Nếu không có một giọt nước sẽ không có đại dương. Nếu không có một hạt cát sẽ không thành sa mạc.
Trong cuộc sống, nếu không có những điều vụn vặt thì việc thành bại trong thiên hạ có đáng để lưu tâm? Tôi cũng như bạn, thấy đêm dài thì trông cho mau sáng, dù không mong đêm vẫn tiếp theo ngày. Vậy nên, thương ghét, trắng đen, tốt xấu, phải trái… là điều mà xưa nay vẫn thế và ngàn năm sau vẫn thế.
Tôi góp nhặt những viên sỏi giữa đường đời hay nhưng viên kim cương trong cuộc sống và ước mong biến nó thành những mảnh vụn hồng.
Nếu bạn muốn thì cùng tôi hô “Biến”, nếu không thì trời xanh mây trắng đang chờ.
Bận lòng chi lắm ai ơi,
Có không tưởng một khoảng đời mênh mông.
Mùa an cư 2554 (2010)
Ngàn năm Thăng Long đất Phật
Thích Khinh An
MẢNH VỤN HỒNG
- NHỚ QUÍ ÔN
Từ trước đến nay, các Hòa thượng có đến Tu Viện Phật Ân thăm hỏi như Hòa thượng Tâm Hướng (chùa Vạn Phước), Hòa thượng Đức Nhuận (Sài Gòn), Hòa thượng Thiện Châu (Pháp), Hòa thượng Từ Mãn, Tâm Thanh (Đà Lạt), Hòa thượng Diệu Tâm (Biên Hòa)…
Các ngài đến Phật Ân đều có để lại dấu ấn đặc biệt, nay xin ghi lại vài điểm của các Hòa thượng để nhớ những kỷ niệm đẹp ấy.
- GẮP NGỰA
Thăm Ôn, đứng hầu trong bữa ăn, Ôn cứ dùng đôi đũa gắp hoài cái khay. Tưởng Ôn gắp thức ăn rơi trong khay. Tôi nhắc:
- Bạch Ôn, trong khay có gì đâu Ôn gắp hoài vậy.
- Có đó, tôi gắp hai con ngựa thả nó ra, kẻo nhốt trong khay chúng nó đánh nhau hoài tội nghiệp.
Tôi bật cười. Thì ra trong lòng khay có vẽ hai con ngựa một đen một đỏ giỡn hay quần nhau. Ôn tươi cười tiếp :
- Nếu họ vẽ hai con ngựa đang hôn nhau thì hay biết mấy.
Ý nhị và dễ thương quá đi thôi.
- LONG SÀNG CÓ NHẠC
Năm 1984 Ôn về chùa Bửu Lâm của thầy Kiến Tánh ở Long Thành để làm chứng minh sám chủ lễ chẩn tế. Vì chùa chật lại bị con đậu đen phá rối nên chúng tôi phải dùng cái cốc gọi là tịnh thất Nguyên Phong để Ôn nghỉ. Mỗi bên không quá 4 mét, vách đất, lợp lá chỉ như cái chòi giữ rẫy, trong cốc kê một cái giường tre ọp ẹp, chúng tôi trải chiếu, lót drap rất nghiêm chỉnh. Ôn bảo cất ra đi. Ôn nằm chiếu cho mát. Khi Ôn ngồi lên. Cái giường tre rung rung, kêu cót két. Ôn vừa nhún vừa cười. Cái giường lại càng rung kêu càng lớn như muốn gãy. Ban tổ chức nhìn nhau lo ngại, thấy thế Ôn càng cười lớn và bảo :
- Hay quá, cái long sàng này có lò xo lại có thêm một ban nhạc tự động, đừng ngại, Thầy rất thích cái long sàng này.
Ôn lại nằm xuống thật mạnh, ưỡn lưng nhún thêm mấy cái nữa. Chúng tôi không nín được cười.
Ôn hoan hỷ và bình dị quá !
- MẤY THẦY HẠI TUI
Chùa Phổ Quang ở Bình Ba thỉnh Ôn về chứng minh lễ đặt đá trùng tu chùa. Cái nền chùa cũ vốn đã cao, Ban Tổ chức kê thêm một cái bục thật cao trên nền chùa, trên bục kê một pháp tòa rất trang nghiêm để Ôn ngồi chứng minh lễ. Khi cử hành lễ thỉnh, hàng ngàn người đang trang nghiêm nghinh đón. Đến nơi Ôn nhìn cái pháp tòa chần chừ không muốn ngồi lên đưa mắt gọi Ban Tổ chức đến nói nhỏ :
- Hạ thấp xuống một chút.
- Bạch Ôn, khó quá, đã đóng đinh cố định rồi – Ban Tổ chức thưa, Ôn trách nhẹ :
- Lỡ rồi, đành tùy thuận vậy.
Khi xong lễ thỉnh Ôn vào phương trượng, Ban Tổ chức theo sau trình bày:
- Bạch Ôn, nhờ pháp tòa cao nên Ôn ngồi chứng minh rất trang nghiêm, đẹp lắm.
Ôn hỏi:
- Ai biểu mấy bác làm cao quá vậy?
- Dạ, thầy Phước Chơn và thầy Minh Tâm bảo, mà chúng con còn muốn Ôn ngồi cao hơn nữa.
Ôn cười:
- Mấy Thầy nớ hại tụi, may mà không bổ (té) ngồi chóc ngóc một mình cao ngập nghệu mắc cở muốn chết. Biết rứa tôi kêu hai ông thầy nớ ngồi hai bên cho biết.
Ôn vui vẻ như rứa đó. Ôn Tâm Hướng của chúng ta.
§ RĂNG RỨA ?
Thầy Phước Chơn thỉnh Ôn về chứng minh lễ tại chùa Tuệ Không. Khi quỳ bạch cảm kính quá vì được Bổn Sư già bệnh mà cũng cố đến chứng minh chứng tỏ tình thương bao la của thầy tổ nên thầy Phước Chơn không cầm được nước mắt. Khi xong lễ, Ôn đến thăm chùa Phật Ân gọi tôi đến hỏi:
- Tại sao Phước Chơn khóc rứa?
- Bạch Ôn – tôi đáp – được Ôn về chứng minh mừng quá nên khóc.
- Răng rứa? Mừng mà khóc? Rứa thì buồn chắc khóc dữ.
- Bạch Ôn, chúng con buồn thì không khóc mô.
- Răng rứa? Lạ hè, mấy ông này nghịch đời. Ôn lại cười.
Thấy Ôn vui, tôi mạnh dạn:
- Bạch Ôn, cái nghịch đời của tụi con do các Ôn truyền dạy cả.
- Ừ, khéo cả trật.
Thật nhẹ nhàng. Ôn ơi !.
§ GIỐNG… … …
Ngồi trên xe lăn, thấy mấy chú điệu nhỏ lăn xăn đi lấy áo mặc vào lễ Ôn, Ôn cười.
- Tổng thống Nga mô mà hung rứa?
Chúng tôi còn ngơ ngác thì Ôn tiếp:
- Mấy gô ba chóp mới qua hả?
Vỡ lẽ, chúng tôi cười rộ.
Khi thấy mấy chú chỏm hì hục lễ, Ôn tươi vui rạng rỡ:
- Mấy ông Phật tương lai có quậy không? Tụng kinh chắc ngủ gục đều đều?
- Bạch Ôn quậy cũng có, mà ít – tôi đáp – Nhưng ngủ gục thì vô địch thế giới.
Ôn nhìn tôi:
- Chắc giống thầy nó ngày xưa lắm hí?
- Bạch Ôn chúng nó hơn con cái ngủ gục, còn quậy thì thua xa.
Ôn hỏi:
- Ôn các chú có về thăm không?
- Bạch Ôn, Ôn con bệnh quá chưa về vả lại Ôn con ít đi xa!
- Ừ, tui thay cũng được.
Tình thầy trò thắm thiết làm sao!
(
Ôn ơi, nhớ Ôn mãi.
BẤT KHẢ TƯ NGHỊ
(Chuyện khó nghĩ bàn)
Trong cuộc sống, mọi sinh hoạt thường nhật có những sự kiện thực tế xảy ra mà con người không nghĩ tới, bàn không được, chỉ có cảm nhận bằng niềm tin, tin vào đời sống tâm linh, vi diệu.
Phật Ân xin ghi lại vài sự kiện đã xảy ra tại chùa mà những nhân chứng đang hiện hữu để cùng nhau nhớ mà vui, còn những độc giả ở xa chỉ đọc mà chưa thấy, chưa biết, thì bây giờ biết để cùng Tăng chúng chùa Phật Ân chung niềm an lạc.
- 1. Hết gạo:
Vào khoảng 1992, trong chùa độ 30 nhân khẩu, tri khố báo cáo gạo chỉ còn một bao, ăn độ 4, 5 ngày là hết. Thầy bảo: “Đừng lo hết gạo, chỉ nên lo tu, có tu là có gạo, cứ réo Ngài Hộ Pháp, ôm chân Phật mà cầu”. Chúng điệu chỉ im lặng cùng nhau khúc khích cười.
Hôm sau, mới tụng kinh khuya xuống, một chiếc xe tải nhỏ lù lù tiến vào sân, hai người: 1 nam, 1 nữ trên xe bước xuống, người nào cũng đeo một cái Thánh giá bằng vàng to bự trước ngực, vui vẻ gọi: “Thầy ơi! Cho người vác gạo vào, vợ chồng con cúng”. Ngạc nhiên và bỡ ngỡ vài giây, thầy trò chúng tôi chào hỏi, mời khách uống nước. Đồng thời, gọi mấy điệu ra xe vác gạo vào, 10 bao 5 tạ – cả hai vợ chồng thay nhau kể chuyện:
12 giờ đêm, cả 2 vợ chồng nghe có tiếng gọi “dậy chở gạo đi cúng chùa”, chúng con rất ngạc nhiên vì chúng con là con chiên của Chúa, sao lại biểu chở gạo đi cúng chùa? Nên tiếp tục ngủ, đến 2 giờ sáng gọi một lần nữa, mà cũng chỉ câu “chở gạo đi cúng chùa”, chúng con định hỏi, ai biểu và cúng chùa nào? Bao nhiêu? Nhưng biết ai mà hỏi, nên chúng con thức dậy biểu lũ nhỏ chất lên xe 10 bao, rồi cứ cho xe chạy nhưng chẳng biết đi đâu? Xe cứ chạy, vợ con nói: “Cứ chạy, gặp chùa nào cúng chùa đó chứ biết đâu mà chọn”. Vậy là chúng con cứ cho xe chạy và vào đây, chúng con có vựa gạo ở Hố Nai, chúng con tin chắc Chúa hay Phật biểu như thế nên vâng lời. Dường như có ai dẫn xe chúng con chạy vào đây, trời tối, đường xá quá xấu, con lái xe hoàn toàn vô định, vì đâu biết chùa này.
Thầy trò chúng tôi cám ơn, tiễn hai vợ chồng ra xe trở về, không hề để lại tên tuổi, địa chỉ gì hết và từ đó đến nay chẳng bao giờ trở lại, đúng là “nhạn quá tường không”.
- 2. Mua nhà:
Cái nhà gỗ dùng làm Trai Đường hiện tại rất quí, rất đẹp, không vốn lại có lời. Nghĩa là: không ai cúng vật liệu hay đồng bạc nào, chùa chẳng bỏ ra xu nào. Thế mà chúng tôi có nhà mà lại còn có lời nữa. Nguyên là: căn nhà này của một ông chủ buôn gỗ, xẻ cây, nên toàn là gỗ tuyển. Làm ăn thất bại, ông kêu bán, nhiều người đến xem đều lắc đầu dù nhà bán rất rẻ. Đạo hữu Hàn Đại Thọ thấy nhà đẹp, rẻ nên dẫn tôi đi xem. Thấy ngôi nhà tôi đã thích ngay, hỏi giá thì rẻ mạt (3 cây vàng) 15 triệu (thời điểm 1 lượng vàng 5 triệu). Trong túi chẳng có đồng nào, đệ tử hứa bảo lãnh. Tôi liều, dỡ về dựng làm nhà Tổ, nợ sẽ tính sau, cùng lúc mua một căn nhà khác 10 triệu (2 cây vàng) làm Chánh điện chùa Từ Phong, một tốp thợ dỡ hai cái nhà một ngày, hai xe tải chở từ Xuân Trường về, cả toán thợ về theo. Hôm sau, dựng 2 cái nhà cùng lúc. Dựng nhà Tổ, tôi không làm sàn ván, nên thừa, không đóng vách và cửa, ván rất tốt, lại thừa, bán số ván và cửa ấy đủ 15 triệu trả nợ. Thế là lời một cái nhà không tốn xu nào, lại thừa một bộ sàn ván có người chịu mua 15 triệu nữa, không bán sau này làm nhà gác của Tàng Kinh Các và một bộ đòn tay 11 lẻ, dài 7,5 mét, bổ sung làm Chánh điện mấy năm sau. Thế là chùa có nhà Tổ khá tốt, rất đẹp mà không tốn tiền.
