt sạch, nên nào có ăn được đâu, cơm vừa đưa tới miệng thì hóa thành than lửa.
“Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu
Đặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu
Thấy cơm mẹ rất lo âu
Tay tả che đậy hữu hầu bốc ăn
Lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt
Sợ chúng ma cướp giựt của bà
Cơm đưa chưa đến miệng đà
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu”.
Nhìn thấy cảnh tượng đau lòng đó, thử hỏi có người con nào mà dửng dưng không buồn rầu thương cảm bi lụy xót xa cho được?! Chính vì nỗi bi cảm xót xa đó, mà người con chí hiếu như Ngài không thể không tìm phương cách cứu thoát khổ hình cho mẹ mình.
“Thấy như vậy âu sầu thê thảm
Mục Kiền liên bi cảm xót thương
Mau mau về chốn giảng đường
Bạch cùng Sư phụ tầm phương giải nàn”
Qua tình cảnh nầy, nếu là người con có hiếu, còn có chút lương tâm tình người, chắc không ai phải để cho cha mẹ mình đến khi phải chịu cái cảnh khổ đói khát, rồi mới nghĩ đến cách cho ăn dưỡng nuôi! Trên đời nầy, chắc không có ai đến nỗi phải tán tận lương tâm như thế. Ngược lại, người làm cha mẹ cũng đâu có nỡ gây ra nghiệp khổ để đày đọa cho con mình phải chịu cực, chịu khổ, chăm sóc lo cho mình từng miếng ăn giấc ngủ. Ngoại trừ do nghiệp lực từ quá khứ đã gây ra thì làm sao tránh khỏi?! Còn hiện tại thì không có cha mẹ nào mà làm khổ con bao giờ. Chỉ có con làm khổ cho cha mẹ thì có. Do đó, khi cha mẹ còn ăn uống mạnh khỏe, thì bổn phận làm con chúng ta nên dâng món ngon vật lạ cho cha mẹ dùng. Đó cũng là phương cách báo đáp thâm ân để cho cha mẹ được an vui.
Thật ra, cha mẹ cũng đâu có mong con mình phải dâng món ngon vật lạ, hay cao lương mỹ vị bao giờ. Làm cha mẹ ai cũng chỉ mong muốn cho con mình được ăn nên làm ra và có sự nghiệp bảo đảm vững chắc, an vui hạnh phúc là cha mẹ mừng lắm rồi. Tuy nhiên, ta nên nhớ đừng đợi đến khi cha mẹ già yếu bịnh hoạn không còn ăn uống được nữa, chừng đó dù ta có dâng lên mâm cao cổ đầy cũng chẳng có nghĩa lý gì. Điều nầy, thiết nghĩ, bổn phận làm con ta nên ý thức để báo ân cho cha mẹ. Có thế, thì mới phải đạo làm con hiếu thảo vậy.
Ta thấy, trước tình cảnh bi thảm đó, Ngài Mục kiền liên chỉ còn có cách duy nhứt là phải bạch cùng với vị Sư Phụ của mình, nhờ Sư Phụ chỉ dạy may ra mới có cách cứu thoát mẹ mình. Bởi Ngài đã bất lực không còn có cách nào khác. Vị Sư Phụ đó không ai khác hơn là Đức Phật. Sau khi Ngài trình bày cặn kẽ về tình cảnh đau khổ của mẹ Ngài, bấy giờ Phật mới bảo chỉ có cách là phải nhờ đến thần lực của mười phương Tăng. Những bậc tu hành đạt đạo mới có thể đủ thần lực chú nguyện cho mẹ người. Đây là một năng lượng đức chúng như hải. Chỉ có năng lượng cầu nguyện nầy mới có thể đánh động được tâm thức của mẹ ngươi để cho bà thành tâm ăn năn cải hối. Khi bà thành tâm chuyển ý ăn năn hối cải rồi, thì ngang đó bà mới thực sự hết khổ. Ngài Mục kiền liên vâng lời dạy bảo của Sư phụ mà thiết lễ trai tăng cầu thỉnh thập phương Tăng đồng câu hội về một trú xứ trong ngày lễ Tự Tứ của chư Tăng để thi thiết cúng dường.
“Phật mới bảo rõ ràng căn cội
Rằng mẹ người gốc tội kết sâu
Dầu ngươi thần lực nhiệm mầu
Một mình không thể khẩn cầu được đâu
Lòng hiếu thảo của ngươi dầu lớn
Tiếng vang đồn thấu đến Cửu Thiên
Cùng là các bậc Thần kỳ
Tà ma ngoại đạo bốn vì Thiên vương
Cộng ba cõi sáu phương tụ tập
Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi
Muốn cho cứu đặng mạng người
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng…”.
5. Đại lễ trai Tăng
Trong khế kinh Phật có dạy: “Muốn lên bờ giác phải lấy việc bố thí làm đầu, muốn siêu độ vong linh phải lấy việc trai Tăng làm trước”. Sau khi nghe lời Phật chỉ dạy về cách thức cúng dường trai Tăng để cầu siêu độ cho thân mẫu của Ngài, nên Ngài đã thiết lập một buổi đại lễ trai Tăng lớn nhứt từ xưa tới nay. Những vị chứng trai toàn là những bậc Đại Tăng tu hành thanh tịnh sau ba tháng an cư kiết hạ tịnh tu. Những lễ vật dâng lên cúng dường trong ngày đại lễ trai Tăng đó gồm có: Thức ăn trăm món, trái cây năm màu và các thứ vật dụng thực phẩm khác như: giường nằm, nệm lót, thau, bồn, đèn, nhang, dầu v.v…
Sau khi làm lễ tác bạch cúng dường, Phật và các bậc Thánh Tăng đồng chứng minh thọ dụng bát cơm lục hòa. Nhờ buổi lễ trai tăng thành tâm cúng dường nầy, mà thân mẫu của Ngài được thác sanh lên cõi trời Thiên Hoa Quang.
Để noi theo đại lễ cúng dường trai Tăng nầy, hằng năm đến ngày lễ mãn hạ “Tự Tứ” của chư Tăng, hàng Phật tử tại gia đều thiết tha chí thành sắm sanh phẩm vật dâng lên cúng dường chư Tôn Đức Tăng, Ni hiện tiền. Từ đó, lễ cúng dường trai Tăng đã nghiễm nhiên trở thành một truyền thống từ đó đến nay. Mục đích của sự cúng dường là các người con chí hiếu biểu lộ lòng thành kính dâng lên phẩm vật để cầu nguyện cho các đấng sanh thành kẻ còn người mất đều nhờ công đức cúng dường mà được ân triêm lợi lạc. Không riêng vì cha mẹ hiện tiền mà cha mẹ trong bảy đời quá vãng cũng được siêu sanh thoát hóa.
“… Rằm tháng bảy là ngày Tự Tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ nầy
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món trái cây năm màu
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn, đuốc nhang dầu
Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng…”
***
“…Như cha mẹ bảy đời quá vãng
Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung
Người thời tuấn tú hình dung
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân…”
6. Niềm hoan hỷ chung
Điểm đặc biệt của Kinh Vu Lan đọc từ đầu đến cuối, ta thấy tất cả đều đem lại niềm vui lớn cho kẻ còn và người mất. Người mất thọ khổ cũng được siêu thoát. Tiêu biểu như bà Mục liên thanh đề. Người còn thì nhờ phước đức cúng dường mà được lợi lạc. Tuy nhiên, phần cúng dường chỉ là phần phụ thuộc, mà phần chánh yếu của Kinh Vu Lan dạy chúng ta là mỗi người cần phải nỗ lực chuyên tâm tu hành. Nhờ vào sự cần mẫn tu hành mà chúng ta mới có được an lạc. Điển hình như chư Tăng, Ni đã nỗ lực tu hành thúc liễm thân tâm trau dồi giới đức trong ba tháng an cư kiết hạ. Đồng thời thập phương Tăng cũng là những bậc tu hành đạt đạo. Điều đó cho chúng ta thấy rõ hình ảnh giải thoát của những bậc tu hành chơn chánh. Chính vì thế mà ngày rằm tháng bảy hằng năm là ngày mãn hạ Tự Tứ của chư Tăng, chư Phật trong mười phương thảy đều hoan hỷ. Và chư Tăng, Ni cùng hàng Phật tử nam nữ tại gia cũng đều hết dạ vui mừng. Đó là biểu hiện cho sự âm siêu, dương thới rất là rõ nét.
Như vậy, Kinh Vu Lan là một bản kinh Phật dạy chúng ta trước hết, phải ăn ở cho có đạo đức nhân nghĩa tình người và phải tránh gây những nghiệp nhân xấu ác tội lỗi. V́ hễ gây nhân ác tất nhiên, chúng ta phải nhận chịu quả báo đau khổ. Trường hợp như bà Mục liên thanh đề chẳng hạn. Kế đến là thể hiện chất liệu tình thương và dĩ nhiên trên hết vẫn là tình người. Tình thương là chất keo nối kết thắt chặt trong tình người huyết thống muôn thuở. Ta thấy, Tôn giả Mục kiền liên vừa thể hiện tình thương trong dòng huyết thống của một người con đối với mẹ mà cũng vừa mang tính từ bi siêu thoát. Bởi tình thương ràng buộc trong dòng huyết thống đó là tình thương thể hiện trong phạm vi ái kiến. Sự thật chưa phải là bản chất của Từ Bi. Bản chất và lực dụng của từ bi mang tính phổ cập không giới hạn trong tình cảm hạ đẳng thân sơ của một con người mang đầy tính chất phàm tục. Mà từ bi không đòi hỏi điều kiện và luôn mở rộng không có giới hạn trùm khắp cả muôn loài.
Ở đây ta thấy, chất liệu tình thương cũng được thể hiện trọn vẹn trong dòng huyết thống và trong ý hướng siêu thoát của đời sống tâm linh. Đức hiếu sinh và đạo nghĩa đã được nâng cao trong đời sống hành xử phù hợp với đạo lý nhân bản của con người. Mở rộng trái tim yêu thương đồng loại rộng ra là khắp cả muôn loài đó là niềm hạnh phúc vô biên mà người Phật tử chúng ta cần nên thực tập. Có thế, thì chúng ta mới có thể duy trì và phát huy truyền thống Hiếu Đạo, ngày càng mạnh mẽ trong cộng đồng nhơn loại, nhằm tiến đến xây dựng một nếp sống thăng hoa trong chiều hướng an bình giải thoát. Đó là bức thông điệp tình thương cao cả của Kinh Vu Lan mà đức Phật nhằm truyền đạt gởi đến cho khắp cả muôn loài, trong đó đặc biệt là loài người chúng ta.
Như vậy, kinh Vu lan mang lại niềm vui chung cho tất cả chúng sinh trong cõi âm và cõi dương đều được thắm nhuần ân đức siêu thoát. Trọng tâm của Kinh Vu Lan nhằm xây dựng đạo đức nhân bản và củng cố niềm tin vững chắc vào luật nhân quả. Mọi người hành xử theo chiều hướng thánh thiện để tự cởi trói cứu mình và cứu thoát muôn loài. Đó là mục đích chính của Kinh Vu Lan nhắm tới.
Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan
Mục Liên với bốn ban Phật tử
Nguyện một lòng tín sự phụng hành
Trước là trả nghĩa sanh thành
Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài.
Vu Lan Nhớ Bạn
Thành kính tưởng niệm hương linh pháp hữu Đắc Huệ
Thời gian trôi qua thật nhanh, mới đó mà anh Đắc Huệ đã rời xa chúng tôi qua ba mùa Vu Lan rồi. Mỗi lần Vu Lan về, tôi lại nhớ tới anh. Hôm chị Từ Hạnh (bà xã của anh Đắc Huệ) gọi điện thoại báo tin và sau đó gởi thơ mời tôi lên Sydney để dự lễ trai Tăng cầu siêu mãn tang ba năm được tổ chức tại ngôi thiền đường Vô Ưu. Nơi mà anh Đắc Huệ hợp lực cùng với một số quý Phật tử trong nhóm tu Thiền dưới sự hướng dẫn chỉ giáo của Hòa Thượng Thích Thanh Từ sáng lập. Nói đến việc xây dựng ngôi thiền đường nầy, phải nói cũng trải qua nhiều khó khăn. Vì anh là người được trong nhóm tin kính đặt hết kỳ vọng ở nơi anh. Bởi anh có được những ưu điểm:
Thứ nhứt, anh là đệ tử thụ học và cầu pháp với Hòa thượng Thích Thanh Từ suốt thời gian ba năm ở Phật học viện Phước Hòa, Trà Vinh. Khi chuyến công du hoằng pháp của Hòa thượng Thanh Từ ở Úc Châu, thời gian lưu trú ở Sydney, Hòa thượng đã tạm trú ở nhà anh. Anh cho biết, nhóm Thiền Vô Ưu là do Hòa thượng Thanh Từ cho phép thành lập.
Thứ hai, với bản tánh hiền hòa, chơn chất, trung thực, và có thêm được chút ít kiến thức về Phật pháp nên anh được mọi người trong nhóm tín nhiệm đề cử anh làm huynh trưởng chỉ đạo. Coi như anh là một thuyền trưởng đứng ra điều khiển chiếc thuyền Vô Ưu với sự hỗ trợ đắc lực của mọi người để vượt qua mọi sóng gió khó khăn chóng đạt thành sở nguyện.
Thứ ba, vì anh cũng trọng tuổi ở vào cái tuổi về hưu nên được lợi thế là có nhiều thời giờ rảnh rỗi để đốc sức lo cho công việc hữu ích chung nầy. Tuy nhiên, suốt thời gian lãnh đạo, có những lúc gặp phải khó khăn trở ngại, anh thường hay bày tỏ tâm sự với tôi. Và tôi cũng đã trao đổi góp ý kiến xây dựng cùng anh. Tôi biết anh là người có ý chí kiên nhẫn, chịu khó cần cù, nên không có khó khăn thử thách nào mà có thể ngăn cản được ý chí kiên cường dũng mãnh của anh. Đó là điều tôi tin chắc ở nơi anh. Vì đó cũng là bản chất xưa nay của anh.
Trở lại vấn đề trên, khi nhận được tin mời thì tôi đã đặt vé máy bay lên Sydney trước rồi. Tuy nhiên, có điều may mắn là trùng hợp ngày nhưng lại sai giờ. Dù vậy, nhưng tôi vẫn tranh thủ thời gian tới để thắp cho anh một nén hương tưởng niệm. May mắn, tôi nhờ đạo hữu Thiện Thành chở tôi đến thiền đường. Khi đến nơi buổi lễ đã hoàn mãn. Lúc đó, tôi có gặp Ni sư Hải Triều Hạnh và Sư cô Phước Hoàn đang ra về. Vừa tới cửa, chúng tôi chào nhau và Sư cô Phước Hoàn quày trở lại cùng tôi đi vào trong thiền đường để gặp chị Từ Hạnh. Sau đó Sư cô Phước Hoàn trở ra về. Tôi xin lỗi chị Từ Hạnh tới trễ và tôi xin phép chị cho tôi được thắp nén nhang tưởng niệm anh Đắc Huệ....
Nhớ lại, cứ mỗi lần có dịp lên Sydney, gặp lại một vài người bạn cũ như các anh: Đồng Minh, Giác Biên và chú Minh Lý... tôi không khỏi ngậm ngùi thương nhớ đến anh. Những lúc chúng tôi gặp nhau hàn huyên tâm sự, anh em chúng tôi thường hay nhắc nhở tới anh. Vì chúng tôi rất quý mến anh. Anh là một người bạn thân thiết hiền hòa và rất giàu tình cảm. Những lúc trao đổi bàn chuyện đạo lý, anh không bao giờ có ý tỏ ra tranh cãi hơn thua với ai. Vốn có căn bản chút ít về Phật học nên đối với lý thiền anh hiểu khá sâu sắc. Chẳng những hiểu về mặt văn tự mà anh còn thực tập thể hiện chất thiền ngay trong đời sống. Chúng tôi trao đổi vấn đề Phật pháp với nhau rất là tương đắc. Tuy anh chọn pháp môn Thiền tông để tu, dưới sự hướng dẫn giảng dạy của Hòa thượng Thích Thanh Từ, nhưng không phải vì thế mà anh lại có ý kích bác chê bai Tịnh độ hay bất cứ tông phái nào khác.
Có lần anh tâm sự với tôi: "Phật giáo chia ra có nhiều tông, mỗi tông có một đường lối chủ trương thật hành riêng, ai thích tông nào thì tu theo tông đó. Điều quan trọng là mình có thật hành đúng theo cái tôn chỉ mục đích của tông đó chủ trương hay không. Thiền, Tịnh, Giáo, Luật, Mật... tất cả cũng đều do Phật nói. Nếu người tu Thiền mà kích bác chê bai người tu Tịnh, hoặc người tu Tịnh kích bác chê bai người tu Thiền v.v... như vậy thì có khác nào mình lại kích bác chê bai ông Phật Thích Ca Mâu Ni giáo chủ của mình rồi. Các tông chẳng qua chỉ khác nhau trên phương diện hành môn, còn cứu cánh lý đạo thì nào có khác chi đâu. Trên hành môn, thì tùy theo căn cơ trình độ của mỗi người mà chọn cho mình một pháp môn tu thích hợp, giống như ngôi nhà có nhiều cửa, ai muốn vào cửa nào cũng được, miễn sao vào được trong nhà là tốt rồi. Điều quan trọng là mình có chịu bước vào trong nhà đó hay không? hay là chỉ đứng ở ngoài cửa rồi khen chê trách móc tông nầy phái nọ đủ thứ, thử hỏi như thế thì mình có được lợi lạc gì không? Anh nói thêm, người tu thời nay vì quá câu nệ chấp nê về hình thức sự tướng rồi sanh tâm phân biệt bảo thủ cái định kiến của mình. Từ đó mới có ra sự tranh chấp chống đối hơn thua phải trái với nhau. Điều đó, ngẫm kỹ cũng thật là chua xót đau lòng! Với tinh thần phóng khoáng bao dung chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi nguồn giáo lý Đại Thừa, nên lúc nào anh cũng tỏ ra rất hài hòa dung thông không bao giờ có định kiến bảo thủ cố chấp. Và không bao giờ anh đề cao cái pháp môn mà mình đang tu”. Đó là điều tôi đáng quý kính ở nơi anh.
Tôi và anh Đắc Huệ đã quen biết nhau lúc còn ở Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ quen biết qua loa vậy thôi chớ chưa có thân nhau, vì chúng tôi ít có dịp gặp nhau thường. Tôi chỉ biết anh làm việc trong nhà sách Lá Bối và anh cũng đã làm giám thị cho trường Bồ Đề Bến Tre. Những lúc có dịp tới lui chùa Ấn Quang, thỉnh thoảng tôi có gặp anh nhưng chỉ chào hỏi xã giao thôi, ít có khi trò chuyện nhiều. Vì lúc đó tôi đang theo học lớp sơ đẳng Phật học ở Phật học viện Huệ Nghiêm.
Đến năm 1966, khi tham gia phong trào Phật giáo đấu tranh chống lại chánh quyền Thiệu - Kỳ, tôi và anh Đắc Huệ mới có dịp gặp nhau thường. Phải nói lúc đó anh là một trong những tăng ni sinh trẻ, rất nhiệt tình hăng say tích cực tranh đấu trong việc bảo vệ Phật giáo chống lại sự đàn áp của chánh quyền. Trong những cuộc biểu tình, lúc nào anh cũng là người hô hào cổ vũ đi trước. Khi hỏi ra, tôi mới biết anh là người cùng quê. Từ đó, chúng tôi mới thân thiện và trò chuyện thân mật với nhau nhiều hơn.
Nhưng sau biến cố lịch sử 1975, chúng tôi vì hoàn cảnh nên mỗi người đi mỗi ngã. Vào khoảng năm 1987, trong dịp tham dự Đại Hội của GHPGVNTN tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan, tình cờ chúng tôi gặp lại nhau tại tiền đình chùa Phước Huệ. Khi gặp lại, chúng tôi rất đỗi ngạc nhiên và vui mừng xúc động nghẹn ngào nói không ra lời. Từ dạo đó, cứ mỗi lần có việc lên Sydney, tôi thường đến thăm gia đình anh, có lúc thì anh đến chùa Phước Huệ thăm tôi. Anh có vợ và ba con: hai trai một gái. Những đứa con của anh hiện nay đã trưởng thành, có gia đình và tạo dựng sự nghiệp vững chắc. Đó là điều thật đáng vui mừng cho các cháu.
Anh em chúng tôi có nhiều kỷ niệm thật khó quên. Lần nào lên Sydney, chúng tôi cũng đều điện thoại rủ nhau hội họp một nơi để cuốn bánh tráng. Vì món ăn nầy vừa gọn lại vui và có nhiều rau cải không dầu dễ nuốt. Khi thì anh mời chúng tôi đến ngôi thiền đường Vô Ưu của anh, lúc thì đến nhà của anh Giác Biên, hoặc ở nhà của anh Đồng Minh. Có khi thì đến chùa Thiên Phước của thầy Phước Sanh. Thật ra, đối với chúng tôi vấn đề ăn uống chỉ là phần phụ thuộc, nhưng điều quan trọng là chúng tôi muốn tạo cơ hội gặp nhau để hàn huyên tâm sự, ôn lại những chuyện xưa tích cũ, gọi là ôn cố tri tân cho vui vậy thôi. Vì mỗi người ít nhiều đều có những kỷ niệm hay dở, buồn vui riêng tư, nên chúng tôi cần trao đổi học hỏi kinh nghiệm với nhau. Chính vì thế, nên chúng tôi thường hẹn gặp nhau là vậy.
Riêng tôi và anh Đắc Huệ là người đồng hương quê ở Trà Vinh, có thời gọi là Vĩnh Bình. Tuy chúng tôi cùng tỉnh nhưng khác quận. Anh Đắc Huệ sinh trưởng ở quận Cầu Kè còn tôi thì ở quận Cầu Ngang. Điều bất hạnh nhứt của hai chúng tôi là mang thân phận của những đứa trẻ mồ côi cha từ thuở nhỏ. Chúng tôi đã mất đi tình yêu thương cao cả của một người cha. Nói về tuổi tác thì anh Đắc Huệ lớn hơn tôi ba tuổi, nên tôi xem anh như là một người anh hơn là một người bạn. Bởi cùng cảnh ngộ bất hạnh nên chúng tôi dễ thông cảm và thương mến nhau hơn. Có lần, anh nói với tôi là anh được có nhân duyên với Phật pháp rất sớm. Anh vào chùa tu làm điệu để chóp lúc lên bảy tuổi. Bổn sư của anh là cố Hòa thượng Thích Hoàn Thông. Khi thế phát xuất gia được thầy bổn sư cho anh pháp tự là Thắng Cường. Nhưng sau nầy khi anh theo học cấp sơ đẳng Phật học tại chùa Phước Hòa, thị xã Trà Vinh, anh cầu pháp với Hòa thượng Thích Thanh Từ nên anh đã được Hòa thượng Thanh Từ cho pháp hiệu là Đắc Huệ. Từ đó, cái tên Đắc Huệ gắn liền với anh cho đến ngày anh nhắm mắt ra đi.
Sau khi tốt nghiệp cấp sơ đẳng Phật học, các tăng sinh lớp anh đã được đưa về Sài Gòn và chia thành hai nhóm: một nhóm tăng sinh chuyên học Phật pháp thì tòng học tại Phật học viện Huệ Nghiêm, thuộc xã An Lạc, quận Bình Chánh. (Nay ngôi chùa khá khang trang rộng lớn tọa lạc đối diện với bến xa cảng miền Tây. Phật học viện nầy trước kia do cố Hòa thượng thượng Thiện hạ Hòa thành lập vào ngày 11. 11. 1962, theo bản vẽ của kiến trúc sư Võ Đình Diệp). Còn một số khác (trong đó có anh Đắc Huệ), thì theo học cấp trung đẳng Phật học phổ thông qua hai chương trình: nội và ngoại điển tại cơ sở chùa Ấn Quang. Vì hoàn cảnh khó khăn trắc trở nên con đường học vấn của anh cũng không được may mắn liên tục hoàn thành như ý muốn.
Về đời, người ta thường gọi tên anh là ba Có. Với bản tánh chơn chất hiền hòa, khiêm tốn, khề khà, dễ duôi, vui vẻ, cởi mở, nên anh rất được bạn bè anh em thương mến. Những lúc chúng tôi gặp nhau, tôi thường hay trêu chọc anh cho vui, tôi nói người ta chỉ có một cái "Có" thôi là đã vất vả đau khổ lắm rồi, còn anh tới "Ba Có" thì thử hỏi làm sao mà không đau khổ cho được? Anh nhìn tôi rồi cười khà và nói, ngày xưa, ở Trung Hoa có nhà cách mạng Tôn Dật Tiên, ông chủ trương "Tam vô chủ nghĩa"; còn tôi thì chủ trương là "Tam hữu chủ nghĩa". Tôi hỏi anh tam hữu chủ nghĩa là gì? Anh nói tam hữu là ba cái có: "có nhà, có vợ và có con". Nghe nói thế chúng tôi ai nấy đều không thể nín cười được. Phải nói anh Đắc Huệ là người kể chuyện rất có duyên và hay pha trò chọc cười tiếu cho vui. Điều mà anh em khó quên ở nơi anh là khi anh cười đôi mắt anh nhíu lại khít rịt. Anh vui cười tự nhiên thoải mái không một chút ái ngại ngượng ngùng. Bởi vậy mà anh em rất thích và thương quý mến anh. Chúng tôi họp mặt nhau trong bữa cuốn bánh tráng lần cuối tại thiền đường Vô Ưu, chỉ cách đó vài tháng trước khi anh đã vĩnh viễn từ giã chúng tôi ra đi.
Chính vì thế, nên khi hay tin anh mất, tất cả anh em chúng tôi ai nấy đều bàng hoàng kinh ngạc xúc động. Anh em bạn bè xa gần đều có mặt trong ngày tang lễ của anh. Nhớ lại, trước giờ tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ, tôi thay mặt cho anh em bạn bè quen thân với anh, viết đôi lời ai điếu. Trong đó, có đoạn, tôi viết tiễn anh:
Duyên trần anh đã trả xong
Thênh thang nhẹ gót thong dong Ta bà
Dạo chơi trong cảnh sum la
Tùy duyên hành hoạt phong ba ngại gì
Con đường anh chọn ra đi
Nẻo về một lối có gì phải vương
Thế gian là cảnh vô thường
Nay dời mai đổi khác dường bèo mây
Bao nhiêu mộng ước đắp xây
Chỉ là sương khói tràn đầy khổ đau
Mấy lời cạn tỏ trước sau
Nén hương tâm nguyện nghiêng chào tiễn anh.
Như trên đã nói, hôm ngày lễ kỷ niệm ba năm mãn tang (theo tục lệ xưa của người Hoa) của anh, tôi xin phép chị Từ Hạnh để đến trước bàn thờ của anh tại thiền đường do anh đứng ra cổ động sáng lập, tôi thầm cầu nguyện và nhắc lại mấy câu:
"Đi mà không đi
Đến mà không đến"
Bởi vì:
"Sanh diệt diệc dĩ
Tịch diệt vi lạc".
Và tôi tụng cho anh nghe bài kệ:
"Hữu sanh hữu tử hữu luân hồi
Vô sanh vô tử vô khứ lai
Sanh tử khứ lai đô thị mộng
Tốc phao trần thế thượng liên đài"
Tụng xong, tôi nhìn vào tấm ảnh với bộ y phục đời của anh và lúc đó chị Từ Hạnh cũng đang đứng bên tôi và chị hỏi ý kiến tôi nên làm lại tấm hình cho anh với bộ y phục đạo có được không? Nghĩa là cho anh mặc chiếc áo tràng màu đà mà anh thường hay mặc. Tôi nói, tôi rất tán thành và đồng ý qua ý kiến của chị. Vì đó cũng là ý nguyện của anh. Tôi nhìn sâu vào chân dung qua hình ảnh của anh, tôi thầm mừng cho anh. Vì thấy ngôi thiền đường hiện nay đã hoàn thành khá khang trang rộng rãi hơn xưa, có khả năng dung chứa được nhiều người hành lễ. Như vậy, tuy anh vắng bóng, nhưng quý vị đó vẫn tiếp tục thực hiện đúng theo hoài bão tâm nguyện của anh. Tôi nghĩ, chắc là anh nhìn thấy sẽ vui mừng lắm, vì đó là sở nguyện ước ao của anh từ lâu khi anh còn sinh tiền.
Bằng những lời chân thành, một lần nữa, tôi lại cầu nguyện cho anh, chóng đắc vô sanh pháp nhẫn, hồi nhập Ta bà và với tinh thần Bồ tát đạo anh sẽ luôn hiện hữu có mặt trong cuộc đời để tiếp tục hành hoạt lợi sinh trong tinh thần tự do và giải thoát. Thầm nguyện xong, tôi chấp tay kính cẩn chào anh trong niềm hoài vọng tiếc thương…!
Phỏng Vấn Chuyến Đi Perth
Trong chuyến đi Perth vào ngày 29/10/2013/ vừa qua, do đạo tràng Quang Minh tổ chức dưới sự hướng dẫn của Đại Đức Thích Phước Thái. Vì muốn biết rõ mục đích của chuyến đi, nên chúng tôi là một Biên tập viên (BTV) của Đặc San Phước Huệ có xin phép được phỏng vấn Thầy thích Phước Thái (TPT) qua một số vấn đề thiết yếu của chuyến đi hữu ích nầy. Sau đây là những câu hỏi của chúng tôi và đã được Thầy hoan hỷ lần lượt trả lời qua từng câu hỏi một. Mục đích của chúng tôi là muốn cho quý độc giả biết rõ về một chuyến đi tu học ở phương xa mà lần đầu tiên do đạo tràng Quang Minh thực hiện.
BTV: Thưa Thầy, theo con được biết, hằng năm đạo tràng Quang Minh có tổ chức hai kỳ tu học ở ngoài trời, thường là vào tháng ba và tháng mười. Những kỳ đi nầy, đều đi trong phạm vi của tiểu bang Victoria, nhưng không biết do nhân duyên gì mà Thầy lại tổ chức đi xa ở Tây Úc?
TPT: Sở dĩ chúng tôi tổ chức chuyến đi tu học xa kỳ nầy, là vì thể theo sự yêu cầu của một số quý liên hữu trong đạo tràng Quang Minh. Từ trước tới nay, chưa lần nào chúng tôi tổ chức đi xa qua tiểu bang khác, hầu hết là đi trong tiểu bang nhà mà thôi. Và mỗi chuyến đi chúng tôi đều chọn lựa những địa điểm thích hợp khác nhau. Thường thì tháng ba chúng tôi tổ chức đi gần, nói gần tức nhiên là không xa chùa Quang Minh lắm. Phần nhiều là chúng tôi chọn địa điểm sinh hoạt ở Keilor Park. Bởi nơi đây có nhiều tiện lợi để mọi người sinh hoạt. Công viên rộng rãi, thoáng mát, sạch sẽ và có nhà vệ sinh... Do đó mà chúng tôi thường chọn nơi đây để sinh hoạt. Tuy nhiên, thỉnh thoảng chúng tôi cũng có đi một vài nơi khác. Đó là nói đi gần. Còn đi xa hơn, thì chúng tôi chọn những nơi cách xa thành phố Melbourne. Mỗi nơi có mỗi cảnh quan khác nhau, vì số người đi đông, nên cần phải đặt thuê khách sạn trước. Thường thì đi vào hai ngày cuối tuần thứ bảy và chủ nhật. Việc làm nầy từ trước tới nay, tôi đều nhờ cô Nguyên Hồng chúng trưởng của chúng Châu Hoằng lo giúp giùm. Đặc biệt kỳ nầy, chúng tôi chọn đi Perth thời gian bảy ngày tính luôn khứ hồi, bởi có một vài lý đo chính yếu sau đây:
1. Liên hữu Minh Quang đã từng đi qua Perth đôi lần, nên khi nghe tôi dự tính đi xa sang tiểu bang khác, thì Minh Quang liền góp ý với tôi nên chọn đi Perth là tốt nhứt. Bởi Minh Quang có quen thân với cô Nguyệt Ánh. Cô hiện là một nghị viên của thành phố Waneroo. Do đó, nên muốn thuê chỗ ở thì nhờ cô giúp giùm rất thuận tiện. Bởi cô làm việc trong council, nên rất tiện lợi cho mình. Vì vậy tôi nhờ Minh Quang liên lạc với cô để nhờ cô lo sắp xếp mọi việc ở bên đó. Cô rất hoan hỷ giúp giùm. Thế là tôi đã yên tâm, vì đã có người sẵn sàng đứng ra giúp đỡ cho mình về mọi phương diện.
2. Chỗ ở là một ngôi trường thuộc vùng thôn quê cách xa thành phố rất yên tĩnh. Trường có tên là Landsdale Farm School (Nông Lâm Súc) tọa lạc trên một khu đất có nhiều cây cối xanh tươi thoáng mát rộng rãi. Ngôi trường nầy họ thường cho thuê quanh năm. Do đó, mình phải đặt sớm mới có chỗ. Tôi nhờ Minh Quang nói với cô Nguyệt Ánh thuê giùm. Tính từ ngày thuê cho đến ngày đi phải mất thời gian là bốn tháng. Đó là một nhân duyên rất thuận lợi cho chúng tôi.
3. Vì muốn thay đổi không khí mới lạ ở xa và cũng để cho mọi người có cơ hội tham quan một vài thắng cảnh ở Tây Úc, nên lần nầy chúng tôi quyết định đến Tây Úc sinh hoạt tu học.
BTV: Thưa Thầy, trước đây, Thầy có biết qua Tây Úc chưa? Và có phải đây là lần đầu tiên Thầy đến Tây Úc?
TPT: Thưa, đúng vậy. Đối với cá nhân tôi, thì đây là lần đầu tiên tôi đến Tây Úc. Tuy tôi chưa đến Tây Úc lần nào, nhưng tôi cũng được nghe một vài người đã từng đi Tây Úc về kể lại. Tây Úc có nhiều thắng cảnh nên thơ tuyệt đẹp. Nhất là thành phố Perth có nhiều phong cảnh rất hữu tình thơ mộng, với công viên Hoàng Gia (King Park) và dòng sông Swan (sông Thiên Nga) nước trong xanh. Đây là dòng sông mà du khách khi đến tham quan thành phố Perth không thể bỏ qua. Người ta còn gọi Perth là thành phố của những du thuyền. Ngoài ra, Perth còn có những bãi biển đẹp nhất đất nước. Rồi nào là Kimberly xa về phía tây bắc của Tây Úc, là nơi dành cho những nhà thám hiểm xuyên qua những hẻm núi hẻo lánh và Nigaloo là thiên đường của biển vịnh cá voi v.v...Tôi cũng còn nghe nói đến Wave Rock là một kỳ quan thiên nhiên tuyệt đẹp ở Tây Úc. Dĩ nhiên, còn và còn nhiều cảnh đẹp thơ mộng khác nữa.
BTV: Thưa Thầy, chúng con được biết, nơi tu học là ngôi trường Nông Lâm Súc (Landsdale Farm School). Chỗ cư ngụ nầy có đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho khóa tu không? Thời tiết và giờ giấc khác nhau có ảnh hưởng đến sức khỏe hay gây trở ngại cho việc tu học không? Và vấn đề ẩm thực như thế nào? Do đạo tràng tự nấu hay có người phụ giúp cung cấp?
TPT: Như tôi đã nói, ngôi trường nầy tọa lạc cách xa dân cư và thành phố nên rất yên tĩnh và rất thích hợp cho việc tu học. Chung quanh là những cây cao bóng mát, vì là nơi đây họ chuyên đào tạo cho những sinh viên theo học ngành nghề đúng như tên gọi của nó là "Nông, Lâm, Súc". Do đó, nên chu vi cảnh trí của nó vừa đẹp lại vừa thoáng mát. Riêng về chỗ nghỉ ngơi, tuy không có nhiều phòng dành riêng cho một hay hai người, như ở khách sạn sang trọng cấp cao, nhưng nó cũng có nhiều phòng cho vài người ở chung. Một phòng có thể 3 hoặc 4, hay nhiều hơn tùy theo phòng rộng, hẹp mà số người tạm trú không nhứt định. Mỗi phòng đều có những cái giường chồng và cũng có đầy đủ tiện nghi như phòng tắm, toilet và nhà bếp v.v... Số người của chúng tôi thì trên 50 người và chia đều các phòng nên nhu cầu chỗ ngủ nghỉ cũng đáp ứng được phần nào thoải mái không có gì phải trở ngại lắm.
Về thời tiết, thì ở Perth không có lạnh và cũng không có nóng lắm. Trong những ngày chúng tôi ở đó, thời tiết tương đối thật dễ chịu. Nhất là chỗ ở thì rất mát mẻ. Giờ giấc thì ở Perth đi sau Melbourne khoảng ba tiếng đồng hồ. Như ở đây, 3 giờ chiều, thì ở Perth khoảng 12 giờ trưa. Vì giờ giấc có thay đổi đôi chút giống như ở Việt Nam, nên lúc đầu vì mọi người chưa quen nên có hơi khó ngủ một chút, nhưng nhờ đi mệt nên cũng dễ ngủ thôi. Nói chung, thì cũng không có gì ảnh hưởng đến sức khỏe của đại chúng và cũng không có gây trở ngại nào cho sự tu học cả.
