- 01. Xuất gia tu học (HT Như Điển)
- 02. Chùa Phước Lâm
- 03. Làm nhang
- 04. Học tập
- 05. Về lại chùa Viên Giác
- 06. Ngày mất mẹ
- 07. Làm đậu hủ
- 08. Pháp nạn năm 1966
- 09. Học tán tụng
- 10. Về Cẩm Nam
- 11. Hội An ngày ấy
- 12. Hồi Ký
- 13. Tết năm Mậu Thân
- 14. Thầy Tôi
- 15. Di Tích
- 16. Chiếc nón bài thơ
- 17. Xa Hội An
- 18. Cách học cho giỏi
- 19. Lời cuối
- 20. Gặp lại nhau
- 21. Ba thế hệ đậu Tiến sĩ (Bác sĩ văn học)
- 22. Lời ngỏ (Trần Trung Đạo)
- 23. Vài nét về chùa Viên Giác
- 24. Thời thơ ấu ở Duy Xuyên
- 25. Đến chùa Viên Giác lần đầu
- 26. Rời chùa Viên Giác đến Vĩnh Điện
- 27. Trở lại chùa Viên Giác
- 28. Tưởng nhớ sư phụ, cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Long Trí
- 29. Thầy tôi - Để tưởng nhớ bổn sư Thích Như Vạn
- 30. Tưởng nhớ Hòa Thượng Thích Tâm Thanh
- 31. Phố cổ Hội An và những ngôi trường cũ
- 32. Hãy Ngủ Yên Đà Nẵng Của Tôi Ơi !
- 33. Vu Lan nghĩ về Mẹ và Quê Hương
I Xuất Gia học Đạo
Ngày 15.05.1964, ngày trọng đại nhất của đời tôi là ngày tôi được Cha Mẹ cũng như gia đình cho phép rời xa cuộc sống bình thường, vào chùa xuất gia học đạo. Hôm đó cũng là ngày đám giỗ của ông Nội, nên gia đình và tất cả mọi người đều có mặt, kể cả các anh rể của tôi. Năm ấy tôi 15 tuổi, giã biệt đời sống thôn dã đầy mộng mơ lên đường đến Phố cổ Hội An, nơi có ngôi chùa Viên Giác.
Hình 1 : Đại gia đình họ Lê, lúc thân phụ của tác giả còn sanh tiền
Trong khi tôi rất mừng với sự được ra đi của mình, ngược lại mọi người trong gia đình rất buồn vì biết rằng sẽ vắng thêm một người trong bữa cơm chiều. Bảy năm trước đó, vào ngày mùng 8 tháng 2 năm 1957, bào huynh tôi, Hòa Thượng Thích Bảo Lạc bây giờ, cũng đã ra đi với những bức thư để lại rằng xin gia đình cho phép được xuất gia tại chùa Linh Ứng, Non Nước Đà Nẵng.
Hình 2 : Chụp ngày 04. 04. 1962 lúc 12 tuổi, vừa tốt nghiệp tiểu học.
Không ai trong gia đình muốn cho tôi đi nữa. Tuy nhiên, thấy ước nguyện của tôi thiết tha quá, nên cuối cùng hai đấng sanh thành của tôi cũng đành nuốt lệ chiều ý của con. Thế là tôi được thong dong lên đường với chiếc xe đạp tương đối đã cũ, với ba ga phía sau đèo theo một valise bằng sắt bên trong có mấy bộ đồ vạt hò vài quyển tập học.
Hình 3 : Chụp ngày 15. 05. 1964 lúc xuất gia.
Trong túi tôi vỏn vẹn chỉ có 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa thuở ấy. Không biết giá trị bao nhiêu so với đồng Mỹ Kim lúc bấy giờ; nhưng hình như cả năm 1964 tôi xài chưa hết số tiền, gia đình cho ấy. Lúc ấy trong tôi suy nghĩ đơn giản rằng tài sản của tôi suốt đời chỉ có chừng nầy tiền thôi và không hề có một ý niệm tương lai sẽ còn nhiều và nhiều thứ khác nữa. Như là lớn lên phải cần nhiều phương tiện hơn để mua sách vở để đi học chẳng hạn.
Dừng trước cổng Tam Quan chùa Viên Giác Hội An, tôi xuống xe và trân trọng từng bước dắt xe vào chùa. Dựng xe một nơi bên hữu nhà đông, tôi bước vào gặp Thầy thưa ý định xuất gia của mình.
Hình 4 : Cổng Tam Quan chùa Viên Giác năm 1950, nhiếp ảnh gia Vĩnh Tân
Rõ ràng lúc ấy tôi là đứa trẻ bạo gan nhất trong số những đứa trẻ bạo gan. Gặp Thầy. Tôi thành kính đảnh lễ và thưa. “Bạch Thầy con muốn xuất gia học đạo”. Thuở ấy, Thầy tôi còn trẻ, chừng trên 30 tuổi; trông rất trang nghiêm hảo tướng.
Thầy nhìn tôi, một cậu bé nhà quê, tuy không thông minh, nhưng cũng không đến nỗi khó xem lắm. Thầy chấp nhận và bảo rằng: “Thầy phải đi Sài Gòn chữa bệnh một thời gian, chưa biết bao giờ về. Con ra chùa Phước Lâm ở tập sự xuất gia”Thầy lấy một bộ đồ vạt hò đưa tôi và nói: “Đây là bộ đồ vạt hò mang theo để mặc. Thầy sẽ viết một lá thơ cho Thầy Như Vạn”.
Hình 5 : Chân dung Thầy Bổn Sư Thích Long Trí vào năm 1965 – 1966
Thầy dạy vậy, tôi xin vâng và có lẽ Thầy không biết rằng tôi đã có hai bộ vạt hò màu nâu rồi. Tuy nhiên, Thầy cho tôi cứ nhận. Vì theo tôi, đó là ân huệ của Thầy và cũng là kỷ niệm mà cho tới bây giờ tôi vẫn không quên. Thầy cho tôi một bộ đồ vạt hò màu trắng đã cũ, tôi quý vô cùng. Mặc dầu lúc ấy tôi mặc chẳng vừa nhưng tôi giữ lại trong rương của mình cho đến hai năm sau mới mặc được. Kỷ niệm lần đầu tiên gặp Thầy ngắn ngủi chỉ trong một ngày như thế! Dĩ nhiên, trước đó tôi có gặp Thầy tại chùa Hà Linh ở Duy Xuyên rồi. Tôi quy y cùng với rất đông các Oanh Vũ Gia Đình Phật Tử trong lễ Quy Y vào năm 1963. Tôi có pháp danh Như Điển từ ngày ấy.
Cầm phong thơ gởi Thầy Như Vạn và bộ đồ vạt hò trên tay, tôi nghe Thầy chỉ đường đi đến chùa Phước Lâm và sau đó tôi hân hoan tiếp tục hành trình lên đường sang chùa Phước Lâm. Thuở ấy, chùa Phước Lâm vẫn còn là một chùa xưa cũ, mái ngói rêu phong và trông tối tăm lắm. Mái thấp xuống, hình như chẳng có cửa sổ nào. Trong chùa vốn u tịch càng thêm u tịch lạ thường.
Hình 6 : Chùa Viên Giác năm 1967.