- 3. Chánh điện:
Cái Chánh điện cũ bằng gác gỗ đã ọp ẹp, lên làm lễ độ 20 người thấy đã rung rinh. Tôi quyết định tu sửa lần thứ 4, gần 20 năm, Chánh điện phải tu sửa đủ 3 lần mà chưa ổn. Xây chùa mới, khó đủ trăm bề, nên tìm cách mua nhà cũ. Ở Trà Tân – Bình Thuận, có căn nhà của một ông trùm Thiên Chúa giáo. Ngôi nhà cao ráo, rộng rãi, họ bán cả năm trời không ai mua. Duyên lại đến, Hàn Đại Thọ và Lợi lại nhắn tôi về xem nhà, đồng ý ngay, không cần ngã giá. Đo đạc kích thước chuẩn xác, thế là khởi công, thợ hồ xây móng, thợ mộc dỡ nhà, Tăng chúng chở đất. Thợ tuyển từ Ngãi Giao lên toàn thợ chiến, che rạp ngoài lô cao su cho thợ mộc làm, hơn cả tháng trời.
Lễ đặt đá chỉ có 4 vị Thượng Tọa: Giới Hương, Nhật Quang, Kiến Tánh và Minh Tâm. Niệm hương, bạch Phật xong lễ 3 lễ là xong. Riêng Tăng chúng chùa Phật Ân thì đã trì chú Chuẩn Đề, nhiễu quanh móng chùa trước đó một đêm. Đơn giản, nhẹ nhàng, trang nghiêm, thanh tịnh.
- 4. 8 cột con, rồi 8 cột cái:
Làm Chánh điện có hai sự kiện hi hữu:
- Tính lui tính tới, thiếu 8 cái cột để thay 8 cái cột vuông, thầy trò và nhóm thợ đang lo, đang tính toán thì có người mách: Ông Ba ở Xuân Lộc, có 8 cái cột, để đã 30 năm nay, không bán; không dùng; không cho; nếu Thầy cần thì đến hỏi. Như vớ được của quí, tôi cho Lợi đi hỏi ngay, đúng kích thước, đúng loại gỗ (căm xe) mà mình mong muốn. Khi hỏi, chủ nhà nói ngay “Làm chùa phải không? Cứ chở về làm, vô điều kiện, muốn đưa mấy thì đưa, tôi để dành đã 30 năm rồi đó”. Lạy Phật, Phật Pháp thậm thâm vi diệu, theo giá thị trường chúng tôi trao tiền và chủ nhà chỉ cười hoan hỷ. Tuyệt vời, Hộ Pháp, Long Thần gia hộ.
- Giải quyết xong 8 cột con, lại phát sinh cần giải quyết 8 cái cột cái, nếu để như cũ thì 8 cái cột con phải cưa bớt, nhà sẽ thấp và rất uổng, nên tìm cách cơi 8 cột cái lên cao 6 tấc, cơi bằng bê tông cốt sắt, xấu mà không vững, chỉ có cách nối cột gỗ mới đẹp và bảo đảm chất lượng. Lạy Phật, nan giải quá, làm sao tìm được 8 khúc gỗ như ý, khó hơn mò kim đáy biển, phương án nối cột gỗ ai cũng muốn nhưng lắc đầu vì quá khó tìm, bàn lui tính tới cũng chẳng có phương án khả thi. Cuối cùng, anh Phấn thợ mộc và chú Hưng (Lép) đi tìm. Hai người đi suốt ngày mệt mỏi và thất vọng, đang thất thểu tìm đường về, thì một bà già đi đến chận ngay hai người hỏi: “Hai ông đi đâu mà thất thểu suốt ngày, có phải đi tìm mua gỗ không? Vào đây tui bán cho”. Hai vị nhìn bà già bán tín, bán nghi nhưng cũng liều đi theo. Đi ngoằn ngoèo trong lối hẹp khá xa rồi vào một căn nhà cuối ngõ lụp xụp, thờ Chúa. Vào nhà cũng chật hẹp loằn ngoằn tối tăm, cả hai e ngại, chần chờ không muốn đi tiếp. Bà già cười đôn hậu “đừng ngại, vào đây, đến rồi”. Bà già vừa nói vừa dỡ một chiếc chiếu cũ đậy một đống gỗ, chú Hưng (Lép) thì ngơ ngáo nhìn, còn ông Phấn thì trố mắt không dám tin là sự thật. Xem kỹ, ông Phấn nhìn bà già tưởng bà ta hóa phép, lấy thước ra đo, ông Phấn càng bỡ ngỡ. Hỏi giá, bà già nói: “Tui giữ số gỗ này đã hơn 10 năm, nay quí vị cần thì tui bán 1 lẻ 200.000 đồng, 8 lẻ là 1 triệu 6”. Lại một lần nữa ông Phấn không tin vào tai mắt của mình. Chẳng hỏi, chẳng thêm, chẳng bớt, trả tiền cho bà già, kêu xe chở về tức khắc, sợ đống gỗ biến mất như một giấc mơ. Số là: Chúng tôi cần 8 khúc (đủ 8, không dư, không thiếu), cần loại gỗ căm xe (đúng loại), cần bề hoành, bề dài như thế nào thì 8 lẻ gỗ y như ước muốn. Nếu ngắn hơn vài tấc, nhỏ hơn vài phân hay 1 loại gỗ khác cũng không được. Lạy Phật, như một phép mầu, giá lại quá rẻ, ông Phấn dự ý, nếu 1 lẻ 1 triệu cũng mua, nay 8 lẻ chỉ 1 triệu 6 thì thật ngoài dự định.
Xe Lam chở 8 lẻ gỗ về, đổ xuống, cả đám thợ, cả chùa chạy ra mừng vui. Ai nấy đều há hốc ngạc nhiên và chỉ chắp tay tạ Phật, tạ các vị Hộ Pháp Thiện Thần, nhân duyên như dành sẵn. Nhờ vậy mà Chánh điện chùa Phật Ân có 8 cái cột cao như thế. Lại thêm thợ Ngãi Giao nối ráp thì khỏi chê.
Xin cám ơn tất cả – cám ơn bà già ở Hố Nai – cám ơn chú Phấn, cám ơn chú Ba ở Xuân Lộc, cám ơn Hàn Đại Thọ, cám ơn Lợi.
- 5. Nền chùa:
Vợ chồng Phước Toàn đã chọn gạch lót nền chùa và dặn đại lý để dành sẵn trong kho, chồng tiền là chở gạch. Kiểm tra lại mọi việc, hết tiền, tôi điện cho Phước Toàn hồi lại, không mua nữa, tạm để nền đất một thời gian, thợ hồ chuẩn bị dọn đồ nghề về nghỉ. Đang ngồi tâm sự với thầy Giới Hương, thì một cụ già đạp xe lỏn cỏn đi vào, tìm hỏi xin gặp thầy M.T. Tôi tiếp ông cụ, nhìn người thấy rất trí thức, đạo đức mà cỡi chiếc xe đạp cũ kỹ. Qua câu chuyện, thì ra ông cụ là chồng bà Nguyên Lợi, Việt kiều ở Mỹ mới về, ông là cựu Đại tá Quân đội VNCH. Vì đi gấp, chỉ vài câu hỏi thăm xã giao, ông nói “Vợ con gửi thầy cái bì thư này về phụ thầy làm chùa”. Tôi cám ơn và tiễn ông cụ đạp xe ra cổng. Trong lòng thầm cám ơn bà Nguyên Lợi và nhất là cảm ơn cái ông cựu Đại tá đó thì nhiều, đố ai biết ông già đó là Việt kiều mà là cựu Đại tá? Thầy Giới Hương đang đứng ở trước sân vui cười: “Có đô phải không? có đủ mua gạch không?”. Tôi mở bì thư ra xem, lòng nghĩ chỉ 1, 2 tờ là nhiều, không ngờ, đúng 10 tờ. Vào văn phòng tôi điện thoại cho Phước Toàn, Hoa (vợ Toàn) bắt máy nói “Con đang điện qua đại lý hồi gạch lại, bây giờ sao Thầy?”. Tôi nói: “Không hồi nữa, con kêu xe chở về ngay cho Thầy, có tiền rồi”. Tội nghiệp, Hoa nó reo lên mừng rỡ “Mới 15 phút, tiền đâu nhanh vậy, 14 triệu đó Thầy”. Ừ thì tiền đô 14, thầy có đủ 1 ngàn đô, đủ 14 triệu không thừa, không thiếu. Con chở gạch về ngay đi.
Tôi chắp tay vọng hướng lên Tam Bảo, lòng sung sướng vì được các vị Hộ Pháp luôn luôn gia hộ cho tâm nguyện của mình với lòng thiết tha phụng sự.
Nam Mô Tam Châu Cảm Ứng Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát Thùy Từ Chứng Giám.
CHUYỆN ĐIỆU CHÙA TÔI
Thầy tôi thường dạy “Cuộc đời tu hành vui nhất là khi còn hành điệu”. Khi vui người kể lại vài câu chuyện ngắn để anh em chúng tôi cùng nghe. Kết thúc bao giờ người cũng bảo “Thầy kể chuyện cho các con nghe để có thêm kinh nghiệm, Thầy ôn lại quá khứ thấy cũng vui vui”. Những lúc như vậy chúng tôi thấy thầy trẻ lại, ánh mắt, nụ cười không dấu được tâm tư đang trở về quá khứ. Chuyện của thầy kể bao giờ cũng chứa đầy cảm xúc mang tính giáo dục, thầy kể rất có duyên, hấp dẫn, mạch lạc nên rất lôi cuốn, chúng tôi say sưa nghe như nghe chuyện tiếu lâm, chuyện đời xưa. Bây giờ, muốn nói lại, kể lại thì câu nhớ câu quên, tiếng mất tiếng còn, vì thế cho nên tôi chỉ nói lại những gì tôi còn nhớ, chắc chắn không được như thầy tôi kể, do đó phần đầu là chuyện trước đây, phần sau là chuyện bây giờ. Chuyện bây giờ thì tôi bảo đảm là mặt hàng có bảo hành, còn chuyện trước đây, có chất lượng hay không, cái đó còn tùy, nhưng không có bảo hành vì sợ tam sao thất bổn, nên xin bà con niệm tình tha thứ.
- Chuyện trước đây
(Không bảo hành)
ĐIỆU MỌC RÂU
Một chú tiểu, tuổi còn nhỏ, được vị Bổn sư rất thương yêu nhưng đời sống trong chùa quá thiếu thốn, ăn thiếu cơm, mặc thiếu áo là bình thường, nhưng chú tiểu có duyên với Tam Bảo, ở chùa khổ cực mà chú lại thích, đã nhiều lần ba mẹ chú thấy con còn nhỏ, xin đem về nhà, chỉ một hai ngày là chú ta u sầu trở bệnh đòi về chùa, chú bảo nhớ Thầy, nhớ Phật, ba mẹ dẫn đến chùa thì chú ta tươi tỉnh và lành bệnh ngay, nhờ vậy nên chú rất khỏe, chóng lớn. Tuy nhiên, vì tuổi còn quá nhỏ, chú ta rất thèm ngọt.