Vấn đề ẩm thực, thì phải nói đoàn chúng tôi rất khỏe là vì không phải tự nấu nướng. Bởi có nhà hàng lo cung cấp thức ăn ngày ba bữa. Chủ của nhà hàng là cặp vợ chồng tương đối còn trẻ và cũng là hai Phật tử thuần thành. Tên của anh là Sơn người ta thường gọi anh là Sony. Từ nhà hàng của anh đến chỗ chúng tôi ở phải mất thời gian ít nhất là khoảng 30 phút lái xe. Hôm nào bị kẹt xe thì thức ăn đưa đến hơi chậm trễ. Vì vậy, nên giờ thọ thực có đôi khi không đúng như giờ giấc mà mình đã quy định. Nhưng bù lại thì chúng tôi không phải phiền phức bận rộn lo nấu nướng nên có nhiều thời giờ nghỉ ngơi và tu học hơn. Tuy nhiên, những lúc chúng tôi đi tham quan ở những nơi xa xôi, thì thức ăn được mang theo xe. Thức ăn rất đơn giản và đựng trong hộp nhựa. Đó là thức ăn dành cho những buổi ăn trưa. Chúng tôi chọn nơi nào có cây cao bóng mát và vắng người lai vãng, thì chúng tôi cùng ngồi chung nhau quây quần ăn uống. Một không khí thật đầm ấm như một đại gia đình. Đây là những bữa ăn ở ngoài trời vừa thú vị lại vừa vui vẻ thích thú. Cần nói rõ thêm, việc chi phí cho thực phẩm suốt trong thời gian gần 7 ngày của chúng tôi ở bên đó, ông chủ nhà hàng chỉ tính giá tượng trưng thôi. Có nghĩa là ông cũng có phần đóng góp cúng dường cho đoàn chúng tôi. Nhất là bữa ăn trưa của ngày thứ bảy, hai ông bà thiết đãi đoàn chúng tôi nhiều món ăn rất thịnh soạn. Hai ông bà chủ nhà hàng rất là tử tế và tận tình giúp đỡ cho chúng tôi. Nhân đây, chúng tôi cũng xin gởi lời đến cám ơn hai ông bà nầy rất nhiều.
BTV: Kính xin Thầy vui lòng cho biết về chương trình tu học trong ngày như thế nào?
TPT: Về chương trình tu học mỗi ngày thì chúng tôi có hai thời khóa lễ căn bản. Đó là thời Tịnh độ tối lúc 6 giờ 30 và thời công phu khuya lúc 5 giờ sáng. Ngoài ra, những buổi ăn sáng trước khi đi tham quan một vài nơi thắng cảnh, chúng tôi đều có niệm Phật và tụng chú Kiết Trai. Chúng tôi áp dụng đúng theo nghi thức tụng niệm trong thiền môn. Đặc biệt, mỗi buổi sáng sớm sau khi công phu xong, chúng tôi cho mọi người đồng tập thể dục ở bãi sân cỏ. Đó là một sân cỏ tương đối khá rộng rất lý tưởng cho việc tập thể dục. Bao bọc chung quanh của cái sân trống nầy là những ngôi nhà mà chúng tôi tạm trú. Và cũng chính cái sân cỏ nầy, chúng tôi đốt lửa trại và văn nghệ ở nơi đây. Riêng về ngày chủ nhật 3/11/13 chúng tôi dành trọn ngày nầy để cho đại chúng tu học theo chương trình của một ngày thọ bát quan trai như ở trong chùa. Vì chúng tôi có được một nơi hành lễ tụng kinh bái sám tương đối cũng khá rộng, đủ cho đoàn chúng tôi và thêm một vài Phật tử địa phương đến dự tu. Đây là một căn phòng mà chúng tôi thiết trí giống như một chánh điện tạm. Tất cả những buổi sinh hoạt như: tụng kinh, giảng pháp, hội họp, chúng tôi đều tập trung ở căn phòng nầy. Song có điều những buổi hành lễ, có một số ít người lớn tuổi chân yếu thì ngồi trên ghế, còn lại tất cả đều ngồi trên nền cement, vì không có bồ đoàn. Tuy phương tiện có thiếu thốn, nhưng mọi người cảm thấy rất vui vẻ an lạc. Điểm đặc biệt hơn nữa, mỗi khi đoàn lên xe buýt đi tham quan ở đâu, chúng tôi đều hướng dẫn mọi người luân phiên niệm Phật trên xe. Mỗi bên niệm 5 câu và sau đó là tụng bát nhã, hồi hướng. Đồng thời, mọi người đều sinh hoạt ca hát những bản nhạc đạo hoặc kể chuyện vui v.v... Nghĩa là, chúng tôi biến chiếc xe thành ngôi Tam bảo lưu động và sân khấu di chuyển. Nhờ vậy mà mọi người như quên đi sự mệt mỏi và cảm thấy rất vui tươi an lạc.
BTV: Thưa Thầy, ngoài những thời khóa tu học nhất định, đoàn còn có đi tham quan một số thắng cảnh. Trong số những thắng cảnh mà Thầy và đoàn đã tham quan, xin Thầy cho biết nơi nào đã để lại cho Thầy một ấn tượng sâu sắc nhất?
TPT: Thật ra, đối với tôi thì mỗi nơi nó đều có một cảnh sắc kỳ thú đặc biệt của nó. Chúng tôi tham quan một số thắng cảnh như: Quần đảo thần tiên Mandurah, du thuyền dọc theo kênh đào xem cá heo, Công viên quốc gia Yanchep, hang thạch động Caystal Cave (thuộc phạm vi Công viên quốc gia), Pinnacles Desert Discovery thuộc Nambung National Park (quần đảo sa mạc đá vôi), nông trại nấm, nông trại trái cây, Bell Tower, King Park, Botanic Garden, Đài chiến sĩ Việt Úc, hải cảng Fremantal...
Qua những nơi mà tôi đã có dịp tham quan, nếu bảo gây cho tôi một ấn tượng sâu đậm nhất, thì phải nói đó là nơi quần đảo thần tiên sa mạc đá vôi. Vì nơi đây là một rừng đá nổi: cao, thấp, lớn, nhỏ hình thể đa dạng không đồng nhứt. Thật là một cảnh trí nên thơ tuyệt đẹp. Mình chỉ có thể cảm nhận bằng trực giác hiện lượng, chớ không thể nào dùng lý trí phân tích chia chẻ hết được. Đến nơi đây, tôi cảm giác như đang lạc vào một cảnh giới thần tiên, chớ không phải là cảnh giới phàm trần. Thử tưởng tượng, những hòn đá nhô lên trên một bãi cát vàng thẳng tắp, chỉ thấy toàn là một rừng cát, đá, trời mây. Một cảnh tượng thiên nhiên siêu thoát mà chỉ có tạo hóa mới có đủ năng lực tạo nên ban tặng cho con người thưởng ngoạn đó thôi. Thế thì, thử hỏi làm sao mình có thể diễn tả hết những vẻ đẹp muôn màu ngàn sắc ở nơi đây? Hòa nhập vào cảnh giới thiên nhiên, nó mang lại cho chúng ta một nguồn sống an vui bất tận, mà ở nơi đó, không còn có phân chia ranh giới tranh chấp hận thù, nhân ngã bỉ thử, kỳ thị chủng tộc, và triệt tiêu mọi thứ vọng tưởng biến kế sở chấp cấu uế, không còn có bản ngã vị kỷ thấp hèn, chỉ biết lợi mình hại người. Đó là một cảm quan mà khi đến đây, chúng tôi cảm thấy tâm hồn rất là an thoát nhẹ nhàng thoải mái. Và đó cũng là một ấn tượng sâu đậm mà tôi đã cảm nhận được.
BTV: Bạch Thầy, theo con được biết, đoàn cũng có thăm viếng nông trại nấm và nơi sản xuất đủ loại cây kiểng, đều do người Việt làm chủ. Thầy nghĩ gì về những nỗ lực vươn lên và thành công của người Việt ở Tây Úc?
TPT: Thật ra, khi đoàn đến thăm viếng ở hai nông trại nầy, thời gian để mình tìm hiểu hay quan sát nó rất ngắn ngủi, do đó, nên mình cũng khó đánh giá được cái mức độ thành công đó như thế nào. Tuy nhiên, với cái nhìn chung của chúng tôi, thì chúng tôi thấy rằng, đó là một sự thành công khá lớn. Theo hai vị chủ nhân đó cho biết, từ khi khởi công tạo dựng hai cái cơ sở nông trại nầy, bước đầu họ cũng gặp phải và trải qua rất nhiều chướng ngại khó khăn. Tôi nghĩ, bất cứ sự thành công nào nó cũng phải đánh đổi trả giá rất đắt mới có được. Không phải ai làm ăn cũng được may mắn suôn sẻ thành công hết đâu. Bởi "thất bại là mẹ đẻ của sự thành công". Nói cách khác, thất bại cũng là một bài học kinh nghiệm cho sự thành công. Người ta thường nói: "Thương trường cũng chính là chiến trường". Đã là chiến trường, tất nhiên, là phải có sự cạnh tranh quyết liệt. Nhờ sự cạnh tranh đó, nên người ta mới quyết chí vươn lên bằng cả khối óc và đôi bàn tay rắn chắc của mình.
Ngoài những đức tánh cần cù kiên nhẫn chịu khó ra, nó còn đòi hỏi người ta phải có nhiều yếu tố trợ lực khác. Sự sáng kiến linh hoạt cũng là một yếu tố khá quan trọng. Như Farm nấm mà chúng tôi thấy, tuy người làm chủ cũng không trẻ lắm, nhưng ông ta đã có một ý chí dũng mãnh bền bỉ và chịu khó vươn lên từng bước để thành tựu sự nghiệp của mình. Áp dụng đúng theo nguyên tắc là: "tiền bần hậu phú". Điều đó cho chúng ta thấy sự thành công nằm ở nơi ý chí kiên nhẫn vươn lên của con người. Gặp khó khăn quyết không thối bước nản lòng. Khéo biết quyền biến xoay sở lèo lách để từng bước tiến đến thành công. Phải nói, sự thành công của ông ta vượt ngoài thời gian dự tính. Điều nầy, cho chúng tôi một nhận xét chung là: "Sự thành công hay thất bại, ngoài yếu tố chủ quan ra, nó còn có nhiều yếu tố khách quan khác nữa. Mà yếu tố chính, theo cái nhìn của luật nhân quả, thì người chủ phải là người có phước đức và không những hiện đời mà nó còn dư báo của đời trước hoặc nhiều đời trước nữa". Vì vậy, nên công việc làm ăn dù có gặp khó khăn, nhưng rồi cũng vượt qua tất cả. Cho nên, việc tích nhân lũy đức rất là quan trọng trong cuộc sống. Ông bà mình có câu nói: "Bôn ba không qua thời vận hay có đức không sức mà ăn" là ý nầy vậy.
BTV: Thưa Thầy, đoàn cũng có thăm viếng ba ngôi chùa điển hình ở Tây Úc. Nếu được, xin Thầy cho biết sinh hoạt chung của các chùa ở Tây Úc. Những sinh hoạt nầy có đáp ứng được nhu cầu của Phật tử ở tại đây không?
TPT: Đoàn chúng tôi chỉ có thăm viếng được ba ngôi chùa, vì chúng tôi không có thời gian nhiều. Ba ngôi chùa đó gồm có: Chùa Phổ Quang, Thiền viện Minh Quang và chùa Quán Âm. Việc sinh hoạt của các ngôi chùa Phật giáo thuộc hệ phái Bắc tông, theo tôi, thì ở nơi nào cũng sinh hoạt giống nhau. Phần lớn sinh hoạt ở các chùa đều tập trung vào ngày chủ nhật. Hoặc có thêm thì cũng chỉ thêm ngày thứ bảy nữa thôi. Ngoại trừ những khóa tu học đặc biệt thì có thời gian liên tục dài hơn. Như những khóa tu Kết Kỳ Niệm Phật hay Phật thất hoặc vào các ngày lễ vía đặc biệt v.v... Ngoài ra, hầu hết các chùa ở hải ngoại đều sinh hoạt vào cuối tuần. Bởi chỉ có cuối tuần thì Phật tử mới có thời gian rảnh rỗi để về chùa sinh hoạt tu học.
Nếu bảo rằng, những sinh hoạt nầy có đáp ứng được nhu cầu của Phật tử ở tại tây Úc không? Điều nầy, còn tùy thuộc vào sự sinh hoạt của mỗi ngôi chùa. Hơn thế nữa, nếu nói nhu cầu thì có rất nhiều nhu cầu. Cho nên tốt nhứt là chúng ta nên giới hạn hai chữ "nhu cầu" nầy ở một phương diện nào đó, thì có lẽ dễ trả lời hơn. Tôi nghĩ, chùa nào và ở đâu ít nhiều gì Tăng, Ni cũng đáp ứng được phần nào đó theo nhu cầu của Phật tử. Ngoài những ngày đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan, Tết Nguyên Đán ra, còn lại những pháp sự thông thường như: mở ra các khóa tu học ngắn hoặc dài hạn, định kỳ hoặc bất thường, quan hôn tang tế, cầu an, cầu siêu, tụng Kinh bái sám, quy y truyền giới, lễ lộc đám sám v.v... Nói chung, là đáp ứng lại những nhu cầu tín ngưỡng thông thường của người Phật tử, thì không riêng gì ở Tây Úc mà tôi nghĩ, ở nơi đâu cũng thế thôi. Tuy nhiên, việc đáp ứng nhu cầu ít hay nhiều, lớn hay nhỏ, nó còn phải tùy thuộc vào hoàn cảnh ở mỗi địa phương và số lượng Tăng, Ni nhiều, ít của mỗi ngôi chùa. Điều nầy chúng tôi không thể trả lời một cách khẳng quyết được.
BTV: Thưa Thầy, con có nghe nói, tối thứ bảy ngày 2/11/13 Thầy có tổ chức đốt lửa trại và văn nghệ, xin Thầy có thể cho biết tâm tình của Thầy và của đoàn tối đêm hôm đó như thế nào?
TPT: Câu trả lời đầu tiên của chúng tôi, phải thành thật mà nói tối đêm hôm đó, tôi và mọi người ai nấy cũng đều rất là hứng thú vui vẻ. Mặc dù thời tiết không được tốt lắm, gió thổi rất lạnh, nhưng mọi người như quên đi cái lạnh và chỉ biết tập trung tâm ý vào việc vui chơi thoải mái lành mạnh đó thôi. Nhờ ngọn lửa bốc cháy lên cao lan tỏa sưởi ấm cho mọi người, nên ai cũng cảm thấy ấm áp ở nơi thân tâm. Một sự ấm áp mang lại cho mọi người có một niềm vui chung thật khó tả. Qua những lời ca tiếng hát, âm thanh trầm bổng du dương vang vọng cả một góc trời trong đêm đen, như len lỏi đi sâu vào lòng người. Dù là văn nghệ bỏ túi theo kiểu cây nhà lá vườn, ngoài sự đóng góp chung vui của những liên viên trong đạo tràng ra, bên cạnh đó còn có sự đóng góp của các anh chị em nghệ sĩ miệt vườn địa phương, tạo cho bầu không khí thật vui tươi ấm áp chứa chan đầy thâm tình đạo vị. Ấm áp của tình người đồng hương dù sinh sống ở bất cứ nơi đâu.
Văn nghệ cũng là một sợi dây nối kết thắt chặt tình người sát lại gần nhau hơn. Ngoài những gương mặt quen thuộc thường hay ca hát trong đạo tràng ra, chúng tôi còn khám phá ra được những tài năng mới. Điều mà không ai có thể quên được đó là một vở hài kịch song thoại vui nhộn của đôi vợ chồng Trí Lạc và Diệu Ngọc 4 trình diễn. Tuy là vở kịch hài hước, nhưng nội dung rất có ý nghĩa. Như nhắc nhở người ta đừng vì sự bê tha chè chén chơi bời mà quên đi sự tu hành. Đó là hiện trạng của một xã hội đầy trụy lạc sa đọa như hiện nay. Phải nói cặp vợ chồng nầy cũng đã dày công luyện tập nên mới có sự diễn xuất độc đáo hay như vậy.
Nói chung, dù thời gian có ngắn, nhưng niềm vui của chúng tôi thật trọn vẹn. Chúng tôi cũng không quên cám ơn anh chị em nghệ sĩ địa phương đã đến đóng góp tạo cho chương trình văn nghệ càng thêm phong phú và cũng để chia sẻ niềm vui chung cùng với đoàn chúng tôi. Có thể nói đêm đốt lửa trại thành công mỹ mãn tốt đẹp.
BTV: Thưa Thầy, Thầy nhận xét ra sao về chuyến đi tu học kỳ nầy? Thầy có dự tính trở lại Tây Úc lần nữa không? Nếu không trở lại Tây Úc, thì Thầy có định tổ chức một chuyến đi tu học như thế nầy ở tiểu bang khác không? Và Thầy dự định đi tiểu bang nào?
TPT: Như tôi đã trình bày đại khái ở trên, đây là một chuyến đi thật là vui và thật là có ý nghĩa hữu ích. Trọng tâm mà chúng tôi nhắm tới là nhằm tạo cơ duyên thuận lợi cho các liên hữu trong đạo tràng Quang Minh tu học. Việc làm nầy, thật ra, thì chúng tôi cũng chỉ thể theo sự yêu cầu của một số quý liên hữu mà thôi. Điều may mắn cho chúng tôi là có cô Nguyệt Ánh, một Phật tử thuần thành đã hết lòng lo lắng giúp đỡ cho chúng tôi về mọi mặt. Từ chỗ ở, ăn uống, di chuyển v.v... nhất là cô phải bỏ công ăn việc làm dành trọn thời gian để hướng dẫn đoàn chúng tôi đi tham quan các nơi thắng cảnh và các chùa. Là một nghị viên của thành phố, dĩ nhiên là cô rất bận rộn với công việc trong trách nhiệm của mình. Thế mà cô đã sắp xếp công việc và dành hết thời gian cho chúng tôi. Đó là điều mà chúng tôi không thể nào quên được. Hơn nữa, cô có rất nhiều kinh nghiệm trong nghề nghiệp của cô. Nhờ sự giúp đỡ tận tình tận lực của cô nên mọi sự sinh hoạt của chúng tôi đều được suôn sẻ dễ dàng.
Trải qua năm ngày mà cô đã hướng dẫn đoàn từ nơi nầy đến nơi khác, nhưng cô không bao giờ nhận chi phí thù lao của đoàn. Đó là một nghĩa cử thâm tình cao đẹp mà chúng tôi không thể nào quên công ơn của cô. Nhân đây, thay mặt đoàn, một lần nữa, chúng tôi xin chân thành cảm tạ tri ân cô rất nhiều. Và chúng tôi cũng không quên cám ơn liên hữu Minh Quang, vì nhờ Minh Quang giới thiệu nên chúng tôi mới biết cô Nguyệt Ánh. Vì chỗ quen thân, nên Minh Quang nhờ cô giúp giùm.
Phải nói, đây là một chuyến đi rất thành công. Thành công ở chỗ mọi người cảm thấy rất an lạc trong khi tu học và trong lúc đi tham quan lãm cảnh. Nhất là thể hiện tình đoàn kết thương yêu tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong thâm tình bạn sen. Trường hợp như cô Diệu Như 2 thình lình bị ngất xỉu, mọi người đều quan tâm lo lắng chăm sóc. Khi ấy, liên hữu Trí Lạc liền gọi xe cứu thương đến để đưa cô vào bệnh viện cấp cứu kịp thời. Đó là thể hiện tinh thần tương trợ chị ngã em nâng đùm bọc cho nhau.
Về phương diện tu học, tôi thấy ý chí ham tu hiếu học của mỗi người rất cao. Dù đi tham quan cả ngày trời mệt mỏi, nhưng mọi người vẫn không bao giờ thờ ơ chểnh mảng lơ là trong việc tu học. Hai thời công phu sáng, tối, tất cả đều tinh tấn giữ đều. Không có thời khóa nào mà họ vắng mặt cả. Dù có vị trọng tuổi trên tám mươi, nhưng cũng không bỏ sót vắng mặt một thời khóa lễ nào. Họ quyết chí tinh cần tu học. Và trong những lúc đi tham quan họ cũng không xao lãng việc nhiếp tâm niệm Phật ở trên xe. Phải chăng đó cũng là một thói quen mà họ đã có được trong những lúc sinh hoạt tu tập trong đạo tràng. Đó là điều với tư cách của người hướng dẫn đoàn, chúng tôi rất đổi vui mừng. Nói chung, chuyến đi nầy phải nói thành công về mọi phương diện. Đây là nhận xét chung của mọi người chớ không phải chỉ có riêng tôi. Nếu chỉ có một mình tôi khen ngợi đề cao thôi, thì chẳng khác nào là: "mèo khen mèo dài đuôi".
Còn việc có trở lại tây Úc thêm một lần nữa hay không, riêng tôi, thì tôi cũng có ước vọng là muốn trở lại một lần nữa. Vì có nhiều lý do thuận tiện, mà lý do chính yếu vẫn là cách cư xử của tình người và tình đạo. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một ước vọng thôi, được hay không là còn tùy thuộc vào nhân duyên. Nếu đủ duyên thì được, ngược lại, nếu thiếu duyên thì nguyện ước không thành. Cũng như chuyến đi lần nầy là nhờ đủ duyên mới thực hiện được.
Dự định của chúng tôi, dĩ nhiên là chúng tôi cũng muốn thực hiện một chuyến đi tu học như thế nầy ở một tiểu bang khác. Đó cũng chỉ là một dự định thôi. Về việc chọn tiểu bang nào, thì hiện nay chúng tôi chưa có quyết định. Vấn đề nầy, không phải chỉ riêng cá nhân tôi quyết định được, mà còn phải có sự quyết định chung của đạo tràng. Tôi chỉ là người đứng ra hướng dẫn và làm theo sự yêu cầu của mọi người mà thôi.
BTV: Đến đây cuộc phỏng vấn cũng khá dài, thay mặt Ban biên tập Đặc San Phước Huệ, con kính cảm ơn Thầy đã dành thời gian cho chúng con thực hiện cuộc phỏng vấn nầy, và chúng con cũng xin kính chúc Thầy thân tâm thường an lạc để tiếp tục hướng dẫn cho đạo tràng Quang Minh tiến dài trên bước đường tu học.
TPT: Tôi cũng xin thành tâm kính nguyện cầu Phật lực gia hộ cho đạo hữu và toàn Ban biên tập của tờ Đặc San Phước Huệ luôn được dồi dào sức khỏe, vạn sự bình an, vô lượng cát tường để tiếp tục phục vụ cho nội dung tờ báo ngày càng phát triển phong phú khởi sắc hơn.
Lý Nhân Quả Qua Một Vài Câu Ca Dao Tục Ngữ
Con người sanh ra đời đó là cái kết quả hình thành tiếp nối của cái nhân mà do chúng ta đã gây tạo từ trong quá khứ. Căn cứ theo lý nhân quả nghiệp báo, thì ta nhìn cái thân và cuộc sống của ta hiện tại mà ta có thể đoán định được phần nào của cái nhân quá khứ mà ta đã gây ra. Trong Kinh Pháp Cú Phật dạy rất rõ:
Dục tri tiền thế nhân,
Kim sanh thọ giả thị.
Yếu tri lai thế quả,
Kim sanh tác giả thị.
Nghĩa là:
Muốn biết đời trước của mình như thế nào, thì hãy nhìn kỹ cái quả báo mà mình đang lãnh thọ của đời hiện tại nầy. Muốn biết cái quả báo của mình đời sau ra sao, thì hãy nhìn vào cái tác nhân mà mình đang gây tạo trong hiện đời.
Đó là ta nhìn nhân quả theo chiều thời gian. Còn về không gian, thì đời sống của ta có liên hệ mật thiết với tất cả muôn loài. Thế nên mọi ý nghĩ, hành động, lời nói, việc làm của ta đều có tác động ảnh hưởng xấu, tốt đến mọi loài. Đó là cái nhìn đúng theo lý duyên sinh nhân quả của Phật giáo.
Ta nên biết thêm rằng, nhân quả là một chân lý phổ biến. Nó hình thành và tiềm tàng trong mọi sự vật, không một vật thể nào thoát khỏi nhân quả. Vì hiểu được định lý nhân quả, nên từ ngàn xưa, tổ tiên ta đã khéo ứng dụng thể hiện vào đời sống theo chiều hướng thăng hoa tốt đẹp từ cá nhân, gia đình và xã hội. Do sự trải nghiệm theo dòng đời khổ vui đó mà ông cha ta đã để lại một kho tàng quý báu về những câu ca dao tục ngữ bất hủ trong việc xử thế, trị quốc, tu thân, tề gia, hành thiện theo hướng nhân quả tốt.
Những câu ca dao tục ngữ nhằm thức nhắc người ta nhớ đến nhân quả để hành xử cho mình và người trong tương quan đời sống, nên tránh những nhân xấu mà cần gây tạo những nhân tốt để có cái quả báo tốt đẹp. Chúng tôi thấy có rất nhiều câu ca dao tục ngữ theo dạng thức nầy.
Ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu ra một số câu ca dao tục ngữ mà chúng ta thường nghe người ta hay đề cập đến liên quan đến lý nhân quả. Và qua mỗi câu ca dao, tục ngữ, chúng tôi xin được góp thêm chút ý mọn với mục đích là để làm sáng tỏ ý nghĩa của những câu ca dao hay tục ngữ đã được nêu ra. Chỉ góp thêm chút ý kiến nhỏ nhoi thôi, chớ chúng tôi không dám có cái cao vọng là bình phẩm rõ ràng cặn kẽ qua từng vấn đề của mỗi câu. Việc làm nầy, xin để cho các bậc học giả có kiến thức uyên thâm bình giải cho chúng ta.
Bây giờ, chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa sơ qua một số câu tục ngữ mà chúng ta thường nghe thấy.
Ở Hiền Gặp Lành
Câu nói nầy, nhằm ý thức nhắc mọi người nên ăn ở hiền lương, không nên gây tạo những điều bất thiện. Hễ mình có lòng tốt giúp đỡ cho mọi người, khi người ta gặp cảnh hoạn nạn, ngặt nghèo, thì mình nên rộng lòng từ ái cứu giúp. Đến khi mình gặp cảnh không may xảy ra, thì người ta cũng sẽ giúp đỡ mình lại. Dù người đó không giúp mình, thì cũng có người khác giúp mình. Đành rằng, khi thi ân, mình cũng không có ý mong cầu người ta đáp trả lại. Vì sách Nho có câu: “Thi ân bất cầu báo”. Thi ân mà còn cầu đáp trả, đó là thi ân có ý mưu đồ. Đúng theo luật tắc nhân quả, hễ có gây nhân, thì sớm hay muộn gì cũng có kết quả.
Sống ở đời, nếu mình quá ích kỷ, cái gì cũng chỉ nghĩ riêng cho phần mình, ai chết mặc ai, dù thấy người ta đang đau khổ ngút ngàn rên la oằn oại trước mắt mình, mình cũng không chút từ tâm thương xót. Như thế, thì thật mình quá nhẫn tâm, không có chút tình người. Ta nên biết rằng, đời là vô thường nay vầy mai khác, đổi thay luôn luôn, chắc gì mình không có lúc gặp phải cảnh hoạn nạn khổ đau. Biết đâu sau nầy mình còn khổ đau hơn người ta nữa không chừng. Do nghĩ thế, nên hôm nay, mình nên đối xử tử tế hiền hòa với mọi người, thì mai kia, khi mình có gặp hoạn nạn, thì không ai lại bỏ mình.
Thế nên, mình cố gắng làm lành giúp người tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Được thế, thì còn gì quý giá cho bằng. Mình giúp cho người ta vui vẻ, tức mình cũng vui vẻ. Cho nên câu nói: “ở hiền gặp lành” tuy có 4 chữ ngắn gọn, nhưng nó cũng đã thức nhắc cho chúng ta rất nhiều trong đời sống tương thân, tương ái và tương trợ lẫn nhau. Hễ gây nhân hiền, thì tất sẽ gặt hái quả lành.
Ở Ác Gặp Dữ
Câu nói nầy, ngược lại với câu trên. Nếu ở hiền gặp lành, thì ở ác gặp dữ, đó là điều tất yếu, không thể tránh khỏi. Câu nói nầy, các bậc tiền nhân đã cho ta một kinh nghiệm sống ở đời. Nếu mình muốn có một đời sống an lành, không xảy ra lắm điều hệ lụy phiền toái, thì mình không nên gây tạo những điều ác đức, làm đau khổ cho mình và người. Như mình hung dữ, thô bạo cướp của, giết người, làm những việc phi pháp trái với luật quốc cấm, đó là mình đã gieo hạt giống bất thiện rồi. Đã thế, thì thử hỏi làm sao tránh khỏi quả báo khổ đau.
Cứ nhìn vào xã hội loài người hiện nay, ta thấy có biết bao những tệ nạn xảy ra. Như kẻ cướp của giết người, bị cảnh sát bắt tống giam vào trong nhà lao. Dĩ nhiên, kẻ đó sẽ bị pháp luật trừng trị hành phạt đích đáng theo cái tội mà họ đã gây. Hôm nay, vì một cơn giận tức mình hung dữ ra tay đánh đập tàn nhẫn một người cô thân yếu thế, thì mai kia mình sẽ bị kẻ khác đánh đập lại. Chuyện đó đã và đang xảy ra hằng ngày.
Do đó, nên câu nói: “Ở ác gặp dữ”, cổ nhân nhằm khuyên chúng ta không nên hành động hung dữ mà phải chuốc lấy khổ lụy vào thân. Bởi do gây nhân bất thiện, nên gặp phải gặt hái cái quả bất thiện. Trong trường hợp nầy, ta thấy có nhiều câu tục ngữ cũng có đề cập đến, tiêu biểu như những câu nói sau đây: “Nhân nào quả nấy” Hay: “Gieo gió gặt bão” hoặc “ác lai ác báo” “quả báo nhãn tiền” v.v…Đây là những câu tục ngữ có tác dụng, nhằm khuyên răn người đời, nên luôn nhớ đến luật nhân quả báo ứng một mảy may không hề sai chạy. Biết thế, chúng ta phải cố gắng ăn ngay, ở hiền, làm lành, lánh dữ. Có thế, thì đời sống từ bản thân, gia đình, xã hội mới được an vui hạnh phúc.
Sinh Sự, Sự Sinh.
Câu tục ngữ nầy nhằm chỉ cho người hay có tật phê bình chỉ trích vạch lỗi nói xấu người khác. Đây là hạng người chuyên môn bới lông tìm vết hay vạch lá tìm sâu. Nhưng họ lại quên rằng: “chưn mình còn lắm lê mê, mà đi xách đuốc lại rê chưn người”. Từ chỗ hay bươi móc nói xấu người, nên họ thường hay gặp phải những chuyện xích mích gây gổ, đôi chối, lắm chuyện thị phi phiền hà rắc rối đủ thứ. Do đó, nên mới có câu nói thật đáng kiếp ai bảo: “Sinh sự, sự sinh”. Hai chữ “sinh sự” đã nói lên con người thiếu tự trọng, nhân cách, hay gây ra sự bất an phiền toái cho mình và người. Sinh sự là muốn hại người, đó là “Nhân” mà sự sinh phải chuốc khổ lụy vào mình, đó là “Quả”. Ta nên nhớ nhân quả như vang theo tiếng, như bóng theo hình. Nếu chúng ta khéo biết “sinh sự” tốt, làm lợi ích cho tha nhân, thì chúng ta sẽ nhận được cái “sự sinh” tốt đẹp cho mình vậy.
Có Tật Giật Mình
Một người hay làm những điều phi pháp bất nhân, thấy ai họ cũng đâm ra nghi ngờ sợ hãi. Trong lòng của họ không lúc nào an ổn. Từ đó, nó hiện ra cái tướng bên ngoài không được tự nhiên. Bởi thế nên người xưa nói: “tâm ư trung xuất hành ư ngoại”. Nghĩa là trong lòng của con người hiền hoặc dữ, gian dối hay thành thật như thế nào, thì nó đều hiện ra cái tướng cũng y như thế đó. Trường hợp như những kẻ buôn lậu những thứ hàng hóa quốc cấm chẳng hạn, trong tâm cảnh đó, thì thử hỏi trong lòng và tướng trạng của họ ra sao? Dù cho họ có cố gìn giữ bình tĩnh đến đâu, cũng không thể nào che mắt được những con “mắt thần” của luật pháp. Đã mang cái “Tật” hành vi phi pháp, thì nó cũng hiển lộ ra cái tướng thất đức bất bình thường. Nhất là nhìn trên gương mặt của họ thì người ta đủ biết nghi ngờ. Mà trên gương mặt chỗ dễ phát hiện ra nhất là ở nơi đôi mắt. Kẻ gian dối bao giờ đôi mắt của họ cũng láo liên, hay ngó trước nhìn sau, tỏ vẻ không yên sợ hãi. Do nhìn đôi mắt, người ta cũng đoán biết được phần nào của kẻ ngay gian. Vì đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Chính vì thế, mà họ khó qua mắt nổi của những người có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự bảo vệ luật pháp.
Cho nên, chúng ta thường nghe hoặc thấy báo chí hay loan tin những kẻ buôn lậu nha phiến bị bắt nơi này, nơi kia, nhất là thường xảy ra ở các phi trường quốc tế. Sở dĩ công an cảnh sát bắt được những kẻ buôn lậu, cũng tại vì họ có cái tật gian dối muốn qua mặt luật pháp, nên nó mới hiện ra cái bệnh giật mình. Thấy công an cảnh sát, thì họ hồn phi phách tán. Nhất là đối với những kẻ chưa phải là chuyên nghiệp. Nhưng vì một hoàn cảnh nào đó, bắt buộc họ phải làm như thế. Đối với những người này, thì sự giật mình của họ rất lớn. Nên họ khó qua khỏi luật pháp trừng trị. Bởi thế, kết quả là họ sẽ bị tù tội hoặc bị tử hình, tùy theo tội nặng nhẹ.
Câu tục ngữ trên, ngầm ý cổ nhân khuyên chúng ta không nên làm những điều ác đức phi pháp. Vì bản chất của con người là ham sống sợ chết. Dù là kẻ hung ác đến đâu, khi đối diện với luật pháp, thì lòng họ cũng phải rúng động run sợ. Vì sao? Vì họ vẫn còn muốn sống. Biết thế, thì chúng ta đừng nên gây ra tội ác để cho mình khỏi phải có cái “Tật” để rồi thấy ai cũng không phải “Giật” mình. Nếu mình không gây ra cái “Tật” đó, nghĩa là, phải ăn ở cho có đạo đức nhân nghĩa tình người, thì quả mình là kẻ rất tự do không sợ ai cả. Được thế, thì dù mình có đi đâu hay ở đâu, đối với bất cứ ai mình cũng là kẻ sống hiên ngang chánh trực mà không bao giờ biết hổ thẹn với đất trời.
Ai Làm Người Nấy Chịu
Câu tục ngữ nầy đã nói lên định luật nhân quả rất công bằng. “Ai làm người nấy chịu”. Chữ ai và người nấy, cũng chỉ là một người. Như nói ai ăn nấy no, ai học nấy biết chữ. Không thể người nầy ăn mà người khác lại no. Nhân và quả đáp lại đúng theo cái nhân mà mình đã gây tạo. Một kẻ giết người, tất phải đền tội trước pháp luật. Không thể anh A giết người mà anh B chịu thế. Như thế, là một điều ngịch lý và tất nhiên không bao giờ có thể xảy ra. Nếu người nầy làm mà người khác lại chịu thế, thì đó là chuyện tréo cẳng ngõng ngược kỳ đời và trái với luật nhân quả. Thậm chí, trong tình thân thuộc như: cha con, chồng vợ v.v… cũng không ai thay thế cho ai. Cha hành động sai trái, thì cha phải chịu tội. Không thể nào con gánh vác chịu tội thay thế cho cha. Như cha vào tù, người con dù có thương cha đến mấy cũng không thể vào tù lãnh án thay thế cho cha được. Chính con người phải chịu trách nhiệm những gì mà mình đã gây tạo. Như thế, thì không ai có thể ỷ lại và đổ thừa cho ai. Vì ai làm người nấy chịu kia mà! Nhờ sợ nhân quả như thế, nên người ta mới không gây ra những điều xấu ác. Không gây tạo tội lỗi, tất nhiên, mình sẽ được an vui, thoát khỏi cảnh đau khổ tù tội. Câu tục ngữ trên, ngầm ý nhắc nhở người ta phải nhớ đến nhân quả và phải ý thức cẩn trọng ở nơi hành động việc làm của mình.