Một hôm, chùa nấu chè đậu đen để cúng các bàn thờ vong. Lúc kinh hành, đi sau lưng Bổn sư, nhìn các chén chè thơm phức mùi mật đường, thoang thoảng có mùi gừng lại càng hấp dẫn. Không cầm lòng mỗi vòng đi qua các bàn thờ vong, chú ta ghé miệng húp một chút, chú ta nghĩ chẳng ai hay biết vì mỗi chén chè chỉ vơi đi một tý thôi. Vị Bổn sư chẳng hề quay lại, vẫn nghiêm trang chấp tay niệm Phật nên chú ta càng vững lòng. Có điều lạ, hôm nay thầy Bổn sư niệm Phật rất lâu, đi nhiễu rất nhiều vòng, cơ hội quá tốt, chú ta nghĩ, vì nếu đi kinh hành ba vòng như thường lệ thì chú ta chỉ húp được ba miếng mà thôi. Hôm nay chú ta mong được kinh hành càng nhiều vòng càng tốt để chú ta có dịp thưởng thức cái hương vị mà chú ta rất ưa.
Khi khóa lễ xong, Bổn sư gọi ngay chú vào phòng rồi hỏi chú:
- Năm nay con bao nhiêu tuổi.
- Bạch Thầy, bảy tuổi.
- Mới bảy tuổi mà con đã mọc râu ư?
Tiểu ta ngơ ngác, vị Bổn sư cho chú nhìn vào kính để trên bàn.
Eo ơi, chung quanh miệng tiểu ta là một vành đen do húp chè đậu đen đóng lại chung quanh miệng. Biết lỗi, không chối được, tiểu ta quỳ xuống xin sám hối.
Vị Bổn sư cười vui, đưa tay xoa cái đầu còn ba vá của chú:
- Người tu hành mà ăn vụng, xấu lắm. Con không được vương cái lỗi này nữa nghe không.
Tiểu ta biết không bị la phạt nên cúi xuống, chấp tay, mở cờ trong bụng.
- A-di-đà-Phật, bạch Thầy, con không dám tái phạm ạ. Thầy cho con sám hối.
- Chuyện bây giờ
(Bảo hành vô thời hạn)
ĐI RA ĐI VÔ (Rađio)
Chú Trúc rất mê nhạc, kể cả cải lương, khi đến chùa tiểu mang theo một cái rađio. Thầy trú trì cho phép chỉ được nghe trong giờ thư giãn mà thôi. Dĩ nhiên tiểu Trúc phải vâng dạ, nhưng thích quá, chú thường lén nghe những giờ mà thầy cấm, những giờ ấy thường có nhạc hay. Lần thứ nhất thầy tha, lần thứ hai thầy phạt, tiểu Trúc biết sợ nhưng cái tánh mê nhạc mạnh hơn, thế là tiểu vi phạm lần thứ ba. Sự bất quá tam, tiểu Trúc phải tự tay chặt cái rađio thành bốn mảnh. Kể từ đó, mỗi khi đến giờ chú ghiền nghe nhạc, chú ta cứ đi ra đi vô, lững thững tiếc nuối, thấy mà thương.
LẠI CHUYỆN CHÙA TÔI
v Mua tăm
Ngọ Trai xong, HT Thiền chủ đợi hoài, hai chú Thị giả vòng tay đứng hầu mà không lấy tăm, nước đem lên. Hòa thượng gọi một chú Thị giả đến bên, kề tai hỏi nhỏ:
- Con có biết quán bà Sáu Sứ ở đâu không?
- Dạ biết. Chú thị giả thưa.
- Con chạy xuống mua vài hộp tăm đem về đây.
Chú Thị giả dạ, rồi tính chạy đi mua tăm. Thầy Nguyên Tịnh ngồi gần HT Thiền chủ nghe rõ như vậy nên cản lại.
- Bạch ôn, tăm nhiều lắm khỏi đi mua.
Vừa nói thầy vừa trao hủ tăm lên bàn Chứng trai. HT Thiền chủ phá lên cười, thầy Hóa chủ cũng phụ họa cười theo. Đố ai biết nguyên nhân.
v Sát sanh
Lễ Bố tát hằng tháng, Sư phụ trùng tuyên 5 giới cho các Điệu xong. Hỏi “Trong nửa tháng qua, ai có phạm Giới căn bản, thì đứng dậy thú tội mà đi ra, ai không phạm thì im lặng”.
Điệu Tâm, điệu Hải, hai điệu nhỏ nhất trong chùa đứng dậy phát lộ “Con có phạm Giới sát sanh”.
- Con sát gì?
- Dạ, Đậu đen và Ruồi.
- Ngộ sát hay cố sát?
- Dạ, không ngộ cũng không cố.
- Tại sao?
- Dạ, đậu đen thì hốt ra suối đổ con không giết, còn ruồi thì con để keo dính chuột, ruồi nó tự đậu vào dính lại mà chết, nó tự tử chứ con không trực tiếp giết !
v Hiểu lầm
Nhà cầu bị dơ, ba vị Sadi già tuổi, nghi ngờ lẫn nhau đi cầu mà không dội. Bị Sư phụ quở, ba vị đổ cho nhau vì ai đi xong cũng có dội cả, tạo sự bất hòa. Sư phụ xử: chú HS và chú B dùng phòng số 1; chú P dùng phòng số 2. Cấm đi cầu lộn phòng, người nào chịu trách nhiệm vệ sinh phòng đó. Êm. Hai hôm sau, chú HS bắt gặp một chú Điệu nhỏ lén vào đi cầu, vì đi lén nên không dội. Trình lên Sư phụ “Đây là thủ phạm, làm 3 Sadi già bị quở oan”. Hì… hì…
v Ăn cắp chổi
Sư phụ dùng chổi quét sân riêng, cất riêng tại cốc. Thế mà bị mất hoài, Đại chúng bị quở. Hôm ấy, điệu Tâm lén lấy đi hốt rác bị bắt quả tang. Thế là từ trước đến nay, Sư phụ bị mất chổi, quy hết cho điệu Tâm là thủ phạm. “Đi đêm, lâu ngày gặp ma”, Tâm hết chối. Chúng có 40 người, Sư phụ ra lệnh mua đủ 40 cái chổi, phát cho mỗi người một cái, ghi tên làm dấu riêng, ai lấy lộn hay bị mất là phạt. Tạm yên một thời gian.
v Giấu
Đang ăn cơm, chú TN lẳng lặng đứng dậy đi nhanh xuống bếp. “Giấu, giấu soong đậu đũa xào, đâu rồi, đem giấu kỹ cho với, mau lên, Sư phụ xuống”. Chú Trị nhật khác bưng soong đậu chạy giấu sau phòng tắm. Thì ra, ban Trị nhật sợ đậu già, nên xào hơi nhiều mà lại kém ngon, nên Đại chúng ăn ít, ban Trị nhật thấy tình hình không ổn, tánh Sư phụ khi đã nấu thì bắt ăn cho hết, không cho dư thừa, Đại chúng có lúc ráng nuốt, nhưng nuốt không trôi nên sợ bị quở một phần, một phần sợ dở quá cũng phải nuốt. Đau khổ vì “bị ăn” nên thừa là lén giấu, lén đổ. Khi mô mới hết nạn này!
v Cà phê quá đắng
Theo lệnh của sư phụ, Ban tổ chức lễ Phật đản 2548 và lễ Tưởng niệm Pháp nạn 1963 tại chùa Phật Ân năm nay (2004) phải chu đáo và giao hết cho anh em tự lo. Cần gì, hỏi, chứ thầy không trực tiếp như các năm trước.
Do đó, một buổi họp để tiến hành phân nhiệm công tác. Riêng nhị vị sư huynh Trung Đạo và Trung Thuần vì lo vườn rẫy và Phật sự tại thất nên lên trễ Thầy trao cho mấy ly cà phê quá đậm nhị vị sư huynh “ấm ớ thanh minh, thanh nga” rút kinh nghiệm. Còn các sư huynh đi học xa, thì... vài muỗng đăng đắng cho biết mùi vị.
v Lễ đài
Dự định ngày 12/4 làm lễ đài, thầy Trung Tú sợ không kịp sẽ bị uống cà phê đắng nữa nên thúc nhắc các huynh đệ ngày 10 đã lo trước. Nhờ vậy, lễ đài năm nay đẹp hơn các năm trước. Chỉ tội các chú Trung Nhạc, Trung Quang, Trung Kim lo sốt vó, thức trắng đêm cắt xốp, dán keo, nhưng rồi... sư phụ cũng “gỡ ra, làm lại, thô lắm”. Méo mặt. Khi kết hoa lài làm diềm, chú Trung Hiển ì ạch đo đo, đóng đóng, sư phụ cũng “mất công, tốn của, xấu, vụng tính, hoa có đủ đâu, tính lại coi” quả nhiên, hoa ít, lưa thưa, xấu là chắc. Nên, dẹp, nhờ chị Tuyết và GĐPT Khánh Long kết lại. Eo ơi, tuổi trẻ, kinh nghiệm chưa có, chỉ có tấm lòng. Sư phụ thông cảm. Cười... không hét nữa!
v Lồng đèn
Trước lễ cả tháng, tranh thủ làm lồng đèn, gặp mùa thi, chú nào chú nấy cắt cắt, vót vót, chặt chặt, cột cột, dán dán... tội mấy điệu nhỏ “em vót cái ni không được”, “em dán cái này không xong” “anh ơi giúp em cột cái này với” không khí thật dễ thương. Mấy bụi hóp trong chùa xơ xác, giấy màu vụn và nan tre vung vãi khắp nơi. Thấy sư phụ đi qua, nháy nháy “dọn mau, hốt mau sư phụ thấy xả rác là lãnh đủ”... dường như... sư phụ biết, đi tránh nơi khác, hú hồn. Lễ năm này, lồng đèn nhiều, đẹp, treo đầy chánh điện suốt cả mùa an cư.
v Lễ tưởng niệm pháp nạn 1963
Năm đầu tiên sư phụ hướng dẫn ban điều hành tổ chức lễ Tưởng niệm Pháp nạn 1963, các sư huynh còn bỡ ngỡ nhưng vẫn phải tiến hành. Không biết cái câu có tính cách thiên mệnh “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” có đúng không mà khi gần lễ chính thức, trời mưa tầm tả, gió rít từng hồi, nên số người tham dự chỉ được vài chục. Sư phụ vẫn cho tiến hành. Thật cảm động khi mọi người nghe nhắc lại những nguyên nhân gần, nguyên nhân xa và những chi tiết chưa tiết lộ của vụ tranh đấu 1963 mà sư phụ là nhân chứng duy nhất, vì sư ông là nhân vật chủ xướng và lãnh đạo cuộc vận động đó. Lớp hậu sanh chúng tôi thật quả ù ù cạc cạc, ngây ngây, ngô ngô, không khéo là kẻ ngủ mê giữa mặt trời đứng bóng !
Hy vọng, lễ tưởng niệm sang năm thành công hơn.
v Kiết giới an cư
Theo đúng luật Phật, mùa an cư năm nay, lễ kiết giới đúng lúc bốn giờ sáng ngày 16/04 tại chánh điện chùa Phật Ân. Hòa thượng Chứng minh kiêm Luật sư trường hạ Hòa Thượng thượng Minh hạ Chiếu, Hòa thượng Thiền chủ thượng Kiến hạ Tánh và Hóa chủ là sư phụ trù trì chùa Phật Ân. Tổng số Tỳ Kheo kiết giới an cư là 14, Sa Di tập sự cũng 14, Điệu chính thức 13 và 5 Điệu ba tháng.
Năm nay, phá lệ, sư phụ cho phép nhờ người công quả để các chú dành trọn thời gian chăm việc tu và học, nên cũng nhẹ nhàng trong việc bếp núc. Do đó, giờ giấc bái sám và học hành ít bị trở ngại. Cám ơn các mệ, các dì ở Xuân Sơn và Ban Mê Thuột !
v Điện thoại cắt, cắt điện thoại
Đây là năm thứ hai, khi kiết giới an cư xong là sư phụ ra lệnh cắt điện thoại, không nghe, không gọi. Ban điều hành trình bày là sẽ trở ngại khi các nơi cần liên hệ với chùa, sư phụ vẫn cương quyết không cho. Chỉ 3 hôm sau đã có 2, 3 vị đến than thở: “điện thoại ở chùa, liên lạc không được, không ai bắt máy, chuông vẫn reo, hỏi tổng đài thì tổng đài bảo, điện thoại vẫn tốt, có lẽ ở chùa gác máy”. Sư phụ cười “rứa mà yên thân, bị dị ứng chuông điện thoại, mệt óc, mất thì giờ, tuy có người cần việc nhưng cũng có người gọi lộn số hay nói chuyện tào lao, ba tháng an cư không yên tĩnh; cắt điện thoại, cứ coi như điện thoại bị cắt “thế thôi”.
v Trung bình
Trong hạ, có quý ôn quý thầy đến thăm.
H.T TB khen: “Chúng điệu chùa Phật Ân có tiếng là ngoan, chăm tu chăm học”.
H.T TP khen: “Các chú chùa Phật Ân học giỏi, nhờ thầy trù trì dữ và khó, cũng có tiếng nghiêm khắc”.
Kiểm lại, nếu không học giỏi làm sao giới đàn ở đâu, năm nào cũng có thưởng. Có vị đã Thủ Tỳ Kheo, Á Sa Di, tụng giới các Giới sư đều khen ngợi. Trường đạo là vậy, trường đời cũng có thưởng, cũng học sinh tiên tiến, thi HS giỏi cấp tỉnh. Vậy mà về chùa sư phụ cũng chỉ phê hai chữ “trung bình”, dường như sư phụ muốn... làm sao mà theo cho nỗi... các huynh đệ ơi, gắng lên... sư phụ già rồi.
- Giờ Học Đầu
GS. Tư kề tai tôi nói nhỏ “người nháy Việt Nam đó thầy”, tôi ngơ ngác “ai đâu?”, GS cười bí mật. Tôi thắc mắc mà không dám hỏi – Tổng giám thị là mẫu người kỷ luật mà. Mãi đến khi Ban Giám đốc giới thiệu GS. Nguyễn Thành Nhơn với nhiều thành tích đặc biệt, tôi mới vở lẽ và chú ý đến vị GS dạy khóa đầu tiên. Lời lẽ không văn hoa, cử chỉ đúng là con nhà thể thao. Điểm thành công của GS Nhơn là cuốn hút được học viên bằng nhiệt tâm và lòng yêu nước. Tôi không vội vàng trong quyết đoán nhưng lại dám chắc như thế. Tiếng hét từ lòng ngực, nét mặt nhăn nhó suy tư, đôi mắt quắc lên vì tức giận… tôi thấy GS đang đứng trước kẻ thù của dân tộc bên các thân hữu yêu nước hơn là đứng trong phòng học. Buổi học đầu tiên thật đẹp, thật thành công dù không có gì cao siêu mới mẻ cả. GS Nhơn nghe đâu đã ở lâu tại Pháp, nhưng vẫn bình dị, vẫn Việt Nam một trăm phần trăm, so với vài vị khác mới ra nước ngoài một sớm, một chiều đã vội quên tiên quên tổ. Ông Nhơn khác các người khác một chút là muôn đời Việt Nam, Việt Nam.
- Nụ Cười Di Lặc
Nghỉ 10 phút xả hơi, vội vã xuống lầu (câu lạc bộ) để nhậu một ly chè đá. Vừa xuống cầu thang, đã đối diện ngay với Thượng Tọa Tổng vụ Trưởng. Vẫn với chiếc y vàng rực rỡ, vẫn nụ cười hoan hỷ thuở nào, Ngài hỏi thăm tôi ân cần:
- Sao, học có mệt lắm không?
- Bạch Thượng Tọa cũng khá mệt, ngồi lâu cũng mỏi, học 11/12 giờ mỗi ngày.
- À, khổ như vậy anh em có phàn nàn không?
- Dạ bạch… không, vì anh em muốn thanh toán chương trình sớm để kịp về ăn Tết.
- Ăn, uống, ngủ, nghỉ ra sao?
- Dạ, cũng tạm ổn, chúng con tự túc, ban tổ chức giúp gì tốt nấy, đâu dám đòi hỏi.
- Ừ, anh em cũng gắng thông cảm cho Tổng vụ, nhân tài vật lực đều thiếu thốn nghèo nàn…
- Dạ, chúng con cũng đã biết như vậy, không phải riêng Tổng vụ nghèo mà cả tập thể Phật giáo đều nghèo cả…
Đại học Vạn Hạnh 1973, Khóa chuyên hóa
Quản trị học đường và Tâm lý giáo dục
CHUYỆN CHÙA TÔI 2
- Trái Dừa Khô Nước
Ngày mồng một Tết, ôn Diệu Đế (Giới Hương) biểu chú H chặt một trái dừa uống cho đỡ khát. Nửa giờ sau, chú H ôm vào một trái dừa tươi, đã chặt sẵn, có cắm một ống hút nghiêm chỉnh, đem vào, đưa lên:
Bạch thầy, trái dừa không có nước.
Cầm trái dừa, quả thật không có một giọt nước nào – nhìn ống hút, thầy Diệu Đế lắc đầu, cười ngao ngán.
Ai muốn biết gì thêm, xin hỏi chú H.
- Củ Dền Luộc, Luộc Củ Dền
Trong chùa tôi, có hai vị tôn túc lãnh đạo, hướng dẫn chúng tôi tu học, vì lớn tuổi, bệnh duyên, nên có chế độ ăn uống theo tuổi già. Thầy Diệu Đế 64, thầy tôi 63, liên tục 3, 4 ngày đọt lang luộc, luộc đọt lang, ngán quá thầy gọi đổi món – thế rồi liên tục 3, 4 ngày khác đậu ô ve luộc, luộc đậu ô ve. Quý Thầy cũng ớn, thị giả lại đổi món – lần này củ dền luộc, luộc củ dền, không những 3, 4 ngày mà… dài dài. Hai thầy lại cười: “Tội nghiệp, con trai đâu rành nấu ăn, cũng cố gắng và nhiệt tâm rồi đó!”.
- Kiểm Tra Cuốc
Thầy tôi, một năm đi giảng ở Bảo Lộc vài lần, lần nào cũng mua về 5 hay 10 cái cuốc (tiếng địa phương gọi là xà bấc) phát cho chúng lao động, thỉnh thoảng thầy kiểm tra, ai còn ai mất. Mỗi lần như thế các chúng chạy tổ mổ đi tìm, cái bể lưỡi, cái gãy cán, ai bị mất cuốc thì tìm cuốc cũ đem trình, biện luận, đổ thừa tại, vì, bởi được đem dùng đố ai khỏi uống một ly cà phê đắng nghét.
- Áo Quần
Tiêu chuẩn, mỗi năm chúng tôi được ba bộ áo quần mới, vào dịp Tết, Phật Đản và Vu Lan. Riêng mấy chú nhỏ thì nhiều hơn, chưa kể áo quần cũ bác Thu hoặc chị Nhạn ở Vạn Hạnh gởi về. Thế mà… có chú vẫn thiếu. Nguyên do là vì lười giặt, lười xếp… Thỉnh thoảng thầy gom quần áo rải rác khắp nơi: bến, bếp, phòng tắm, gốc cây, bờ suối… bất luận lớn nhỏ, mỗi cái hai hèo. Bị đòn thì đau, thì hứa, thì nhận lỗi, thế mà 1, 2 tháng các chú đều có “lãnh lương”. Do đó, Phật Đản vừa rồi, thầy đã cúp tiêu chuẩn. Anh em liệu mà lo, bê bối nữa thì Vu Lan tới, coi chừng không có áo đi học.
- Không và Không (1)
Một Phật tử thăm chùa, sau khi lễ Phật xong, đi quanh chùa như tìm kiếm cái gì – hỏi chúng tôi.
Thùng công đức (phước sương) để ở đâu?
Dạ, ở đây không có.
?...
Điều thắc mắc này, hỏi trú trì, thầy trả lời:
Nên có và rất muốn có, nhưng… không có khỏe hơn.
?...
Không có để không khóa, không mở, không có ăn trộm rình mở, không gợi tham tâm của lũ nhỏ, không tác ý cho kẻ ganh tỵ, nóng mặt, xấu mồm xuyên tạc và nhiều cái không khác.
Vậy thì…
Bát nhã, chớ thắc mắc.
- Không và Không (2)
Thưa thầy, anh Tài giới thiệu với con ở đây có nhiều cái KHÔNG? Thầy cho con biết với.
Anh Tài đùa với đạo hữu đó. Nếu muốn, đạo hữu tìm hiểu, hoặc hỏi anh Tài, thầy đâu rõ đạo hữu muốn biết cái không cái có thế nào đâu.
Dạ, con thấy Chánh điện, Tổ đường, Trai đường KHÔNG có tường, không có cửa, trong chùa KHÔNG có thùng phước sương, trong bếp KHÔNG có dì vãi, trên 40 người ăn mà KHÔNG đi chợ, có lẽ KHÔNG có tiền?
Đừng gọi nhằm số ở điện thoại cố định biết đâu thầy có điện thoại di động.
???
Nghĩa là không có tiền đi chợ nhưng đừng tưởng thầy không có “nghệ” hay không có cửa “vô ra” dấu kỹ, gửi kỹ.
Mô Phật, thầy càng già càng vui tính.
Vui để sống, sống phải vui, buồn làm chi cho khổ.
CHUYỆN NHƯ ĐÙA
(Chuyện vui Thiền môn, có thật)
§ Diệt Trừ (chuyện năm 1962)
Bác Hương bị công an mời đến Ủy ban hành chánh xã:
- Thưa anh, mời tôi có việc gì ?
Anh công an nộ ngay :
- Ông còn giả bộ hả ? Tối qua ông tụng kinh gõ mõ sao lại đòi diệt trừ Tổng thống ?
- Dạ đâu có, tôi đâu dám.
- Chối hả, tối nào ông cũng rủa và đòi diệt trừ Tổng thống – bằng chứng đây.
Anh công an mở máy, tiếng bác Hương tụng kinh phát ra rõ ràng: Từ ý diệu đại vân, chú cam lồ pháp vũ, diệt trừ phiền não diệm.
Bác Hương cười xòa.
- Anh ơi, đó là kinh Phổ Môn, tôi tụng cầu an hằng đêm, mấy câu đó có nghĩa là “lòng từ như mây lành, cam lồ như mưa pháp, có năng lực diệt trừ lửa phiền não”. Chứ tôi có dám đòi diệt trừ Tổng thống Diệm đâu.
- Không được, nếu có trong kinh thì phải sửa không được xiên xẹo nhắc tên Tổng thống.
Bác Hương lẩm bẩm.
- Trời đất ơi, ông nội tôi cũng không dám sửa kinh Phật – thôi tôi về, từ đây tụng đến câu đó tôi không tụng lớn là được rồi.
- Không được là không được, ông không tụng lớn thì tụng nhỏ, cũng vậy thôi – tôi cấm.
Bác hương im lặng, ậm ự – Kiểu này Tổng thống Diệm chết mình mới tụng được Phổ Môn.
§ Đốt Hết (chuyện năm 1975)
Trước sân Đại học Vạn Hạnh (bây giờ là Đại học Sư phạm) một đống sách báo sắp được thiêu hủy. Trong đó có mấy chục cuốn Trường bộ kinh do Hòa thượng Minh Châu dịch. Thầy quản sự đến xin mấy bộ kinh :
- Đây là Trường bộ kinh, không phải sách báo đồi trụy của chế độ Sài gòn, đừng đốt, tôi xin lại.
- Không được, mấy ông xạo, đó là sách dạy quân sự của Trường bộ binh ngụy, phải đốt, đốt hết. Không xin xỏ gì hết, còn phản động hả ?.
Thầy quản sự đành đứng lên, nhìn mấy bộ kinh dầy cộm in rất đẹp mà lòng quặn thắt – cười ra nước mắt.
§ Tình Ngay Lý Gian
(chuyện năm 1983)
Ở chùa B.L bị con đậu đen. Tăng chúng không có chỗ ngủ phải ra nhà vong ngủ trên tấm ván. Thầy T.T thường đi lang thang vào rừng cao su, 10, 11 giờ tối mới về.