Đồng thời, nó cũng nói lên một ý nghĩa tự lực không ỷ lại nhờ cậy bên ngoài. Mình làm mình chịu, không oán trách hờn giận đổ trút cho bất cứ ai.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)
Ai tu nấy thành, ai hành nấy đắc. Đó là luật tắc xưa nay đều như thế. Tinh thần trách nhiệm, đó là tinh thần độc lập. Thành bại, đắc thất, nên hư v.v… tất cả đều do mình quyết định lấy. Mình phải gánh chịu trách nhiệm những gì mà chính mình đã gây tạo. Thành công không kiêu căng, thất bại cũng không nản chí. Được cũng tốt mà mất cũng không sao. Vì tất cả do mình quyết định. Chiếc thuyền đời của mình, phải do mình tự lèo lái. Lái dở hay giỏi đều do ở nơi mình. Đó là tinh thần tự lực tự cường. Không đổ trút cho định mệnh hay số phận, cũng không nên trách trời, trách Phật. Phật trời không có thưởng phạt cho mình, mà chính mình tự thưởng phạt lấy mình. Mình gây nhân nào phải chịu gặt hái quả nấy. Định mệnh không thể an bày cho mình. Người nào tin tưởng theo thuyết định mệnh là người đó mất hết quyền tự chủ. Và cũng không hiểu rõ luật nhân quả. Cái gì cũng phó thác cho định mệnh. Thử hỏi định mệnh là gì? Bàn tay nào đã quyết định cho sinh mệnh của mình? Tại sao không quyết định cho mình những điều hay ho tốt đẹp, mà lại quyết định chi những điều xấu xa dở tệ? Thật là bất công phi lư! Tại sao tạo hóa không quyết định cho con người sống chung hòa bình, có phải hay hơn, còn tạo ra chi cảnh chiến tranh nồi da xáo thịt, cấu xé tranh giành chiếm đoạt tàn sát lẫn nhau chi cho thêm khổ?
Thử hỏi ai đã gây ra cảnh chiến tranh đau khổ? Phân chia giai cấp nghèo giàu, sang hèn cách biệt? Bao thảm cảnh nhà tan cửa nát, những vấn nạn hút chích xì ke ma túy, buôn lậu á phiện, bị tử hình hay bị tù tội giam cầm, rồi đến cờ bạc, rượu chè say sưa, hiếp dâm, cướp của giết người v.v… tất cả đều làm xáo trộn đảo lộn trật tự xã hội, thử hỏi ai đã an bày gây ra thảm cảnh như thế? Có phải định mệnh tạo hóa an bày chăng? Hay chính do lòng dục vọng si mê của con người tạo ra? Bệnh đổ thừa cho ngoại cảnh, đó là chứng bệnh trầm kha của những con người thiếu trách nhiệm và hèn nhát. Làm việc gì thành công, thì họ chường mặt ra để lãnh công trạng. Khi bị thất bại, thì họ co đầu rút cổ và đổ thừa cho hoàn cảnh hay tại, bị, ở nơi người khác. Chớ họ không chịu trách nhiệm do chính mình đã gây ra. Đây là chứng bệnh di truyền lâu đời của nhơn loại. Chứng bệnh trầm trọng nầy lan tràn khắp nơi trong xã hội loài người xưa nay.
Với tinh thần tự giác của đạo Phật, không chấp nhận những hạng người hèn yếu như thế. Đạo Phật chủ trương phải có tinh thần tự giác trước hành động của mình. Mình đã gây ra làm đau khổ cho người khác, thì mình hãy mạnh dạn mà nhận lỗi. Nhận lỗi để tự sửa sai và phải nhận lỗi một cách hết sức thành thật. Chớ không phải nhận lỗi theo kiểu chánh trị thủ đoạn giả dối bề ngoài để che mắt thiên hạ. Trong đạo Phật hay dùng từ ngữ sám hối. Sám là ăn năn lỗi trước, dù vô tình hay cố ý mà mình đã gây ra làm cho đối phương phải chịu đau khổ vì hành động hay lời nói của mình. Còn Hối là nguyện từ nay trở đi mình quyết không bao giờ tái phạm nữa. Như vậy, sám hối là nói lên một tinh thần tự giác có trách nhiệm mạnh mẽ cao độ. Mình làm mình nhận lỗi. Không có thái độ che giấu tội lỗi, hay tốt thì khoe mà xấu thì che đậy. Đó không phải là tinh thần giác ngộ của đạo Phật.
Với câu tục ngữ trên, chúng ta thấy cổ đức đã dạy cho người ta phải ăn ở cho có đạo đức, nhân nghĩa, thành tín. Mình phải tự cảnh tỉnh lấy mình, đừng làm những chuyện sai trái mà phải lãnh lấy hậu quả không tốt. Và hơn thế nữa, phải có tinh thần trách nhiệm cao trong việc đối nhân xử thế. Hiểu như vậy, chúng ta hãy tạo cho mình những chánh nhân tốt để mình sẽ hưởng lấy những quả báo tốt. Đó là điều mà chúng ta cần phải quan tâm lưu ý.
Ăn Lắm Hay No, Lo Lắm Hay Phiền
Câu tục ngữ nầy, bắt ta phải chú ý đến hai chữ: “ăn và lo”. Ăn là nhân mà no là quả. Lo là nhân mà phiền là quả. Nhân và quả đi liền với nhau, khác nào như bóng theo hình. Trước hết chúng ta thử tìm hiểu bốn chữ ở vế đầu: “ăn lắm hay no”. Câu nầy, nếu đem ứng dụng vào y học và đời sống để phân tích chiêm nghiệm, thì cũng rất có lợi ích cho sức khỏe của chúng ta. Ăn là điều mà ai cũng thích. Nhưng không nên ăn quá đầy bụng.
Thông thường động từ ăn nó đi liền với động từ uống. Ăn uống là một danh động từ không rời ra. Nhưng ăn để mà sống, thì nó khác hơn sống để mà ăn. Ăn để mà sống tự nó nói lên có sự hạn chế, điều độ và đơn giản. Có gì ăn nấy, không đòi hỏi cầu kỳ, theo kiểu phải có món ngon vật lạ hay cao lương mỹ vị. Ăn để sống cho qua ngày. Đó là cách ăn của một con người khéo biết điều hòa sự sống có lý tưởng. Vì họ ý thức rằng, cuộc đời là tạm bợ, vô thường không có gì bền chắc. Thế thì, ai rồi cũng phải có ngày từ giã cõi đời giả tạm mà ra đi. Không ai lột da sống hoài để ăn uống. Quan niệm của họ, nhu cầu ăn uống chỉ là một nhu cầu phải có để tạm giải quyết cuộc sống. Sống càng đơn giản chừng nào, thì lại càng có nhiều hạnh phúc chừng nấy. Càng tham thực thì càng khổ thân. Người muốn ăn uống thưởng thức mọi thứ món ngon vật lạ trên đời, thì họ cũng phải làm lụng vất vả cực khổ đày đọa xác thân mới có đủ tiền bạc để tiêu thụ hưởng dụng như thế. Ngược lại, cũng có những người làm lụng vất vả cực khổ trối chết, họ cũng có nhiều tiền lắm bạc, nhưng mà họ không dám ăn xài. Dù rằng, họ cũng rất thèm khát ăn uống cho khoái cái lỗ miệng, nhưng vì bị con “rít” to lớn, nó nằm chấn ngang cái túi tiền, nên họ đành phải cam chịu nuốt nước miếng cầm hơi để sống. Người ta cho họ là hạng người quá ư là keo kiết, rít rắm kẹo kéo không ra. Sống mà quá nô lệ cho đồng tiền như thế, thì phải nói cuộc sống đã mất hết ý nghĩa!
Đối với hạng người nói trên, ăn để mà sống, thì đời họ ít đau khổ hơn. Vì họ là người khéo biết tri túc an phận thủ thường sống theo kiểu: “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Họ không muốn xoe xua, bon chen chạy đua để được vinh thân phì da. Họ là hạng người sống có lý tưởng đạo đức thực tiễn. Mặc cho ai khen chê, họ cũng không cần phải quan tâm để ý đến chi cho mệt sức. Ngược lại, đối với những người mà họ thích đam mê thụ hưởng ăn uống, thì quan niệm sống của họ có khác. Họ cũng thừa biết cõi đời là giả tạm, nhưng theo họ, thì tại sao chúng ta không thụ hưởng cho hết mọi thứ mùi vị trên đời? Ăn ngon, mặc đẹp, nhà cao cửa rộng sang trọng, thử hỏi trên đời nầy có mấy ai mà lại không ham thích? Vậy thì tội gì mà chúng ta không thụ hưởng cho nó sướng cái cuộc đời. Mai kia có nhắm mắt theo ông theo bà, thì chúng ta cũng không có gì phải ân hận. Đó là quan niệm của những con người cũng sống thực tế, nhưng mà thực tế theo chiều hướng hưởng thụ sa đọa trụy lạc thọ khổ.
Bởi vì chúng ta nên biết rằng, ở đời không có sự hưởng thụ khoái lạc nào mà không có ngầm cái đau khổ ở trong đó. Như mới vào bàn tiệc ăn uống, thì thấy cũng ngon lành đó, nhưng chưa tàn tiệc nhậu, thì đã xảy ra lắm chuyện phiền phức không hay rồi. Bên ngoài nhìn vào, thì thấy bao bọc toàn là những thứ rất ngọt ngào, nhưng bên trong thì lại ngầm chứa những chất độc cay đắng. Thực tế cho thấy, những người thích ăn ngon ngủ kỹ chừng nào, thì lại giảm thọ nhiều chừng nấy. Vì ăn ngủ nhiều rất có tai hại cho sức khỏe. Không phải ăn thật no là khỏe mạnh. Hay ăn nhiều chất bổ dưỡng mà được sống lâu. Càng ăn nhiều có chất bổ dưỡng chừng nào, thì người ta càng phát phì và rồi hay sanh ra nhiều chứng bệnh khó trị chừng nấy. Mà càng phát phì thì phải lên cân, càng lên cân thì lại càng sanh ra đủ thứ bệnh tật. Nhất là những người có bề thế mập mạp thì dễ mắc phải những chứng bệnh như: máu cao, tiểu đường, mỡ cao trong máu, tim mạch v.v… Cho nên, ngày nay, các bác sĩ thường khuyên chúng ta nên ăn ít lại và chi ăn vừa đủ no thôi. Trong quyển sách “Bác Sĩ Tốt Nhất Là Chính Mình”, bác sĩ Hồng Chiêu Quang, có khuyên chúng ta mỗi bữa ăn chỉ nên no bảy tám phần, đó là cách đơn giản giúp cho người ta sống lâu. Không nên cố ráng ăn một lần cho đầy bụng. Ăn như thế là tự sát. Khổ nỗi, đang ăn ngon miệng mà bảo người ta buông đũa dừng lại, không nên ăn no bụng, thì cũng không phải là chuyện dễ dàng, đối với những người khoái thích ăn uống.
Xin thưa, vấn đề ăn uống phải biết điều độ và dinh dưỡng như thế nào cho hợp lý, để người ta có thêm sức khỏe và sống lâu, thì đây thuộc về lãnh vực chuyên môn của ngành y học, hay theo phương pháp dưỡng sinh của các chuyên gia rành nghề có nhiều kinh nghiệm. Ở đây, không phải trong phạm vi kiến thức của người viết, nên chúng tôi không dám lạm bàn nhiều. E rằng, sẽ mang cái lỗi là dám múa rìu qua mắt thợ hay mang trống đánh trước cửa nhà sấm.
Trở lại câu tục ngữ trên, theo sự nhận xét thô thiển của chúng tôi, thì chữ Ăn mà người xưa nói ở đây, ta cũng có thể hiểu rộng ra. Như nói, ăn chơi, ăn giựt, ăn cướp, ăn trộm, ăn quịt, ăn nằm, ăn cắp, ăn tạp, ăn hại vân vân và vân vân, những thứ ăn nầy đều là cái nhân của đau khổ cả. Còn nói No, ta cũng có thể hiểu nghĩa bóng của nó là đau khổ. Hiểu như vậy, ta mới thấy rằng, câu tục ngữ nầy cổ nhân khuyên ta nên tránh cái nhân xấu xa thì không có cái quả báo đau khổ. Và cần phải khéo léo biết điều hòa sự sống, đừng thái quá mà cũng đừng bất cập. Làm việc gì cũng phải có chừng mực. Người khéo biết điều hòa sự sống, đó là người sẽ có nhiều hạnh phúc.
Đó chính là cái dụng ý mà cổ nhân muốn dạy cho chúng ta. Chúng ta phải hằng nhớ đến nhân và quả. Vì nhân quả luôn luôn bám sát theo nhau. Hễ ăn nhiều thì phải no, mà cái no nầy rất là khó chịu. Quả đúng như người ta thường nói: “ăn ít no dai, ăn nhiều tức bụng”. Tức bụng là cả một vấn đề khó thở, mệt mỏi buồn ngủ khó chịu. Vì thế, khi ăn, chúng ta nhớ phải ăn uống vừa chừng thôi. Cũng vậy, phàm khi chúng ta làm điều lành, điều phải, thì ta cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc, thật thoải mái dễ chịu cho thân tâm. Ngược lại, khi chúng ta làm những điều bất chánh, phi pháp, tội lỗi, thì bản thân của chúng ta cảm thấy rất là đau khổ khó chịu vô cùng. Người mà có cái tà tâm chuyên làm những điều vô nghĩa, bậy bạ phi pháp, thì lòng họ không lúc nào an ổn. Nhìn bề ngoài tưởng là họ dễ chịu lắm, nhưng kỳ thật trong lòng của họ là cả một địa ngục. Lương tâm của họ luôn bị cắn rứt đay nghiến, vày xéo mãnh liệt. Họ lo sợ đủ thứ chuyện, ngồi đứng không yên, ăn ngủ cũng không yên giấc, tâm hồn của họ giống như bãi tha ma. Đời họ không lúc nào an ổn. Nhìn ai, họ cũng cảm thấy mặc cảm hổ thẹn. Họ là con người đang rơi vào hố sâu tội lỗi. Họ tự cảm thấy họ là con người rất thấp hèn của xã hội. Đời họ không còn lối thoát. Họ như người hết thuốc chữa. Đó là một tâm bệnh thật đáng sợ!
Câu kế tiếp: “lo lắm hay phiền”. Chữ lo ở đây, nó có nhiều nghĩa. Nhưng dù nghĩa nào cũng nói lên cái tâm trạng bất an, phiền muộn. Thường người hay lo nhiều thì người đó chắc chắn khổ nhiều. Cái khổ trước mắt là mất ăn mất ngủ. Phàm hễ lo nghĩ, thì hay sanh ra sợ hãi và buồn rầu. Chữ “lắm” có nghĩa là nhiều. Chữ “phiền”, theo kết cấu của chữ Hán, thì nó gồm có 2 bộ: hiệt là đầu và hỏa là lửa. Cho nên, khi người ta lo nhiều, thì trong lòng cảm thấy bức rứt bất an, lửa nó vọng lên đầu, thành ra con người nóng nảy bực bội khó chịu vô cùng. Chính đó là nguyên nhân đưa đến tình trạng mất ngủ. Do đó, những người hay lo nhiều, thì dễ gây ra thần kinh căng thẳng và nếu không khéo sẽ dễ bị mắc bệnh tâm thần. Bởi do tình trạng mất ngủ nhiều mà ra. Đó là một họa hại của những người có bệnh hay lo tính suy nghĩ lung tung nhiều quá. Từ lo đâm ra sợ, từ sợ đâm ra hốt hoảng tinh thần. Đó là một hệ quả tai hại rất lớn.
Phàm là con người còn sống trong vòng tương đối, tất nhiên không ai mà không lo, vì đó là một căn bệnh tập khí sâu nặng của con người phàm tục. Vì sự sống mà con người phải lo lắng đủ mọi thứ trên đời. Ngoài những vấn đề lo chánh đáng cho sự sống như: lo ăn, lo mặc, lo ở, còn lại phải lo bao nhiêu thứ chuyện linh tinh khác. Thâm ý của câu tục ngữ trên, cổ nhân muốn khuyên chúng ta không nên lo lắng nhiều quá.
Xét ở đời, có những điều đáng lo, thì người ta lại không lo. Ngược lại, có những điều không đáng lo thì người ta lại hay lo. Thế nào là điều đáng lo? Điều đáng lo nói ở đây, không phải chỉ lo ăn, lo mặc… không thôi là đủ, mà chúng ta còn phải lo cho ngày mình nhăm mắt ra đi. Sống thì mù tịt, không biết mình là ai. Đến khi chết mình cũng không biết mình sẽ đi về đâu. Nếu như hiện đời, mình khéo biết lo làm lành, tu tạo phước đức, ăn chay niệm Phật, thì Phật nói đó là người khéo biết lo cho đời mình. Vì ở đời, rốt lại, không có ai thương mình bằng chính mình tự thương lấy mình. Mình gây nhân khổ, không ai có thể thay thế tội khổ cho mình.
Có người, vì thương con thương cháu mà tự mình sát sanh hại vật, để cho con cháu thụ hưởng ngon miệng, nhưng cái quả báo đó ai sẽ là người gánh chịu cho mình? Thử hỏi chúng nó có thay thế cho mình được không? Vậy thì, tốt hơn hết là mình hãy nghe theo lời Phật dạy, mà tự mình lo cho đời mình có một hướng đi an lạc giải thoát. Đó là tự biết thương lấy mình. Thử hỏi khi mình xuôi tay nhắm mắt ra đi, có ai đi theo mình không? Hay là khổ hay vui do mình chuốc lấy. Mình xuống địa ngục chịu khổ, có đứa con thằng cháu nào, nó đến thay thế cái khổ cho mình không? Hay là ai làm người nấy chịu. Ai ăn người nấy no, ai lo người ấy phiền.
Hiểu thế, thì mỗi người hãy tự lo trước cho mình. Bằng cách là nên tạo nhiều điều lành. Cố gắng ăn chay niệm Phật giữ giới tu hành. Đó là tự mình khéo biết đầu tư hạnh phúc phước báo cho mình trong hiện đời cũng như mai hậu.
Còn nói cái không đáng lo, là những chuyện như già, bệnh, chết. Và nhất là những chuyện thị phi, tức những chuyện bù khú tạp nhạp ở thế gian. Bởi già, bệnh, chết, nó là một chân lý hiện thực bất di bất dịch. Dù mình có để tâm lo sợ, thì trước sau gì nó cũng đến. Có bệnh thì cứ đi bác sĩ điều trị. Ở xứ nầy vấn đề bệnh hoạn không có gì phải bận tâm ưu tư lo lắng nhiều. Bởi có nhiều dụng cụ máy móc tinh xảo tối tân để chữa trị. Nếu như điều trị mà không hết bệnh, thì đó là nghiệp quả của mình đã tới. Dẫu mình có lo lắng đến đâu cũng không thể tránh khỏi. Cái không thể tránh khỏi, thì lo chi cho thêm hao hơi mệt sức. Có nhiều khi, bệnh ít mà chúng ta lo lắng nhiều quá cũng trở thành bệnh nhiều. Không bệnh, mà lo lắng ưu tư nhiều quá thì cũng sẽ thành bệnh. Chi bằng cứ lo niệm Phật, vui vẻ mà sống, rồi chuyện gì đến nó sẽ đến. Nhờ có tinh thần ổn định vững chắc như thế, mà bệnh tình cũng trở nên thuyên giảm và khỏe ra. Cho nên điều dưỡng cái tinh thần rất là quan trọng. Vì tinh thần là cái gốc chủ động điều khiển thân thể. Giống như anh tài xế điều khiển lái chiếc xe. Chiếc xe chỉ là những bộ phận máy móc để chạy. Nhưng chiếc xe chạy hay không là do anh tài xế. Như vậy, chúng ta cần phải chú ý lo cho anh tài xế nhiều hơn. Lo bằng cách điều dưỡng cho anh ta khỏe mạnh. Cũng vậy, ta phải lo di dưỡng cái tinh thần, tức cái tâm thức của chúng ta. Nhờ niệm Phật, tụng kinh, trì chú, tham thiền, quán tưởng v.v… mà tâm ta được an định vững vàng. Bấy giờ, ta quyết không lo nghĩ gì đến bệnh hoạn nữa.
Đến như tuổi già cũng vậy, ở đây có nhà dưỡng lão. Nếu như người già độc thân, không có ai chăm sóc, thì vào nhà dưỡng lão sinh sống. Trong nhà dưỡng lão có bác sĩ, y tá, y công... họ đến chăm sóc người già bệnh một cách rất tử tế đàng hoàng. Thật tình công tâm mà nói, chưa chắc con cháu của mình mà chúng nó quan tâm lo lắng chăm sóc chu đáo bằng họ. Vì họ là những người phục vụ bằng tất cả lương tâm nghề nghiệp. Cho nên, các cụ già không có gì phải lo sợ.
Rồi đến cái chết, người ta lo sợ nhứt là cái chết. Người trọng tuổi thì hay lo xa chuẩn bị cho mình cái chết. Tùy theo hoàn cảnh sống của mỗi người mà có những nỗi lo lắng khác nhau. Nhưng có điều, ta thấy các cụ của mình ngày xưa thường hay chuẩn bị sẵn cho mình cái ngày ra đi. Chuẩn bị có hai phần: vật chất và tinh thần. Phần vật chất, thì các cụ lo nào là cái quan tài hay còn gọi là cái cổ hậu, cổ thọ. Những nhà khá giả thì lo xây sinh phần, miền Nam gọi là kim tỉnh. Rồi đến áo quan và các đồ tẩn liệm.
Về phần tinh thần, thì tùy mỗi người theo mỗi tôn giáo mà có sự chuẩn bị tinh thần cho mình khác nhau. Điều nầy, cũng còn tùy theo nhân sinh quan, và duyên nghiệp của mỗi người nặng nhẹ mà có đời sống tâm linh khác nhau. Đối với những người tu theo đạo Phật, thì tùy theo trình độ tu học nhận thức sâu cạn của mỗi người mà có sự chuẩn bị khác nhau. Nói chung, nếu người Phật tử nào khi còn mạnh khỏe biết chút ít tu hành như: ăn chay, niệm Phật, bố thí cúng dường, tụng kinh bái sám, tin kính Tam bảo, hết lòng niệm Phật, thì đối với những người nầy, họ đã có sự chuẩn bị sắp xếp cho mình ngày ra đi cũng rất chu đáo. Họ đã chọn cho họ có một hướng đi vững chắc bảo đảm. Do đó, nên họ không còn gì phải lo âu sợ hãi về cái chết cho lắm. Còn đối với các bậc tu hành đạo cao thâm hậu, thì cái chết đối với họ thật là không có nghĩa lý gì. Vì sinh tử chỉ là hư huyễn, như hoa đốm giữa hư không, không có gì phải lo âu sợ hãi. Các ngài xem cái chết như trò đùa, ảo hóa. Đó là những bậc chân tu đã đạt ngộ chân lý.
Còn đối với những chuyện thị phi, nếu người biết tu hành, thì họ cũng không bao giờ quan tâm để ý tới. Ai nói phải trái gì họ cũng bỏ qua ngoài tai cho xong, không cần phải bận tâm nghĩ đến.Vì nghĩ đến chỉ chuốc thêm phiền muộn mà thôi. Học cách hành xử của bà Bá Bất Quản, trăm việc chẳng lo. Ai nói chuyện thị phi với bà, thì bà liền nói: “tùy tha khứ”, nghĩa là theo nó đi, không có chuyện gì bà để vào trong tâm. Bà để tâm chuyên chú vào câu hiệu Phật. Sáu chữ Di Đà, bà cố gắng gìn giữ niệm luôn. Cứ thế mà hành trì. Chỉ một năm sau, bà có kết quả. Trước khi theo Phật, bà đi từ giã mọi người, vì bà biết trước giờ phút ra đi. Kết quả, bà đã được vãng sanh về Cực lạc.
Chính đó mới là điều đáng để cho chúng ta quan tâm lo nghĩ. Lo chí thành niệm Phật để ngày giờ ra đi của chúng ta được an ổn và vãng sanh về cõi Phật. Còn ngoài ra, bất cứ chuyện gì khác, chúng ta nên nhứt quyết gạt bỏ hết ngoài tai. Được thế, lo gì mà không được vãng sanh. Vãng sanh là chấm dứt khổ đau, chấm dứt nạn khổ: sanh già bệnh chết. Vĩnh viễn thoát ly sanh tử. Ôi! được thế, thì còn gì vui sướng hơn!
Kính mong mọi người bỏ qua những điều không đáng lo, để cho tâm ta an ổn khỏi phải chuốc thêm phiền lụy. Chúng ta nên nhớ người nào lo nhiều dễ bị căng thẳng thần kinh. Từ đó, dễ sanh ra nhiều chứng bệnh khó trị, vì đa sầu là tự sát. Được thế, thì đời sống của chúng ta mới thực sự có ý nghĩa vậy.
Vài Nét Về Đại Tòng Lâm Phật Giáo
Lý Do
Sở dĩ tôi chọn đề tài nầy để viết vì có hai lý do:
Thứ nhứt, là để tưởng niệm thâm ân sâu dày của cố Đại lão Hòa thượng Tông Trưởng Tổ Đình Phước Huệ. Vì chính cơ sở nầy là do Ngài khởi xướng thành lập. Và cũng chính nơi đây Ngài đã chọn làm nơi an nghỉ cuối đời. Ngài đã nằm yên trên một khu đất nhỏ gọi là "Tịnh Xứ", trong phạm vi rộng lớn của Đại Tòng Lâm Phật Giáo (ĐTLPG). Chính nơi đây Ngài đã dồn hết tâm tư trong mọi nỗ lực để quyết tâm xây dựng cho chóng hoàn thành. Mặc dù tuổi đời của Ngài đã cao, thường hay đau yếu bệnh hoạn, thế nhưng Ngài đã chẳng quản sự mệt mỏi, vẫn thường xuyên tới lui nơi đây để đôn đốc mọi người làm việc.
Thứ hai, Giáo Hội và Tông Môn đã quyết định chọn những ngày đầu năm dương lịch của năm 2014 để làm lễ tưởng niệm kỵ giỗ Đại tường cho Ngài và đồng thời cũng là làm lễ khánh thành cây cầu Thanh Lương. Điều nầy xét thấy có một sự trùng hợp thời gian kỳ thú. theo Bản Tin số 1 phát hành tháng 6 năm 2004 cho biết thì, Hòa thượng trình bày về dự án kiến tạo ĐTLPG vào ngày 11/4/2004. Như vậy tính đến nay (2014) thì công trình kiến tạo ĐTLPG bước sang qua năm thứ mười. Nghĩa là đánh dấu một quá trình trải qua mười năm xây dựng. Đó là hai lý do mà chúng tôi muốn nhân dịp nầy bày tỏ đôi điều, trước là để kính dâng lên Giác linh Hòa thượng chứng minh và sau cũng để cho mọi người biết sơ qua về những tiến trình xây dựng từng bước hình thành trong mười năm qua, cũng như những khó khăn trở ngại mà Hòa thượng và Ban Kiến Thiết (BKT) đã gặp phải.
Một Tâm Nguyện Rộng Lớn
Ngày nay, nhìn lại những cơ sở có tầm cỡ rộng lớn tại Úc Châu, không ai có thể phủ nhận cái công lao đóng góp của Hòa thượng đã kiên trì nhiều năm xây dựng. Không những ở hải ngoại mà ngay cả ở trong nước, Hòa thượng cũng đã từng xây dựng những cơ sở như thế. Điều rõ nét nhứt là hai ngôi Đại già lam Phước Huệ và Quang Minh. Bên cạnh đó còn có ngôi Đại Bảo Tháp đứng sừng sững oai nghiêm giữa khoảng không gian bên cạnh Chùa Phước Huệ. Đó là thể hiện tấm lòng từ bi của một bậc tu hành cao đức chỉ nghĩ đến lợi người mà quên mình. Với tấm lòng bi nguyện lợi tha cao cả đó, Hòa thượng cũng chưa dừng lại, dù trong giai đoạn tuổi đời của Ngài đã cao. Sau khi xây xong Đại Bảo Tháp, Hòa thượng liền nghĩ ngay đến việc kiến tạo Một Đại Tòng Lâm Phật Giáo. Tên gọi nầy quả xứng theo tâm nguyện của Ngài. Ngay tên gọi của nó cũng đã mang một ý nghĩa vừa rộng lớn lại vừa sâu sắc. Rộng lớn là vì Phật giáo ngày nay không còn đóng khung khép kín cục bộ trong phạm vi của từng khu vực nữa. Mà Phật giáo cần phải được mở rộng giao lưu liên hệ đến các nước trên thế giới. Cụ thể là ngày Đại Lễ Phật Đản hằng năm đã được Liên Hiệp Quốc đứng ra tổ chức. Đó là thể hiện đúng theo nguyện vọng cao rộng vô biên của đức Phật ra đời. Đó là nói về mặt phát triển rộng rãi của Phật giáo hiện đại. Còn đứng về mặt chiều sâu tâm linh thì, Tăng, Ni cũng như Phật tử tại gia cần phải có một nơi thanh vắng yên tịnh để di dưỡng tinh thần, gội tâm nuôi đức. Có thế, thì mới đi sâu vào đời sống tâm linh. Và cũng chính nhờ đó mà phục hồi lại cán cân thăng bằng giữa đời sống vật chất và tinh thần. Do nghĩ thế, nên Hòa thượng đã quyết tâm xây dựng cho bằng được một Đại Tòng Lâm Phật Giáo.
Niềm Ưu Tư
Song song với tâm nguyện rộng lớn đó, Hòa thượng luôn ưu tư nghĩ đến những thế hệ mai sau. Mà gần nhứt là những Tăng, Ni đang tu học trong chùa Phước Huệ. Số lượng người lớn tuổi nhất là phái nữ phát tâm xuất gia ngày càng đông. Khung cảnh của ngôi chùa Phước Huệ thì có giới hạn. Phòng ốc tương đối còn khá chật chội chưa có đủ tiện nghi để cho người lớn tuổi chung sống. Nhất là người trọng tuổi thì thường hay đau yếu bệnh hoạn thiếu người chăm sóc. Do đó, nên có một số ít khi ngã bệnh nặng thì lại quay trở về nhà để cho con cháu trông nom chăm sóc. Khi mạnh thì ở chùa, lúc đau yếu thì lại về nhà. Như thế là mất đi phẩm hạnh cao cả của người xuất gia. Niềm ưu tư ray rứt đó cứ mãi thôi thúc Hòa thượng phải mau tìm phương cách giải quyết. Ai cũng biết, ngôi chùa là một cơ sở tín ngưỡng phục vụ quần chúng qua nhiều phương diện: về quan hôn tang tế, lễ lộc, đám sám v.v... Nếu ai muốn chuyên tu đi sâu vào đời sống tâm linh thì quả thật rất khó khăn. Chỉ có nơi thực sự yên tĩnh vắng vẻ mới có thể đáp ứng được phần nào theo nhu cầu chuyên tu được. Chính do niềm ưu tư ray rứt đó, nên Hòa thượng tâm sự cùng với một số Phật tử có tâm quyết nhiệt thành lo cho đạo pháp để tìm phương cách giải quyết những khó khăn trước mắt nầy.
Tạo Mãi Đất Đai Và Tiến Đến Dự Án Xây Cất
Do niềm ưu tư ray rứt đó, mà đã hơn hai năm tìm kiếm khu đất thích hợp cho việc chuyên tu mà không có. Với ý nguyện nầy, những người hay gần gũi Hòa thượng đều biết. Trong số những Phật tử gần gũi thường tới lui thăm viếng Hòa thượng có vợ chồng anh Quốc Vọng và chị Thanh Tuyền. Đôi vợ chồng nầy có khả năng về việc khai thác canh tác nông nghiệp. Mà khu đất nơi hoang dã thanh vắng nầy thì rất thích hợp cho việc canh tác trồng trọt. Thế nên hai người sống lặng lẽ âm thầm trong một ngôi nhà nhỏ giữa rừng cây bao bọc. Họ lấy việc trồng trọt chăm sóc những sản phẩm hoa màu làm thú vui. Sau thời gian sống ở đây, có lẽ vì một lý do nào đó, nên hai người dự định bán khu đất nầy. Đây là một khu đất rộng khoảng 100,000 thước vuông. Khi có ý định muốn bán, thì anh Vọng và chị Tuyền có liên lạc với Hòa thượng và cho Hòa thượng biết cái ý định đó. Họ nói, nếu Hòa thượng đồng ý mua thì tụi con sẽ để lại với giá vốn mà chúng con đã mua trước đây. Nghe xong, hôm sau, Hòa thượng và một vài người đến xem khu đất nầy. Về vị trí của khu đất thì cách thành phố Gosford khoảng độ 15 phút lái xe và cách chùa Phước Huệ khoảng 75 cây số.
Sau khi xem qua, Hòa thượng và phái đoàn đã bàn thảo cân nhắc kỹ lưỡng và sau cùng là quyết định nên mua khu đất nầy. Khu đất nầy với giá thị trường thời đó (2004) là bảy trăm ngàn Úc kim ($700,000). Tính từ ngày 15/10/2004 là ngày trao đổi hợp đồng mua bán cho đến ngày 16/12/ 2004 mới hoàn tất thủ tục pháp lý chuyển nhượng chủ quyền. Tính ra, phải mất thời gian là 8 tuần lễ.
Mua đất xong, Hòa thượng cho mời một số người trong đó có kiến trúc sư Adrian Snodgrass về chùa để họp bàn về dự án xây cất. Hòa thượng giao cho ông phần trách nhiệm thiết kế. Ông là giáo sư thuộc trường Đại học miền Tây Sydney. Ông có văn bằng tiến sĩ về ngành kiến trúc. Ông có kiến thức sâu rộng về kiến trúc các Đại bảo tháp qua ba trường phái: Tiểu thừa, Đại thừa và Kim Cang thừa. Với kiến thức uyên bác của ông về Phật giáo, nên Hòa thượng rất tin tưởng giao cho ông thiết kế và chăm sóc công trình nầy. Ông phát tâm làm việc thiện nguyện cho chùa không nhận tiền thù lao.
Theo dự án ước tính ban đầu, khi hoàn tất mọi kế hoạch công trình xây cất với tổng kinh phí lên đến khoảng 8 triệu Úc kim. Và nếu thực hiện đúng theo dự án tiến trình mà do kiến trúc sư Adrian Snodgrass phát họa toàn bộ mô hình bản vẽ thì phải mất thời gian trong vòng mười năm (theo Bản Tin số 1 - 06/2004). Được biết kiến trúc công trình kế hoạch bao gồm:
1. Cực lạc đạo tràng.
2. Phật học viện
3. Tàng kinh các.
4. Tứ chúng Tịnh tu tinh xá
5. Thiết bị cho các loại ngoại ngữ tự động thông dịch.
Tuy nhiên, tất cả đều không theo đúng kế hoạch như đã dự tính lúc ban đầu. Lý do là vì BKT gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, cái khó khăn lớn nhứt là việc xin giấy phép xây cất. Vì đây là khu rừng có nhiều cây cối, nên dễ gây ra việc hỏa hoạn. Do đó, mà hội đồng thành phố Gosford họ gây khó dễ viện cớ đủ lý do không cấp giấy phép. Vì thế mà phải kéo dài thời gian mãi cho đến năm nay họ mới chịu cấp giấy phép.
Tân Trang Lại Ngôi Nhà
Tuy vậy, Hòa thượng cũng như BKT vẫn phải kiên nhẫn chờ đợi và vẫn tiếp tục cho tân trang tu bổ lại ngôi nhà. Nghĩa là phòng ốc cần phải được mở rộng ra để có nơi ngủ nghỉ và thờ phượng. Đồng thời cũng để cho chư Tăng, Ni và Phật tử tới lui có nơi tạm trú tu học. Bên cạnh việc làm nầy, Hòa thượng còn cho xây cất một ngôi Thiền đường xem như là một Chánh điện tạm thời để mọi người có nơi chiêm bái hành lễ. Ngôi nhà mà mọi người nhìn thấy hôm nay, cái vỏ bên ngoài thì còn đó nhưng cái ruột bên trong thì đã thay đổi nhiều. Tuy phòng ốc ngủ nghỉ không nhiều, nhưng cũng tạm đủ cho một vài người có nơi nghỉ ngơi tạm trú tu học.
Góp Phần Xây Dựng
Kể từ khi có chủ quyền sở hữu đất đai trong tay cũng như tiến hành vận động về mặt thủ tục pháp lý xây cất, số người hưởng ứng đóng góp bằng cách cúng dường tài vật cũng như cho mượn tiền ngày càng lên cao. Trong đó có chư Tôn Đức Tăng, Ni trong và ngoài nước Úc. Những vị nầy cũng đã phát tâm ủng hộ cúng dường tịnh tài góp phần xây dựng. Nhìn vào các Bản Tin chúng ta thấy rõ điều đó. Nhất là Bản Tin đầu tiên phát hành tháng 6/2004 đã nêu rõ danh sách Tăng, Ni và Phật tử phát tâm hỷ cúng tịnh tài. Số tiền từ $1000 trở lên và cao nhứt là $10,000. Đây là một sự hưởng ứng nồng nhiệt bằng tất cả tâm thành đóng góp, mong sao ĐTLPG sớm được hoàn thành. Song song với việc cúng dường tài vật, một đội ngũ Phật tử thiện nam tín nữ cũng đã hưởng ứng theo lời kêu gọi của BKT phát tâm về ĐTLPG để làm công quả vào những ngày cuối tuần. Họ bất chấp đường xá xa xôi hay nắng, mưa, trên tay mỗi người sẵn sàng một dụng cụ để làm sạch khu đất. Nhờ vậy mà khu đất ngày càng thoáng rộng sạch sẽ hơn. Ngoài ra, còn có một sự đóng góp phải nói thật là đáng kể thiết thực hơn, đó là tổ chức những buổi tiệc cơm chay gây quỹ. Việc đóng góp phần vụ nầy tuy không thường xuyên, chỉ thỉnh thoảng thôi, nhưng số người phát tâm ủng hộ rất đông. Nhờ vậy, mà BKT mới có thêm chút ít phần tài chánh để xây dựng.
Quản Lý Cơ Sở
Một cơ sở tối ư quan trọng như thế, nếu không có người trông coi chăm sóc bảo quản, thì sẽ không thể nào tiến hành tốt đẹp được. Do đó, mà Hòa thượng liền công cử Thầy Phước Nhân làm quản sự. Sau lễ Tự Tứ năm 2004, Thầy vâng lời Hòa thượng khăn gói về ĐTLPG để đảm nhiệm chức vụ quản lý. Được sự giao phó của Hòa thượng, nên Thầy cũng đã cố gắng chu toàn trách nhiệm. Thầy đã đóng góp nhiều công sức cho việc xây dựng nầy. Tuy sức khỏe có yếu kém, nhưng Thầy cũng vẫn cố gắng với những công việc làm hằng ngày. Như dọn dẹp, sửa sang, trồng trọt v.v...
Cần nói thêm, sau khi Hòa thượng viên tịch, thì Thầy Phước Nhân vì lý do sức khỏe nên Thầy xin từ chức để dưỡng bệnh. Hiện nay, trụ trì ĐTLPG là TT Thích Phước Tấn và hai vị phó trụ trì là ĐĐ Thích Phước Lạc và ĐĐ Thích Minh Thông. Và người túc trực lo việc bếp núc nấu nướng là hai Sư cô Phước Hương và Phước Tâm. Hai Thầy nầy chịu trách nhiệm quản lý trực tiếp toàn bộ nơi đây. Tuy sức khỏe của hai vị nầy cũng không khả quan tốt lắm, nhưng vì tăng sai nên hai Thầy đã cố gắng làm việc dọn dẹp sửa sang trong ngoài thật là tươm tất gọn gàng chu đáo sạch sẽ. Vì muốn thực hiện theo lời di chúc giáo huấn của Hòa thượng và cũng muốn đền đáp thâm ân phần nào của một bậc Thầy khả kính, nên các vị đệ tử trong tông môn cùng nhau quyết tâm tiếp tục xây dựng. Với sự chỉ đạo của TT. Thích Phước Tấn và với sự nỗ lực quyết tâm của hai Thầy Phước Lạc và Minh Thông mà ĐTLPG ngày nay đã có phần tiến triển khởi sắc hơn trước. Cụ thể là đã xây dựng hoàn thành cây cầu. Đây là bước tiến khả quan nổi bật, kể từ sau ngày Hòa thượng viên tịch đến nay.
Sinh Hoạt Tu Học
Suốt trong thời gian kể từ 2005 cho đến nay, từ khi Hòa thượng còn sinh tiền, thỉnh thoảng Ngài hướng dẫn Tăng Ni và Phật tử về đây tu học. Đọc qua các Bản Tin chúng ta thấy rất rõ điều đó. Chẳng những thế, sau thời gian tu học, mỗi người còn nói lên cái cảm tưởng thiết tha của mình. Có người cho rằng: "Tòng Lâm là nơi lý tưởng để chúng ta có thể tìm lại sự bình an của tâm hồn, vì tiếp cận với cảnh trí thiên nhiên, vắng vẻ, không khí trong sạch, làm cho tâm hồn lắng dịu tươi mát hơn là ở nơi thành thị cuộc sống bon chen tinh thần dễ bị căng thẳng đầu óc rối bời, toan tính lo âu đủ thứ. Đó là chưa nói đến môi trường luôn bị ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khỏe rất nhiều...".
Có người còn diễn tả văn chương thú vị hơn: ... "Thử nhìn lại cuộc đời đầy biển động, tâm tư nặng chỉu những ưu phiền của thế gian. Tuy sống nơi chốn phồn hoa đô thị nhưng mấy ai hưởng trọn vẹn niềm vui tươi trong cuộc sống.
Chúng ta hãy dành một giây phút thảnh thơi tìm về nguồn suối thiên nhiên. Nơi đó cảnh hoang dã với rừng thông xanh ngát với dòng thác chảy xuống dọc ven bờ đá, bóng dáng của một Tòng Lâm hiện hữu, đưa dòng tâm thức của chúng ta trở về với hiện thực, với con người của chính chúng ta, để đối diện với cuộc đời mà trải rộng tình thương bao la như núi rừng bạt ngàn hun hút.
Mọi người trong chúng ta sẽ tìm được sự an lạc trong cuộc sống, dù những tai ương có đổ xuống theo dòng nghiệp, thì mỗi người trong chúng ta vẫn an nhiên lắng đọng tâm tư để dần chuyển hóa những khổ đau thành niềm hỷ lạc".
Còn và còn rất nhiều những ý tưởng hay đẹp, siêu thoát, những dòng tư tưởng hồn nhiên, khi trở về tiếp cận với cảnh trí thiên nhiên rừng núi của ĐTLPG. Đó là kết quả hiện thực mà đã có biết bao vần thơ tuyệt tác, những áng văn chương xuất sắc tuyệt vời đã diễn tả cảnh trí nơi đây. Được thế, cũng nhờ công lao với biết bao công sức đóng góp về tinh thần lẫn vật chất của mọi người mới được tựu thành.
Những Sinh Hoạt Lễ Lộc Quan Trọng
Trong mười năm qua kể từ khi bắt đầu xây dựng cho đến hôm nay, BKT đã cố gắng thực hiện một vài công việc đáng kể. Một vài sinh hoạt sáng giá tiêu biểu theo dòng thời gian mà Hòa thượng đã vận động thực hiện:
- Ngày 2. 2. 2005 lễ an vị Phật tại Phật điện trong ngôi nhà vừa mới tân trang lại.
- Ngày 28. 3. 2005 cử hành lễ vía đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
- Ngày 19. 9. 2005 đã hoàn tất phần đổ móng xây dựng tượng đài Quan Âm.
- Ngày 1. 10. 2005. phần dựng tượng đức Quan Thế Âm hoàn chỉnh và chờ ngày an vị.
- Tháng 10 - 11. 2005 chương trình quý Sư cô luân phiên tu tập mỗi tuần.
- Thỉnh tôn tượng Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni an trí một nơi trang nghiêm thanh tịnh.
- Ngày 2.1. 2010 Hòa thượng và chư Tôn Đức Tăng, Ni cùng một số quý đồng hương Phật tử tham dự buổi lễ cầu nguyện cho việc động thổ xây cầu.
- Ngày 31. 1. 2013 là ngày khởi công đào móng xây cầu.
Nêu ra một số những sinh hoạt lễ lộc và việc làm tiêu biểu như thế để chúng ta thấy rằng, bao giờ và lúc nào Hòa thượng cũng luôn quan tâm đến việc xây dựng và cầu nguyện cho công trình thực hiện sớm được hoàn thành. Có thế thì Ngài mới yên lòng mà nghỉ ngơi ra đi. Vì đã hoàn thành cái bản nguyện sau cùng của đời Ngài. Tuy sau nầy, sức khỏe của Hòa thượng ngày càng suy giảm dần, đi lại tới lui khó khăn, nhưng không vì thế mà Ngài lại lãng quên công việc xây dựng. Ngài luôn đôn đốc những vị có trách nhiệm và luôn nhắc nhở quý Thầy quý Sư Cô ráng lo phụ giúp những công việc ở nơi đây.
Tạm Kết
Bằng vào tất cả tâm thành ghi lại đôi dòng tưởng niệm cái thâm ân cao cả của một bậc Thầy đã dày công khai sáng tạo dựng. Ai cũng biết, thực hiện một công trình xây cất hoàn bị như ý muốn không phải là chuyện dễ dàng. Phải trải qua trăm đắng ngàn cay thật là thiên nan vạn nan. Chỉ thực hiện một công trình nhỏ thôi, người ta cũng đã cảm thấy nhức đầu khó khăn mệt mỏi lắm rồi, nói chi đến một công trình vĩ đại quy mô như công trình kiến tạo ĐTLPG. Tuy nhiên, người khởi xướng cũng chỉ là lót nền cho những thế hệ kế tiếp thực hiện. Một tâm nguyện, một hoài bão ước vọng lớn lao, cũng chỉ vì nghĩ đến sự lợi ích cho tha nhân. Cho những thế hệ hiện tại cũng như những thế hệ mai sau. Đó là tâm huyết hoài bão của Hòa thượng đã trải dài theo dòng thời gian thực hiện. Đó cũng còn là thể hiện đúng theo tinh thần từ bi vị tha nhân ái của Phật Giáo.
Có thể nói, cả cuộc đời của Ngài chỉ biết hy hiến những gì mà mình đã ôm ấp và cố gắng làm tròn sứ mệnh của một tăng sĩ: "tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự". Đối với các bậc chơn tu, thì làm mọi việc nhưng không có cái Ta trong đó. Điều nầy trong Duy Thức Học gọi là "Hành Xả". Đã thế, thì có chi phải bận lòng. Hành hoạt chỉ như một đám mây bay qua lại tự tại thong dong trong bầu trời. Đó là hình ảnh "hòa quang đồng trần" của một con người siêu thoát.
Ghi lại một vài nét đơn sơ, nhằm để gợi nhắc một đôi điều về cái công trình lớn lao mà Hòa thượng và mọi người đã và đang nhiệt tâm đóng góp. Một việc làm mang tính lịch sử lâu dài và để lại những nét đẹp văn hóa lưu truyền lại cho con cháu mai sau. Đó cũng còn là một sự đóng góp tích cực cho một xứ sở đã từng cưu mang những con người tỵ nạn ly hương hội nhập vào xã hội đa văn hóa Úc. Công trình mà Hòa thượng đã để lại đó là một hoài bão sau cùng trong cuộc đời hành hóa của Ngài. Vì thế, những người tiếp nối phải có trách nhiệm xúc tiến thực thi cái công trình nầy. Cụ thể là đã xây dựng hoàn tất cây cầu và một buổi lễ khánh thành, như để đánh dấu bước khởi đầu mà công trình sẽ được tiếp tục kiến tạo sau nầy. Trong ngày mở hội vui mừng lớn nầy, chắc chắn là Giác linh Hòa thượng sẽ chứng minh và Ngài sẽ cùng vui chung với mọi người khi nhìn thấy cái công trình xây dựng hoàn thành tốt đẹp của bước khởi đầu. Tuy nhiên, những bước kế tiếp vẫn phải còn tiếp tục. Mong sao những công trình kế tiếp sẽ được sự đóng góp tích cực của mọi người, mọi giới như đã đóng góp từ trước tới nay.
Trong niềm vui chung đó, nhân ngày thiết lễ kỷ niệm kỵ giỗ Đại tường cho cố Đại lão Hòa thượng Tông Trưởng, ghi dấu hai năm Hòa thượng đã xa cách mọi người qua cái xác thân tứ đại giả tạm, nhưng cái tinh thần và những lời giáo huấn của Ngài vẫn mãi mãi in hằng sâu đậm trong tâm khảm của mỗi người.
Khể thủ kính bái Giác linh Hòa thượng chứng minh cho lòng thành của chúng con hôm nay. Trong khi ghi lại nếu có điều chi sai sót lỗi lầm ngưỡng mong Giác linh Hòa thượng và quý độc giả niệm tình thương xót thứ lỗi bỏ qua cho.
Nguyện cầu Giác Linh Hòa Thượng tốc chứng vô sanh hoàn lai Ta bà phổ độ chúng sinh, đồng thành Phật đạo.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ tát Ma ha tát.
Đào Mồ Xác Nghiệm
Trước khi vào chuyện, tôi xin thưa rõ, đây là câu chuyện hoàn toàn có thật một trăm phần trăm. Câu chuyện đã xảy ra cách nay cũng khá lâu. Đây là câu chuyện mà chính tôi được nghe người hàng xóm kể lại. Và câu chuyện có thật nầy đã hơn một thời mọi người bàn tán xôn xao. Nay, tôi xin ghi lại câu chuyện nầy để chia sẻ với quý độc giả với mục đích là để cho chúng ta thấy rõ lý nhân quả báo ứng Phật dạy không sai một mảy may tơ hào. Từ đó, chúng ta cần chiêm nghiệm thêm và tránh những gây nhân bất thiện. Hơn nữa, để thấy rõ lòng sân hận độc ác của con người. Tuy đây là một trong muôn ngàn câu chuyện thương tâm đã và đang xảy ra hằng ngày trên hành tinh nầy. Tuy nhiên, câu chuyện mà tôi sắp kể ra đây, nó có một đặc điểm hơi kỳ lạ, khác hơn những câu chuyện thường tình. Tôi nghĩ rằng, ít khi nào chúng ta có dịp nghe qua.
Chuyện xảy ra kế cận làng tôi ở. Vào một buổi chiều chạng dạng tối, có hai người cùng xóm hay khác xóm gì đó, thú thật, tôi không còn nhớ rõ lắm. Hai người đó là hai cậu thanh niên. Nghe nói, một người có gia đình, còn một người chưa có. Về tướng tá thân hình, theo lời người kể lại, thì cậu có gia đình, (tạm gọi tên là A cho dễ) có thân hình lực lưỡng vạm vỡ, cao lớn. Trong khi đó, anh kia (tạm gọi là B) thì ngược lại nhỏ con ốm yếu lại thêm có tật đôi chân, đi đứng không được bình thường lắm.
Cả hai người cũng quen biết thân nhau, thường hay qua lại chén tạc chén thù nhậu nhẹt với nhau. Hai cậu giao du chơi thân đến mức độ nào thì tôi không rõ. Nhưng nhiều người kể lại cho tôi biết (những người kể lại đều là những người đáng tin cậy) thì khi hai người uống rượu, theo thói quen hễ rượu vào, thì lời ra. Có lẽ vì lời ra thiếu nhã nhặn, nặng lời quá đáng, nên hai người sừng sộ cãi vả ăn thua đủ với nhau. Thế là, hai người bắt đầu tranh cãi với nhau quyết liệt. Lúc đầu, thì còn hơi nhỏ tiếng, nhưng lần lần họ văng tục chửi nhau nặng lời thậm tệ.
Anh A, vì quá nóng giận bực tức, lại ỷ mình mạnh khỏe đô con hơn, nên không còn dằn cơn nóng giận được nữa, liền đánh anh B một bạt tay vào mặt, làm cho anh B tá hỏa tâm tinh. Có lẽ cú đánh quá mạnh, nên mặt anh B xưng vù lên. Anh B, một phần vì yếu đuối vả lại thêm có tật đôi chân, nên đành chịu thua không dám đánh trả lại. Anh ta chỉ còn biết ôm cái mặt sưng vù mà chịu. Một vài người bạn khác ngồi chung trong bàn, thấy thế mới can gián và khuyên anh A không nên đánh anh B như thế. Dù sao cũng là chỗ bạn bè với nhau, không nên đánh nặng mạnh tay như vậy!
Nghe lời bạn bè khuyên can, nên anh A từ từ lấy lại bình tĩnh và tiếp tục uống rượu với các bạn ngồi chung bàn. Trong khi đó, anh B quá tức giận mà không thể đánh trả lại được, vì biết mình yếu đuối, có đánh chỉ thêm thiệt hại cho mình mà thôi. Tuy không dám đánh trả lại, nhưng tự ái cảm thấy rất xấu hổ với bạn bè, liền đứng lên không nói một lời rồi bỏ đi. Ai cũng nghĩ rằng, anh B sẽ đi về nhà nằm nghỉ. Mọi người cứ tưởng câu chuyện bất hòa sẽ chấm dứt ở đó. Thế là mọi người còn ở lại cứ tiếp tục vui say với men rượu, không còn nghĩ gì đến chuyện đó nữa. Anh A nghĩ mình như đã đắc thắng, tỏ vẻ hống hách kiêu căng, oai phong lẫm liệt như người hùng trước mặt bạn bè, để cho mấy người kia thấy thế mà phải ngán sợ. Buổi tiệc kéo dài cho đến khoảng 10 giờ đêm.
Vì quá tự ái bực tức, anh B không về nhà mà anh ta đi tìm một cái chai bia loại lớn. Sau khi kiếm được cái chai không rồi, anh liền đi núp vào trong bụi cây rậm để đón chờ anh A đi về thì anh sẽ đánh lén cho hả cơn giận tức.
Tiệc tàn, anh A bấy giờ đã say ngà ngà, nhưng không đến đổi là không còn biết gì. Dù biết mình đã quá chén, nhưng anh ta cũng cố gắng gượng đi về nhà. Từ chỗ uống rượu đến nhà anh cũng không xa lắm. Thế là, trên đường đi anh ta đâu có ngờ anh B lại cố ý gây chuyện trả thù. Trời tối, nhưng anh đã quá quen thuộc nằm lòng đường xá, nên không cần đèn đuốc chi cả. Cứ thế mà lần mò từng bước đi khập khểnh chân thấp chân cao về nhà.
Anh ta đi vừa tới bụi cây rậm, thì anh B từ trong bụi cây, rón rén bước nhẹ theo phía sau nhắm thẳng vào phía sau ót của anh A, dùng hết sức đánh một cái thật mạnh. Thế là anh A liền té nhào xuống đất nằm dài bất tỉnh nhân sự. Anh B đánh được một cái như trả được mối hận rồi, nên anh ta cũng không đánh bồi thêm, vì thấy anh A đã té bất tỉnh nằm dài trên đường. Do đó, nên anh B bỏ anh A nằm đó, đi một mạch về nhà. Anh ta không còn ấm ức nữa vì đã hạ nhục trả thù được anh A. Việc sống chết của anh A ra sao, anh B không cần biết đến.
Còn anh A sau khi bị một cú đánh như trời giáng, một lát sau, anh mới hoàn hồn tỉnh lại. Sau khi tỉnh lại, anh rờ vào phía sau ót, thì không thấy có máu chảy ra, chỉ sưng phù lên một cục. Anh yên tâm, chắc là không có chuyện gì trầm trọng lắm. Anh ta cố gượng gạo đi về nhà. Vế đến nhà, cả vợ con anh không hề hay biết chuyện gì đã xảy ra cả. Và anh cũng không hở môi nói với ai một lời nào. Anh ta đi thẳng vào trong buồng ngã lăn ra nằm dài trên giường ngủ. Vợ con hỏi gì anh cũng không trả lời. Người vợ ngỡ rằng, anh đã uống quá chén, say túy lúy, nên cứ để cho anh ta ngủ yên. Không ai có thể ngờ rằng, đêm hôm đó anh đã ngủ một giấc ngủ dài thiên thu vĩnh biệt. Sáng ra, người vợ đánh thức anh dậy, nhưng anh đã chết tự bao giờ. Thế là, chỉ vì một cơn quá bực tức nóng giận, anh không kềm chế được, nên cuối cùng anh phải lãnh lấy cái hậu quả chết như thế.
Cái chết của anh làm vang dậy cả xóm làng. Gia đình thân thuộc bà con xóm giềng, tất cả đều kinh hoàng, không ai ngờ rằng anh ra đi một cách lặng lẽ âm thầm như thế. Vì mới hồi chiều còn thấy anh rất mạnh khỏe, không có một hiện tượng dấu hiệu gì tỏ ra là anh bị bệnh cả. Thế mà, chỉ có một đêm thôi, anh lại từ biệt vĩnh viễn cõi đời. Anh ra đi không một lời trăn trối từ biệt vợ con. Mọi người vừa tiếc thương cho anh, mà họ cũng vừa thắc mắc. Nhứt là những người thân trong gia đình anh càng đau xót thương anh. Càng nghĩ đến cái chết vô cớ âm thầm của anh, người ta lại càng chú ý tò mò tìm hiểu nhiều hơn. Nhứt là vợ con anh thật là đau đớn khổ sở vô cùng. Họ không hiểu duyên cớ vì sao mà anh chết một cách lặng lẽ âm thầm như thế. Chỉ biết anh uống rượu say, mà đây không phải là lần đầu tiên, anh uống say mèm như vậy. Trước kia, anh cũng đã nhiều lần uống say và còn say túy lúy hơn hôm nay nữa. Thế mà không có xảy ra chuyện gì hết. Tại sao hôm nay lại như thế? Đó là câu hỏi không chỉ riêng vợ con anh, mà những người thân thuộc của anh ai cũng đều thắc mắc và đánh dấu hỏi to tướng? Thế là mọi người đâm ra nghi ngờ và từ nghi ngờ người ta lại bàn ra tán vô về cái chết bất đắc kỳ tử của anh.
Chuyện nầy đã làm vang dậy càng lúc người ta càng bàn tán xôn xao hơn. Thế là những người trong thân nhân ruột thịt của anh A bắt đầu tìm hiểu dò la manh mối. Việc đầu tiên là người ta tìm những người cùng uống rượu chung bàn với anh A trong buổi tối hôm đó. Sau khi dọ hỏi cặn kẽ mới biết là giữa anh A với anh B có chuyện xích mích đánh đập với nhau. Nhưng dù sao thì anh A cũng đã chết rồi. Việc đầu tiên là người ta phải lo chôn cất thi thể của anh A trước đã. Sau khi chôn cất xong, gia đình thân nhân của anh A vẫn còn ấm ức và mọi người cứ thắc mắc bàn ra tán vô, nhứt định phải điều tra cho vỡ lẽ về cái chết của anh A mới được. Thế là, từ chuyện bé xé thành to. Ban đầu, thì chỉ trong phạm vi thân nhân gia đình, cũng như bà con chòm xóm. Nhưng dần dần tới chánh quyền địa phương bắt đầu để ý. Từ để ý, họ theo dõi điều tra. Sau khi điều tra, biết sự việc xảy ra, mọi người đều nghi ngờ tới việc đánh trả thù của anh B, nhưng không có gì làm bằng chứng.
Ban đầu thì công an ấp, rồi tới xã và sau đó là công an huyện điều tra. Sau khi điều tra nắm vững mọi chi tiết, bấy giờ chánh quyền quyết định là đào mồ của anh A lên để khám nghiệm. Dĩ nhiên là được sự đồng ý của thân nhân. Vì thân nhân đã quyết làm như vậy cho hả dạ. Sau 3 ngày, người ta đào mồ anh lên, cạy nắp hòm để cho bác sĩ khám nghiệm. Khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết là anh A bị chấn thương sọ não, vì có vết bầm sưng u lên. Đây là vết thương chứng tỏ anh A đã bị đối phương đánh lén. Có sự xác quyết của bác sĩ, thế là công an liền tìm anh B và bắt còng anh B ngay lập tức để điều tra sự việc. Vì chứng cớ đành rành rõ ràng như thế, nên anh B không còn gì phải chạy chối, thế nên anh đành phải khai hết sự thật. Sau đó, anh B bị công an bắt giam vào trong tù để chờ ngày ra tòa xét xử. Sau khi tòa có đủ chứng cớ, liền tuyên án anh B phải chịu ngồi tù chung thân về cái tội cố sát đánh lén chết người.
Qua câu chuyện trên, theo tôi, thì có ba vấn đề mà chúng ta cần lưu tâm suy nghiệm.
Thứ nhứt, là vấn đề “tai hại của rượu”. Trong câu chuyện nầy, ta thấy, hai người cãi vã lớn tiếng ăn thua đủ với nhau, cũng do thần men xúi giục dẫn dắt. Một khi lửa sân hận nổi lên bốc cháy, thì sẽ gây ra lắm điều họa hại. Vì rượu là chất men say kích thích, làm cho người ta không còn đủ sáng suốt bình tĩnh như lúc bình thường. Rượu là nguyên nhân đầu tiên gây ra tình trạng bất hòa đó. Việc nầy đã và đang xảy ra hàng ngày gây ra những thảm họa tai hại cho nhiều người đau khổ không thể nào lường hết được.
Thứ hai, lòng sân hận trả thù. Lòng sân có ra, phần lớn cũng do cái ngòi lửa của rượu châm vào. Vì không kềm chế được lòng sân, nên họ mới tranh cãi ấu đả với nhau. Từ đó, dẫn tới hậu quả cả hai đều đau khổ. Kẻ yếu thế, thì tìm đủ mọi phương cách để trả hận cho bằng được. Trường hợp anh B vì yếu đuối nên tìm cách đánh lén để trả lại mối hận. Hậu quả là ngồi tù chung thân.
Thứ ba, Nhân quả khó tránh. Người chết đã chôn rồi, nhưng sự việc vẫn không để yên. Vì nhân đã gây, tất nhiên, sớm hay muộn gì cũng phải trả quả. Trường hợp ở đây, ta thấy anh B trả quả báo hiện tiền. Đừng tưởng rằng, người chết nằm xuống mồ là yên thân. Thân thể tuy mất, nhưng thần thức nào có mất. Có thể thần thức của anh A đã khiến cho mọi người phải làm như thế, vì anh đã chết một cách rất oan ức. Đó cũng là theo định luật nhân quả đã vay thì phải trả. Ngược lại, nếu như anh B không biết cải hối lỗi lầm gây ra, mà cứ nuôi trong lòng mối hận thù nữa, thì chao ôi! biết đến bao giờ mới chấm dứt hận thù vay trả, trả vay đây?!
Nhân câu chuyện nầy, xin mọi người hãy chiêm nghiệm cho thật kỹ hơn về lý nhân quả Phật dạy, để chúng ta hành xử đúng theo lý nhân quả trong đời sống. Hễ gây cái nhân thiện nghiệp, tất nhiên, chúng ta sẽ gặt hái cái quả báo lành. Ngược lại, hễ gây cái nhân ác nghiệp, thì chúng ta sẽ phải gặt hái cái quả báo ác. Nhân quả báo ứng là chân lý phổ biến tất yếu muôn đời, không bao giờ sai chạy và dung tha một ai cả. Ác lai ác báo, thiện lai thiện báo. Làm lành hay làm dữ cuối cùng cũng phải trả. Nhân quả rất công bằng không bao giờ sai chạy. Có câu: "Ngày xưa trả báo thì chầy, ngày nay trả báo phút giây nhãn tiền". Người xưa cũng thường khuyên chúng ta: "Phàm làm việc gì trước phải nghĩ đến cái hậu quả của nó". Đây là một câu nói có giá trị cả ngàn lượng vàng vậy.
Hoa Vạn Thọ
Hằng năm, cứ vào những dịp Tết Nguyên Đán, tôi thường đến chùa Quang Minh để xem bông vạn thọ. Năm nào cũng vậy, những chậu bông vạn thọ đủ màu sắc phơi mình vàng ánh rực rỡ được chưng bày đầy sân phía trước mái nhà bán thực phẩm. Những chậu bông vạn thọ nở vàng rực tuyệt đẹp. Những chậu lớn có nhiều cành bông thì được để riêng ra. Quý đồng hương Phật tử đến chùa vừa mua vạn thọ chưng ba ngày Tết trong nhà, mà cũng vừa muốn giúp thêm gây quỹ cho chùa. Vì họ nghĩ:
Mua đâu cũng vậy ai ơi!
Về chùa mua thọ phước đời sống lâu
Tết về ai cũng mong cầu
An vui hạnh phúc quăng sầu lo đi
Đạo Phật là đạo từ bi
Cứu đời hộ đạo còn gì sánh đâu
Ai mà chẳng muốn sống lâu
Tâm linh sáng tỏ đạo mầu thênh thang
Cho nên, nhiều người đến lựa mua, tùy nhãn quan, mỗi người thích mỗi loại bông khác nhau. Bởi hoa vạn thọ có nhiều loại. Có người còn gọi là cúc vạn thọ Tagetes, họ cúc Asteracese. Nhiều người lầm nghĩ cho rằng, vạn thọ có nguồn gốc ở Pháp hay Phi Châu. Thật ra, nó được phát nguyên từ Mexico, Bắc Mỹ Châu. Vạn thọ có các loại giống cao thấp khác nhau. Về màu sắc thì nó cũng có nhiều màu khác nhau. Như màu vàng, thì có màu vàng tươi, vàng chanh, hay màu cam. Cũng có hoa màu đỏ thắm hoặc màu trắng v.v…Hoa vạn thọ có đặc điểm khác hơn các loài hoa khác là từ khi nở cho đến khi tàn, trải qua một thời gian khá lâu. Nếu chúng ta chịu khó đặt nó vào một nơi thích hợp và thường xuyên tưới nước, thì những bông cành sẽ tươi tốt kéo dài lâu hơn.
Tuy vạn thọ là một loại hoa dễ trồng, nhưng nó cũng đòi hỏi nhiều yếu tố thích hợp. Khi gieo hạt người ta cũng phải lượng định thời gian cho nở bông kịp Tết. Muốn nó nở đúng vào dịp Tết, thì người ta sẽ bắt đầu gieo hạt vào khoảng thời gian từ 25 đến 28 tháng 10 âm lịch. Đến khi lên cây con (khoảng 2 tuần sau), người ta phải chọn chậu và bứng nó đem trồng vào chậu. Muốn cây lớn nhỏ, thì tùy theo kích thước của những cái chậu trồng vào. Sau khi trồng, muốn cho hoa vạn thọ được tốt, điều quan yếu là phải khéo biết cách chăm sóc. Từ việc bón phân, tưới nước phải cho đúng dung lượng cần thiết. Ngoài ra, còn cần phải để ý đến các loài sâu bọ, rầy, óc sên v.v… Nói chung, người trồng phải bỏ công sức ra theo dõi và chăm sóc kỹ lưỡng thường xuyên.
Riêng vạn thọ ở chùa Quang Minh, phải nói người có công trông nom săn sóc từ khi trồng cho đến khi trổ bông để bán vào dịp Tết, đó là anh Phạm Thanh Tâm pháp danh Minh Nguyện. Anh là một Phật tử thuần thành luôn để tâm tích cực ủng hộ chùa. Thầy trụ trì giao cho anh quản lý toàn bộ công việc trồng vạn thọ. Anh là người thường xuyên theo dõi để lo bón phân tưới nước. Người chăm sóc nếu không biết cách, thì cũng khó có kết quả theo ý muốn. Bởi việc làm nầy nó cũng đòi hỏi người ta, ngoài công sức ra còn phải có óc thẩm mỹ nghệ thuật.
Phải thành thật mà nói, anh Phật tử Minh Nguyện đã có đủ tiêu chuẩn để lo cho công việc nầy. Bởi anh là người rất cần cù chịu khó. Tánh tình của anh tuy ít nói, nhưng rất chăm chỉ siêng năng. Việc gì mà giao cho anh rồi, thì người ta yên tâm. Anh sẽ lo làm tròn chu tất công việc. Dù bất cứ việc khó hay dễ, anh cũng quyết tâm làm cho kỳ được. Không bao giờ nghe anh than van với ai. Đó là đặc tánh của anh. Chính vì thế, mà bao năm qua thầy trụ trì rất tin tưởng và giao phó cho anh trọn quyền xử lý trong công việc trồng vạn thọ nầy. Ngoài ra, thầy còn giao cho anh phụ trách một vài công việc linh tinh khác giúp cho chùa. Anh là mẫu người nói ít, nhưng làm nhiều. Anh làm công quả giúp cho chùa thường xuyên, nhất là vào những buổi chiều. Ngoài công việc làm ở hãng để kiếm tiền độ nhựt ra, còn lại thời giờ anh đều dành hết cho chùa. Sở dĩ anh được có thời gian lo cho chùa như thế, phải nói cũng nhờ sự khuyến khích đồng hành của người bạn đời chung sống với anh.
Người bạn đời đó không ai khác hơn là cô Đặng Thị Kim Dung pháp danh Viên Hòa. Cô nầy cũng thường xuyên tới chùa phụ làm công quả giúp cho chùa. Cả hai vợ chồng đều nhiệt tâm hết lòng lo phụng sự Tam bảo. Người xưa thường nói: “Đồng vợ đồng chồng tát biển đông cũng cạn”. Thật vậy, ta thấy cặp vợ chồng nầy đã đồng vợ đồng chồng hướng lòng về Tam bảo và quyết tâm tạo thêm cho mình có nhiều phước đức. Nếu nói về những thiện nam, tín nữ công quả giúp cho chùa Quang Minh, từ trước tới nay, còn có rất nhiều người đã bỏ ra rất nhiều công sức và thời giờ để làm công quả phụ giúp cho chùa. Nếu phải liệt kê chắc là phải có một danh sách rất dài. Họ là những người thường xuyên cật lực sống chết với chùa.
Ở đây, vì nói đến việc trồng vạn thọ, nên không thể không nói đến người chăm sóc. Được biết mỗi năm, việc bán vạn thọ cũng đem lại cho chùa thêm một số ít lợi tức ngân quỹ tài chánh. Được thế, cũng nhờ thập phương bá tánh mua ủng hộ chùa.
Nếu có dịp bạn đến chùa Quang Minh, từ cổng ngoài đi thẳng vào ngôi chánh điện mới, nhìn về phía bên tay trái, thì bạn sẽ thấy một khu đất đặc biệt dành cho các chậu vạn thọ (bây giờ tráng nhựa làm chỗ đậu xe). Nơi đây, khuôn viên được bao bọc bởi những tấm lưới màu xanh chung quanh. Vì sợ các loài chim cắn lá hoặc mổ bông khi mới nở, nên cần phải giăng dây treo những cái đĩa để cho chim chóc không dám đáp xuống. Nhờ vậy, nên giữ gìn được lá và bông xanh tươi rất tốt.
Tết trong nhà mà có hoa vạn thọ được chưng bày những nơi thích hợp, nhìn qua ai cũng cảm thấy mát mắt và đầy hương vị ý nghĩa. Trên cành treo một vài cánh thiệp chúc xuân do bạn bè tặng hoặc tự làm, lại càng tô điểm tăng thêm vẻ đẹp sắc xuân thật tràn đầy ý vị!
Hoa vạn thọ hiện diện ngoài việc đặc trưng cho mùa xuân, nó còn mang một ý nghĩa tuyệt vời về mặt tâm linh. Bởi chữ “Vạn” là biểu trưng cho sự kiết tường. Thường chúng ta hay thấy chữ Vạn ở trước ngực của Đức Phật. Đó là biểu trưng một trong 32 tướng tốt của Ngài. Đây là biểu thị cái công đức vô lượng của Phật. Sở dĩ nó ứng hiện ở nơi ngực của Phật để nói lên cái ý nghĩa giác ngộ vẹn toàn. Ở chính giữa ngực là tượng trưng cho lý Trung Đạo, không kẹt hai bên, vượt ngoài đối đãi nhị nguyên.
Còn chữ “Thọ” là một trong ba điều phước báo của con người. Đó là Phước, Lộc và Thọ. Thọ có nghĩa là sống lâu. Đức Phật A Di Đà có ý nghĩa là Vô lượng thọ và Vô lượng quang. Vô lượng thọ là mạng sống vượt ngoài phạm trù đối đãi và không bị hạn cuộc bởi thời gian. Vô lượng quang là ánh sáng trùm khắp không hạn cuộc bởi không gian, đó là biểu trưng cho trí tuệ không ngằn mé. Sống lâu và sáng suốt là điều ai cũng ao ước mong muốn. Vì thế, nên đầu năm người ta thường chúc cho ông bà, cha mẹ được sống lâu trăm tuổi. Đó là con số biểu trưng cho ý nghĩa cầu chúc tuổi thọ. Chớ không phải chỉ có một trăm tuổi thôi. Ở thế gian, người ta sống được một trăm tuổi cũng rất là hiếm thấy. Trong văn chương, chúng ta cũng thường thấy người ta chúc nhau được “Vô lượng kiết tường”. Ngoài ra, nó còn cho chúng ta về ý nghĩa hài hòa trong đời sống tâm linh và truyền thống đạo đức ân nghĩa sanh thành. Đạo làm con ai cũng ước mong cho ông bà cha mẹ của mình được sống lâu, để cho các con cháu có cơ hội đền ơn đáp nghĩa.
Chính vì mang ý nghĩa trọng đại sâu sắc đó, cho nên Tết ở trong nhà không thể nào thiếu vắng hình ảnh cao đẹp của hoa vạn thọ.
Tết cổ truyền của người Việt Nam đã hội tụ đầy đủ những yếu tố tinh thần từ xưa. Dĩ nhiên, ngoài hoa vạn thọ ra, người ta còn mua sắm những loài hoa khác để chưng bày. Mỗi loài hoa đều có một nét đẹp mỹ miều duyên dáng và biểu trưng cho ý nghĩa của mỗi loại khác nhau. Nhưng đối với riêng tôi, thì tôi lại thích ngắm nhìn hoa vạn thọ nhiều hơn. Bởi có lẽ đó là do cái nhìn hơi mang nặng tính chủ quan của tôi. Lý do, như đã nói ở trên, hoa vạn thọ ngoài những nét đẹp xinh tươi vàng ánh rực rỡ, nó còn mang một ý nghĩa thật đậm nét về ý nghĩa của đời sống tâm linh. Nó có tác năng gợi cảm cho chúng ta hướng nội tìm lại những gì quý giá thiêng liêng trọng đại ở nơi chính mình. Đời sống của con người, muốn được tự do, an bình, hạnh phúc, tất nhiên, không thể thiếu vắng đời sống tâm linh được. Bởi tâm là chủ đạo tạo tác, nó đóng vai trò chính yếu chỉ hướng cho thuyền đời và nẩy hoa trong cuộc sống.