Một hôm, cô D.T ở Sài gòn về tối. Chúng tôi phải nhường bộ ván cho cô ta ngủ. Như thường lệ, thầy T.T về khuya vén mùng lên chui vô nằm bên cạnh rồi kéo mền ra đắp. Cô D.T thức giấc hoảng hồn la ơi ới – thầy T.T cũng hoảng vía vùng chạy, lúng ta lúng túng bởi cái mùng tai hại, còn cái mùng bị rách tươm, cô ta chụp tay thầy… thầy đờ người, trông rất tội nghiệp, chúng tôi cười ngất và giải thích… tình ngay lý gian – thông cảm. Cười huề.
Kẻ Sĩ
v Cảnh 1:
Bác sĩ thành kẻ sĩ
Trong bệnh viện, một ông đại cán bộ đã về hưu (Ông cán bộ này to lắm) nằm trên giường bệnh vì tai biến nặng nên liệt nửa người. Chăm sóc ông ta là bà vợ kế nổi danh đanh đá, quan liêu, cửa quyền, hách dịch.
Bác sĩ Đan Thùy khám xong rồi đi ra. Vợ ông cán bộ gọi lại, trịch thượng:
- Cô Bác sĩ kia ơi, khám gì mà chóng thế, khám lại kỹ xem nào, không được khám qua loa đấy nhá.
Bác sĩ Thùy nhìn lại quắc mắt:
- Tôi chăm sóc cả mấy trăm bệnh nhân, mỗi sáng khám mấy chục bệnh, khám lâu hay mau là quyền của tôi, tôi không phải là Bác sĩ riêng một mình Ngài ta, Bà không có quyền ra lệnh, dù tôi biết Ngài có chế độ chăm sóc đặc biệt.
Bị phản ứng gay gắt, bà vợ ông cán bộ cụt hứng sững người, có lẽ lần đầu tiên bà ta bị… trước nay có ai dám! Ông cán bộ chứng kiến thái độ của hai người, biết vợ mình sai và gặp phải cô Bác sĩ trẻ tuổi mà già gan, nên năn nỉ:
- Cháu cố gắng, chữa giúp Bác, Cháu muốn gì Bác đều có thể….
- Cháu chỉ muốn Bác mau lành bệnh, đó là ước muốn duy nhất, không những với Bác mà với tất cả bệnh nhân.
Cùng với vợ, ông cán bộ sượng mặt, im lặng.
Với cảnh này tôi muốn có một bản Thư pháp tặng Bác sĩ Thùy:
“Uy vũ bất năng khuất
Tiền tài bất năng phục”
Thôi thì tặng cô Bác sĩ này hai chữ Kẻ Sĩ vậy.
v Cảnh 2:
Im lặng sấm sét
Cũng phòng bệnh này, cũng bệnh nhân kia, cũng bà vợ chanh chua đanh đá ấy, giờ nghĩ giải lao, cô Y tá cầm tờ báo “Sức khoẻ” ngồi đọc. Bà vợ ông cán bộ đi vào, giựt và dùng ngay tờ báo đánh vào mặt cô Y tá hét:
- Đến đây để đọc báo hả? Làm việc không lo, bệnh nhân không chăm sóc, ai cho phép đọc báo giờ này?
Cô Y tá trợn đôi mắt nẩy lửa nhìn bà ta chằm chằm với thái độ im lặng mà thách đố: “Nếu Bà đánh thêm một cái nữa sẽ biết “vào quan tài mới nhỏ lệ”. Bà ta không dám nhìn thẳng vào mặt cô Y tá, ngó lơ chỗ khác, cô Y tá lại hướng đôi mắt ấy vào ông cán bộ đang nằm trên giường bệnh như thầm bảo “Tôi chăm sóc chữa bệnh cho Ông, Vợ ông ỷ thế ông là cán bộ lớn, trả ơn tôi thế đó, liệu hồn mà dạy vợ kẻo chết không ai nhìn lại đâu”. Ông cán bộ thấy đôi mắt ấy cũng nhìn qua hướng khác, lắc đầu.
v Cảnh 3:
Lừa ?
Xe hoa Phật Đản đang diễn hành trên Quốc lộ 51, được lệnh quẹo trái quây trở lui. Đoàn xe hoa và mấy trăm Phật tử nhốn nháo bất bình. Thầy M.T bực tức, gặp ngay người lãnh đạo “Mấy ông đừng lừa chúng tôi, lộ trình đã vạch một cách hạn chế, chúng tôi cũng chấp nhận, nay lại bảo quay lui, hạn chế hơn nữa, mấy ông đánh lừa? Còn nói kẹt đường, vậy không có xe hoa đường có kẹt không? Ở Quận 4 cũng vậy, nhưng Ban Đại Diện ở đó quyết tâm “Không cho cũng cứ đi”, không những đi quanh trong phạm vi Quận 4 còn đi qua đường của Quận 1, có ai cấm cản gì đâu? Tốn hằng chục triệu đồng làm xe hoa, đi quanh vườn dầu rồi ra đây là hết. Vậy để làm gì? Không tin tưởng mấy ông nổi”.
Cả đoàn xe lủi thủi quay lui, lệnh của Ban Đại Diện Phật Giáo Huyện, đâu phải Chính quyền mà trách người ta.
v Cảnh 4:
Điệu nhạc lạ tai, tạo cảnh lạ mắt
Trong một lễ cúng dường Trai tăng, Tín chủ đang quỳ đọc lời tác bạch cúng dường. Đạo tràng rất nghiêm trang, từ trên bàn Chứng trai phát ra điệu nhạc rất lạ tai. Người ta thấy vị Thượng Tọa chứng trai nghiêng đầu cúi xuống: “Alô, Thầy đang Chứng minh lễ Trai tăng, có gì quan trọng không? Nửa giờ sau gọi lại”. À, thì té ra cái điệu nhạc lạ tai đó phát ra từ điện thoại di động. Hèn gì, hồi nãy đang chấp tay làm lễ. Thượng Tọa Chủ Sám vén áo thọc tay vào bụng khi điệu nhạc ấy phát ra. Cái đại cảnh này nếu diễn ra dài dài thì ôi thôi, bệnh trầm kha nguy hiểm này hết thuốc chữa! Nguy hiểm hơn bệnh lỡ mồm long móng, nguy hiểm hơn cả bệnh Si đa (HIV).
Chuyện Vui Có Thật
v Tại lễ đài Phật Đản của Tịnh xá N.T. Thượng Tọa chủ sám xướng tụng bài sám Khánh Đản, cả Đạo tràng không thuộc nên im lặng, chỉ một mình Thượng Tọa Sám Chủ tụng được mấy câu, Ngài cũng không thuộc, Duy na, Duyệt chúng cũng lớ ngớ vì không thuộc, thế là… vị Chủ Sám tủm tỉm cười đứng dậy tuyên bố “Thôi, cho qua mục này” cả Đạo tràng tủm tỉm cười theo, thật tự tại và giải thoát.
___*___
v Chùa … (Phan Rang) gần 10 vị Thượng Tọa đến ở lại để hôm sau tham dự lễ Chung thất H.T Đổng Minh. 12 giờ đêm không rõ ai kêu cửa đòi xét hộ khẩu, T.T Trú Trì nói vọng ra “Các Thượng tọa Pháp Lữ tôi đang nghĩ, mai dự lễ, cần gì mai hẳn hay, đêm hôm sợ trộm, cướp, không mở cửa, mời đi chỗ khác chơi”. Gỏ, gọi, gọi gỏ trong chùa vẫn im re, độ 10 phút, buồn tình, ai đó lẩm bẩm “Mấy cha thầy chùa lì thiệt, thôi mình đi”.
___*___
v - Bạch Thầy, C.A mặc thường phục đến đây cả đại đội, xin Thầy cẩn thận. Một Phật Tử báo trình.
- Biết rồi. T.T Trưởng ban tổ chức trả lời. Việc của họ, họ làm. Mình có làm gì sai trái đâu mà ngại.
- Bạch Thầy, vì họ nghe T.T Minh Tâm, Giảng sư của V.H.Đ ra giảng và các Thượng Tọa trong Hội đồng VHĐ ra dự lễ đông.
- Đúng, tôi có nói với Chính quyền điều đó rồi, họ đề phòng vậy thôi, mời họ vào ăn cơm, uống nước để có sức khỏe mà thức… (T.T Trưởng Ban Tổ Chức nói chưa dứt lời, thì một giọng hát của người đứng bên cạnh “Thức trắng đêm nay viết trọn nhật ký của hai chúng mình”).
___*___
v Bước xuống Pháp Tòa, sau buổi giảng, Hòa Thượng Đồng Tâm – Trưởng Ban Trị Sự Tỉnh Ninh Thuận tươi cười đón T.T Giảng Sư với lời tán thưởng :
- Hay quá, cảm động và súc tích vô cùng, có thu băng cho Tiểu Đệ xin.
- Em hổng dám đâu. T.T Minh Tâm trả lời nhại theo giọng nữ nhỏng nhẻo.
Một cán bộ đi tới, T.T Đổng… chỉ T.T Minh Tâm nói:
- Đó, Giảng sư của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN đó. Bây giờ anh yên tâm chưa? Buổi giảng có gì vi phạm Pháp luật thì bắt đi. Tôi đã nói không có gì đâu mà, lo làm chi cho mệt xác, phải không người bạn thân ái của dân?
Mọi người bắt tay cười nói thân mật.
___*___
v Buổi ăn sáng, trên 10 vị Thượng Tọa vui vẻ cười nói, diễn tả chuyện có ai gỏ cửa đòi xét hộ khẩu mà T.T… Trú trì không mở cửa, nên họ nói “Thầy Chùa Lì”. T.T Đức Thành đang ngồi đối diện với T.T Minh Tâm đứng dậy đi qua kéo ghế ngồi một bên cười tươi:
- Ngồi một bên T.T Giảng Sư của Giáo Hội Thống Nhất để hưởng cái mùi PG Thống Nhất một chút.
- Trong đây có đủ Thống nhất, Thống nhì, Thống tam, Thống tứ chỉ thiếu Thống chế mà thôi. T.T C.K lên tiếng góp vui.
- Theo y học Đông phương, T.T.M.T nói, “Thống” tức bất thông, “Thông” tất bất thống. Nhưng ở đây chúng ta “Thống nhất” vì đã thông không bị kẹt gì hết.
- Mình không bị kẹt nhưng người khác kẹt làm mình bị kẹt lây, họ kẹt, mình kẹt, dân kẹt, nước kẹt, cả thế giới kẹt, kẹt lung tung. Chưa có lối thoát.
- Có, ứng dụng giáo lý của Phật là tất cả hết kẹt.
- Hay đáo để – mọi người tán thưởng.
MẤY ĐOẠN PHIM ĐỜI
1) Trên chuyến xe đò chở khách từ Sài Gòn lên Bảo Lộc. Đến ngã ba Vũng Tàu, một hành khách già đón lại, bước lên. Lơ xe hỏi:
- Đi đâu ?
- Dầu Giây.
- Mười ngàn – Lơ xe đòi tiền
- Tám ngàn thôi – Vị khách già trả giá.
- Không được, không đi thì xuống – Vừa nói anh lơ vừa đẩy người khách già xuống xe. Một hành khách trẻ tuổi trong xe lên tiếng :
- Từ đây đến Dầu Giây tám ngàn là được rồi, đừng đẩy mà ông già té.
Bốp, bốp, hai cái tát như trời giáng vào mặt người khách trẻ tuổi mới lên tiếng kèm theo một câu rất không văn hóa :
- Đ…M… mắc mớ gì mày.
Sự kiện bất ngờ, hành khách trong xe giật mình, có người lắc đầu, có người le lưỡi, im lặng, nặng nề. Người khách trẻ tuổi bị đánh đưa tay lau máu mồm chảy ra hai bên mép :
- Tôi nói vậy có gì đâu mà anh đánh tôi ?
- Đ…M… còn nói nữa tao đánh chết mẹ mày, việc của tao ai biểu mày xía vô.
(
Tôi ngao ngán thầm nhủ: một kinh nghiệm, cái thời buổi nhân phẩm con người không hơn ngàn bạc !
(
2) Trên một chuyến xe từ Xuân Sơn lên Sài Gòn, đến Trạm Hai. Một thanh niên độ hai mươi lăm tuổi, bưng một mâm bánh ngọt lên rao bán, xe vẫn chạy, không ai mua, người bán bánh để mâm bánh xuống sàn xe, thở dài, buồn bã, có vẻ thất vọng. Không rõ anh ta nghĩ gì mà thấy anh đưa chân đạp mạnh vào mâm bánh lẩm bẩm “Đ…M… từ sáng đến giờ không bán được cái nào cả, lấy gì ăn…”.