Khi nhìn đóa hoa vạn thọ, tôi liền khởi nghĩ đến cái đóa hoa vạn thọ trong tôi. Bởi mỗi người ai cũng sẵn có tự tánh Di Đà. Nói cách khác, theo lời Phật dạy, thì ai cũng sẵn có tánh Phật. Tức thể tánh thanh tịnh sáng suốt hằng hữu bất sanh bất diệt. Chỉ có điều, chúng ta vì còn bị mây vô minh phiền não che ngăn nên trăng Phật tánh chưa hiển lộ được đó thôi. Trong Kinh thường gọi là “Như Lai tại triền”. Nghĩa là tánh giác bị những thứ phiền não ràng buộc bao che. Dụ như vàng ròng còn ở trong quặng nhơ. Thế thì, muốn cho trăng Phật tánh được hiển lộ, thì điều tiên quyết là, chúng ta phải phá tan mây vô minh phiền não che ngăn. Khi không còn một áng mây vô minh phiền não nào nữa, thì bấy giờ bầu trời tâm thức của chúng ta mới thực sự trong sáng. Đến đây, trong Kinh thường gọi là “Như Lai xuất triền”. Nghĩa là tánh giác đã ra khỏi những thứ phiền não ràng buộc. Dụ như vàng ròng đã ra khỏi quặng nhơ.
Tuy nhiên, muốn được thế, thì chúng ta phải hằng để tâm quán chiếu thật sâu sắc ở nơi chính mình. Có thường xuyên quán chiếu nhìn kỹ lại mình, thì chúng ta mới thấy được những lỗi lầm. Từ đó, chúng ta mới có thể thanh lọc gạn trừ phiền não.Vì trong mỗi người chúng ta đều sẵn có hai loại hạt giống: thiện ác, xấu tốt, nhiễm tịnh. Chúng ta cần phải loại trừ những hạt giống nhiễm, xấu, ác và nuôi dưỡng phát triển những hạt giống tịnh, tốt lành. Những hạt giống xấu, trong Duy Thức học liệt kê ra có rất nhiều thứ. Nhưng cái cội gốc căn bản vẫn là ba thứ độc tố: “tham, sân, si”. Ngược lại hạt giống tốt cũng có rất nhiều thứ, tiêu biểu như những đức tánh: từ bi, hỷ xả, vị tha, bao dung, bố thí, cúng dường v.v…Những đức tánh tốt, thì chúng ta cần phải quan tâm duy trì trau dồi và phát triển. Như chúng ta gìn giữ bảo tồn những lá tốt tươi và loại bỏ những lá sâu hoặc héo úa của cây vạn thọ, vì chúng ta biết rằng, những thứ lá nầy không đem lại bổ ích cho cây vạn thọ. Chẳng những không bổ ích mà nó còn tàn hại làm cho cây vạn thọ không được phát triển theo chiều hướng tốt đẹp.
Đó là chúng ta khéo biết cách chăm sóc thân tâm của chúng ta. Nhưng phải chăm sóc thường xuyên không được gián đoạn. Cũng như anh Minh Nguyện thường xuyên chăm sóc những chậu vạn thọ, không bao giờ anh bỏ bê gián đoạn. Sự chăm sóc thường xuyên nầy trong Duy Thức Học gọi là “Đẳng vô gián duyên”. Nghĩa là điều kiện quan tâm chăm sóc không bao giờ xen hở. Ngoài sự chăm sóc thường xuyên ra, tất nhiên, nó còn đòi hỏi đến môi trường chung quanh nữa. Như thời tiết, ánh nắng, sương móc v.v… tất cả đều phải thuận duyên. Nếu nghịch duyên, thì chắc chắn hoa vạn thọ cũng không thể nào phát triển tốt đẹp được. Vì vậy, môi trường cũng là yếu tố quyết định quan trọng. Cũng thế, môi trường sống của chúng ta cũng rất là quan trọng. Nếu môi trường xấu không sạch và xanh trong lành, thì cuộc sống của con người sẽ có nhiều tai hại. Con người sở dĩ bị đau yếu bệnh hoạn, gây ra nhiều chứng bệnh nan y, ngoài việc ăn uống không phù hợp vệ sinh, còn lại phần lớn cũng do môi trường sống mà ra. Hằng ngày người ta cho thảy ra không biết bao nhiêu thứ ô uế dơ bẩn làm ô nhiễm môi sinh. Những thứ nầy toàn là chất độc. Con người sống chủ yếu là phải nhờ hít thở không khí mới sinh tồn. Mà không khí bị ô nhiễm như thế, thì thử hỏi làm sao con người sống mạnh khỏe cho được? Do đó, việc bảo vệ môi sinh là điều kiện tối thiết yếu, mà chúng ta cần phải lưu tâm thực hiện.
Hẳn bạn và tôi đều có những kỳ vọng ước mong muốn làm đẹp cho chính mình và cuộc đời. Mùa xuân là mùa đem lại cho chúng ta tăng thêm nhiều vẻ đẹp và sức sống nội và ngoại tại. Chúng ta hãy biến những ước mơ thành hiện thực. Chúng ta hãy thật tâm mở rộng tấm lòng yêu thương hỷ xả bao dung và tha thứ. Có thế, thì cõi lòng của chúng ta mới được nhẹ nhàng thanh thoát. Và mỗi người sẽ là một yếu tố quan trọng góp phần vào công việc xây dựng bản thân, gia đình và xã hội được sống trong an bình và hạnh phúc. Được thế, thì việc cung đón mừng vui xuân của chúng ta mới thực sự có ý nghĩa và mới thực sự dựng lại mùa xuân đầy kỳ hoa dị thảo tốt đẹp trong khu vườn nhơn loại.
Ta về dựng lại mùa xuân
Cho vườn hoa nở chim mừng hát ca
Ta về một cõi riêng ta
Bình minh nắng ấm chan hòa tình thương
Ta van cát bụi bên đường
Xin đừng lưu luyến vấn vương khổ sầu
Thuyền tình trôi dạt nơi đâu
Trở về bến cũ dứt sầu tơ vương
Sáng soi chỉ có con đường
Nguồn tâm thanh tịnh chơn thường dài lâu.
Lời Chúc Đầu Năm
Vào những ngày đầu năm mới, khi gặp nhau tùy theo đối tượng mà người ta thường có những lời chúc tụng khác nhau. Nào là chúc: sức khỏe dồi dào, làm ăn phát đạt, an khang thịnh vượng, tiền vô như nước, sống lâu trăm tuổi, bình an vô sự, tấn tài tấn lộc, mọi việc hanh thông, thành công vượt bực, gia đạo bình an, vô lượng cát tường, vạn sự như ý v.v... Đối với tôi, thì tôi thích nhất câu chúc: "vạn sự như ý". Vì lời chúc nầy hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc. Có thể nói, nó là cội gốc bao gồm hết tất cả những lời chúc khác. Những lời chúc khác chỉ là ngọn ngành xuất phát từ cái gốc đó mà ra. Dù có chúc gì thì cũng không ngoài hai chữ "Như Ý". Như ý có nghĩa là mình muốn cái gì thì nó sẽ được toại nguyện theo ý mình cái đó. Mà con người thì có muôn ngàn thứ mong muốn, vì vậy trước hai chữ như ý thì người ta dùng hai chữ vạn sự. Tuy nhiên, cái mà người ta mong muốn nhứt trên đời không phải là tiền tài, danh vọng, địa vị, giàu sang, đẹp đẽ... mà chính là hạnh phúc. Bởi hạnh phúc là mẫu số chung mà ai cũng kỳ vọng mong mỏi tìm kiếm cho bằng được. Thử hỏi trong đời có ai lại không muốn cho mình có được hạnh phúc?
Tuy nhiên, muốn là một chuyện mà có được hay không lại là một chuyện khác. Hai chữ hạnh phúc thật khó có một định nghĩa chuẩn xác. Tùy theo trình độ nhận thức và quan niệm sống của mỗi người mà hạnh phúc theo đó nó mang ý nghĩa khác nhau. Có người giàu có sang trọng, quyền cao chức lớn, đi ra có kẻ hầu người hạ, tiền hô hậu ủng, nhưng họ không bao giờ có được hạnh phúc. Lúc nào họ cũng nơm nớp lo sợ ăn không ngon, ngủ không an giấc.
Thời Phật còn tại thế, có một thầy Tỳ kheo, trước khi xuất gia ông ta làm quan to có uy quyền rất lớn. Ông cai quản cả một vùng thị trấn rộng lớn. Nhưng sau khi từ bỏ địa vị quyền uy, tiền tài danh vọng, xuất gia theo Phật tu hành. Một hôm, giữa đêm khuya thanh vắng, trong lúc mọi người đang an giấc, bỗng dưng ông ta la lớn lên: " Thật quá hạnh phúc! Ôi! sung sướng hạnh phúc quá." Tiếng la lớn của ông đã làm động chúng. Mọi người giật mình thức giấc than phiền. Sáng ra, họ liền đến trình cho đức Phật biết về việc xảy ra khi hôm. Đức Phật cho gọi ông đến và hỏi:
- Tại sao giữa đêm khuya ông lại la lớn như vậy? Có phải ông không chịu nổi cái đời sống kham khổ của một vị khất sĩ hay không?
Ông từ tốn kính cẩn cúi đầu thưa:
- Bạch Đức Thế Tôn không phải thế?
- Thế thì tại sao ông la?
- Vì con cảm thấy thật quá sung sướng hạnh phúc.
Phật lại hỏi tiếp:
- Ông nói hạnh phúc như thế nào?
- Bạch Đức Thế Tôn, ngày xưa khi con còn đang nắm giữ binh quyền, việc sống chết của người khác do con quyết định. Ngoài quyền hành ra, bên cạnh con còn có mỹ nhân hầu hạ, tiền tài danh vọng cao sang, ăn uống thì cao lưong mỹ vị muốn chi cũng được, nhưng lúc nào tâm con cũng bất an, ngày đêm luôn nơm nớp lo sợ. Sợ địa vị của mình sẽ bị lung lay và người ta tìm cách hãm hại. Còn bây giờ tuy đời sống tu hành có kham khổ hơn xưa thật, nhưng tinh thần của con thì lúc nào cũng cảm thấy thoải mái rất an vui hạnh phúc. Vì từ nay con không còn phải phập phồng lo âu sợ hãi người ta hãm hại con như trước kia nữa. Chính vì thế, nên con không thể ngăn được cái cảm xúc hạnh phúc quá lớn lao của mình. Do đó nên con mới la lớn lên như vậy. Cúi mong Đức Thế Tôn và đại chúng từ bi hỷ xả cho con. Con xin thành tâm sám hối việc đó.
Nghe thế, Đức Phật không những không quở trách ông mà Ngài còn tán thán và chúc mừng cho ông đã được sự an lạc chơn hạnh phúc.
Qua câu chuyện đó, cho chúng ta một bài học về đời sống. Đời sống càng đơn giản chừng nào thì người ta càng có sự an lạc hạnh phúc nhiều chừng đó. Ngược lại, nếu chúng ta càng đua đòi ham muốn nhiều chừng nào, thì chúng ta càng đau khổ nhiều chừng nấy. Qua cuộc đời của Đức Phật, là một chứng minh cụ thể cho chúng thấy rất rõ điều đó. Đức Phật, từ một con người vương giả, quyền uy tột bực, địa vị cao sang... thế mà Ngài dám từ bỏ tất cả, chỉ giữ lại bên mình có ba lá y và một cái bình bát. Hằng ngày Đức Phật ôm bình bát đi xin ăn từng nhà. Như vậy, từ cái có tất cả mà Ngài dám bỏ hết tất cả và rồi cuối cùng, Ngài được lại tất cả. Cái hạnh phúc lớn nhất của Ngài là đi từ cái "Có" và trở về lại với cái "Không". Nếu như Ngài hưởng thụ tất cả những gì mà Ngài đã có, thì ngày nay đâu có ai tôn vinh cung kính Ngài là một "Đấng Toàn Giác". Nếu thế, thì Ngài cũng chỉ là một con người tầm thường và không bao giờ có được cái "Chơn Hạnh Phúc". Ngược lại, chúng ta vì muốn ôm cả vũ trụ vào lòng, nhưng cuối cùng rồi thì không được gì cả. Càng muốn "Có" thì lại "Không"; càng muốn "Được" thì lại "Mất". Nguyên lý của cuộc đời là thế đó! Chỉ có những ai ít muốn, biết đủ, khéo biết chế ngự những dục vọng thấp hèn và tùy duyên an phận sống, thì mới mong có được hạnh phúc chơn thật mà thôi.
Có lần trên bước đường hành hóa, Đức Phật và Tăng đoàn dừng chân ở một nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi. Lúc đó có một người đàn ông chạy hất hơ hất hãi, bỗng gặp Phật, ông ta liển hỏi: Thưa Ngài, Ngài có thấy một đàn bò của tôi chạy ngang qua đây không? Phật nói: Ta không thấy. Thế là ông từ giã Phật và tiếp tục chạy tìm kiếm. Khi ông chạy khuất rồi, bấy giờ, Đức Phật mới nói với các thầy Tỳ kheo: "các thầy thật là có phước, vì các thầy không có con bò nào để mất". Ngẫm lại, chúng ta vì có quá nhiều bò nên chúng ta mới có quá nhiều phiền toái và mất mát đau khổ. Ngoài bản thân ra, còn lại những vật dụng sở hữu liên hệ của ta đều là bò cả. Vì có bò nên người ta phải lo sợ mất bò. Còn không có bò thì có gì phải lo sợ mất mát? Đức Phật và các vị khất sĩ, vì các Ngài không có con bò nào nên đời sống của các Ngài quả thật là thảnh thơi, tự do, an lạc và giải thoát. Vì thế nên có câu nói: "An bần thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp" là vậy.
Từ nguyên lý sống đó, cho chúng ta thấy nghèo túng chưa hẳn là không có hạnh phúc. Tắt một lời, hạnh phúc không thể đi tìm mà có, chỉ biết dừng lại và hài lòng với những gì mà mình đang có thì đó cũng là hạnh phúc. Một thân thể mạnh khỏe thì đó là điều hạnh phúc rất lớn. Người xưa nói: "Một linh hồn minh mẫn trong một thân thể tráng kiện". Nếu nói ngược lại, một linh hồn u tối, trong một thân thể bạc nhược. Cứ kiểm nghiệm lại ở nơi chính bản thân mình, thì ta thấy ta có quá nhiều hạnh phúc. Như đôi mắt còn sáng, đôi tai còn thính v.v... như vậy không phải là hạnh phúc sao? Bởi hạnh phúc có nhiều cấp độ khác nhau. Cấp độ cao nhứt của hạnh phúc, theo Phật giáo, đó là Niết bàn. Ở đây, chúng tôi không muốn bàn sâu thêm về vấn đề nầy.
Trở lại vấn đề trên, theo truyền thống tập tục văn hóa của Đông Phương, thì người ta rất coi trọng ngày đầu năm. Vì người ta tin rằng, ngày đầu năm có thể quyết định cho trọn một năm sau nầy. Do đó mà người ta kiêng kỵ đủ thứ. Và tập tục ăn Tết thời xưa cũng rườm rà phức tạp không đơn giản như ngày nay. Ngoài việc cúng kiến ông bà theo lễ nghi cúng bái gia tiên ra, người ta còn vui chơi ăn uống nhậu nhẹt thỏa thuê trong ba ngày Tết. Đồng thời, người ta cũng rất cẩn thận kiêng cử ở nơi cử chỉ, hành động và nhất là lời nói. Khi phát ngôn thì phải nói những lời lành, lời phải, những lời có lợi ích cho mình và người. Người ta kiêng kỵ nhất là những lời nói không tốt có ảnh hưởng đến đời sống không may cho trọn năm. Thậm chí, người ta còn kiêng kỵ cái tên của người nào đó không tốt mà sáng sớm mồng một Tết đến nhà chúc Tết đầu tiên. Tuy vì lịch sự không nói ra, nhưng trong lòng của họ thực sự không vui chút nào. Thí dụ như người đó có cái tên là Nguyễn Thất Bại hay Trần Thị Mạt hoặc Võ Thị Tàn... mà bước vào nhà đầu năm thì họ cho đó là một điều xui xẻo rất lớn. Vì người đó đem cái điều không may đến cho gia đình của họ. Thế là, họ sẽ bị xui xẻo cả năm. Bởi vậy ai mà có cái tên không mấy tốt đẹp thì ngày mồng một Tết họ không dám tới nhà ai. Vì người ta cần người có cái tên tốt chẳng hạn như tên Phước, Lộc, Thọ, Tài v.v... tới nhà lễ viếng đầu tiên, tục gọi là xông đất, thì họ rất vui mừng tiếp đãi tử tế nồng hậu. Vì người đó đem vận may đến cho họ và họ tin tưởng trọn năm làm ăn sẽ phát tài thịnh đạt. Ngược lại, nếu như anh Bại hay chị Mạt hoặc bà Tàn vào nhà, thì coi như trọn năm đó họ làm ăn thất bại xui xẻo liên miên và nghèo tàn mạt rệp. Đó là một tập tục kiêng kỵ cho đến bây giờ người ta vẫn còn coi đó là điều quan trọng.
Chúc Tết cho nhau, đây là một tập tục xã giao rất trang nhã lịch sự. Điều đó, từ xưa tới nay, Đông hay Tây không ai có thể phủ nhận. Đông, chúc nhau: "Vạn Sự Như Ý", Tây chúc nhau: "Happy New Year". Nếu như trọn năm hay cho đến trọn đời mà người ta kiêng cử những lời nói không hay bất lợi cho mình và người, như kiêng cử của ngày đầu năm mới thì thật là tốt đẹp biết mấy. Nhưng rất tiếc, người ta không gìn giữ được. Do đó, mà bản thân, gia đình và xã hội mới có những điều tệ nạn không hay xảy ra. Lời chúc nầy, ta thấy có đôi khi chỉ là một thói quen của phép lịch sự xã giao theo lễ nghi truyền thống, nhiều khi nó trở thành như một sáo ngữ trên đầu môi chót lưỡi. Thực chất thì không phải xuất phát từ một tấm lòng chân thật. Nghĩa là đôi lúc người ta chúc nhau bề ngoài cho vui vậy thôi. Nếu là chúc lành thực sự với nhau, thì không những ngày đầu năm mới, người ta mới chúc cho nhau, mà phải thương yêu chúc phúc lành trọn đời cho nhau mới phải. Được vậy thì lời chúc phúc đó mới thực sự có phẩm chất giá trị cao. Đã thế, thì người ta đâu có còn tìm cách tàn hại gây ra đau khổ cho nhau nữa. Như thế thì mới thật là quý giá.
Chính vì chúc giả dối cho nhau, nên xưa kia, cụ Trần Tế Xương đã thốt ra những lời châm biếm mỉa mai bằng những câu thơ cay đắng sau đây:
Lẳng lặng mà nghe, nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu
Phen nầy ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
Đứa thời mua tước đứa mua quan
Phen nầy ông quyết đi buôn lọng
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng
Nó lại mừng nhau cái sự giàu
Trăm nghìn vạn mớ để vào đâu
Phen nầy ắt hẳn gà ăn bạc
Đồng rụng đồng rơi, lọ phải cầu
Nó lại mừng nhau có lắm con
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn
Phố phường chật hẹp người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non.
Ngoài những tập tục chúc mừng theo lễ nghi nói trên, ngày đầu năm mới, người ta cũng dễ hài hòa rộng lượng hỷ xả tha thứ cho nhau. Như khi chạy xe trên đường, lỡ bị cọ quẹt, nếu không đến đỗi nặng lắm thì người ta cũng dễ bỏ qua, vì không ai muốn ăn thua tranh cãi ngày đầu năm mới cả. Thôi! năm mới hãy bỏ qua đi, một nhịn chín lành mà! Nếu như trọn năm hay trọn đời mà người ta cũng dễ cảm thông rộng lượng hỷ xả tha thứ bỏ qua những sai trái lỗi lầm cho nhau như ngày đầu năm, thì thật là tốt đẹp cho nhơn loại biết là dường nào! Và việc cư xử trong tình người thắm đượm tốt đẹp biết bao nhiêu! Điều rất tiếc và đáng buồn là người ta chỉ sợ có một ngày đầu năm thôi, còn lại những ngày khác trong năm thì người ta quyết sống chết ăn thua đủ với nhau không ai nhịn ai cả. Ngay những người thân nhất trong gia đình cũng tranh chấp hơn thua quyết liệt với nhau. Và như thế, tạo thành sự mâu thuẫn rất lớn trong lòng của mỗi người. Nếu ai cũng mở rộng cõi lòng thương yêu hoan hỷ và tươi mát như mùa Xuân, thì cõi đời nầy sẽ bớt đi đau khổ rất nhiều. Tiếc thay! người ta chỉ biết vui Xuân, thưởng Xuân, chúc Xuân, theo tập tục xưa bày nay làm mà quên đi cái thực chất cao đẹp tuyệt vời của một mùa Xuân an lạc tràn đầy hạnh phúc. Mong sao những lời chúc tụng thanh cao trang nhã đẹp đẽ nầy sẽ ngự mãi trong trái tim đầy chất liệu tình người của mỗi cá thể và sẽ mãi mãi tốt đẹp như một mùa "Xuân Di Lặc".
Xuân chơn lý mùa xuân bất diệt
Xuân chơn như không hạn cuộc thời gian
Sống vui xuân trong cảnh khổ cơ hàn
Người con Phật vẫn vui niềm thanh thoát.
Hướng Về Phật Đản
Hằng năm, cứ đến ngày rằm trăng tròn tháng tư âm lịch, là ngày kỷ niệm đánh dấu đức Phật ra đời. Đây là ngày lễ trọng đại có một không hai trong lịch sử nhơn loại. Vì thế mà hầu hết người Phật tử trên khắp năm châu bốn biển đều hướng lòng về bậc Đại Giác để thiết lễ kỷ niệm. Phần nhiều những ngôi chùa lớn đều có thiết trí lễ đài ở trước sân chùa để hành lễ. Chung quanh chùa nơi đâu cũng có treo cờ Phật giáo lớn nhỏ. Thậm chí tại tư gia của những Phật tử người ta cũng thấy có treo cờ. Cái không khí của mùa Phật đản như tràn ngập niềm vui rộng mở, bởi đó là một ngày lễ hội lớn của người con Phật. Ngày nầy mọi người đều về chùa dâng hương lễ Phật. vì vậy mà khói hương lúc nào cũng bay nghi ngút quyện tỏa khắp nơi. Ngoài ra có chùa còn cử hành lễ tắm Phật. Tắm Phật là một lễ nghi thường thức đã trở thành truyền thống từ xưa, mà người Phật tử mong chờ đến ngày đó để về chùa làm lễ. Buổi lễ tắm Phật diễn ra trong chùa thật là đông đảo. Ngày xưa, các chùa ở thôn quê thường cử hành lễ tắm Phật vào ngày mồng tám tháng tư âm lịch. Cho đến nay, có một số chùa vẫn còn giữ lệ thường tắm Phật của ngày nầy.
Phật giáo ở hải ngoại, tại những ngôi chùa lớn nhỏ đều có cử hành Đại lễ Phật đản trọng thể. Tuy nhiên, thời gian tổ chức ở một số chùa phần nhiều đều có sự chênh lệch khác nhau. Thứ nhứt là không muốn có sự trùng hợp, vì như thế sẽ bị phân tán lực lượng Phật tử. Thứ hai là chỉ tổ chức được vào ngày chủ nhật cuối tuần mà thôi. Vì ngày đó Phật tử nghỉ việc nên mới có cơ hội để cùng nhau về chùa tham dự đông đảo. Nói các chùa lớn là vì những ngôi chùa nầy có được giấy phép xây cất hẳn hoi nên mọi tiện nghi hoạt động đều thích hợp rộng rãi. Nhất là chỗ đậu xe không bị trở ngại cho lắm. Đây là những ngôi chùa tương đối khá khang trang rộng lớn có thể dung chứa hàng ngàn người dự lễ. Tiêu biểu như ngôi chùa Quang Minh tại Melbourne thuộc tiểu bang Victoria chẳng hạn. Ngoài ra, đa số là các chùa cải gia vi tự. Nghĩa là chư Tăng, Ni mua nhà sửa lại làm chùa. Vì thế nên sự sinh hoạt lễ lộc có phần giới hạn không được tiện nghi thoải mái như các chùa lớn. Ngoài cái không gian chật hẹp ra, còn có một trở ngại lớn nhứt đó là chỗ đậu xe. Nếu khách thập phương đậu xe bừa bãi thì cư dân sống quanh vùng gần chùa, họ thưa kiện thì sẽ gây ra rắc rối cho chùa và không khéo chùa sẽ có nguy cơ bị đóng cửa. Tình trạng nầy thường hay xảy ra không thể tránh khỏi. Nhất là vào những ngày lễ lớn như đại lễ Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán.
Điểm đặc biệt hơn nữa, trong những năm gần đây, sau khi được Liên Hiệp Quốc đồng thuận chấp nhận ngày Đại lễ Phật đản là ngày Vesak thì các hệ phái Phật giáo Nam, Bắc tông ở các chùa trong tiểu bang Victoria đều liên hợp để tổ chức một ngày Đại lễ trọng đại chung cho mọi người, mọi giới tham dự. Theo Thượng tọa Thích Phước Tấn trụ trì chùa Quang Minh cho biết, sở dĩ có tổ chức nầy là do thầy đề nghị khởi xướng và bảo trợ. Bởi thầy là phó chủ tịch của Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới. Hiện nay đã có hơn 15 ngôi chùa ghi tên làm hội viên và có hơn 10 chùa khác kết hợp để đứng ra tổ chức. Ngày giờ và địa điểm hành lễ đều do Ban tổ chức quyết định. Như Phật đản năm nay, sẽ tổ chức vào ngày 24/5/2014. Địa điểm hành lễ tại Melbourne Townhall. Đây là dịp để cho các hàng Phật tử của các hệ phái và các sắc tộc theo Phật giáo có đủ cơ duyên tham dự.
Phật giáo ở Việt Nam, tương đối việc tổ chức lễ Phật đản rất dễ dàng không có gì trở ngại như một số chùa nhỏ ở hải ngoại. Bởi những ngôi chùa trong thành phố hoặc ở thôn quê, phần nhiều đều gần nhau và người Phật tử đến chùa dự lễ thoải mái không phải lo việc kiếm chỗ đậu xe. Phần đông là người ta đi bộ hoặc có đi xe thì cũng chỉ đi xe gắn máy mà thôi. Vì vậy nên chỗ đậu xe không có hạn chế.
Tại những thành phố lớn xưa và nay, có nơi người ta còn thiết kế những chiếc xe hoa tuyệt đẹp diễn hành trên đường phố. Với mục đích là để dâng lên cúng dường đức Thế Tôn. Trên những chiếc xe hoa người ta đặt một tượng Phật sơ sanh và bốn góc đều có những cô thiếu nữ phục sức trang phục xinh đẹp duyên dáng đứng hầu đức Phật. Trên tay các cô đều có cầm những lẵng hoa tinh khiết thỉnh thoảng các cô tung hoa cúng dường. Đây là noi theo truyền thuyết cho rằng, khi đức Phật ra đời đều có chư thiên rải hoa cúng dường.
Dọc theo hai bên đường xe hoa đi qua, người người nô nức hân hoan đứng nghiêm trang kính cẩn chắp tay đón chào. Thật là một quang cảnh tưng bừng náo nhiệt khác nào như quần chúng xưa kia chào mừng khi vua Tịnh Phạn cho xe rước Thái tử về triều. Đó là biểu dương hình thức bằng tất cả tấm lòng trân kính dâng lên cúng dường đức Phật. Hơn mười năm qua, đại lễ Phật đản đã trở thành một lễ hội Vesak trọng đại do Liên Hiệp Quốc (LHQ) chủ động phân phối tổ chức. Theo chỗ chúng tôi được biết, Phật đản năm nay 2014, Phật giáo Việt Nam đăng cai tổ chức với sự phối hợp của Ủy ban Tổ Chức quốc tế (ICDV), dưới sự giúp đỡ và bảo trợ của chánh phủ Việt Nam. Đại lễ Phật đản sẽ diễn ra từ ngày 7 đến 12/5/2014 tại khu du lịch văn hóa tâm linh Bái Đính thuộc tỉnh Ninh Bình. Theo dự kiến có khoảng 10.000 đại biểu từ khoảng 90 - 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới cùng với 8,500 Phật tử Việt Nam tham dự. Phải nói, đó là một vinh dự rất lớn lao cho Phật giáo Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ một bề phô trương trên mặt hình thức không thôi, chúng tôi thiết nghĩ điều đó cũng chưa đủ. Nếu hình thức mà thiếu phẩm chất nội dung, thì hình thức đó cũng chỉ là rỗng tuếch, vì nó không mang ý nghĩa sâu sắc trong vấn đề chuyển hóa tâm linh. Sự kiện ra đời của đức Phật nhằm nói lên cái vấn đề chuyển hướng đó. Bởi sự có mặt của đức Phật trong cuộc đời, với mục đích là nhằm chuyển mê khai ngộ mở bày tri kiến Phật cho hết thảy chúng sinh. Bởi mỗi chúng sinh đều sẵn có yếu tính giác ngộ và giải thoát. Sở dĩ con người chưa giác ngộ giải thoát được, là vì con người còn bị những thứ vô minh phiền não trói buộc che ngăn. Đức Phật là người đã phá vỡ hoàn toàn bức màn vô minh vọng chấp, cho nên Ngài đã đạt thành quả vị Chánh Giác.
Đạo Phật là nghệ thuật khai sáng con đường nội tại. Hình thức bên ngoài chỉ là yếu tố trợ duyên. Nói cách khác tất cả chỉ là phương tiện, khác nào như ngón tay chỉ mặt trăng. Người khôn khéo là chỉ nương ngón tay để nhìn thấy mặt trăng. Cũng thế, người Phật tử chỉ nương phương tiện để đạt cứu cánh. Cứu cánh là cái đích nhắm tới mà mọi người cần phải đạt cho kỳ được. Thế nên, chúng ta hướng về thiết lễ uy nghiêm để bày tỏ lòng thành cúng dường Ngài, điều đó là một sự kiện hình thức trang nghiêm tốt đẹp không ai có thể phủ nhận được. Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta nên nhận diện chuyển hóa vô minh phiền não ở nơi chính mình. Đó là chúng ta mới thực sự tri ân cúng dường Ngài. Cúng dường là nghĩa nuôi lớn căn lành, là làm tăng trưởng pháp thân huệ mạng. Mỗi phút giây chúng ta đều xoay lại quán chiếu sâu sắc thật kỹ ở nơi chính mình. Có quán chiếu sâu sắc kỹ càng như thế, thì chúng ta mới thấy được những tri giác sai lầm và tà kiến vọng chấp của ta. Từ đó ta mới thấy rõ để hoán chuyển theo con đường chân lý giác ngộ. Bằng không, thì chúng ta chỉ một bề chạy theo hình thức ngoại tại và rồi sẽ bị chết chìm trong vũng lầy của những lễ nghi phương tiện hình thức đó.
Thử nhìn vào thế giới của loài người hiện nay, có quá nhiều những biến động đau khổ từ nội tại đến ngoại tại. Nội tại, thì lòng người luôn luôn loạn động bất an. Ngoại tại, thì thiên tai nhơn họa ác liệt dồn dập xảy đến hằng ngày. Quả chúng ta hiện đang sống trong một ngôi nhà lửa rực cháy thiêu đốt, như trong Phẩm Thí Dụ Kinh Pháp Hoa đã diễn tả. Thế mà những đứa con ngây thơ của ông trưởng giả, vẫn vui chơi đùa giỡn với nhau trong căn nhà hư mục đổ nát và lửa đang bốc cháy hừng hực dữ dội mà họ không hề hay biết. Thật là đáng thương cho thân phận của những người con đó. Ngẫm lại, thân phận và thế giới loài người của chúng ta hôm nay cũng thế!
Kỷ niệm mùa Phật đản lần thứ 2638, noi gương đức Phật, chúng ta ngoài việc phô trương hình thức cúng dường ra, mỗi người chúng ta cũng nên ý thức đến những nỗi khổ đau, tiếng kêu trầm thống của nhơn loại mà hãy cùng nhau chuyển hóa thân tâm, kiến tạo một nền hòa bình thực sự vĩnh cửu trong tâm thức của mỗi người. Có thế, thì chúng ta mới có thể hóa giải hết mọi nội kết, mọi hận thù tranh chấp và mới thực sự mang lại cho thế giới loài người chúng ta một nền hòa bình an vui thực sự hạnh phúc vậy.
Chuyến viếng thăm đảo Galang
Lần đầu tiên, tôi hướng dẫn phái đoàn đến viếng thăm và cầu siêu ở đảo Galang. Phái đoàn chúng tôi gồm có 8 người: Tôi, Thầy Phước Nguyện, Diệu Phủ, Minh Bằng, Từ Phượng, Diệu Quang 5, Hạnh Phúc và Thiện Huệ (con trai của cô Hạnh Phúc). Riêng cô Hạnh Phúc và Thiện Huệ thì đi trước chúng tôi một ngày. Ngoài phái đoàn chúng tôi ra, còn có phái đoàn ở Tây Úc. Phái đoàn nầy gồm có 9 người mà 5 người thì từ Việt Nam sang. Sở dĩ có chuyến đi nầy, là do anh Sơn ở Perth mời chúng tôi. Anh Sơn và chị Diệu Tú là hai vợ chồng làm chủ một nhà hàng ở Perth. Theo anh Sơn cho biết, hằng năm, vào dịp tết Thanh minh, bà chủ khách Sạn người Nam Dương gốc Hoa ở thành phố Batam đều có tổ chức cầu siêu bạt độ cúng tế cô hồn cho các vong linh đã chết ở trên đảo hoặc chết trên đường vượt biên. Thanh minh là một ngày lễ hội rất quan trọng đối với tập tục của người Trung Hoa. Ngày nầy họ đi tảo mộ và cúng tế. Vì thế, nên trong truyện Kiều cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã diễn tả:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là Đạp Thanh
Gần xa nô nức yến oanh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử, giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nen...
Ngày nầy như là một ngày lễ hội trọng đại của họ. Người sống nghĩ đến người chết và tạo thành một sợi dây liên kết tình cảm giữa người còn sống và người đã khuất bóng. Bởi thế, nên năm nào bà chủ khách sạn cũng đều có tổ chức cung thỉnh các vị Sư Tây Tạng đến Galang để cúng tế cầu siêu cả. Đây là do sự phát tâm từ tế của bà. Bà là người tu theo Phật giáo Tây Tạng. Pháp danh của bà là Fyvi Yolanda Damanik. Đặc biệt năm nay bà chủ khách sạn nhờ anh Sơn thỉnh một vị tăng và các Phật tử người Việt. Vì anh Sơn cũng là người Hoa, nhưng anh nói tiếng Việt rất thông thạo lưu loát. Anh là người rất vui tánh và hoạt bát.
Theo lịch trình chúng tôi phải có mặt tại phi trường quốc tế Melbourne vào lúc 11 giờ đêm thứ tư ngày 2. 4. 2014. Nơi đây, vì số người đi ít, vả lại, không có ai mang theo hành lý nhiều nên việc làm thủ tục xuất cảnh rất dễ dàng và nhanh chóng. Sau khi làm thủ tục xuất cảnh xong, chúng tôi đi vào bên trong chờ đợi để lên máy bay. Chiếc máy bay Singapore air line rộng lớn cất cánh vào lúc 1 giờ khuya. Thế là suốt đêm không ai ngủ được. Bấy giờ tôi trực nhớ đến hai câu mà người xưa đã nói: "Thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết lòng người ra sao". Và tôi lại liên tưởng đến trong Kinh Pháp Cú ở Phẩm Ngu đức Phật có dạy: "Đêm rất dài đối với kẻ mất ngủ, đường rất xa đối với kẻ lữ hành mỏi mệt. Cũng thế, vòng luân hồi sẽ tiếp nối vô tận đối với kẻ ngu si không minh đạt chánh pháp". Do không ngủ được nên tôi mãi suy tư đến thân phận của kiếp làm người. Cổ nhân thường than: "Vi nhơn nan! vi nhơn nan!" Nghĩa là làm người rất khó! làm người rất khó! Phải nói làm người thật gian nan khốn khó đủ mọi thứ trăm bề. Chung quy, người ta cũng chỉ lo giải quyết đến ba cái nhu cầu then chốt hệ trọng đó là: "ăn, mặc, ở".
Nếu cuộc sống chỉ lo giải quyết ngần ấy sự việc, thì thật là một cuộc sống rất buồn tẻ và vô ý nghĩa. Cuộc sống đâu phải chỉ có lo cho phần vật chất không thôi, mà còn phải nghĩ đến lo cho phần tinh thần nữa chớ. Nếu như vật chất quá sung túc dồi dào mà tinh thần thì thiếu thốn èo uột đói khát, như thế thì thử hỏi đời sống của con người sẽ ra sao? Chắc chắn là sẽ đưa đến tình trạng mất thế quân bình và từ đó sẽ gây ra biết bao là tệ nạn xáo trộn bất an. Không những bất an đối với bản thân mà còn gây ra tác hại cho gia đình và xã hội nữa. Từ những hệ quả đó, tôi lại nghĩ đến thương thay cho mảnh đời của người tỵ nạn. Tùy theo nghiệp nhân đã gây tạo mà mỗi người có những cái quả báo may mắn hoặc bất hạnh khác nhau. Có người thì được vận may đến được bến bờ tự do một cách suôn sẻ an ổn. Ngược lại, có người thì phải chịu lận đận lao đao bầm dập trăm đắng ngàn cay. Có người phải trải qua nhiều lần tiền mất tật mang mà vẫn không đi được. Nghĩa là phải tốn hao nhiều tiền lắm bạc mà chẳng đi tới đâu! Có người thì trốn chui trốn nhủi, ngủ bờ ngủ bụi, hoặc bị bắt bớ giam cầm tù đày lao công khổ nhọc. Có người thì bị bọn hải tặc ác nhân hãm hiếp cho đến khi bất tỉnh ngất xỉu. Có người thì bị đói khát chết trên tàu rồi quăng xác xuống biển, thân nhân nhào lăn ra khóc một cách thê thảm! Có người được may mắn đến được đất liền vào trại chuyển tiếp thời gian không lâu được đi định cư. Có người khi lên đảo thì lại kéo dài cuộc sống lê thê chán chường, vì không có nước nào nhận và cũng không có thân nhân nước ngoài bảo trợ giúp đỡ. Có người thì bị bệnh nặng hết phương cứu chữa đành phải theo diện ông bà nằm yên dưới nắm mồ hoang lạnh. Có người không chịu nổi sự cưỡng bách hồi hương hay buồn chán quá rồi phải tự sát gởi xác ở trên đảo hoang vân vân và vân vân. Nếu phải kể ra mảnh đời của người tỵ nạn thì thật không sao kể ra cho hết được. Mải miết theo dòng suy tư của kiếp người khổ nhiều, vui ít, cho đến khi nghe tiếng thông báo của nhân viên là yêu cầu mọi người nên cài dây an toàn vì máy bay sắp sửa hạ cánh. Bấy giờ tôi mới hoàn hồn tỉnh lại, vì đã biết mình thả hồn phiêu lưu rong chơi trong thế giới ảo tưởng. Đó là tôi đã mắc phải cái lỗi thất niệm mất rồi! Tôi không giữ được chánh niệm.
Máy bay hạ cánh an toàn. Chúng tôi mỗi người lần lượt ra khỏi máy bay và đến trạm kiểm soát hải quan để làm thủ tục nhập cảnh. Tuy nhiên, vì chúng tôi không có ở lại Singapore lâu, chỉ tạm một thời gian ngắn nên việc làm thủ tục cũng dễ dàng. Chúng tôi hẹn với anh Sơn là mọi người sẽ gặp nhau ở chỗ lấy hành lý. Vừa đến nơi thì vợ chồng anh chị Sơn và hai người đàn ông một trẻ một già cũng vừa đến. Đó là hai cha con của Long khởi hành từ Perth. Lấy hành lý xong, vì còn thời gian nên anh Sơn thuê hai chiếc xe van chở chúng tôi đi tham quan ngắm cảnh chung quanh thành phố Singapore. Nói đến thành phố ở Singapore thì ai cũng biết rất là thoáng mát sạch sẽ, có nhiều hoa kiểng cây cối xanh tươi rất là hữu tình ngoạn mục. Nhìn chung, nơi đâu cũng rất xinh lịch đẹp mắt. Đi một vòng, trời đã trưa, anh Sơn bảo tài xế đi tìm chỗ ăn trưa. Ông tài xế chở chúng tôi đến một tiệm ăn của người Nhật. Thức ăn đặc sản truyền thống của người Nhật là mì nước. Lúc nầy, ngoài trời rất nóng bức oi ả không khác gì cái nóng bức khó chịu ở Việt Nam.
Dùng xong, chúng tôi trở lại phi trường Singapore để đón 5 người từ Việt Nam qua. Những người nầy định cư ở Tây Úc, nhưng họ về Việt Nam thăm chơi và rồi họ cùng sang đây tháp tùng với đoàn chúng tôi. Như vậy, chung lại cả đoàn gồm có 17 người: 8 người ở Melbourne và 9 người ở Perth. Lúc nầy khoảng hơn 4 giờ chiều. Chúng tôi đi xuống bến tàu để đến thành phố Batam. Tàu chạy với tốc độ khá nhanh khoảng hơn 45 phút thì cập bến. Đến nơi, nhìn đồng hồ tay là đúng 6 giờ chiều. Vài chiếc xe nhỏ đưa chúng tôi về khách sạn Amaris. Bà chủ khách sạn rất tử tế niềm nở đón tiếp chúng tôi. Bà kính cẩn chào tôi và những người trong đoàn một cách rất lễ độ. Sau khi nhận phòng và tắm rửa xong, chúng tôi thả bộ dạo phố để tìm quán ăn. Quán ăn thì nhiều nhưng tìm một cái quán ăn chay thật không phải dễ. Cuối cùng, anh Sơn và đạo hữu Minh Bằng đã tìm ra được cái quán ăn có mặn, có chay. Vào bàn nhìn thực đơn thì đồ ăn chay rất ít. Chỉ có một vài món ăn đơn sơ thôi. Nhưng đói bụng thì ngon dở gì cũng nuốt ngon lành. Bởi ai nấy cũng đều cảm thấy đói bụng rã ruột. Thời giờ ở đây đi sau Úc khoảng 4 tiếng đồng hồ. Như 7 giờ tối ở đây thì khoảng 11 giờ tối ở Melbourne. Do sự chêch lệch giờ giấc như vậy nên việc ăn uống và ngủ nghỉ của chúng tôi cũng đều bị thay đổi. Ăn xong chúng tôi đi bộ về lại khách sạn.
Khách sạn tương đối khá khang trang và sạch sẽ. Họ dành cho hai người một phòng. Riêng tôi và thầy Phước Nguyện được ưu tiên hơn là bà chủ khách sạn dành riêng cho mỗi người một phòng. Khi chúng tôi đến đây, thì đã có mặt 9 vị Sư Tây Tạng rồi. Những vị Sư nầy đều ở trên lầu 3. Theo anh Sơn cho biết, thời gian chúng tôi ở đây 3 ngày và mỗi ngày chúng tôi phải trả cho họ là 50 đô Úc. Bao gồm tiền ăn, ở và xe di chuyển tới lui. Được biết, số tiền nầy bà chủ khách sạn sẽ cúng dường cho các vị Sư Tây Tạng. Riêng tôi và thầy Phước Nguyện thì bà không có tính tiền.
Do đi mệt, nhất là tối hôm qua thức suốt đêm không ngủ, nên đêm nay mọi người đều ngủ một giấc ngon lành. Khoảng 6 giờ sáng, mọi người đều có mặt ở phòng ăn. Người đầu bếp là hai chú thanh niên trẻ tuổi lo chuẩn bị thức ăn sáng thật gọn gàng và chu đáo. Họ đã chuẩn bị từ lúc nào mà chưa đầy 6 giờ thì thức ăn đã sẵn sàng tất cả. Theo anh Sơn cho biết, vào lúc 7 giờ sáng nay mọi người sẽ đi đến Galang để làm lễ. Ngoài đoàn chúng tôi ra, còn lại là những người Hoa và 9 vị Sư Tây Tạng. Những người Hoa nầy họ đều tu theo Phật giáo Tây Tạng. Họ mặc đồng phục bằng những chiếc áo màu vàng. Từ khách sạn đến đảo Galang xe chạy mất hơn tiếng đồng hồ. Thỉnh thoảng bị kẹt xe nên mất thời gian khá lâu.
Chúng tôi đến chùa Kim Quang vào lúc 8 giờ 30 sáng. Đây là ngôi chùa do người tỵ nạn xây cất dựng nên. Ngôi chùa được xây dựng hoàn tất vào năm 1985. Hiện nay, ngôi chùa đã được trùng tu nên cũng khá khang trang. Từ cổng vào chùa khoảng hơn trăm thước. Trước chùa phía dưới triền đồi là một cái sân tráng nhựa rộng lớn. Nơi đây là chỗ dành cho du khách đậu xe. Bởi Galang ngày nay đã trở thành một công viên du lịch rộng lớn. Du khách vào đây mỗi người phải đóng tiền lệ phí là ba ngàn đồng Indo. Một đô Úc đổi ra được mười ngàn Indo. Đến nơi, chúng tôi vào trong chánh điện lễ Phật. Lễ Phật xong, chúng tôi đi ra bên ngoài nhìn cảnh trí chung quanh. Bên cạnh hong chùa, người ta căng một cái lều vải rộng lớn. Nơi đây là để cho mọi người ngồi nghỉ mát và dùng cơm trưa. Theo chương trình hành lễ, thì ngày hôm nay các vị Sư Tây Tạng sẽ tụng kinh cầu siêu và chẩn tế cô hồn. Ban tổ chức chỉ dành cho đoàn chúng tôi khoảng 2 tiếng rưỡi đồng hồ vào buổi trưa để tụng niệm. Lợi dụng thời gian trống buổi sáng, tôi liền mời những vị trong đoàn đến ngồi chung quanh một cái bàn tròn để chúng tôi phỏng vấn. Vì trong đoàn của chúng tôi có một vài vị đã tạm cư nơi đây một thời gian. Như thầy Phước Nguyện, vợ chồng cô Từ Phượng, chú Long và chú Tâm. Thầy Phước Nguyện tạm cư khoảng 11 tháng. Minh Bằng thì hơn một năm. Từ Phượng thì gần 3 năm. Chỉ có Long và Tâm thì ở đảo khá lâu. Mỗi người có trên 4 năm. Cần nói thêm, ở Galang xưa kia Cao Ủy chia ra làm 4 khu vực, gọi là Galang 1,2,3,4, mục đích là để dễ phân phối và kiểm soát. Galang 1 thì có ngôi chùa Quan Âm. Galang 2 thì có 2 ngôi chùa: Kim Quang và Kỳ Viên. Chùa Kỳ Viên là do quý thầy và các Phật tử theo hệ phái Phật giáo Nguyên Thủy tạo dựng. Ngôi chùa nầy hiện nay cũng được tu bổ khá khang trang. Từ chùa Kỳ Viên đến chùa Kim Quang khoảng cách không xa lắm. Nếu đi tắt thì rất gần. Nhưng vì cây cối chằng chịt nên khó đi. Vì thế nên người ta phải đi vòng. Bên cạnh ngôi chùa Kỳ Viên là nhà thờ Vô Nhiễm của Thiên Chúa giáo. Hiện nay, tất cả đều còn nguyên vẹn và đã được chánh quyền địa phương cho tu bổ sửa sang lại rất nhiều. Đặc biệt Galang 3 là nơi dành để mai táng cho những đồng bào đã chết trên đảo. Người ta gọi là nghĩa trang của người tỵ nạn. Còn Galang 4, là nơi dành cho những người trau dồi thêm Anh ngữ để chuẩn bị đi định cư ở Mỹ. Riêng về Galang 4 vì địa thế nằm sâu bên trong, nên chúng tôi không tiện đi vào. Còn ba nơi kia chúng tôi đều có đến. Nhất là Galang 2 là nơi chúng tôi làm lễ ở đây 2 ngày.
Trở lại vấn đề phỏng vấn. Trước khi phỏng vấn, tôi trình bày sơ qua một vài điểm chính yếu về bối cảnh ở nơi đây. Theo một tài liệu cho biết, thì trại tỵ nạn nầy là do Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc thành lập vào năm 1978. Quần thể kiến trúc bao gồm:
- Bệnh viện, chùa, nhà thờ, trường ốc, văn phòng, các khu gia cư, khu giải trí v.v...
- Trại mở cửa vào năm 1979 để tiếp nhận thuyền nhân từ thập niên 1980 cho đến những năm đầu thập niên 1990.
- Trại thực sự đóng cửa vào năm 1996. Về các đảo ở Nam Dương có khoảng 17,507 hòn đảo lớn nhỏ.
- Có khoảng 120,000 thuyền nhân Việt (có tài liệu nói trên 200,000 người tạm cư).
- Khoảng 2000 trẻ em ra đời tại hòn đảo nầy.
- Khoảng 503 người đã vĩnh viễn yên nghỉ nơi đây.
Đó là một vài yếu điểm mà tôi đã nêu ra cho mọi người được biết. Kế tiếp, tôi hỏi chú Long về những gì mà Long đã từng trải qua đời sống cũng như chứng kiến những sự việc xảy ra kể từ đầu thập niên 1990 trở đi. Long cho biết những thảm cảnh ở đây thật là kham khổ. Cái nỗi khổ lớn nhất là những người bị rớt thanh lọc bắt buộc phải hồi hương. Chính vì thế, nên mới xảy ra nhiều vụ biểu tình chống đối và rồi đưa đến cái chết thảm thương do người ta tự sát. Như mổ bụng, thiêu thân v.v... Bởi họ không còn một con đường nào khác để lựa chọn. Đó là những năm sống trong hồi hộp lo âu tinh thần lúc nào cũng bị bức xúc căng thẳng. Từ hệ quả đó, nên mới sanh ra nhiều tệ nạn rối loạn không thể kể hết được. Nhưng Long được may mắn là nhờ ghép chung lô ca với một thiếu úy cảnh sát và vợ của ông nầy lại là thông dịch viên cho Cao Ủy Tỵ Nạn. Nhờ vậy, nên Long mới được đi định cư ở Úc.
Còn Tâm là người không được may mắn như Long. Vì Tâm đã có gia đình một vợ hai con. Nên những ngày sống ở đây thật là gian nan cực khổ vất vả. Tâm không có thân nhân nước ngoài. Tâm là người rời đảo sau cùng. Do đó, những gì xảy ra ở đây của những năm cuối cùng, Tâm đều chứng kiến tất cả. Đó là những năm phải nói rất là phức tạp rối loạn. Có nhiều người phẩn uất chịu không nổi cảnh áp bức nên phải tự vận một cách rất đau thương. Bây giờ nhớ lại, như là một cảnh tượng hãi hùng xảy ra trước mắt. Tâm và Long nói trong sự xúc động nghẹn ngào. Nhìn vào đôi mắt của hai người nước mắt lưng trồng mà chúng tôi cũng phải rơi lệ. Nghe qua tình cảnh đau thương như thế và người kể quá ư xúc động nói không ra lời, nên tôi cho tạm ngưng cuộc phỏng vấn để đi tham quan tận mắt một vài nơi chung quanh. Đi đến đâu thì Long, Tâm và Từ Phượng kể tới đó.
Người xưa cảnh cũ vẫn còn đây,
Nước mắt bao năm đã ngập đầy
Ngấn lệ xót xa từng khổ bước
Đắng cay nhiều nỗi lắm đọa đày
Văn phòng Cao Ủy vẫn còn đây
Phỏng vấn bao người ở chỗ nầy
Người ở kẻ đi trong vui khổ
Lắm người tự sát chết phơi thây!
Bệnh viện, nhà đèn, miếu nhỏ cô
Thức ăn cung cấp chỉ mì khô
Ngôi nhà cũ kỹ đều hư nát
Trẻ khóc chào đời sóng nhấp nhô
Chùa chiền xoa dịu nỗi buồn đau
Bao kẻ đêm đen khóc bạc đầu
Cô lẻ tủi thân sầu tê tái
Nhà thờ vô nhiễm dịu cơn đau!
Những con đường mòn quen thuộc, một vài căn nhà "ba trắc" vẫn còn đó, đến bảo tàng viện, chuồng cọp tra tấn đánh đập tội nhơn hiện vẫn còn nguyên vẹn. Đến đâu, nơi nào lòng tôi cũng trào dâng lên bao nỗi đau xót thương tâm vì thương cho số phận hẩm hiu của những con người tỵ nạn bất hạnh. Đi một vòng tham quan xong, chúng tôi trở lại chùa. Lúc nầy các vị Sư và Phật tử Tây Tạng đã tụng kinh xong, đến phiên chúng tôi tụng niệm. Chúng tôi tụng thời Kinh A Di Đà Nghĩa và sau đó cúng thí thực cô hồn. Nghi thức cúng cô hồn do tôi biên soạn. Trong nghi thức có bài văn tế. Đây là bài thơ chúng tôi viết theo thể song thất lục bát.
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Giống Lạc Hồng bỏ nước ra đi
Tủi lòng gạt lệ chia ly
Nghẹn lời giã biệt sầu bi thẩn thờ
Cảnh chia ly người đi kẻ ở
Khóc tiễn đưa góc bể chân trời
Bao la biển nước mù khơi
Nào ngờ bão táp chơi vơi chết chìm
Trôi phiêu bạt nào tìm được xác
Hồn linh đinh ngơ ngác khổ nàn
Bao nhiêu mộng ước tiêu tan
Đành theo mây khói lang thang biển đời
Trên biển cả kêu trời không thấu
Đói rã người nung nấu tâm can
Ngút trời bao tiếng thở than
Tủi cho phận bạc lệ chan khóc òa!
Rồi ngã gục quăng ra giữa biển
Ngất lịm theo bao tiếng kêu trời
Miệng đà khó thốt nên lời
Hồn phiêu phách lạc biết nơi đâu tìm
Kẻ sống sót chạnh niềm thương nhớ
Lạy Phật trời cho đỡ buồn đau
Nguyện cầu hồn dạt nơi nao
Nghe câu kinh kệ chóng mau thoát nàn
Có những kẻ giữa đàng gặp cướp
Bọn ác nhơn khác máu Dạ Xoa
Mặc cho bao tiếng kêu la
Chúng đà cưỡng hiếp đàn bà gái trinh
Chúng bất kể van xin cầu khẩn
Miễn thỏa lòng thú tính thì thôi
Sau khi hãm hiếp xong rồi
Người nào ngất lịm chúng lôi khỏi tàu
Chúng quăng xác cho nhào xuống biển
Mặc cho ai gào thét khóc la
Biết bao con trẻ đàn bà
Bỏ thây giữa biển thật là thảm thương!
Có những kẻ trên đường chạy trốn
Vượt suối rừng khốn đốn gian nan
Trải bao đói khát lầm than
Cũng không thoát khỏi an toàn bỏ thây
Nằm chết bụi rừng cây chôn xác
Hoặc bên cầu bãi biển bờ sông
Hoặc là phơi xác ngoài đồng
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre
Mời tất cả về nghe kinh kệ
Đồng xem nhau huynh đệ nghĩa tình
Nén nhang khấn nguyện hương linh
Về đây thọ hưởng chút tình tỏ phân
Của tuy ít lòng thành dâng cúng
Mong hương linh hưởng dụng chứng minh
Nguyện cầu thập loại chúng sinh
Nhờ ơn Phật lực thoát sanh cõi lành
Đường sanh tử phải nhanh thức tỉnh
Nẻo luân hồi kiếp sống điêu linh
Tam đồ trôi nổi hữu tình
Tham sân dứt bỏ riêng mình thảnh thơi
Cầu Phật độ nơi nơi chốn chốn
Các vong hồn khốn đốn khổ đau
Hãy mau giác ngộ hồi đầu
Bao nhiêu oán hận âu sầu tiêu tan
Nay chẩn tế lập đàn cầu nguyện
Hiệp tâm thành cúng tiến hương linh
Cầu cho pháp giới chúng sinh
Đồng sinh Phật cảnh đồng sinh liên đài.
Bài văn tế nầy chúng tôi cũng có đọc một lần ở đảo tỵ nạn Bidong - Mã Lai. Nghe qua, ai nấy đều cảm xúc rơi lệ.
Chúng tôi rời khỏi nơi đây vào lúc 5 giờ chiều. Tối lại, chúng tôi đến nhà hàng cũ kêu vài món thức ăn để bỏ bụng...
Sáng nay thứ bảy ngày 5/4/14/ ngoài trời mưa rơi tầm tã. Anh Sơn cho biết, sáng nay chỉ có đoàn chúng tôi đến Galang. Quý Sư và Phật tử Tây Tạng sẽ đến vào buổi trưa. Trên đường đến Galang 2, chúng tôi có ghé lại viếng thăm ngôi chùa Quan Âm ở Galang 1. Ngôi chùa đã được trùng tu rất khang trang đẹp mắt. Những dấu tích xưa kia nay đã đổi khác đi nhiều. Trong chùa có một vị Sư già trụ trì và vài bà Phật tử làm công quả. Lễ bái tham quan xong, chúng tôi rời nơi đây để đến Galang 2. Lúc nầy, trời vẫn tiếp tục mưa càng lúc càng nặng hạt.
Đến chùa Kim Quang, chúng tôi bắt đầu làm lễ. Tụng Kinh A Di Đà Nghĩa xong, sau đó chúng tôi trình bày đại khái qua một vài nét đơn sơ về giáo lý Vô Thường và Nhân Quả của đạo Phật. Tôi luôn xoáy mạnh đến lý nhân quả nghiệp báo. Và cũng có đề cập khái quát đến một vài nét chính về thân phận ly hương của người tỵ nạn. Vì thời gian có giới hạn phải dùng cơm trưa chung với các vị Sư và quý Phật tử Tây Tạng, nên chúng tôi chỉ trình bày gói ghém khoảng 30 phút rồi tạm ngưng. Lúc nầy phái đoàn Phật giáo Tây Tạng đã đến. Mọi người chuẩn bị cho buổi ngọ trai. Đây là một buổi ngọ trai giao hữu do bà chủ khách sạn khoản đãi. Tất cả đều ngồi quây quần bên nhau của những cái bàn tròn đặt sẵn. Một bữa cơm thật là đầm ấm thân mật trong tình huynh đệ của người con Phật.
Dùng trưa xong, ngoài trời mưa vẫn còn rơi nhẹ hạt. Quý Sư và Phật tử Tây Tạng (người Hoa bản xứ tu theo Phật Giáo Tây Tạng) tiếp tục hành lễ. Lợi dụng thời gian nầy, chúng tôi thuê chiếc xe nhỏ đến Galang 3, nơi nghĩa trang của những đồng bào tỵ nạn đã yên nghỉ. Đâu có ai nghĩ rằng, sanh ra ở Việt Nam và chết ở Nam Dương. Nhất là chết trên đảo hoang vu như thế nầy. Chúng tôi đến đây bầu trời vẫn còn u ám ảm đạm và mưa vẫn còn rơi lác đác. Đó là những giọt nước mắt của trời đất như cảm thương buồn khóc cho số phận của con người. Chúng tôi tụng một thời Kinh cầu siêu ngắn ở đây. Sau đó, chúng tôi đi một vòng để viếng thăm từng ngôi mộ. Dĩ nhiên, những ngôi mộ nầy theo thời gian đã phai màu cũ kỹ. Đây là nghĩa trang chung của người tỵ nạn nên không có phân biệt tôn giáo hay không tôn giáo.
Viếng thăm xong, chúng tôi trở lại Galang 2. Vì còn thời gian nên chúng tôi đến viện bảo tàng và tham quan một vài cảnh trí chung quanh. Nơi đâu cũng lưu lại những vết tích đau thương mà đã hơn một thời đồng bào mình chung sống. Tôi bùi ngùi xúc động khi nhìn thấy căn nhà nơi tra tấn đánh đập tội nhân một cách tàn nhẫn dã man. Đó là theo lời của Tâm và Long kể lại. Ở đâu cũng có thành phần tốt và xấu. Tuy nhiên, thành phần xấu cũng do hoàn cảnh nào đó đưa đẩy họ vào con đường tội lỗi. Mỗi người chúng ta đều sẵn có những hạt giống tốt và hạt giống xấu. Tùy theo môi trường sống mà những hạt giống nầy hiện hành và phát triển.
Trước khi từ giã nơi đây, chúng tôi trở lại ngôi chùa Kỳ Viên và đi vòng qua ngôi nhà thờ Vô Nhiễm. Cây cầu bắt ngang vào chùa và nhà thờ xưa kia đã bị hư mục nên người ta đã làm lại cây cầu khác an toàn đi vào. Theo pháp hữu vi vô thường không có gì tồn tại. Tuy nhiên, cũng là một ngôi nhà, nhưng nhìn thấy ngôi chùa và nhà thờ lòng ta cảm thấy ấm áp và an tịnh hơn. Ngược lại, khi nhìn thấy ngôi nhà đã từng nhốt tội nhân tra tấn đánh đập, thì lòng ta lại cảm thấy sợ hãi bất an. Chân lý tương đối hay Tục đế là như thế.
Đảo qua một vòng, chúng tôi trở lại chùa và đứng trước sân chùa Kim Quang để hàn huyên tâm sự. Tâm Và Long có dịp diễn tả lại cảnh đồng bào biểu tình và tự sát bằng cách mổ bụng và tự thiêu nơi con đường tráng nhựa nầy. Nghĩa là nơi con đường dẫn đến văn phòng Cao Ủy Tỵ Nạn của Liên Hiệp Quốc. Văn phòng nầy nằm đối diện với ngôi chùa Kim Quang cách nhau khoảng hơn trăm thước. Căn phòng được xây cất bằng tôle nay đã hư sập đổ nát. Nghe thế, không ai lại không chạnh lòng buồn tủi!
Hàn huyên một vài câu chuyện có liên quan đến mảnh đời người tỵ nạn, sau đó, chúng tôi lên chùa và chuẩn bị ra về. Vì lúc nầy các Sư Tây Tạng đã làm lễ xong. Chúng tôi rời nơi đây vào lúc 5 giờ 30 chiều cùng ngày.
Theo chương trình là chúng tôi tham dự lễ phóng sinh ở ngoài biển do các Nhà Sư Tây Tạng chủ trì. Nhưng rất tiếc trong đoàn có vị phải về Việt Nam nên chúng tôi phải rời nơi đây vào buổi sáng sớm cho kịp chuyến bay. Vì làm thủ tục chiếu khán nhập cảnh Singapore và chờ đợi chuyến tàu cũng khá lâu. Đến trạm kiểm soát hải quan biên giới của Singapore lại có việc trở ngại rắc rối xảy ra. Vì trong đoàn có người mua hai gói thuốc lá để về tặng bạn. Thế là hải quan làm khó dễ thời gian chờ đợi giải quyết có hơn tiếng đồng hồ. Tính sớm mà trở thành trễ. Số người về Perth và đi Việt Nam phải đi thẳng ra phi trường cho kịp chuyến bay. Thế là chúng tôi từ giã những vị nầy khi ra khỏi trạm hải quan.
Đến Singapore sau khi dùng cơm trưa, vì còn thời gian dài đến 9 giờ tối mới lên máy bay, nên chúng tôi có đến viếng thăm ngôi chùa Quan Âm. Khi đến đây, chúng tôi thấy cảnh chùa đầy ấp người và bên tai chỉ nghe tiếng kêu lắc cắc của các ống xăm và tiếng xì xào của những người xin xăm. Nhìn thấy cảnh tượng nầy, tôi cảm thương cho họ. Nơi đâu cũng có cái cảnh Phật tử đi chùa chỉ biết van lạy cầu xin Phật Bồ tát ban cho thôi. Nếu tất cả đều như thế, thì không biết Phật giáo sẽ đi về đâu?! Cũng may, cũng còn có những người sống đúng theo chánh pháp Phật dạy, tin sâu vào Tam bảo và lý nhân quả, nghĩa là cũng còn có chánh tín không đến đổi mê tín như những người nầy. Nhờ vậy mà Phật giáo vẫn còn tồn tại trên thế gian để mang ánh sáng giác ngộ đến cho mọi người. Sau một phút trầm ngâm suy tư, tôi lủi thủi đi ra chen lấn lách mình trong đám người xin xăm đoán quẻ.
Trước khi ra phi trường về Úc, chúng tôi có đến một siêu thị lớn để mua vài món quà về tặng người thân. Mỗi người mua được một ít dầu cù là của Singapore. Nghe đâu dầu nầy trị đau nhức hoặc cạo gió rất hay. Mua xong, trời đã chạng vạng tối, chúng tôi vội vã ra phi trường để về Úc.
Một số người ở Perth đã về trước chỉ còn lại 6 người chúng tôi (không có mẹ con của cô Hạnh Phúc, hai người nầy ở lại sáng mai đi Hồng Kông) và vợ chồng anh chị Sơn cùng hai cha con của Long. Tuy nhiên, những vị nầy về Perth sau chúng tôi. Nhưng tất cả cũng cùng kiểm tra hành lý một lượt. Chúng tôi chia tay nhau tại phi trường sau khi kiểm tra hành lý xong.
Trải qua 3 ngày ở Indonesia và tính ra khoảng một ngày ở Singapore, tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng chúng tôi cảm thấy rất vui. Vui là vì lần đầu tiên, chúng tôi đến đây để làm một việc có đầy đủ ý nghĩa. Có đến tận nơi và thấy tận mắt những di tích còn lại nơi đây, chúng ta mới biết được cái tinh thần hy sinh dũng cảm hiên ngang của người tỵ nạn dám đánh đổi cái chết để tìm tự do. Dù không chứng kiến những sự việc xảy ra, chỉ nghe kể lại thôi, mà chúng tôi cũng rất là khâm phục kính nể sức chịu đựng những khó khăn của đồng bào. Nhất là trong giai đoạn thanh lọc rất là khủng hoảng. Có người đã hiên ngang tự sát kết liễu đời mình chống lại sự cưỡng bách hồi hương. Ai có trải qua những tháng ngày dài sống ở đảo mới có thể hiểu và thông cảm được cái tâm trạng của những người mòn mỏi đợi trông. Người được đi định cư thì vui mừng hỷ hả, kẻ ở lại thì ngậm ngùi đau xót buồn thiu. Nhìn thấy những nấm mồ hoang sơ trơ trọi của những người đã ra đi mà chưa đạt thành ý nguyện, bất giác tôi động lòng rơi lệ. Vâng! Tôi khóc thương cho những người nằm xuống gởi thây nơi xứ lạ quê người mà cũng khóc thương tủi phận cho chính mình. Dù đã biết, thân tứ đại chỉ là giả tạm, sống gởi thác về, nhưng đứng trước những ngôi mộ lạnh lùng hoang vắng đìu hiu sao không khỏi chạnh lòng thương tiếc! Trong niềm thương tiếc đó, chúng tôi chỉ xin được thắp nén tâm hương thành kính cầu nguyện cho các hương linh chóng được siêu thoát về nơi cảnh giới an lành.
Ghi lại đôi dòng tưởng niệm trong chuyến đi hữu ích và trong niềm hoài vọng tiếc thương ...
Melbourne Ngày 14 /4/ 2014
Hiếu Đạo
Từ ngàn xưa, hiếu đạo là nền tảng xây dựng đạo đức tình người. Hơn ai hết, đối với người Việt Nam chúng ta từ xưa tới nay rất quan tâm và coi trọng chữ Hiếu. Trong những áng văn chương từ văn chương bác học đến văn chương bình dân, nơi đâu tổ tiên ta cũng đều luôn đề cao chữ Hiếu. Vì đó là một nền văn hóa lấy đạo đức con người làm căn bản. Điểm đặc biệt của một nền văn hóa nước ta là một nền văn hóa tổng hợp gọi là Tam giáo đồng nguyên, tức Phật, Khổng và Lão giáo. Ba tôn giáo nầy luôn hòa quyện hỗ tương với nhau trong chiều hướng xây dựng con người theo một đường hướng chung là lấy đạo đức nhân bản làm cội gốc. Mà đạo đức nhân bản đó chính là con đường Hiếu Đạo vậy.
Sách Nho có câu: “Thiên Kinh vạn quyển hiếu nghĩa vi tiên”. Nghĩa là ngàn quyển Kinh vạn quyển sách đều lấy hiếu nghĩa làm đầu. Hoặc câu: “Nhơn sanh bách hạnh hiếu vi tiên”. Nghĩa là người có trăm hạnh, thì hạnh hiếu là trước hết. Hay câu: “Phụ mẫu tại đường như Phật tại thế”. Nghĩa là cha mẹ còn sinh tiền khác nào như Phật còn ở đời. Ý nói, khi cha mẹ còn sống thì người con phải hết lòng lo phụng dưỡng báo đáp thâm ân cho cha mẹ thì cũng chẳng khác nào như tôn kính phụng thờ đức Phật còn ở đời vậy.
Trong khế Kinh có câu: “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”. Qua những lời dạy đó cho chúng ta thấy rằng, xưa nay các bậc Hiền Thánh đều khuyên con người nên lấy chữ hiếu làm đầu. Không những chỉ giữ chữ hiếu đối với ông bà cha mẹ không thôi mà còn phải mở rộng chữ Hiếu đến muôn loài vạn vật. Đó là đức hiếu sinh của con người. Có mở rộng chữ hiếu như thế, thì chúng ta mới thấy việc tri ân và báo ân rất hệ trọng trong đời sống. Bởi muôn loài đều có ân nghĩa với chúng ta. Dù trực tiếp hay gián tiếp chúng ta đều thọ ân rất nhiều. Vạn vật không có vật nào mà không giúp cho sự sống của ta. Ngay cả không khí hằng ngày mà ta hít thở để được sống còn có phải là ta đã trực tiếp thọ ân không khí hay không? Nếu không có không khí thì làm sao ta sống được? Theo lý duyên sinh của Phật giáo thì muôn vật không ngoài ta và ta không ngoài muôn vật mà có. Nói cách khác sự sống của ta là nhờ tất cả. Ta là tất cả mà tất cả cũng chính là ta. Có cái nhìn sâu sắc như thế, thì bất cứ vật lớn nhỏ nào ta cũng đều thọ ân cả. Đã có thọ ân thì ta phải lo báo đáp. Hiểu như vậy ta mới thấy “Hiếu Đạo” là con đường sống thực tiễn mà xưa nay tổ tiên ta luôn luôn coi trọng đề cao. Mở rộng đức hiếu sinh đến muôn loài cũng chính là ta mở rộng tình thương. Chính vì thế nên trong đạo Phật có truyền thống phóng sinh, tức trả lại sự sống tự do cho muôn loài. Vì tự do là mẫu số chung mà bất cứ loài nào cũng mong muốn có được. Tự do đối với loài người rất là thiết yếu như hơi thở và mạng sống. Thử hỏi có loài nào mà không ham sống sợ chết? Tôn trọng sự sống và trả lại sự sống cho chúng sinh, đó là ta thể hiện đức hiếu sinh và tôn trọng lẽ sống công bằng. Cổ Đức thường răn nhắc chúng ta bằng câu nói rất quan thiết: “Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác hay loài khác phải đau khổ” (Kỷ sở bất dục vật ư thi nhân). Mình muốn được có một cuộc sống tự do thoải mái không bị bất cứ thứ gì ràng buộc, thế thì tại sao mình lại ràng buộc bắt kẻ khác phải làm theo ý của mình? Đó là một sự độc tài, độc đoán và đó cũng chính là con đẻ của bản ngã tự cao. Điều nầy, không ai có thể chấp nhận được.
Vu Lan còn gọi là mùa xá tội vong nhân. Là mùa của tình thương của Đại Hỷ và Đại Xả nhằm cởi trói những buộc ràng hướng đến chân trời cao đẹp giải thoát. Đó là mùa đánh thức lương tâm con người nên xóa tan mọi hận thù tranh chấp do vô minh vọng thức chủ động gây ra. Hãy nghĩ đến thân phận mỏng manh của kiếp người ngắn ngủi mà cùng nhau xây dựng tình thương mang lại niềm an vui hạnh phúc đến cho con người và muôn loài.
Vu Lan không những cứu độ cho những con người có tội ở cõi dương mà còn cứu độ cho những kẻ mang tội cực hình bị đày đọa ở cõi âm. Mọi tội lỗi có ra chính do muôn loài tạo lấy. Phước hay tội, lành hay dữ, tốt hay xấu v.v... tất cả đều do tâm thức con người gây tạo. Sự thọ khổ cực hình đau đớn của bà Mục liên thanh đề nơi chốn địa ngục, không phải do ai đày đọa bà mà chính do tâm thức của bà thúc đẩy tạo lấy. Đã có nghiệp nhân thì không sao thoát khỏi nghiệp quả. Nhân và quả như bóng theo hình, như vang theo tiếng. Muốn không có cái quả báo khổ đau, thì ta không nên gây tạo nghiệp nhân ác. Không có nhân thì không có quả. Ý thức được lý nhân quả trả vay công bằng thì ta nên cẩn trọng trong khi hành động gây nhân. Nhân xấu thì quả xấu, nhân tốt thì quả tốt. Câu nói có giá trị bằng một ngàn lượng vàng mà cổ nhân luôn đề cao đó là: “Phàm làm việc gì nên hãy nghĩ đến cái hậu quả của nó”.