Anh lơ xe hỏi :
- Tiền xe đâu mày?
- Đã bán được đồng nào đâu, em nợ vậy.
- Ừ, khi nào bán đắt nhớ trả tiền xe nghe mày.
Người bán bánh làm thinh.
Đến bến xe Miền Đông, bưng mâm bánh bước xuống, lẩm bẩm: “Đ..M.. cái thời buổi làm ăn lương thiện cũng khó, kiểu này đi ăn cướp mà ăn thôi !”
(
Tôi lạnh người, một cảm giác lạ len vào xương sống: cái thời buổi… lương thiện khó… đi ăn cướp… thanh niên, bưng mâm bánh đi bán rong… chao ôi, cuộc đời…
(
3) Xe khách mười hai chỗ chạy Sài Gòn – Đà Lạt, trên xe đã có 18 người. Đến ngã ba Tam Hiệp có ba người khách một nữ hai nam đón.
- Còn chỗ không ? khách hỏi
- Còn rộng, chủ xe trả lời, đến Hố Nai có mấy người xuống. Chịu khó một chút.
Ba vị khách bước lên ngồi tạm – đến Hố Nai xe vẫn chạy, lại 1 người khách đón – cứ nhét lên. Ba vị khách quá chật không chịu nổi đòi xuống xe – tài xế cứ chạy, nói vói lui.
- Đ…M… đã lên xe đòi xuống cái gì?
Lơ xe tiếp:
- Đ…M… muốn xuống đưa 60.000đ.
- Được, cứ cho chúng tôi xuống – xe dừng. Vị khách nữ bước xuống trước, lơ xe chận lại, cái lối chận rất kỳ cục: hai tay chận ở ngực, chân ấn lên người. Người khách nam dường như Việt Kiều (có lẽ là chồng hay bồ cô gái) hoảng hồn la lớn :
- Đây, đây, sáu chục ngàn đồng đây, thả cô ta xuống.
Xe chạy, tài xế và lơ xe cười hô hố:
- Lợi quá, một cây số, sáu chục ngàn đồng tối nay có tiền nhậu.
Mười chín người khách trên xe nghe rõ, nhìn nhau, một người thở ra thườn thượt lẩm bẩm, có lẽ chỉ một mình tôi nghe :
- Trắng trợn, một cảnh trấn lột công khai, vô lương tâm, đạo đức không có mặt trên xã hội này rồi chăng.
Tôi cười, nói nhỏ vào tai vị khách :
- Đừng bi quan, đó chỉ là một hoạt cảnh trong muôn ngàn hoạt cảnh nhỏ. Có những hoạt cảnh lớn mà tổ tiên ta nói “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”. Và ông khách gật đầu…
THẮC MẮC CHÚT CHÚT
v Năm trước, có một HT/GĐPT ở Nha Trang viết thư hỏi Phật Ân rằng:
- Hôm tang lễ Hòa thượng Trí Nghiêm, H.T Trưởng đoàn đại diện GH/TW nói điếu văn điếu từ gì đó, có nói chữ cử hành “Hôn Lễ” chứ không nói “Tang Lễ” làm buổi lễ mất trang nghiêm. Vậy có ý gì và có ảnh hưởng gì không ?
ĐÁP :
Chúng tôi có trực tiếp nghe, đúng như vậy và chỉ xem như ngài nói lộn mà thôi. Nay có tang lễ Hòa thượng Đổng Minh cũng có người đặt lại vấn đề, nên chúng tôi trân trọng phúc đáp:
Trước hết, giải thích theo Duy Thức học là những ai huân tập chủng tử gì thì hiện hành chủng tử ấy. Nói theo thế gian là “Nghĩ gì nói nấy”, có lẽ HT/ Trưởng đoàn dự nhiều đám cưới nên huân tập danh từ hôn lễ quen rồi nên nói lộn.
Hai, các Thiền Sư chứng ngộ như HT/ Trưởng đoàn thấy tang lễ cũng vui như hôn lễ, vì khi xả bỏ thân mạng đau khổ này như ly dị người chồng người vợ mình đã bất mãn để đến với một thân mới tươi trẻ hơn.
Ba, theo kinh Kim Cang thì từ tang lễ hay hôn lễ đều là giả danh không quan trọng gì cả và H.T hiểu như vậy nên nói chữ gì cũng được.
Bốn, theo hệ thống tổ chức, thì cấp dưới phải phục tùng cấp trên, vì cấp trên không bao giờ sai. HT và vài HT khác là cấp lãnh đạo GH TW hiện nay, bảo tang lễ vui, tuân chỉ, bảo hôn lễ buồn, tuân chỉ, viếng tang không cho nói cảm tưởng, tuân chỉ, điện văn phải kiểm duyệt trước mới phổ biến, tuân chỉ. Nghĩa là Thái hậu buông rèm nhiếp chính thì các Triều thần chỉ biết cúi đầu “Tuân Chỉ”.
v Tâm Ngộ. Khuôn Giáo hội Thuận An – Huế.
HỎI : Chùa Nguyên Phong có phải là tiền thân của Phật Ân ngày nay và tên báo cũng vậy?
ĐÁP :
Đúng, tên báo là lấy tên chùa nên chùa đổi tên thì báo cũng đổi theo. Hơn nữa Tăng chúng ở đây nhờ ân đức của Phật, nên phải nỗ lực tu trì để báo Phật thâm ân.
v Em Nguyên Trung GĐPT Xuyên Mộc.
HỎI : Anh C và T trong phân ban HD Nam, Nữ Phật Tử TW tặng phân ban HD/GĐPT-BRVT trong lễ ra mắt cái huy hiệu Hoa Sen màu vàng trên nền đỏ là ý gì ?
ĐÁP :
Huy hiệu Hoa Sen trắng trên nền xanh lá mạ, ý nghĩa như em đã biết. Còn Hoa Sen vàng trên nền đỏ đó là “Mốt Mới” trong thời đại mới của cái tổ chức GĐPT mới, có liên quan gì GĐPT truyền thống đâu mà em thắc mắc. Muốn rõ hơn em trực tiếp hỏi 2 anh đó thử xem. Họ là HT Cấp Dũng và Cấp Tấn đấy.
v Đạo hữu Nguyên Phương Bình Định.
HỎI : Sinh hoạt PG trước năm 1975 có rất nhiều báo chí. Nay có mấy tờ? Và như vậy có chuyển tải được nhu cầu thông tin và học hỏi của Phật tử không?
ĐÁP :
Trước năm 1975 PG có rất nhiều báo chí. Nay chỉ có tờ Giác Ngộ của thành hội PG thành phố HCM. Tờ báo này của Hòa thượng Trí Quảng phổ biến tư tưởng của Ngài cũng đủ, nhiều làm gì cho tốn giấy. Còn chuyển tải ư? Chuyển gì chứ chuyển tải Phật Pháp thì khó nói quá. Tuy vậy, ai cũng biết, sao ĐH giả mù ? Giả hỏi ngớ ngẫn. Cười thôi.
v Thầy Nguyên Thiện và Tâm Trung trường Phật Học ĐN và NT.
HỎI: Hiến chương của GHPGVNTN trong Tổng Vụ Thanh Niên có mấy vụ? Bây giờ có còn sinh hoạt vụ nào? và Hướng Đạo PG có nằm trong phân ban nào hiện nay không?
ĐÁP :
Hệ thống tổ chức của GHPGVNTN rất minh bạch, Viện Hóa Đạo điều khiển 8 tổng vụ là : Tổng Vụ Tăng Sự, Tổng Vụ Hoằng Pháp, Tổng Vụ Văn Hóa, Tổng Vụ Giáo Dục, Tổng Vụ Cư Sĩ, Tổng Vụ Xã Hội, Tổng Vụ Thanh Niên và Tổng Vụ Kiến Thiết. Các tổng vụ điều hành các vụ như : Tổng Vụ Cư Sĩ thì có 3 vụ :
Phật Tử Chuyên Nghiệp Vụ, Phật Tử Sắc Tộc Vụ, Thiện Tín Vụ.
Riêng Tổng Vụ Thanh Niên có 6 vụ : Gia Đình Phật Tử Vụ, Thanh Niên Phật Tử Vụ, Sinh Viên Phật Tử Vụ, Học Sinh Phật Tử Vụ, Hướng Đạo Phật Giáo Vụ, Thanh Niên Thiện Chí Vụ.
Sau 1975, vì thời cuộc, tất cả các vụ đều tê liệt chỉ còn GĐPT VuÏ sinh hoạt như một người con lang thang tự sống. Nhưng vẫn sinh hoạt được nhờ tinh thần chịu đựng kiên cường, bất khuất. Vì cha mẹ anh em ly tán, người ở tù hoặc chết, kẻ đi xa, người sang ngang rẽ bước. Và hiện nay thì các Ngài lãnh đạo tối cao của GHPGVNTN đòi đựơc phục hoạt. Đặc biệt phong trào Hướng Đạo, một tổ chức có tầm vóc Quốc Tế và thành phần không chỉ có Thanh Thiếu Đồng Niên Phật Giáo mà có đủ tất cả các Tôn Giáo khác và những người không Tôn Giáo nên vẫn âm thầm sinh hoạt và lần lượt công khai sinh hoạt, nhờ trước đây Bác Hồ cũng là vị Chủ tịch Danh dự của hội Hướng Đạo Việt Nam. Bộ Tổng Uỷ viên của Hướng Đạo VN có các Trưởng mà đã có chân trong Trung Ương Đảng đang cầm quyền như Trưởng Hoàng Đạo Thúy chẳng hạn. Nhưng Hướng Đạo Phật Giáo Vụ hiện nay chẳng ai quan tâm trong lúc các Tôn Giáo khác đều có người lãnh đạo, hướng dẫn về mặt tinh thần (tâm linh) cho các Hướng Đạo Sinh của họ mà Phật Giáo thì… miễn bàn. Tuy nhiên, nhiều Trưởng Hướng Đạo Phật Tử tỏ ra rất chí khí, ngoan cường, trượng phu, đáng khâm phục.
Lại Thắc Mắc
- Đạo hữu: Tâm Phương (Sài Gòn), Thiện Phước (Mỹ Tho)
HỎI: Theo chúng tôi biết, sau ba tháng An Cư chư Tăng mới tính được một tuổi Hạ. Cạnh nhà tôi có một vị bán thế xuất gia mới 5 năm người ta đã gọi là thượng tọa và khi ông bị đột tử, trong tiểu sử lễ truy niệm, đã có điếu văn ghi ông là 5 hạ lạp là sao? Và tôi cũng biết rõ là ông không hề An Cư năm nào cả. Như vậy đúng không?
ĐÁP:
Vấn đề An Cư Hạ Lạp là sinh hoạt trong Tăng giới, có Tăng đoàn giải quyết, Phật tử tại gia không nên thắc mắc. Tuy nhiên, cụ thể như các đạo hữu đã thấy, đã hỏi, nếu không trả lời sẽ gây hiểu lầm và thắc mắc thêm, nên Phật Ân xin trả lời rằng: Đúng là Tăng phải An Cư Kiết Hạ 3 tháng trong một năm mới tính một tuổi hạ, nếu năm nào vị đó không An Cư thì không có tuổi Hạ nào cả. Dù đã thọ đại giới (Tỳ kheo) 5 năm, 10 năm, 20 năm cũng vậy. Nhưng gần đây giáo hội đã có văn thư số……. ngày……. không tính Hạ Lạp nữa và tính giới lạp cho nên vị Tỳ kheo ấy nếu đã thọ Tỳ kheo 5 năm rồi thì họ có 5 tuổi Giới Lạp (như GH này đã ấn định) còn không An Cư năm nào mà tính Hạ Lạp là hoàn toàn sai. Vị nào bên cạnh nhà đạo hữu mới xuất gia 5 năm mà gọi là thượng tọa thì lại quá sai. Tình trạng tự cạo tóc làm thầy từ 1981 đến bây giờ có nhiều lắm. Do các bệnh cầu danh, cầu tướng, lạm xưng, lạm dụng, dựa quyền, cậy thế làm rối loạn thiền môn, đảo lộn tôn ty trật tự trong Tăng giới là pháp nạn làm đau đầu chúng ta hôm nay và hậu quả không biết bao giờ mới khắc phục được. Chia xẻ, niềm đau chung. Còn lỗi đó do ai thì đã quá rõ. Trước đây trong GHPGVNTN không thấy có hiện tượng này.