“Hiện trạng xã hội ngày nay có quá nhiều biến động tang thương. Nền tảng hạnh phúc mái ấm gia đình đã bị lung lay đến tận gốc rễ. Con người như đã đánh mất đi nguồn gốc nhân bản Hiếu Đạo. Tỷ lệ ly hôn bạo hành ngược đãi trong gia đình của cộng đồng người Việt chúng ta ngày càng gia tăng khốc liệt. Những tình trạng gây ra mâu thuẫn xung đột, bất hòa, bạo hành giữa cha mẹ và con cái đã làm đảo lộn nếp sống gia đình. Những tệ nạn phạm pháp gây xáo trộn bất an cho xã hội ngày càng nhiều, nhất là đối với giới trẻ ngày nay, phải nói chúng đã mất đi niềm tin ở nơi các bậc cha mẹ và mái ấm hạnh phúc gia đình. Bức tranh xã hội ngày nay đã và đang vẽ ra nhiều hiện tượng đen tối bi thương, đó là một thảm họa thật đáng quan tâm”.
Chúng tôi trích đoạn văn trên trong Lá Thư Tòa Soạn của báo Phước Huệ số phát hành vào tháng 8 năm 2012, số báo 49, nói lên phần nào của thực trạng xã hội ngày nay. Tuy đó chỉ là một phát họa đơn sơ nhưng đủ để chúng ta ý thức đến cái hậu quả tang thương do chính con người gây ra. Mùa Vu Lan cũng là mùa để chúng ta quán chiếu sâu vào nội tại của tâm thức, để từ đó chúng ta vạch cho mình một hướng đi cải thiện trong sáng lành mạnh theo con đường thiện nghiệp nhằm lợi mình và lợi người trong hiện tại và mai sau. Chỉ có con đường thiện nghiệp đó mới có thể chuyển hóa thân tâm, gia đình và xã hội ngày càng phát triển tốt đẹp.
Muốn xây dựng một xã hội cho được lành mạnh tốt đẹp, thì trước tiên chúng ta phải xây dựng ở nơi chính bản thân mình. Đức Khổng Phu Tử đã từng nói: “Dục bình thiên hạ, tiên trị kỳ quốc, dục trị kỳ quốc tiên tề kỳ gia, dục tề kỳ gia tiên tu kỳ thân, dục tu kỳ thân tiên chánh kỳ tâm”. Nghĩa là muốn cho thiên hạ được thái bình thịnh trị, thì mỗi quốc gia phải nên tự trị lấy. Đừng vì lợi ích quyền lợi của quốc gia mình mà đi xâm chiếm gây hấn chiến tranh để chiếm hữu đất đai tài nguyên hay cai trị ở các quốc gia khác. Đó là một tham vọng quá lớn chỉ vì muốn thiên hạ phải quy phục mình. Đối với thời đại nguyên tử hiện nay, việc nuôi tham vọng bành trướng chiếm hữu cai trị các quốc gia khác như thời đại Tần Thủy Hoàng xa xưa kia đã quá lỗi thời rồi. Đó chỉ là một ảo tưởng viễn vông mà thôi. Đừng nghĩ rằng dễ dàng nuốt trửng, không khéo coi chừng sẽ chuốc lấy họa hại vào thân. Đừng cậy vào thế lực binh hùng tướng mạnh hay vũ khí tối tân của mình rồi muốn tung hoành sao cũng được. Ở đời ta nên nhớ rằng hễ mình giỏi thì sẽ có người giỏi hơn. Mình mạnh sẽ có người mạnh hơn. Chính vì thế nên người xưa mới răn nhắc: “Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị. Núi cao hơn núi và người cao hơn người”. Mong ai có mộng tưởng nầy xin hãy tự tỉnh mà nghiền ngẫm lại những bài học xưa, gọi là ôn cố tri tân vậy. Đừng có nuôi tham vọng mộng ước đế vương mà làm bá chủ toàn cầu. Đó chỉ là chuốc lấy một bài học chua cay mà thôi. Thế thì mỗi quốc gia nên tự trị lấy. Mà muốn cho mỗi quốc gia được như thế, thì mỗi gia đình cần phải tề gia. Nghĩa là cần phải có nếp sống trật tự đạo đức thương yêu kính trên nhường dưới. Mà muốn cho gia đình được như vậy, thì không gì hơn là mỗi cá nhân cần nên tu tỉnh sửa đổi ở nơi chính mình. Muốn được thế, thì mỗi người phải tu ở nơi cái tâm, nghĩa là phải gìn giữ cái tâm của mình cho được ngay thẳng. Chỉ cần mỗi người hướng nội sửa đổi ở nơi tâm tánh của mình đúng theo con đường Bát chánh đạo mà đức Phật đã chỉ dạy. Được thế, thì lo gì xã hội không được thái bình an lạc. Chỉ có con đường chuyển hóa cải thiện thân tâm, thì mới mong xã hội mới có được cuộc sống an vui hạnh phúc. Bằng không, thì con người và xã hội luôn luôn phải hứng chịu nhiều đau khổ hệ lụy.
Tóm lại, Hiếu Đạo phải được mở rộng trong tinh thần xây dựng bằng những chất liệu đạo đức. Tình thương đóng một vai trò rất quan yếu trong việc xây dựng đạo đức tình người. Bởi thiếu chất liệu tình thương thì con người mãi nuôi lớn hận thù, tranh chấp và từ đó gây nên chiến tranh làm khổ đau cho nhau. Mong sao mọi người nên ý thức để cùng nhau góp phần tạo dựng cho một nền hòa bình an lạc theo tinh thần Hiếu Đạo vậy.
Thân Phận Của Trẻ Mồ Côi
Vu Lan về vào cuối mùa đông giá rét ở cái xứ lạnh lẽo ác nghiệt của một vùng trời Úc Châu. Cảm nhận được cái giá lạnh khắc nghiệt của thời tiết, hẳn nhiên, chúng ta cũng có thể cảm nhận được cái giá lạnh tê tái bi thảm của những tâm hồn non dại mà phải chịu mang thân phận của một kiếp sống mồ côi. “Mồ côi tội lắm ai ơi! Đói cơm không ai biết, lỡ lời không ai phân”. Đó là cái tội mất đi tất cả tình thương! Một người thiếu hẳn tình thương để ấp yêu sưởi ấm thì đâu có khác gì như một cây cột đèn đứng trơ vơ giữa bầu trời vắng lạnh buồn thảm. Thân phận của cây cột đèn đứng sừng sững bên lề đường, chẳng ai đoái hoài nghĩ đến. Sống mà không có tình thương thì có khác nào như một con ma đói khóc la kêu gào thèm khát. Trong Cung Oán Ngâm Khúc cụ Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã cảm thán:
Đòi những kẻ thiên ma bách chiết
Hình thì còn bụng chết đòi nau
Thảo nào khi mới chôn nhau
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra
Hình hài thì còn đó mà bụng đã chết từ lâu rồi! Đó là cái nỗi thống khổ của con người bất hạnh đã có mặt với cuộc đời từ khi mới lọt lòng mẹ chào đời. Đó cũng còn là báo hiệu bằng những tiếng khóc khổ đau hệ lụy sau nầy. Một khổ cảnh thương tâm kéo lê cuộc đời đi trong dạn dày sương gió. Thảm cảnh nầy thử hỏi có mấy ai thấu hiểu được để cảm thông? Đó là tiếng kêu than trầm thống của những con người bất hạnh đang gào thét van xin tình thương.
Mùa Vu Lan cũng là mùa gợi nhắc cho những ai còn có trái tim đầy lòng nhân ái. Xin mọi người hãy nghĩ đến những con người bất hạnh đang mang thân phận của một kiếp sống trôi nổi lạc loài. Họ cũng là một con người nhưng vì nghiệp báo phải trả nên đành phải mang một số kiếp hẩm hiu đi trong dòng đời khổ đau tràn đầy nước mắt.
Tình thương là cái nôi sưởi ấm mang lại niềm vui cho những con người đang cần đến những bàn tay yêu thương giúp đỡ của mọi người. Với tâm niệm phục vụ chúng sinh là cúng dường chư Phật, thiết nghĩ trong mùa Vu Lan Báo Hiếu, chúng ta cũng nên suy niệm và mở rộng cõi lòng yêu thương để làm những công việc từ thiện nào đó hầu cứu giúp cho những kẻ bất hạnh xấu số. Hành thiện cũng là một phương cách báo hiếu hữu hiệu. Hành thiện tạo phước có nhiều cách, nhưng cách nào cũng phải phát xuất từ tấm lòng chân thật xả kỷ. Có thế thì việc làm của chúng ta mới đem lại thực sự lợi lạc cho mình và người. Bất cứ việc làm nào nhằm đem lại cho con người có được nếp sống an vui hạnh phúc, thì việc làm đó rất có ý nghĩa và cần được tán dương hỗ trợ.
Có mục kích chứng kiến hoàn cảnh sống khổ sở nghèo nàn tồi tệ của các em mồ côi, chúng ta mới cảm thương và giúp đỡ. Một em bé mới vừa được năm tháng, bỗng người mẹ mang chứng bệnh nan y ngặt nghèo bị ung thư mà chết. Tưởng rằng mất mẹ thì còn có cha bồng bế chăm sóc dưỡng nuôi, nhưng than ôi! nào ngờ đâu người cha cũng vắng số lìa đời trong một tai nạn giao thông khủng khiếp. Nghĩa là người cha của em bé bất hạnh kia bị xe đụng chết tại chỗ. Thế là em bé đó đã mất đi tất cả tình thương đầu đời cả cha lẫn mẹ.
Trong hoàn cảnh đau thương bi đát ngút ngàn nầy, đứa bé được ông bà ngoại ẵm về chăm sóc nuôi dưỡng. Thế nhưng cuộc sống của hai ông bà già nầy lại nghèo khổ đói rách thê thảm. Ông thì bị bệnh tê liệt nằm một chỗ trên giường. Còn bà thì già yếu nay bệnh mai đau cũng không làm gì ra tiền. Trước đó còn nhờ có đứa con gái thỉnh thoảng nó cho chút đỉnh tiền bạc để tiêu xài. Ông bà chỉ có một đứa con gái duy nhất đó thôi. Nay đứa con gái yêu thương nhất đời đã chết đi thì thử hỏi đâu còn ai để lo cấp dưỡng chăm sóc! Ông thì bị bệnh nằm đó mà không có thuốc men để chữa trị. Bà thì tay chân run rẩy quờ quạng. Trong tình cảnh đó nay lại phải đèo thêm nuôi một đứa cháu ngoại chưa đầy một tuổi. Thế là phải làm sao đây để có thể nuôi dưỡng đứa cháu?! Bấy giờ chỉ còn có một cách duy nhất là phải nhờ đến những bàn tay của những người giàu lòng nhân ái từ thiện giúp đỡ. Những người hàng xóm chung quanh thấy vậy cũng rất thương tình, nhưng cũng không biết phải làm cách nào để lo cho chu toàn được.
Vì vậy, nên họ phải sống trong cảnh nghèo túng đói khát bữa đói bữa no. Ai thương cho gì ăn nấy. Ai giúp đỡ được gì thì mang ơn người đó. Bà cháu sống hui hút chịu đựng trong cảnh nghèo nàn túng thiếu đó. Phần lo cho ông bệnh, phần lo cho cháu, thế là không bao lâu bà cũng ngã bệnh. Hàng xóm thấy vậy, nên phải nhờ đến Hội từ thiện ra tay giúp đỡ. Bấy giờ Hội từ thiện đến tận nơi quan sát thấy tình huống thật đau thương đó, nên họ mới xin đứa bé đem về đưa vào trong trại mồ côi để nuôi nấng.
Sau khi đứa bé đưa vào trong trại mồ côi không bao lâu thì ông ngoại của đứa bé đó chết. Thấy hoàn cảnh nghèo khổ đói khát không có tiền bạc nên hàng xóm mới vận động xin tiền góp lại để mua một cái hòm chôn cất cho ông. Còn lại bà một thân một mình bơ vơ trơ trọi buồn tủi thương nhớ rồi cũng không bao lâu bị bệnh mà chết.
Tuy đứa bé được sự bảo bọc muôi nấng của những người đầy lòng từ tâm nhân ái, nhưng làm sao bằng được chính bàn tay của người mẹ ấp yêu nâng niu thương yêu vỗ về . Khi lớn lên đứa bé kia mới biết mình mang thân phận của một đứa trẻ mồ côi không cha không mẹ. Thật là buồn tủi cho số phận bất hạnh của mình. Thử hỏi có còn nỗi đau khổ nào hơn khi đã biết mình mất hết tình thương cao cả! Có biết bao bài ca dao, bài hát nói về thân phận đau khổ của một đứa trẻ mồ côi. “Mồ côi tội lắm ai ơi! Đói cơm khát nước biết người nào lo...”
Thân phận trẻ mồ côi
Lang thang giữa chợ đời
Nắng mưa đầy nước mắt
Một manh áo tả tơi
Thân phận trẻ mồ côi
Đói khát ôi! Rã rời!
Đầu đường nơi xó chợ
Gầy ốm như ma trơi!
Thân phận trẻ mồ côi
Có miệng không có lời
Người đời khinh ghét bỏ
Mang kiếp sống bỏ rơi
Thân phận trẻ mồ côi
Lang thang khắp cùng nơi
Mong tình thương ai đó
Xoa dịu chút khổ đời.
Dẫu sao đứa bé nầy tuy bất hạnh mất hết tình thương của những người thân ruột thịt, nhưng bù lại em cũng còn có người thương yêu nuôi dưỡng. Và môi trường sống của em cũng không đến nỗi tệ bạc lắm. Còn biết bao đứa trẻ không được cảnh ngộ may mắn như em. Có em không cửa không nhà phải sống lang thang xin ăn như một kẻ bụi đời. Xã hội nào cũng có những con người bất hạnh như thế. Nếu nhìn theo lý nhân quả báo ứng của Phật dạy, đời nầy sở dĩ người ta phải chịu khổ sở cô quạnh nghèo đói rách rưới lang thang như thế là bởi do đời trước người ta tạo nhiều cái nhân bất thiện. Cứ nhìn vào cái quả báo mà chúng ta đang mang, thì chúng có thể biết được cái nhân đời trước. Nếu đời trước gây cái nhân ác đức thì đời nầy phải lãnh lấy cái quả báo đau khổ. Ngược lại, nếu đời trước ta gây nhân lành thì đời nầy ta hưởng quả lành. Và muốn biết cái quả báo đời sau của chúng ta ra sao, thì chúng ta hãy nhìn vào cái nhân mà chúng ta đang gây tạo trong hiện tại. Luật nhân quả rất công bằng không bao giờ thiên vị sai chạy. Sách Nho có câu: “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cao phi viễn tẩu dã nan tang. Hành tàng hư thiệt tự gia tri, họa phước nhơn do cánh vấn thùy, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”. Nghĩa là, làm lành hay làm dữ cuối cùng cũng phải trả, không thể cao bay xa chạy mà tránh khỏi. Hành động của mình chơn thật hay giả dối thì tự mình mình biết. Việc họa phước đến với mình thì mình phải chấp nhận chớ đừng có hỏi ai. Chẳng qua nó đến với mình có mau chậm mà thôi. Điều đó ta cần phải quán chiếu cho thật kỹ để trong đời sống ta nên làm lành lánh dữ. Có thế thì đời ta mới được an vui hạnh phúc vậy.
Mùa Sen Nở
(Bài viết nầy ghi lại những gì mà thầy Phước Thái đã giảng)
Lần đầu tiên, tôi đi tham dự khóa tu học ngoài trời một ngày. Tôi không phải là một bạn sen trong đạo tràng Quang Minh. Tôi chỉ là một Phật tử bình thường như bao nhiêu người Phật tử khác. Gia đình tôi là một gia đình có truyền thống theo đạo Phật. Ông bà bên nội, bên ngoại của tôi đều quy y Tam bảo. Nghe đâu, ông nội tôi là người rất hâm mộ đạo Phật. Đến đời ba tôi, ông cũng thường xuyên tới lui chùa chiền. Ông hay đến chùa làm công quả mỗi khi chùa cần đến. Mẹ tôi hồi nhỏ ông bà ngoại cho đi sinh hoạt trong Gia Đình Phật Tử (GĐPT). Vì vậy, nên mẹ tôi cũng hiểu chút ít về giáo lý đạo Phật. Theo lời mẹ tôi kể lại, thì bà sinh hoạt trong GĐPT cho đến khi lập gia đình. Còn ba tôi tuy ông không có gia nhập sinh hoạt trong GĐPT, nhưng ông thường đến chùa từ thuở nhỏ. Ông được vị Sư trụ trì trong chùa ở làng tôi rất thương mến. Nhất là vào những dịp lễ lớn, ba tôi hướng dẫn một số thanh niên trong làng đến phụ giúp công quả trang trí trong chùa. Nhờ vậy, mà ông cũng hiểu được chút ít về những lễ nghi phép tắc trong chùa.
Do hấp thụ truyền thống theo đạo Phật, nên từ nhỏ tôi cũng được cơ hội tốt là theo mẹ tôi tới lui chùa thường. Tôi bị ảnh hưởng ba mẹ tôi từ lúc nào mà tôi cũng không hề hay biết. Có lẽ nhờ ảnh hưởng đó nên khi lớn lên tôi không thể quên chùa được. Dù cuộc sống của tôi có trôi nổi thăng trầm đến đâu, lúc nào tôi cũng nhớ đến chùa và nhớ đến Phật pháp. Khi nhỏ tôi thường nghe mẹ tôi ngâm hai câu thơ:
Mai nầy tôi bỏ quê tôi
Bỏ trăng bỏ gió chao ôi! bỏ chùa
Thật vậy, dù cho có bỏ quê hương ra đi nơi xứ lạ quê người, hay dù cho có bỏ trăng, bỏ gió đi chăng nữa, nhưng làm sao mình bỏ chùa cho được phải không các bạn? Tôi còn nhớ hai câu thơ của thi sĩ Huyền Không:
"Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông"
Trở lại vấn đề trên, khi tôi nghe một người bạn đạo cho biết là đạo tràng Quang Minh có tổ chức một buổi sinh hoạt ngoài trời sáng đi chiều về. Người bạn còn nói thêm, địa điểm sinh hoạt là ở đầm sen do Thầy Phước Thái tổ chức hướng dẫn. Đối với Thầy Phước Thái, tuy tôi ít tiếp xúc với Thầy, tôi chỉ thấy Thầy trong những khi tôi tới chùa khi có lễ lộc, nhưng tôi cũng thường đọc sách của Thầy. Những khi đến chùa Quang Minh, tôi thường thỉnh sách của Thầy về xem. Những quyển kinh sách do Thầy viết, không quyển nào mà tôi không có. Vì là sách ấn tống để cho Phật tử tùy ý thỉnh, nên ai muốn thỉnh bao nhiêu cũng được. Nay nghe nói, Thầy tổ chức nên tôi cũng muốn tham gia sinh hoạt cho biết. Vì tôi cũng thường nghe nói là Thầy thường hay giảng pháp ở chùa Quang Minh vào mỗi buổi chiều chủ nhật hằng tuần. Tôi thì ít khi đến chùa nghe giảng, chỉ có thỉnh thoảng nghe đĩa của quý thầy giảng pháp thôi. Sau khi ghi tên, tôi chờ đến ngày để đi.
Một buổi sáng đẹp trời chủ nhật ngày 2/3/2014 tôi đến chùa thật sớm. Đến nơi, tôi thấy có một số quý ông, quý bà trò chuyện xôn xao đứng chờ đợi xe buýt. Tôi cũng hòa mình vào các vị đó để chờ xe đến. Một lát sau, có 2 chiếc xe buýt lớn: một chiếc của chùa và một chiếc thuê, cả hai đều chạy đến đậu ở phía trước văn phòng chùa. Hai ông tài xế đều là người Việt Nam. Thầy Phước Thái kêu gọi mọi người nên sắp hàng để chuẩn bị lên xe. Trong đạo tràng có chia ra từng chúng, nên cô Tâm Hải sắp xếp từng chúng để lên xe. Tôi may mắn được ngồi chung chiếc xe thuê cùng với thầy Phước Thái. Còn bên chiếc xe chùa thì có Thầy Phước Nguyện do tài xế Thuận lái. Sau khi mọi người lên xe, thì xe bắt đầu chuyển bánh. Vì xe chùa chạy chậm, nên thỉnh thoảng chiếc xe thuê phải dừng lại chờ. Người tài xế của chiếc xe thuê là một người đàn ông trung niên. Tôi không nhớ rõ tên ông. Ông là một tài xế chuyên nghiệp. Ông ta nói, chiếc xe nầy có chở thủ tướng Úc.
Thời gian từ chùa đến đầm sen mất khoảng hơn tiếng đồng hồ. Đến nơi mọi người xuống xe và theo sự hướng dẫn của nhân viên quản lý đầm sen. Trong khi đó, Thầy Phước Thái đi tìm một chỗ thích hợp cho sự sinh hoạt, vì số người tham dự rất đông khoảng trên 120 người. Ngoài hai chiếc xe buýt ra, còn đi thêm một chiếc xe van của chùa. Sau khi tìm được chỗ, anh Trí Lạc (sau nầy tôi mới biết) kêu gọi chúng tôi vào bên trong. Trong khi đó thì tôi thấy Thầy Phước Thái đang đứng chờ chúng tôi. Trông Thầy sức khỏe không được tốt lắm. Nhất là đôi chân của Thầy hơi yếu. Thầy đi không được vững vàng cho lắm. Tôi thấy cái cổ của Thầy hơi nghiêng một bên. Hỏi ra mới biết là Thầy đã mổ xương sống ở phía sau cổ nên mới bị như thế. Thầy chọn chỗ sinh hoạt tuy không gian không được rộng lớn lắm, chỉ vừa đủ số người chúng tôi. Tuy nhiên, phải nói nơi đây rất là yên tịnh. Thật ra, chung quanh đầm sen không còn chỗ nào trống trải rộng rãi khác. Mặc dù cũng có một vài du khách đến tham quan, nhưng họ lặng lẽ âm thầm ngắm cảnh, không ai làm ồn náo. Quả đây là một phong cảnh rất nên thơ hữu tình ngoạn mục. Có một ngôi nhà lục giác nhỏ nơi mà hai Thầy dùng cơm trưa trong đó. Chung quanh đều có những hồ sen lá xòe bông nở rất tươi đẹp. Tôi mải miết say mê ngắm nhìn những đóa sen hồng tươi thắm. Tuy không phải sen đầu mùa, nhưng nó vẫn còn tươi nở. Nghe đâu, một tháng trước sen nở rộ đẹp lắm.
Chỗ sinh hoạt thế đất không được bằng phẳng cho lắm. Các ông thiện nam cùng nhau trải tấm bạt lớn để ngồi. Trải xong, Thầy Phước Thái kêu gọi mọi người nên ổn định chỗ ngồi để Thầy thông qua chương trình sinh hoạt. Thầy cho biết, Thầy sẽ trình bày vài nét về ý nghĩa hoa sen và sau đó dùng trưa. Dùng trưa xong, mọi người đi tham quan tự do quay phim nhiếp ảnh, đến 1 giờ 30 chiều, tất cả đều trở lại địa điểm chính để tiếp tục sinh hoạt. Sinh hoạt buổi chiều Thầy sẽ giải đáp thắc mắc những gì mà Phật tử chưa rõ. Sau đó là văn nghệ ca hát một vài bản nhạc đạo. Cuối cùng là phần phát biểu cảm tưởng và hồi hướng ra về.
Thời tiết hôm nay, buổi sáng thì mát mẻ nhưng đến trưa và chiều thì trời có hơi nóng bức một chút. Tuy nhiên, phải nói là thời tiết ấm áp rất đẹp. Thầy kêu gọi mọi người trong khi đi dạo cảnh xem hoa, ai có cảm hứng điều gì thì cứ viết ra văn xuôi hay văn vần gì cũng được. Ai có nhã hứng thì cứ tự ý làm thơ hay dở không thành vấn đề. Sau đó, đến giờ sinh hoạt thì Thầy sẽ đọc lên để cho mọi người nghe. Thầy nhấn mạnh, đây cũng là điều trao đổi chia sẻ với nhau trong tinh thần kiến hòa đồng giải. Đó là một trong sáu phép Lục Hòa mà Phật đã dạy. Tôi tuy không biết làm thơ nhưng thể theo lời kêu gọi của Thầy, tôi cũng bập bẹ làm một vài câu thơ để góp phần cho vui. Thầy gợi ý cho mọi người bằng những câu thơ mà Thầy mới vừa sáng tác. Ai cũng biết Thầy Phước Thái ngoài việc viết sách và giảng thuyết ra, Thầy còn có biệt tài làm thơ nữa. Tôi còn nhớ tập thơ đầu tay của Thầy là quyển "Hướng Dương Thi Tập". Sau đó Thầy cũng có xuất bản một tác phẩm với danh đề là: Một Cõi Đi Về "Thơ và Tạp Bút". Bài thơ của Thầy làm hôm nay có tựa đề là Sen Hồng. Thầy nói, mọi chủ đề hôm nay, tất cả đều tập trung nói về hoa sen. Bởi chúng ta đang sinh hoạt ở đầm sen. Trước mặt của chúng ta toàn là sen không. Sen đủ màu, đủ loại, đủ cỡ. Do đó, nên mọi người phải viết về hoa sen. Đó là chủ đề chính của buổi sinh hoạt hôm nay. Xin được ghi ra nguyên văn bài thơ của Thầy như sau:
Sen hồng ngát tỏa khắp không gian
Chín phẩm liên hoa cõi Lạc bang
Sáu chữ Di Đà luôn nhớ mãi
Một lòng niệm Phật quyết sinh sang
Đầm sen tinh khiết thẳng vươn cao
Đoàn người dạo ngắm dạ xôn xao
Từ cõi bùn nhơ khoe sắc thắm
Nhẫn hòa an tịnh đẹp thanh tao
Một ngày sinh hoạt ở đầm sen
Thanh thoát tâm hồn mặc chê khen
Thiên nhiên cảnh trí người an hưởng
Còn chi phân biệt cảnh sang hèn
Tu học ngoài trời thật thích ghê
Người người an hưởng chỗ nào chê
Không gian sen nở muôn màu đẹp
Vạn vật hòa mình chẳng tái tê!
Đọc xong, mọi người tán thưởng bằng một tràng pháo tay vang dội cả một góc trời. Thầy khuyên mọi người nên bày tỏ cảm nghĩ của mình bằng những văn thơ gì cũng được.
Trong bài thuyết giảng của Thầy nói về ý nghĩa hoa sen tuy dài, nhưng ở đây, tôi chỉ xin nêu ra tóm tắt một vài điểm chính yếu mà Thầy đã trình bày. Trước hết, Thầy nêu ra nguồn gốc xuất xứ của hoa sen. Theo tài liệu dẫn chứng cho biết: "Sen có nguồn gốc ở Châu Á, xuất phát từ Ấn Độ, sau đó lan qua Trung Quốc và vùng đông bắc Úc Châu. Sen được trồng nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước Đông Nam Á, Nga và một số nước Châu Phi. Sen cũng được trồng ở Châu Âu và Châu Mỹ nhưng với mục đích trang trí hơn là thực phẩm".
Thầy còn cho biết có nhiều loại hoa sen: trắng, đỏ, xanh, hồng tím thẩm v.v... Mỗi màu đều mang một ý nghĩa đặc trưng khác nhau. Hoa sen có nhiều công dụng lợi ích thiết thực trong đời sống thường nhựt như: cúng Phật, hoa cưới, thực phẩm và bào chế thuốc uống trị bệnh v.v... Ngoài ra, hoa sen còn được ca tụng nêu cao trong triết lý đạo Phật, cũng như trong văn hóa, hội họa, điêu khắc và mỹ thuật. Điển hình trong chùa chỗ nào cũng có hình ảnh hoa sen. Phật ngồi trên tòa sen và có nhiều bộ Kinh Đại Thừa cũng lấy hoa sen mà đặt tên Kinh. Như Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa v.v...
Hoa sen còn được người ta đưa vào trong văn học, thi phú hay những câu ca dao bình dân tiêu biểu như bài:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Hoa sen còn nhiều đặc tánh tiêu biểu và ý nghĩa thâm sâu khác nữa, ở đây, chúng tôi chỉ nêu ra một vài nét đơn sơ mà Thầy Phước Thái đã trình bày trong buổi thuyết giảng của Thầy. Phải nói, đây là lần đầu tiên, tôi được dự nghe Thầy thuyết giảng. Thật là danh bất hư truyền. Thời giảng pháp ngoài trời của Thầy, tuy không có đủ phương tiện âm thanh máy móc, Thầy phải cầm cái loa để nói, nhưng gây cho người nghe thật là hấp dẫn linh động thích thú. Thỉnh thoảng mọi người đều tán thưởng bằng những tràng pháo tay nồng nhiệt. Thảo nào mà chị bạn của tôi thường đi đến đạo tràng Quang Minh nghe Thầy giảng pháp. Sau khi nghe Thầy giảng vài lần, chị ta xin gia nhập đạo tràng luôn. Chị còn nói với tôi là Thầy giảng pháp hay lắm.
Sau thời giảng pháp của Thầy là đến giờ dùng cơm trưa. Thức ăn mỗi người tự túc mang theo. Ai nấy đều đem thức ăn ra rồi kiếm chỗ ngồi ăn cho thoải mái. Đã lâu lắm rồi, tôi mới có dịp ăn uống ở ngoài trời như thế nầy. Nhất là lại ăn chung với mọi người thì thật là vui. Trời lúc nầy có hơi nóng, nhưng cũng nhờ có những tán cây che mát nên cũng đỡ nóng. Một ấn tượng sâu đậm mà tôi không thể nào quên được, đó là mọi người đều đội trên đầu những chiếc nón lá quê hương để nghe Thầy giảng pháp, nhìn thấy thật là đẹp mắt và dễ thương làm sao!
Dùng trưa xong, mọi người đi dạo chung quanh ngắm cảnh. Tôi thì không thích đi dạo. Tôi đến ngồi trên bờ hồ nhìn ngắm những đóa sen tươi nở khoe hương khoe sắc. Nhìn những đóa sen tinh khiết thơm tho, lòng tôi thật thảnh thơi an tịnh. Tôi biết trong tôi cũng có những đóa sen hồng tinh khiết. Đóa sen thanh tịnh sáng suốt nhưng vì tôi không khéo gìn giữ để cho bụi trần phiền não bám vào nên nó mất đi tính chất trong sáng tinh khiết đó thôi. Tôi ngồi trong tư thế tỉnh lặng, không suy tư phân biệt theo trần cảnh, vì cảnh vật và tôi nào có ranh giới ngăn cách. Sen là tôi mà tôi cũng là sen. Sống trong giây phút hiện tại mới thấy mình và cảnh vật chung quanh hòa mình thật là mầu nhiệm vô cùng. Bất giác, lúc đó có người đến bên tôi và gọi tôi trở lại chỗ cũ để sinh hoạt tiếp. Thế là tôi trở lại với cảnh giới trần tục phân biệt chấp trước đủ thứ trong đó có tôi và người. Tôi đứng lên trong niềm an lạc và đi theo sau người bạn. Tôi cảm nhận được hình ảnh đức tánh của hoa sen: "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Nhưng rất tiếc chỉ không hôi tanh trong một giây phút thôi. Nếu không nhiễm trước như hoa sen thì cuộc đời nầy nơi đâu mà không có hạnh phúc? Hạnh phúc ngay trong hiện tại đó là thứ hạnh phúc tuyệt vời. Cần gì phải tìm kiếm hạnh phúc ở đâu xa xôi. Ngồi với mọi người trong chánh niệm thì có hạnh phúc nào bằng.
Sau khi mọi người tập trung đầy đủ, Thầy đọc một vài bài thơ của một vài người đã làm. Có một bài thơ Thầy vừa đọc vừa phân tích giải thích rất hay. Bài thơ đó Thầy không có nêu tên tác giả. Cho nên tôi không biết tác giả là ai. Nội dung bài thơ mang nhiều ý nghĩa đạo lý siêu thoát. Bài thơ rất sinh động hướng thượng trong dòng sống của cuộc đời. Tôi thầm nghĩ, Tác giả của bài thơ đó ít nhiều gì cũng có chút ít kinh nghiệm trong sự tu tập. Ý thơ đã hay thêm phần giải thích của Thầy thì lại càng hay hơn. Khác nào hoa đã thơm lại thêm có nhụy lại càng thơm hơn. Mọi người như say sưa lắng nghe Thầy giải thích từng câu thơ. Riêng tôi, tôi thầm thán phục tác giả của bài thơ đó. Tôi lại nghĩ thêm, thật không hổ danh là những người theo Thầy học đạo từ bấy lâu nay. Quả đúng với câu: "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh".
Sau đó, có một vài người nêu ra những thắc mắc để Thầy giải đáp. Những câu hỏi và những giải đáp mang lại cho người nghe nhiều lợi ích trong việc học hỏi. Một buổi sinh hoạt thật sinh động và thật hào hứng. Sau đó, v́ trời nắng nóng nên Thầy phải đi tìm chỗ khác có bóng mát để sinh hoạt tiếp. Đến nơi, có nhiều cây cao bóng mát mọi người quy tụ ngồi quây quần bên nhau để bắt đầu sinh hoạt ca hát thật vui. Có người phát biểu nói lên một vài cảm tưởng của mình trong chuyến đi nầy. Tôi nhìn thấy ai nấy cũng hiện rõ trên gương mặt một niềm vui thật hoan hỷ chứa chan đầy thâm tình đạo vị. Tuy đây là lần đầu tiên tham dự, nhưng tôi cảm thấy rất là thích thú. Tôi nói với một chị bạn, khi nào Thầy có tổ chức sinh hoạt như thế nầy nữa thì chị làm ơn cho tôi hay.
Nắng chiều dần tắt. Những tia nắng vàng nhợt nhạt như còn lưu luyến phơi mình trên những chiếc lá sen xanh thật yếu ớt. Những giọt nắng chiều như còn lưu luyến với chúng tôi chưa muốn chìm sâu vào trong bóng tối. Buổi họp nào rồi cũng phải tan. Có loài hoa nào nở ra mà lại không tàn. Chúng tôi mọi người chuẩn bị thu xếp đồ đạc ra xe để về chùa. Trước khi ra xe, Thầy bảo mọi người nên thu dọn sạch sẽ ở nơi đây. Chúng tôi ra về trong niềm vui khó tả. Tôi vẫn còn lưu luyến mùi sen thơm của những tâm hồn tràn đầy cao thượng như những đoá sen mùa hạ nở. Quả mỗi người là một đóa sen và kết hợp thành một tòa sen tinh khiết cao đẹp. Tôi cầu mong những đóa sen hồng tinh khiết tươi thắm mãi mãi an trú trong lòng mỗi người, dù ở bất cứ môi trường sống nào hoa vẫn nở tươi mát trên đường mòn sanh tử.
Phỏng Vấn: Viếng Thăm Trại Tù Nữ
Vào ngày 13/8/2014/ vừa qua, Đại Đức Thích Phước Thái hướng dẫn phái đoàn gồm mười một người, trong đó có thầy Phước Nguyện và sư cô Huệ Thanh cùng một số quý liên hữu trong đạo tràng Quang Minh đến thăm một trại tù nữ. Trại tù nầy có tên là Dame Phyllis Frost Centre, thuộc vùng Deer Park ở miền Tây Melbourne. Được biết chương trình viếng thăm nầy, Thầy đã âm thầm thực hiện trong nhiều năm qua. Và chưa lần nào Thầy phổ biến chương trình nầy trên báo chí hay trang mạng. Là một Biên tập viên ( BTV ) của tờ Đặc san Phước Huệ, chúng tôi xét thấy đây là một việc làm rất có ý nghĩa và lợi ích trong đời sống tâm linh nên cần được phổ biến rộng rãi. Do nghĩ thế, nên tôi mạo muội xin phép Thầy Phước Thái ( TPT) cho tôi được hỏi qua đôi điều về vấn đề nầy. Thầy rất vui vẻ hoan hỷ cho chúng tôi được thực hiện cuộc phỏng vấn.
BTV: Kính thưa Thầy, theo chúng con được biết, Thầy đã tổ chức viếng thăm trại tù nầy nhiều lần trong suốt bao năm qua. Vậy xin Thầy cho biết lý do nào mà Thầy lại tổ chức đi thăm như thế?Và mục đích của việc làm nầy như thế nào? Kính mong Thầy hoan hỷ cho chúng con được biết.
TPT: Như đạo hữu đã biết, từ ngàn xưa đạo Phật là đạo từ bi ban vui cứu khổ. Nơi nào có chúng sanh đau khổ thì nơi đó cần phải được cứu độ. Đó là hạnh nguyện từ bi vị tha của chư Phật và Bồ tát. Vì muốn noi theo công hạnh lợi ích thiết thực đó, nên trong suốt thời gian qua (tính từ chuyến viếng thăm đầu tiên vào ngày 18. 9. 2009 cho đến nay là đúng 6 năm), chúng tôi đứng ra kết hợp cùng một số quý liên hữu Phật tử trong đạo tràng Quang Minh cố gắng thực hiện điều nầy. Việc làm nầy không ngoài mục đích là nhằm mang lại chút ít lợi lạc nào đó cho những vị mà họ đang bị giam cầm trong vòng lao lý. Người xưa nói: "Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại". Nghĩa là một ngày bị giam cầm ở trong bốn bức tường của ngục tù đen tối mất hết tự do thì, nó dài lâu bằng cả ngàn ngày ở bên ngoài. Làm người ai lại không muốn được sống tự do thoải mái? Có thể vì một hoàn cảnh nào đó mà họ phải cam chịu như vậy. Đó là một hoàn cảnh rất đau thương cần được xoa dịu an ủi và hỗ trợ tinh thần cho họ. Đồng thời, chúng tôi cũng muốn tạo cái cơ duyên thân thiện kết nối làm nhịp cầu với họ để khi mãn hạn tù, họ trở về với một đời sống bình thường không mang nặng tự ty mặc cảm tội lỗi. Và nếu là Phật tử họ cũng có thể đến chùa sinh hoạt tu học với các bạn đạo. Còn những ai chưa quy y thì cũng có thể nhân cơ hội nầy họ ăn năn cải hối và phát tâm quy y Tam bảo. Đại khái, đó là chúng tôi muốn gieo thiện duyên và nhất là để cho họ có cơ hội cải hối. Nghĩa là họ cải ác tùng thiện, cải tà quy chánh, để trở thành một con người tốt cho bản thân, gia đình và xã hội, tức phải làm mới lại cuộc đời. Nhất là phá tan mặc cảm cho rằng xã hội coi thường khinh khi ghét bỏ họ. Đó là nguyên động lực thúc đẩy chúng tôi phải cố gắng thực hiện. Có thể nói, đó là lý do chính yếu. Ngoài ra, chúng tôi cũng còn có một lý do thuận lợi khác.
Điều may mắn cho chúng tôi là chúng tôi có được anh Tony Lê Nguyễn phụ giúp. Anh là một Phật tử trẻ có tâm đạo và đầy nhiệt huyết. Trải qua nhiều năm anh đã sinh hoạt gắn bó và tận tâm giúp cho chùa Quang Minh. Anh cũng là người tạo điều kiện thuận lợi giúp cho chúng tôi trong vấn đề nầy. Bởi trước đây anh đã từng làm việc cho chánh phủ với vai trò là một nhân viên của bộ Tư pháp. Do đó nên anh có nhiều kinh nghiệm và am hiểu trong ngành nghề chuyên môn nầy. Tony cho tôi biết là anh đã từng phục vụ giúp đỡ cho các tù nhân ở một vài trại tù trong địa phận của tiểu bang Victoria. Vì thế, nên anh có nhiều kinh nghiệm trong việc làm cũng như trong vấn đề giao tiếp. Ngoài anh ra, còn có anh Nguyễn Văn Hoàng, (người ta thường gọi anh là Hoàng Cao vì anh có thân hình khá cao, đó cũng là cái biệt danh dễ thương của anh) là người đang làm việc trong trại tù. Anh là một nhân viên người Việt và anh làm việc ở trong trại tù nầy cũng khá lâu. Anh là mẫu người hiền hậu, hòa nhã, vui tánh, cởi mở, hoạt bát và thương người. Chính vì thế, nên anh rất được các chị em trong tù thương mến và quý kính. Đồng thời anh cũng gây được sự quan tâm thiện cảm, tín cẩn và hài lòng của cấp trên. Phải thành thật mà nói, mọi việc tổ chức sắp xếp ở trong trại tù, chúng tôi đều nhờ anh lo giúp hết toàn bộ. Giữa anh và Tony thường liên lạc trao đổi góp ý qua lại với nhau. Nhờ có hai vị nầy tận tình giúp đỡ nên việc làm của chúng tôi từ trước tới nay luôn được suôn sẻ an ổn và kết quả rất tốt đẹp.
BTV: Kính thưa Thầy, con nghe nói có những vị Tăng, Ni tuyên úy Phật giáo với nhiệm vụ là thường viếng thăm các trại tù ở Úc. Vậy xin hỏi có phải Thầy làm việc với tư cách là một tuyên úy Phật giáo hay không?
TPT: Xin thưa ngay, tôi không phải là một tuyên úy Phật giáo. Tôi chỉ là một tăng sĩ bình thường. Vì chúng tôi muốn giúp cho những người không may lâm vào hoàn cảnh hoạn nạn tù tội, nhằm để xoa dịu cho họ bớt đau khổ phần nào. Chúng tôi làm với tinh thần vô tư bất vụ lợi, chỉ muốn giúp đỡ cho họ về mặt tinh thần đó thôi. Công việc nầy, đáng lý ra là do Thượng tọa Thích Phước Tấn trụ trì chùa Quang Minh phụ trách, nhưng vì Thầy bận nhiều công việc Phật sự nên Thầy không thể viếng thăm thường xuyên được, nên tôi thay Thầy để làm công việc từ thiện nầy. Vì vậy, chúng tôi đi thăm với danh nghĩa là đại diện cho chùa Quang Minh chớ không phải riêng cho cá nhân tôi. Vì Ban Giám Đốc trại tù có ngỏ ý yêu cầu nhờ anh Hoàng thỉnh giùm. Thể theo lời yêu cầu đó, nên chúng tôi đến viếng thăm trại tù một năm hai kỳ. Đơn giản chỉ có thế thôi.
BTV: Thưa Thầy, xin Thầy hoan hỷ cho biết thời gian đi thăm vào thời điểm nào trong năm? Và số người đi có bị giới hạn hay không?
TPT: Chúng tôi đi thăm vào những dịp Đại lễ của Phật giáo như: Phật Đản và Vu Lan. Một năm chúng tôi chỉ đi thăm vào hai kỳ Đại lễ đó thôi. Lúc đầu, thì chúng tôi cũng có dự định là đi thăm ba kỳ trong năm. Nghĩa là ngoài hai kỳ Phật Đản và Vu Lan ra, chúng tôi còn dự định là sẽ viếng thăm vào dịp Tết Nguyên Đán nữa. Nhưng, chúng tôi thiết nghĩ, dịp Tết thì đã có các đoàn thể khác viếng thăm rồi, chẳng hạn như Hội Phụ Nữ Việt Úc v.v... Vì vậy mà chúng tôi quyết định chỉ viếng thăm hai kỳ trong năm thôi.
Về số người đi thăm tất nhiên là phải có giới hạn. Thường thì họ chỉ cho mình số lượng khoảng từ 20 người trở lại. Lúc đầu thì chúng tôi đi hơi đông, nghĩa là đủ số người mà họ đã quy định. Tuy nhiên, về sau thì chúng tôi giảm bớt lại số người đi. Chúng tôi chỉ đi vừa đủ trong một chiếc xe van của chùa không quá mười hai người. Xưa kia, thì ngoài chiếc xe van của chùa ra, còn có thêm một vài chiếc xe nhỏ đi theo. Nhưng sau nầy chúng tôi không còn đi đông như thế nữa. Lý do là vì chỗ hành lễ không được rộng lớn lắm, chỉ có thể dung chứa tối đa khoảng năm mươi người. Nếu mình đi đông thì sẽ chiếm nhiều chỗ làm trở ngại cho các chị em ở trong đó. Chúng tôi muốn dành phần ưu tiên cho các chị em đến tham dự đông đủ. Do đó, nên chúng tôi phải giảm bớt số người đi.
BTV: Thưa Thầy, khi đi vào mình có mang thức ăn hay những vật dụng linh tinh khác có được không? Thủ tục đem vào như thế nào? Và vấn đề an ninh họ có làm khó dễ gì mình không?
TPT: Xưa kia, mỗi lần đi chúng tôi đều có mang theo thức ăn chay. Tất cả thức ăn cũng như những vật dụng cần thiết cho buổi lễ như: Phật tượng, hoa quả, nhang đèn, kinh sách hoặc băng đĩa v.v... tất cả đều phải liệt kê thành một danh sách và gởi vào trong trại tù cho nhà chức trách kiểm duyệt trước. Đó là thủ tục bắt buộc mà chúng ta cần phải tuân hành đúng theo luật lệ quy định của họ. Vật thực nào mà họ không cho thì mình không được phép mang vào. Thật ra, những vật dụng thực phẩm mang vào từ trước tới nay chúng tôi chưa có gặp khó khăn gì cả. Điều mà chúng tôi cũng cần nói rõ ra đây là, thời gian một hai năm sau nầy, chúng tôi không có mang thức ăn chay vào nữa. Lý do là vì những chị em ở trong đó họ phát tâm tự nấu lấy. Có một nhóm người tình nguyện để phục vụ về việc nấu nướng nầy. Nếu muốn nấu món gì, họ chỉ cần liệt kê danh sách của những loại thực phẩm đó thì sẽ có người đi mua giúp cho họ. Những thức ăn của họ làm cũng không thua gì mình nấu. Có đôi khi họ nấu còn ngon hơn mình nữa. Bởi các chị em ở trong đó cũng có người ăn chay trường và họ nấu đồ chay chuyên nghiệp. Tôi nghe có nhiều vị ăn khen ngon bởi rất hạp khẩu vị. Đó là những lời nhận xét và khen tặng của quý vị ở trong đoàn.
Cần nói rõ thêm, trong số các loại thực phẩm chỉ có keo chao là bị cấm tuyệt không thể mua đem vào được. Phần lớn các chị em trong đó họ rất thèm chao. Xưa kia, mình xin phép Ban Giám Đốc quản lý trại tù thì họ cho mình mang vô. Thật ra, một hũ chao đối với mình ở ngoài nầy thì không có giá trị nghĩa lý gì cả, nhưng đối với các chị em ở trong đó thì thật là quý giá. Lý do họ cấm là vì họ sợ các tù nhân dùng miểng keo cắt máu tự tử. Vì thế, nên dù có thèm đến đâu cũng phải đành chịu thôi. Ngoài ra, những thức ăn khác thì họ không thiếu món gì. Những tiện nghi nấu nướng ở nhà bếp cũng khá đầy đủ. Những thức ăn có người đi chợ mua về chứa đầy trong tủ lạnh. Hầu như phòng giam nào cũng có tủ lạnh cả. Nghĩ cũng vui, ngày xưa thì mình nấu thức ăn đem vô đãi họ, còn bây giờ thì họ nấu thiết đãi lại mình. Như vậy, vừa vui mà cũng vừa tiện lợi cho cả đôi bên.
Còn về vấn đề an ninh dĩ nhiên là họ kiểm soát người vào thăm rất gắt gao và chặt chẽ. Họ rà soát trong người mình cũng giống như những nhân viên an ninh kiểm soát hành khách và hành lý tại phi trường vậy. Vì đó là trách nhiệm bổn phận của họ phải làm.
BTV: Thưa Thầy, chương trình và thời gian hành lễ mỗi khi đoàn vào viếng thăm như thế nào? Và nơi hành lễ cũng như việc ăn uống ra sao?
TPT: Về chương trình hành lễ của hai kỳ: Phật Đản và Vu Lan, xét về hình thức và nội dung tuy có khác nhau chút ít, nhưng trên đại thể thì giống nhau. Chương trình hành lễ được biên soạn thành hai loại ngôn ngữ: Việt và Anh song hành đối chiếu với nhau. Nghĩa là một bên tiếng Việt và một bên tiếng Anh. Mỗi kỳ lễ, chúng tôi đều nhờ anh Hoàng gởi chương trình cho Ban Giám Đốc trại tù trước để cho họ duyệt xét. Về thời gian thì họ cho phép mình sinh hoạt bắt đầu từ lúc 10 giờ sáng cho đến 3 giờ chiều cùng ngày. Riêng về chương trình đại lễ Phật đản, mấy lần trước thì mình tổ chức rộng rãi đúng theo tinh thần của Liên Hiệp Quốc tổ chức. Với mục đích là tạo cơ hội để cho các sắc dân khác bị giam trong đó họ có dịp đến tham dự. Lúc đầu chúng tôi kết hợp với Buddhist council để tổ chức chung. Tuy nhiên, sau một hai kỳ chúng tôi xét thấy có những điều trở ngại khó khăn nên chúng tôi không tiến hành tổ chức chung nữa. Bởi có nhiều lý do, nhưng lý do chính là số người thuộc các sắc dân khác theo đạo Phật đến tham dự thì rất ít. Còn những người thuộc các tôn giáo khác thì họ không có đến tham dự. Do đó mình mất rất nhiều thời gian của chương trình hành lễ mà kết quả thì không được như ý muốn. Do đó, nên mọi người đề nghị là mình chỉ tổ chức trong phạm vi nội bộ cho các chị em người Việt của mình thôi.
Xét thấy đề nghị nầy cũng hợp lý nên trong kỳ Đại lễ Phật đản lần thứ 2638 (2014) vừa qua, chúng tôi chỉ tổ chức cử hành lễ thu gọn ở trong ngôi nhà Nguyện. Đây là ngôi nhà dành riêng cho những tù nhân có nhiều tôn giáo khác nhau đến để lễ bái tụng niệm cầu nguyện. Cho nên họ gọi là nhà Nguyện. Như đã nói diện tích của ngôi nhà nầy không rộng lớn lắm, chỉ có thể dung chứa tối đa là khoảng năm mươi người. Điều đáng mừng là các chị em phạm nhân mới cũ đa số đều có mặt trong các kỳ Đại lễ nầy. Đặc biệt trong kỳ Đại lễ Vu Lan lần nầy (2014). Khi đoàn chúng tôi đi vào thì các chị em đã đứng sắp thành hàng nghiêm chỉnh sẵn để cung nghinh. Thật chúng tôi vô cùng cảm động. Đó là một hình ảnh gây cho chúng tôi thật khó quên. Năm nào cũng vậy, chương trình của Đại lễ Vu Lan theo một trình tự là: nêu rõ lý do của buổi lễ, vài lời chào mừng khai mạc của vị đại diện trong Ban Giám Đốc trại tù, ý nghĩa lễ cài hoa hồng, cài hoa hồng, tụng Kinh Vu Lan, dùng cơm trưa, pháp thoại và cuối cùng là văn nghệ.
Đến 12 giờ trưa chúng tôi quây quần bên nhau đề dùng cơm trưa. Phía trước của ngôi nhà Nguyện có một cái sân trống. Đây là nơi dùng trưa của các chị em và những vị trong đoàn. Sắc phục màu áo tuy có khác biệt, nhưng tình người và tình đạo thì không có khác. Chúng tôi không phân biệt ranh giới ai là phạm nhân và ai không phải là phạm nhân, mà tất cả cùng chung vui bên nhau dùng một bữa cơm thanh đạm trong không khí vui tươi, thân mật, đậm đà tình cảm thật là ấm cúng. Thức ăn được bày biện trên một dãy bàn rồi mỗi người tự động lấy dùng. Chúng tôi hòa mình với nhau và trao nhau bằng những lời tâm tình thân thiện ưu ái trong tình đồng hương. Chỉ hàn huyên hỏi thăm nhau bằng những lời chân tình, tuyệt đối chúng tôi không có đá động gì đến chuyện riêng tư cá nhân của mỗi người. Chúng tôi luôn tôn trọng vấn đề nầy. Vì chúng tôi không muốn chị em có những tự ty mặc cảm tội lỗi. Đó là phong cách của chúng tôi khi vào thăm các chị em.
Đại khái đó là chương trình của mỗi kỳ lễ. Vu Lan thì có lễ cài hoa hồng còn Phật Đản thì có lễ tắm Phật. Đó là hai thời khóa lễ đặc biệt, mỗi thời đều mang một ý nghĩa và một sắc thái tâm cảm khác nhau. Chúng tôi sinh hoạt đúng 3 giờ chiều thì hoàn mãn ra về.
BTV: Thưa Thầy, ngoài hai kỳ Đại lễ đặc biệt nầy ra, hằng tuần ở trong đó họ có làm lễ gì không? Và sự hành trì của họ như thế nào?
TPT: Thưa, theo anh Hoàng cho tôi biết, thì các chị em của người Việt mình vào mỗi ngày thứ hai hằng tuần, họ đều có đến ngôi nhà "Nguyện" để tụng kinh bái sám. Cứ mỗi thời khóa như vậy đều do anh Hoàng làm chủ lễ hướng dẫn. Có lần anh Hoàng nói với tôi là anh chỉ làm ông "Từ" (người chỉ biết lo nhang đèn, tụng niệm, cúng bái, giữ chùa) bất đắc dĩ mà thôi. Anh là một Phật tử theo truyền thống đạo Phật từ lâu. Gia đình anh là một gia đình tu theo đạo Phật. Anh cũng có nghiên cứu về giáo lý đạo Phật. Những tác phẩm tôi viết tặng anh, anh đều đọc hết. Anh nói, nhờ hai quyển sách 100 câu hỏi Phật Pháp tập 1 và 2 của tôi mà anh mới có cơ hội đem ra để hướng dẫn trao đổi học hỏi cùng với các chị em. Trình độ Phật học của anh cũng khá vững. Trước năm 1975 anh là một sinh viên theo học ngành văn khoa của trường Đại học Vạn Hạnh. Đây là một ngôi trường do Phật giáo sáng lập. Anh đã tốt nghiệp cử nhân văn khoa. Vì vậy, anh nói chuyện khá lưu loát và rất có duyên. Anh là người dễ gây cảm tình với mọi người. Chính vì thế, nên sau những thời khóa lễ anh thường đem những lời Phật dạy trong kinh điển ra để hướng dẫn trao đổi cùng với các chị em. Đó là một việc làm rất có ý nghĩa và lợi lạc hữu ích. Theo tôi được biết, các chị em trong đó cũng thích nghe anh nói chuyện và giảng thuyết lắm. Đó là điều thật đáng khích lệ và đáng mừng cho anh. Những buổi tụng niệm bái sám như vậy, các chị em cảm thấy tâm hồn rất an thoát nhẹ nhàng. Những gánh nặng lo âu buồn khổ như đã tan biến theo từng lời Kinh tiếng Kệ. Mỗi lần vào trong đó làm lễ, tôi lắng nghe âm thanh tụng kinh của các chị em rất hay. Tất cả đều hòa âm với nhau. Ngoài việc tụng niệm ra, tôi cũng còn hướng dẫn cho họ biết cách tọa thiền niệm Phật. Tôi hướng dẫn cho họ tư thế ngồi và cách hành trì cho đúng pháp. Tôi khuyên họ nên cố gắng dành thời giờ tụng kinh niệm Phật. Ngoài thời gian tụng niệm tập thể ra, họ c̣n niệm Phật ở tại pḥng riêng của ḿnh. Đó là đời sống tâm linh mà các chị em thường xuyên thực tập.
BTV: Thưa Thầy, mỗi lần Thầy thuyết giảng trong những kỳ Đại lễ như thế, thì Thầy cảm nhận như thế nào đối với sự nghe pháp và lãnh hội của các chị em?
TPT: Qua những lần thuyết giảng của chúng tôi, mỗi kỳ chúng tôi đều có những chủ đề khác nhau. Tôi không có giảng những giáo lý cao siêu khó hiểu mà tôi chỉ trình bày những gì rất gần gũi với đời sống thực tế của họ. Bởi tôi biết các chị em thính chúng không phải ai cũng là Phật tử hết mà trong đó cũng có những người theo các tôn giáo khác. Nói đúng hơn là tôi chỉ tâm tình cởi mở tháo gỡ những gút mắc cho họ hơn là giảng pháp. Tuy nhiên, trong tất cả những buổi nói chuyện của chúng tôi, phần lớn là chúng tôi chú trọng đến vấn đề nhân quả báo ứng. Vì nhân quả là một chân lý phổ biến mà hầu hết chúng ta đều bị vướng phải, vì nó chi phối toàn bộ đời sống của chúng ta. Không một ai thoát khỏi nhân quả. Đó là chủ đề chính yếu mà tôi luôn đề cập và xoáy mạnh đến. Với thâm ý là để cho các chị em hiểu rõ hơn. Vì thời gian có giới hạn, nên chúng tôi chỉ trình bày ngắn gọn và dành thời gian còn lại để cho họ hỏi. Họ nêu ra những câu hỏi mà lâu nay họ đã từng ôm ấp thắc mắc. Trong những lúc trao đổi như thế, chúng tôi cảm thấy thật là vui vẻ, cởi mở, hứng thú. Có những câu hỏi của họ nêu ra tuy đơn giản nhưng rất là thực tế. Đó là những câu hỏi có liên quan thiết thân trong đời sống của họ.
Nhớ có lần tôi hỏi họ: Ai bắt các chị em vào trong nầy? Có người trả lời: cảnh sát bắt. Người khác nói là do tiền bắt. Tôi nói: các chị em trả lời không sai, nhưng đó chỉ là trả lời ở nơi phần ngọn ngành chớ chưa phải là cái gốc rễ. Mà cái gốc rễ bắt các chị em vào trong đây là do lòng tham dục. Mà lòng tham muốn đó phát xuất từ cái tâm vô minh vọng động. Chính vô minh là kẻ tội phạm. Như vậy, khi biết rõ cái gốc rễ đó rồi thì mình nên tìm cách chuyển hóa nó. Thử nghĩ, nếu mình không khởi lòng tham lam tiền bạc, thì tiền bạc đâu có hại mình được. Bởi đồng tiền là do con người chế tạo ra. Nó chỉ là một tờ giấy mỏng vô tri, vô giác. Bản thân nó không làm hại ai cả. Nó chỉ có hại là khi nào mình bị nó làm chủ khống chế sai sử. Nghĩa là người ta cam tâm cúi đầu làm nô lệ cho nó sai khiến. Ngược lại, đối với những người mà họ coi nó chỉ là vật trao đổi phương tiện qua lại với nhau trong cuộc sống, họ quyết không bao giờ coi trọng và làm nô lệ cho nó sai khiến, như thế thì thử hỏi làm sao mà nó có thể gây ra tác hại cho người ta được?
Như vậy, có hại hay không là do con người khéo hay không khéo biết sử dụng nó đó thôi. Nếu chúng ta tham muốn cho nó vô đầy túi, đầy kho, tất nhiên là chúng ta trở thành một kẻ tay sai làm nô lệ đắc lực cho nó sai khiến. Thế là chính ta hại ta chớ không phải ai hại ta cả. Như sắt sanh ra sét rồi chính chất sét ấy trở lại làm tiêu hình của sắt. Thay vì mình là kẻ làm chủ sai khiến nó, trái lại mình lại bị nó làm chủ sai khiến mình. Đã biết nó là vật vô tri, vô giác, thế thì tại sao nó có sức mạnh lớn như thế? Câu trả lời ngắn gọn là: "sức mạnh không phải ở nơi tờ giấy mỏng dánh đó mà sức mạnh là ở nơi lòng tham lam dục vọng lớn lao của chúng ta". Chính nó là nguyên nhân bắt chúng ta phải vào trong đây. Cảnh sát cũng không phải bắt mình vì họ chỉ thi hành theo nhiệm vụ của họ thôi. Nếu mình không gây tạo nghiệp nhân bất thiện thì cảnh sát làm sao bắt mình được? Tại sao những người khác cảnh sát không bắt họ? Bởi vì họ đâu có gây nghiệp nhân ác để có tội mà cảnh sát phải bắt. Như vậy, rốt lại chỉ là do lòng tham lam quá độ của mình nó bắt mình phải vào trong tù chớ không có quyền lực nào bắt mình cả. Hiểu như vậy, thì mình sẽ không có đổ thừa đổ tháo cho ai cả, mà chính mình phải nhận lấy trách nhiệm hành động và quả báo mà chính do mình đã gây ra. Đó là luật nhân quả báo ứng một mảy may không bao giờ sai chạy. Có hiểu như thế, thì mình mới cải thiện, nghĩa là chuyển nghiệp ác thành nghiệp thiện. Có như thế thì mới đem lại lợi lạc thiết thực cho mình và người.
Nói chung, trong những buổi nói chuyện của chúng tôi, tôi thấy chị em rất chú ý theo dõi và cởi mở vui vẻ. Hầu hết đều biểu lộ ăn năn hối cải về những việc làm sai trái của mình. Đó là điều mà các chị em đã thành thật bày tỏ và thừa nhận sự sai lầm của mình. Thử hỏi làm người ai lại không có lỗi lầm chớ! Khổng Tử nói: "Nhơn vô thập toàn" kia mà. Có ai tự hào rằng mình hoàn toàn trong sạch hết không? Trong Kinh Phật có nêu ra hai hạng người rất mạnh: Một là hạng người không gây ra tội lỗi. Hai là hạng người đã gây ra tội lỗi mà biết ăn năn sửa đổi hối cải những gì mà mình đã làm và ý thức quyết không tái phạm lỗi lầm đó nữa. Phật nói đó là hạng người có chí khí và dũng mãnh nhất. Phật ví dụ: như cái áo chúng ta giữ gìn không để cho bụi bặm dính dơ là tốt rồi. Nhưng nếu đã lỡ dính dơ thì chúng ta nên dùng nước tẩy cho sạch thì cái áo kia sẽ trở thành cái áo nguyên thủy khi chưa dính dơ. Cũng thế, người không tạo tội lỗi thế là quá tốt rồi. Nhưng thử hỏi trong đời có mấy ai được như thế? Chỉ có hai hạng người không gây tạo tội lỗi: Một là, người chết đang nằm trong quan tài. Hai là, cái bào thai đang nằm trong bụng mẹ. Ngoài ra, không ai lại không có tội lỗi, chỉ trừ các bậc Thánh nhân. Đã có lầm lỗi mà biết ăn ăn sám hối và tái tạo lại cuộc đời mới như thế là không tốt lắm sao?! Bởi vậy trong đạo Phật mới có phương pháp sám hối. Đó là một pháp tu rất tuyệt vời. Từ một con người phàm phu đầy dẫy tội lỗi nhờ khéo biết sám hối cải ác tùng thiện, cải tà quy chánh, mà trở nên một con người thánh thiện. Chỉ sợ mình có tội lỗi mà không biết ăn năn sửa đổi đó thôi. Nếu biết sửa đổi thì sẽ không còn gây ra tội lỗi nữa. Đó không phải là điều tốt lắm sao!
Tóm lại, những lúc trao đổi nói chuyện tâm tình cùng với các chị em, chúng tôi cảm thấy rất thân và rất vui. Xét ra, ở đời, mỗi người có mỗi hoàn cảnh sống khác nhau. Vì sống trong vòng vô minh nghiệp thức, nên không ai tránh khỏi lỗi lầm. Ý thức được điều đó, nên chúng ta phải tránh xa điều ác và cố gắng làm các điều lành, nhất là nên thương yêu quý kính và tìm cách giúp đỡ cho nhau. Đó là chúng ta khéo chọn cho mình một con đường hành thiện lợi mình lợi người trong phương trời an vui giải thoát vậy.
BTV: Thưa Thầy, vấn đề văn nghệ hát ca như thế nào? Các vị đó họ có ca hát vui lắm không? Hay là họ chỉ vui gắng gượng thôi? Xin Thầy hoan hỷ cho chúng con biết.
TPT: Theo nhận xét riêng tôi cũng như nhận xét chung của mọi người, thì những lúc ca hát những bản nhạc đạo hay những nhạc khúc tình ca mang tính trữ tình quê hương, tôi thấy ai cũng tỏ ra thật sự vui vẻ cả. Bởi đây là cơ hội ít có để họ có thể bộc lộ hết tình cảm u ẩn uẩn khúc của chính mình. Họ hát ca trong sự cởi mở hòa đồng trong tinh thần sảng khoái vui tươi và thích thú. Họ trút hết những nỗi ưu tư phiền muộn vào trong lời ca tiếng hát. Bấy giờ họ không còn cảm nhận than thân tủi phận cho số kiếp nghiệp dĩ của mình. Tất cả đều xuất phát từ một trái tim nhiệt tình rung động trong tình người và tình đạo. Thú thật những lúc ca hát chung vui như thế nầy, tôi thấy họ như đã quên đi tất cả. Những gì cưu mang nặng trĩu trong lòng đều bay theo lời ca tiếng hát hết. Đó là niềm vui thật sự của họ không một chút ngại ngùng gượng gạo. Tất cả như cùng một nhịp điệu yêu thương lẫn nhau. Mọi tâm hồn đều có chung một cung bậc an vui quý kính tôn trọng với nhau. Một người hát những người khác lắng nghe. Có những bản nhạc mọi người đồng nhịp nhàng cùng nhau ca hát. Quả đó là một niềm vui chung hiếm có trong một khung cảnh tràn đầy thân mật và ấm cúng.
Điều đáng ghi nhận là trong những dịp lễ Vu Lan, khi hát lên những bản nhạc nói về công lao sanh thành giáo dưỡng của cha mẹ, như bản nhạc Lòng Mẹ của cố nhạc sĩ Y Vân chẳng hạn, họ đều ngậm ngùi thương nhớ ông bà cha mẹ và không ngăn được những dòng lệ thảm tuôn rơi. Nhất là trong nỗi khổ và hoàn cảnh của họ, không ai lại không cảm động bùi ngùi thương nhớ. Họ biểu lộ nỗi lòng thương nhớ đó bằng những giọt nước mắt tuôn trào. Có chứng kiến tận mắt chúng ta mới chạnh lòng cảm thông cho họ. Có thể nói những giây phút đó cõi lòng của họ như tan nát, và tình cảm yêu thương đối với những người thân yêu ruột thịt của họ, như cùng lúc cảm xúc trào dâng lên bộc phát rất mạnh. Mùa Vu Lan nào những hình ảnh thương tâm đó cũng gợi về trong niềm đau tận cùng sâu thẳm trong trái tim của họ. Tôi lắng nghe họ cùng nhau ca hát hòa mình trong niềm vui chung, nhưng bên cạnh đó họ cũng không thể nào che đậy giấu giếm được những niềm đau thương riêng tư của họ.
BTV: Thưa Thầy, cứ mỗi lần Thầy và quý vị trong đoàn vào thăm họ như thế, thì Thầy thấy tình cảm và thái độ của họ đối xử tiếp xúc với Thầy và phái đoàn như thế nào?
TPT: Tôi thấy mọi người đều biểu lộ thái độ rất dễ thương. Tôi không biết ai là Phật tử và ai không phải là Phật tử, tất cả đối với đoàn chúng tôi đều có một thiện cảm rất đặc biệt. Dù họ là Thiên Chúa Giáo hay các tôn giáo khác hoặc chưa có tôn giáo nào, tất cả đều vui vẻ và mừng rỡ đối với chúng tôi. Cụ thể là khi biết chúng tôi vào thăm, mọi người đã đứng thành hàng sẵn để cung kính chào đón chúng tôi. Khi thấy tôi và đoàn vào họ vui mừng lắm. Họ chắp tay trân kính chào đón. Hành động và thái độ nầy đủ chứng minh là họ rất mong đợi mình vào. Mỗi lần viếng thăm như thế, gây cho tôi và đoàn một ấn tượng thật sâu sắc khó quên. Dù là người cũ hay người mới, họ cũng đều biểu lộ tình cảm thân thương của họ đối với đoàn chúng tôi như thế. Vui mừng nhứt là khi có người được mãn hạn tù trở về lại với gia đình. Tôi thấy các chị em ai nấy đều xúc động và chúc mừng cho người bạn may mắn của mình. Chúng tôi nhìn thấy cảnh tượng nầy cũng rất cảm động và tùy hỷ chúc mừng cho họ.
Nói chung, mỗi lần chúng tôi vào thăm những tình cảm của họ đối với tôi nói riêng và đoàn nói chung đều rất ưu ái thân thiện. Chúng tôi không cảm thấy xa lạ chút nào. Chẳng những thế, mà chúng tôi thấy ai cũng là người đáng được quan tâm thương yêu cả. Đó là thái độ giữa chúng tôi và họ. Nói lên điều nầy, tôi không có ý khen ngợi tán dương về cung cách đối xử của họ và của đoàn, mà tôi chỉ muốn nói lên cái tình cảm bộc phát một cách rất tự nhiên trong tình người, nhất là tình đồng hương với nhau. Nhận xét nầy không phải chỉ có riêng tôi mà trong đoàn ai cũng phải nhìn nhận như thế.
BTV: Kính thưa Thầy, đến đây cuộc phỏng vấn cũng khá dài và cũng đã làm mất thời giờ của Thầy khá nhiều, thay mặt cho Ban Biên Tập tờ Đặc san Phước Huệ, con xin thành kính cám ơn Thầy đã sẵn dành cho chúng con có cuộc phỏng vấn đặc biệt nầy. Trước khi từ giã, chúng con kính nguyện cầu hồng ân Tam Bảo gia hộ cho Thầy sức khỏe luôn được khang kiện dồi dào hầu để tiếp tục làm những công việc Phật sự hữu ích cho tha nhân như từ trước tới nay.
TPT: Phải nói ngược lại, tôi là người cám ơn đạo hữu mới đúng. Bởi vì nhờ có đạo hữu nêu ra những câu hỏi, tôi mới có dịp trình bày những việc làm của cá nhân tôi cũng như của quý vị trong đoàn. Như đã nói, chúng tôi làm theo tiếng gọi của lương tâm và trong vai trò của một người tu sĩ Phật giáo. Nếu chỉ có một mình tôi thì cũng không thể nào thực hiện được việc làm nầy, mà cần phải nhờ sự đóng góp chung của mọi người. Nhất là nhờ sự quan tâm giúp đỡ của hai anh: Hoàng và Tony cũng như của các vị trong Ban Giám Đốc quản lý trại tù. Nhờ vào những điều kiện thuận lợi đó, nên chúng tôi mới có thể thực hiện chương trình nầy lâu dài được. Ngoài ra, cũng còn nhờ đến chư Tăng, Ni và các liên hữu Phật tử khác tham gia viếng thăm trong những kỳ Đại lễ Phật giáo đặc biệt. Nếu phải cám ơn, thì phải nói cám ơn tất cả. Nếu không có những vị bị giam cầm trong lao tù, thì chúng tôi cũng đâu có cơ hội vào trong đó làm gì. Kinh nói: Chỉ có hai hạng người vào trong lao ngục thôi: Một là hạng người bị nghiệp lực thúc đẩy dẫn dắt họ vào trong đó. Hai là hạng người vì nguyện lực mà vào trong đó. Nếu là nguyện lực thì ra vô tự do. Ngược lại, nếu là nghiệp lực thì không thể được tự do như thế. Chúng tôi mong muốn làm sao mọi người đừng để nghiệp lực lôi kéo đi vào trong cảnh khổ đó. Đã gọi là "Ngục tù" thì làm gì có sự vui sướng cả thể xác lẫn tinh thần?! Nhưng đau khổ nhứt là phần tinh thần. Chúng ta nên ý thức rằng:
Dù cho vật chất dồi dào
Khổ thêm thì có chút nào vui đâu!
Cần nên ý thức cho sâu
Tránh gây nghiệp ác trồng sâu căn lành
Vô thường thay đổi chóng nhanh
Sớm còn tối mất tử sanh nhiều đời
Làm lành vui sống thảnh thơi
Ham giàu chi lắm cuộc đời khổ đau
Ngục tù xin chớ bước vào!
An bần thủ đạo trước sau an lành.
Cổ nhân có câu nói: "Phàm làm việc gì trước phải nghĩ đến cái hậu quả của nó". Câu nói nầy có giá trị ngàn đời. Vì vậy mà xưa kia có một ông vua bỏ ra ngàn lượng vàng để mua cho được câu nói quý giá nầy. Đó là lời dạy đầy kinh nghiệm của tiền nhân mà chúng ta cần phải tâm niệm khắc ghi và luôn áp dụng vào trong đời sống hiện thực. Có thế thì đời ta mới tránh được nhiều lỗi lầm và mới đem lại nhiều lợi lạc cho mình và người vậy.
Một lần nữa, thay mặt cho đoàn, tôi xin chân thành cám ơn đạo hữu đã tạo cho tôi có cơ hội tốt để trình bày những điều mà lâu nay chúng tôi chưa có dịp nói ra. Và chúng tôi cũng không quên cầu chúc cho đạo hữu và toàn Ban Biên Tập của tờ Đặc san Phước Huệ luôn được mạnh khỏe để tiếp tục phục vụ cho tờ báo ngày càng phát triển mạnh mẽ trong chiều hướng truyền đạt giáo lý Phật giáo và văn hóa dân tộc đến với mọi người ngày càng phong phú và vững tiến tốt đẹp hơn.
Trân trọng.
Danh sách Phật tử ấn tống
Thầy Phước Tạng 200
Linh Bích Liêu Ngọc Lan 600
Viên Hiển 500
Vô danh 500
Lệ Phượng 200
Bùi Thị Yên Phương 100
Hồng Vân 100
Thanh Tâm 100
Tc. 2300
Sư cô Phước Lễ 50
Sư cô Phước Mẫn 20
Sư cô Phước Thanh 20
Quincy Trí Việt 20
Thầy Phước Viên 50
Minh Quang & Diệu Huệ 50
***
Chân thành cảm tạ Thầy Phước Thái & Thầy Phước Viên đã gởi tặng Trang Nhà Quảng Đức phiên bản điện tử tập sách này (T.Nguyên Tạng, 1-7-2015)