- Đạo hữu Nguyên Trực (Phan Rang)
HỎI: Trong Tổng Vụ Cư Sĩ của GHPGVNTN có mấy vụ và sinh hoạt thế nào? Cho biết đại cương.
ĐÁP:
Hiến chương của GHPGVNTN, Tổng Vụ Cư Sĩ có ba vụ: Phật tử Chuyên Nghiệp Vụ, Phật tử Sắc Tộc Vụ và Thiện Tín Vụ. Tất cả đều là nam nữ Phật tử tại gia, có người đã Quy Y Tam Bảo, cũng có người chỉ mới có cảm tình hay mới tìm hiểu Phật giáo nhưng chấp nhận tôn chỉ, mục đích của Giáo hội mà tham gia sinh hoạt. Đứng đầu mỗi vụ có vị Vụ Trưởng, có văn phòng điều hành, có cán bộ đảm trách chuyên môn, hướng dẫn tín đồ tu học và sinh hoạt theo chuyên môn ngành nghề trong xã hội.
Ví dụ: tại Sài Gòn, từ năm 1964 đến 1969 đã có 26 đoàn Phật tử được thành lập nằm trong Phật tử chuyên nghiệp như: Đoàn Phật tử hỏa xa, xe lam, xe đò, taxi, xích lô máy, xích lô đạp, nghề may mặc, nghề in ấn, đông y, kiến trúc, công nhân các xí nghiệp, công nhân thương cảng, giáo chức, tiểu thương các chợ, tư chức tự do, công nhân tự do, nhân viên ngân hàng, bộ canh nông, bộ tâm lý chiến, nha khảo cứu, Phật tử hãng hàng không VN, văn nghệ sĩ, nha khoa, y khoa…
Đó là những Phật tử mưu sinh ngoài xã hội nhưng không quên kết đoàn để cùng nhau tu học, trau dồi đức hạnh, để tạo dựng hạnh phúc gia đình góp phần đắc lực trong việc xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, an lạc hơn.
Sắc tộc vụ là lo hướng dẫn việc tu học của Phật tử các sắc tộc thiểu số ở các buôn làng. Thiện tín vụ là lo tổ chức các đạo tràng, các khuôn giáo hội, các chúng nam nữ cư sĩ ở các chùa, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường…
Cần nói thêm là Hiến Chương của Giáo hội mới không có các vụ này vì người ta không muốn Phật giáo có quần chúng. Vì vậy, GHPGVNTN có tổ chức quần chúng Phật tử như cái tháp có chân, Giáo hội bây giờ là cái tháp lộn ngược là vậy.
|
- Em Đắc Trung (GĐPT Quảng Trị).
HỎI: Tại sao bây giờ có người nói “Chỉ Quy Y nhị bảo là Phật và Pháp Bảo mà không quy y Tăng Bảo?
ĐÁP:
Nếu Phật tử nào mà nói câu này thì không phải là Phật tử chơn chánh, không hiểu biết sâu giáo lý của Phật, mang tâm lý ngã mạng, cố chấp, Phật giáo khó chấp nhận những Phật tử có tư tưởng sai trái này nếu không sửa đổi.
Tuy vậy, nếu phân tích kỹ tâm lý các Phật tử này thì họ cũng có lý do để nói câu đó, cần khai thông sự bế tắc tâm lý cho họ chứ không nên đả kích làm họ lâm vào ngõ cụt thì cũng tội cho họ hơn nữa (thật ra họ rất đáng thương) em nên khuyên họ “mía sâu có đốt, đừng vơ đũa cả nắm” hơn nữa trong Phật bảo có Pháp Bảo, có Tăng Bảo, trong Tăng Bảo có Phật bảo, Pháp Bảo, nên Phật dạy “Tin Phật mà không hiểu Phật là phỉ báng Phật” là ở đó.
- Đạo hữu Ngọc và Tư Lô ở Tân Phú, Đạo hữu Loan ở Cam Ranh.
HỎI: Cư sĩ Phật tử đi tụng kinh Cầu An, Cầu Siêu cũng có nhận tiền công đức, nhận quà trai Tăng, đúng không?
ĐÁP:
Đã gọi là trai Tăng thì cư sĩ đâu phải là Tăng mà nhận tứ sự cúng dường! Còn việc đi tụng kinh là bòn phước đức mà nhận tiền công đức thì đâu còn phước đức nữa. Không khéo các cư sĩ đó đi tụng kinh trở thành nghề làm ăn thì nguy cho Phật pháp lắm và chắc chắn họ sẽ đọa không ai cứu nỗi. Nên khuyên họ chấm dứt. Thật ra nếu có nhận tiền hoặc quà, xét cũng chẳng bao nhiêu mà tội lỗi thì rất nặng nề. Không bì được với chư Tăng vì các Ngài là ruộng phước để chúng sanh gieo giống. Hoàn toàn khác hẳn với cư sĩ.
- Đạo hữu Xuân (Huế), Đạo hữu Ngọc Nga (Tuy Hòa).
HỎI: Cư sĩ có vổ thủ xích, thuyết linh được không?
ĐÁP:
Việc này là của chư Tăng, cư sĩ chưa có giới pháp, chưa học kỹ khoa nghi thì vổ thủ xích sao được, cư sĩ vổ thủ xích là hoàn toàn sai, nên chấm dứt việc làm sai pháp này. Thuyết linh cũng vậy, thuyết linh là một hình thức thuyết pháp, khai thị cho hương linh. Người cư sĩ chỉ nên hành lễ cầu siêu nếu cần và muốn thì đối trước hương linh chia xẻ niềm đau với tang chủ và lời khuyên với hương linh như dạng điếu văn chứ không nên thuyết linh.
Xin nói thêm: Vấn đế nghi lễ rất cần thiết, là phương tiện dẫn dắt người vào đạo, chư Tăng có chức năng của Tăng là ngôi thứ ba trong Tam Bảo, có khoa nghi riêng mà chỉ có Tăng mới hành trì. Còn cư sĩ là người tại gia có bổn phận trong phạm vi của cư sĩ, có những việc của cư sĩ phải làm mà chư Tăng không làm được và ngược lại. Không nên với tay quá cao, quá dài mà khả năng, tư cách, điều kiện không cho phép sẽ tổn hại âm đức của mình và làm cho sự sinh hoạt trong Giáo hội trở thành rối loạn, rất tai hại.
- Huynh trưởng Hoa, Xuân GĐPT Phú Vang (Huế), Hải (Đà Nẵng), Kim Hoa (Quy Nhơn)
HỎI: Cư sĩ (ban nghi lễ các đạo tràng) đi làm lễ Cầu An, Cầu Siêu, An Vị tư gia có sái tịnh được không?
ĐÁP:
Điều ngẫu nhiên hay có hợp đồng mà ba vị ở ba nơi xa nhau mà cùng một câu hỏi trùng hợp, kể cũng lạ. Xin trả lời rằng: Cư sĩ, được hay không được phép sái tịnh sẽ tùy nơi tùy việc mà thực hiện. Nếu ở những nơi biên địa không có Tăng Ni mà cư sĩ phải gánh vác việc tụng kinh đám tang mà cần phải sái tịnh Quan Tài (trong lễ Nhập Quan), Trị Huyệt (trong lễ Hạ Huyệt) thì có thể linh động để cho buổi lễ trang nghiêm và Hương Linh nhờ oai lực nghe kinh chú mà giải thoát, nhưng điều quan trọng hơn hết là vị cư sĩ đó phải nhiếp tâm, giữ chánh niệm cho thân, khẩu, ý thanh tịnh mới nên sử dụng nghi thức sái tịnh, còn cảm thấy tâm bị tạp niệm, ý bị tà niệm thì làm sao mà sái tịnh! Đã không có công năng lại có thể bị tà tâm sai sử thì rất nguy hại. Thiết nghĩ như thế không nên làm. Riêng lễ an vị thánh tượng tại các tư gia Phật tử, nên cố tìm thỉnh chư Tăng chứng minh chủ lễ, các vị Phật tử tại gia (cư sĩ) thành tâm trợ niệm, nếu không mời thỉnh được chư Tăng thì ban nghi lễ cư sĩ chỉ nên theo nghi thức Cầu An, Sám Hối, Cầu Siêu… mà tụng niệm, tuyệt đối đừng thấy chư Tăng sái tịnh, khai quan, điểm nhãn rồi bắt chước là điều không nên.
- Chị Lan Hương và Thanh Trung DAKLAK (BMT).
HỎI: GĐPT/VN đã có nội quy, quy chế sao có người muốn soạn nội quy mới? Và tại sao trong Hiến Chương của Giáo hội hiện nay không thấy có tên BHD/TW/VN?
ĐÁP:
Thắc mắc về tổ chức GĐPT, quý chị nên hỏi Ban Biên Tập Sen Trắng thì rõ ràng hơn, còn quý vị muốn Phật Ân trả lời cũng xin đáp ứng theo sự hiểu biết nông cạn rằng: Trên nguyên tắc, thừa nhận một tổ chức thì phải thừa nhận nội quy và quy chế của tổ chức đó, nếu chỉ thừa nhận trên danh nghĩa thì chưa phải là thừa nhận, còn muốn soạn một nội quy khác thì phải thành lập một tổ chức khác chứ không thể làm cái việc treo đầu dê bán thịt cầy, đó là một cách lạm xưng trong mưu đồ phá hoại. Trường hợp khác, thừa nhận tổ chức đó nhưng thấy nội quy có nhiều điều không phù hợp, cần sửa đổi, tu chỉnh thì phải có đại hội của các cấp thẩm quyền theo đúng nội quy rồi đề nghị sửa đổi và được đại hội chấp thuận. Còn việc áp đặt, âm thầm sửa đổi nội quy là sai, không ai chấp nhận được, nhất là áp đặt nhân sự lãnh đạo lại càng không nên, vừa thiếu tính dân chủ, thiếu trung thực, thiếu tôn trọng. Tổ chức trở thành độc tài, quyết đoán, kẻ sĩ bất phục trở thành bất tuân, trừ những kẻ xu thế chạy theo để kiếm chút danh, chút lợi như một số H.T hiện nay. Và câu hỏi thứ hai thì quý vị nên biết rằng người ta không muốn có ban HD/TW như nội quy GĐPT truyền thống mà biến thái là phân ban HD/GĐPT. Ngay cả trong Hiến Chương của Giáo hội đại hội kỳ I, đại hội kỳ II cũng không đề cập đến GĐPT, người ta muốn triệt tiêu mà không được, đến đại hội kỳ III mới ghi vào cho có lệ vì không giết được nên tha làm phúc, đến nay thì phải thừa nhận đó là một thực thể đã có, cần có nên phải thừa nhận nhưng bắt phải đăng ký, làm lễ để ra mắt, đơn vị nào dù đã có sinh hoạt ba, bốn chục năm nay mà không chịu đăng ký, họ cũng xem là ngoài Giáo hội, phải triệt hạ. Như vậy có khác gì bắt một người 4, 5 mươi tuổi phải khai là mới sinh mới cho sống bằng không là phải chết, điều này chỉ có tại Việt Nam mà chỉ có trong GHPGVN mà thôi!
*
Những gì các vị đã hỏi, chúng tôi trả lời theo sự hiểu biết có phần hạn chế của mình, nếu chưa vừa ý hoặc có những điều chưa chính xác, xin nhờ các bậc cao minh chỉ giáo thêm. Phật Ân xin trân trọng lễ tạ.
CỨ HỎI
- PT. Kim Liên (Long Thành)
HỎI: Sư cô bổn sư con có dạy rằng quy y chùa này thì chỉ đi một chùa này thôi, không được đi chùa khác, nếu đi chùa khác thì có tội phản thầy. Con muốn đi nhiều chùa nữa mà ngại bị tội phản thầy. Xin cho con biết như vậy là sao?
ĐÁP:
Có lẽ sư cô thương chị nhiều hơn nên muốn giữ chị lại sợ chị đi nhiều chùa thì mất đệ tử chăng? Còn phản thầy hay không là do tâm của đệ tử chứ không phải đi nhiều chùa là có tội ấy. Tội ấy do sư cô của chị đặt ra thôi. Ăn cơm với một món duy nhất suốt đời chắc chán lắm.
- Bà Sáu (Long Thành)
HỎI: Phật tử đi chùa mà chia rẽ, nhóm này, nhóm nọ, chê bai, châm biếm nhau có đúng không?
ĐÁP:
Đã chia rẽ, châm biếm nhau thì đã quá sai, quá xấu, đúng sao được. Cô có nghe câu:
“Mỗi người mỗi nước mỗi non
Bước vào cửa Phật như con một nhà”
Vậy đã là con một nhà mà chia rẽ, đố kỵ nhau thì coi sao được. Hơn nữa, đã là người Phật tử thì ăn nói hòa nhã, tươi vui, thành thật mới gọi là Phật tử. Còn nói châm biếm, xoi bói nhau thì đâu có tư cách con Phật. Nếu có thì họ là con của ma lẫn vào chùa để phá Phật đó.
- Bé Loan và Tâm Định (BRVT)
HỎI: GĐPT trước đây chỉ là một, khi có giáo hội này ra đời thì bị chia hai, là sao?
ĐÁP:
Việc GĐPT em nên hỏi ban biên tập Sen Trắng. Ở đây xin trả lời ngắn gọn rằng “GĐPT trên 60 năm qua chỉ là một. Khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành lập năm 1981 hiến chương không có mặt GĐPT trong Giáo hội này. Nhưng thực tế GĐPT/VN vẫn tồn tại cho đến Đại hội kỳ III Giáo hội mới thừa nhận và kéo vào trong phân ban HD nam nữ cư sĩ, rồi bắt đăng ký xin gia nhập Giáo hội mới hợp pháp. Do đó mới chia ra hai giáo phái (tạm gọi như thế) phái trung thành với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất gọi là truyền thống. Phái xin đăng ký sinh hoạt với Giáo hội mới này gọi là Phân ban. Nên nói thêm cho em biết là Giáo hội thì có hai nhưng Phật giáo Việt Nam chỉ là một và Phật tử Việt Nam cũng chỉ là một, còn GĐPT cũng bị chia hai. Điều này chẳng có gì khó hiểu, vì là nằm theo Giáo hội. Còn nếu không Giáo hội thì cũng là một mà thôi”.
- Đạo hữu Quế (Long Khánh)
HỎI: Đặc trách nam nữ cư sĩ của tỉnh Đồng Nai qua mấy lần thay đổi nhân sự, thầy P.T., thầy H.Đ. đến nay thì thầy H.T. đều không điều khiển được GĐPT, nay thầy H.T. nói có thể vô hiệu hóa phân ban là sao?
ĐÁP:
Đạo hữu nên trực tiếp hỏi thầy H.T. Nhưng theo Phật Ân biết thì các vị trước đây không điều khiển được GĐPT/ĐN vì cơ chế ràng buộc vô lý. Nay thầy H.T. nói như vậy tức là thấy được điểm vô lý ấy. Nhưng liệu có giải thể được phân ban? Vì đó là hiến chương, cũng như thầy Q.H. ở BRVT khi mời thầy Q.N. và thầy T.T. cũng nói như thế, nhưng đó là một vài địa phương muốn kéo GĐPT truyền thống vào tròng của Giáo hội. Đại hội sắp tới có lẽ vấn đề này sẽ được chỉ đạo sửa đổi hiến chương với ý đồ đồng hóa. Liệu H.T. và các BHD sẽ thấy vấn đề như thế nào? Đó là câu hỏi chung của tất cả H.T. và đoàn sinh GĐPT/VN trong những ngày sắp tới.
- Hân (BMT), Kiếm (TT) và Nga (Tuy Hòa)
HỎI: Băng đĩa giảng pháp bây giờ quá nhiều, có nhiều đĩa rất hay nhưng có nhiều đĩa nghe sao tào lao quá, vậy là sao?
ĐÁP:
Tình trạng này là nạn kiếp của Phật giáo vì Giáo hội không có giáo quyền, người phụ trách văn hóa Phật giáo và hoằng pháp của Phật giáo rất bất lực và cũng có thể nói là bất tài nên không có đường lối hoằng pháp rõ rệt, mạnh ai nấy làm, không có kiểm soát, kiểm định, không có người san định duyệt khán, lại thêm vì kinh tế, lợi dụng sự cả tin của tín đồ mà kiếm chát của một thiểu số tham tâm in, sang, phát hành lậu. Trên thị trường văn hóa, ca nhạc, sách vở in lậu, phát hành lậu, đạo văn, đạo thơ, đạo nhạc xảy ra thường xuyên, thì Phật giáo cũng bị lây cái bệnh ấy với xã hội. Các đạo hữu biết rồi vậy thì đĩa nào hay nên nghe, thầy nào giảng đúng nên theo và ngược lại thì “xin chào chia tay” thắc mắc làm chi cho mệt. Chúc vui.
- Anh Thư (Sài Gòn), Ngọc (Phan Thiết)
HỎI: Nghe nói trong luật Phật người trên 70 tuổi không được thọ đại giới, vì sao? Nhưng hiện nay có người gần 80 tuổi hom hem run rẩy vẫn được thọ giới là sao?
ĐÁP:
Đã gọi là luật thì không ai có quyền thay đổi. Luật của người xuất gia, cư sĩ không nên biết, không nên tò mò. Còn việc hiện nay có nhiều vị gần 80 tuổi mà bổn sư hoặc ban kiến đàn cho thọ giới, có lẽ vì một lý do nào đó, cứ xem đó là hiện tượng bất thường mà thôi. Sở dĩ luật không cho người trên 70 tuổi thọ đại giới là vì sợ vị đó không đủ sức khỏe, đủ sáng suốt, đủ nhạy bén để làm tròn bổn phận cao cả, thiêng liêng, nặng nhọc của một tỳ kheo mà thôi, chứ không phải là không muốn vị đó tu vì vậy nên với tuổi lớn như thế cho thọ Sa Di Bồ Tát giới mà vị ấy giữ cho tròn cũng không dễ.
- Thủy + Chung (Hạ Long)
HỎI: Theo tập tục Việt Nam xưa nay, nếu Tiểu tường và Đại tường gặp năm có tháng nhuận thì tính thế nào?
ĐÁP:
Nếu gặp năm có tháng nhuận thì tính đủ tháng (nghĩa là tiểu tường thì đúng 12 tháng). Nếu đại tường thì đúng 24 tháng, vì nếu tính tháng nhuận sẽ thành 13 tháng hay 25 tháng nên phải trụt lui một tháng mới đúng con số 12 hoặc 24. Ví dụ người chết tháng 4, năm đó nhuận tháng 5 tức hai tháng 5, nên tiểu tường cử hành vào tháng 3, còn nếu để đúng tháng 4 sẽ dội thành 13 tháng. Đại tường cũng tính như vậy, nhưng đến năm thứ 3, tức là đến ngày húy nhật thì không còn tính nhuần nữa mà cứ đúng tháng là cử hành lễ.
- Em Hoài Lâm (Huế)
HỎI: Em có nghe câu “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu”. Em thấy có cái gì đó không ổn. Theo ý Phật Ân thấy thế nào?
ĐÁP:
Câu này xuất phát từ tư tưởng phong kiến, đề cao chữ trung và chữ hiếu cũng có ý hay của chữ nghĩa. Nhưng cũng có câu “Quân bất minh, thần bất trung; Phụ bất từ, tử bất hiếu” cũng nói lên một tư tưởng khác nữa vì nếu gặp hôn quân vô đạo mà bảo sao nghe vậy kể cả việc “bảo chết một cách vô lý vẫn chết” thì đó là kẻ “ngu trung”. Nên áp dụng chữ Hiếu, chữ Trung phải có trí tuệ. Còn cứ nhắm mắt tuân hành dù điều đó sai trái. Thì Hoài Lâm ơi “si mê lầm lạc” là cái chắc.
- Thầy Phú, Lệ Trung, Nguyên Hạnh (Nha Trang)
HỎI: Vừa rồi, có xem một đĩa ghi hình cuộc hội luận các nhà trí thức Phật giáo tại chùa Pháp Vân (Sài Gòn). Có một đại biểu nói: “Chúng ta yêu cầu Giáo hội phục hồi các đoàn thể thanh niên Phật tử nằm trong tổng vụ thanh niên và hệ thống trường Bồ Đề, Đại học Vạn Hạnh nằm trong tổng vụ giáo dục như của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN Phật giáo mới đóng góp được vào nền giáo dục quốc dân, cải tiến xã hội, nhất là lớp trẻ bây giờ đang trên đà đi xuống về đời sống đạo đức, tâm linh, nguy hại cho đất nước”. Chúng tôi đồng tình ý kiến này vậy kết quả ra sao? Vì có thấy đại diện Phật Ân tham dự buổi hội luận ấy.
ĐÁP:
Chúng tôi xác nhận là có ba (3) đại biểu của Phật Ân tham dự buổi hội luận ấy, cũng có nghe rõ và đồng tình ý kiến ấy. Nhưng, nói để mà nói, nghe để mà nghe, còn thực tế Giáo hội Phật giáo Việt Nam có dám làm, dám đề xuất, dám sửa đổi hiến chương hay không lại là vấn đề khác. Vì vậy, 25 năm rồi với cơ chế như hiện nay Phật giáo không những đứng lại mà còn có cơ tụt hậu, còn nghe báo cáo láo, thống kê dỏm, trình bày sáo, tường thuật đểu, thì… thành tích rất ư chi là “cái trống đại”. Ngoài ra, còn các yếu tố khác nữa nhất là những người có trách nhiệm và quyền hạn tối cao có muốn để Phật giáo mạnh hay không? Có muốn Phật giáo góp sức xây dựng đất nước hay không? Ngày mai trời lại sáng, sau cơn mưa trời lại đẹp. Hãy chờ, có dài cổ cũng phải chờ.
- Cô Tám (Đà Nẵng), Phong (Quy Nhơn)
HỎI: Con có nghe câu “Sư tử trùng thực Sư tử nhục” trong một băng giảng nói về Phật giáo và GĐPT hiện nay, là sao?
ĐÁP:
Câu này có ý nói chỉ có vi trùng trong Sư tử mới ăn được thịt Sư tử mà thôi, băng giảng nào đó nói về tình hình Phật giáo bây giờ là như thế. Nghĩa là chỉ có người trong Phật giáo phá Phật giáo được chứ người ngoài không thể phá Phật giáo nổi, đệ tử Phật làm hoen ố đạo Phật. HT GĐPT chia rẽ và làm GĐPT tan nát mà thôi. Không những hiện nay mà quá khứ cũng có như thế.
- Bạn Trí Dũng (Mỹ), Long (Sài Gòn)
HỎI: Tại sao trong hiến chương Giáo hội không có nói đến Đạo kỳ và Đạo ca?
ĐÁP:
Câu này có lẽ chỉ có ông Đỗ Trung Hiếu (tức Mười Anh) và HT Trí Tịnh mới trả lời chính xác. Riêng Phật Ân, biết theo thiển ý là Hiến chương Giáo hội này nếu do các bậc tôn túc Phật giáo soạn thảo thì chắc chắc đã có Đạo kỳ và Đạo ca. Ngay cả tổ chức GĐPT một thực thể sờ sờ có hàng triệu đoàn viên trên năm mươi năm qua hiện hữu, họ cũng muốn quên (không thừa nhận) huống gì là Đạo ca, Đạo kỳ!
HỎI: Vừa rồi Giáo hội tổ chức lễ 25 năm ngày thành lập để làm gì vậy? Mất công tốn của, sao có vẻ hề quá vậy?
ĐÁP:
Đã biết là trò hề sao còn hỏi. Tiền không đau xương mỏi gối thì xài tự do là lẽ thường, còn mất công? Để thì giờ làm gì chẳng vẽ rắn thêm chân cho nó vui, chứ họ rỗi quá để thời giờ làm gì! Nên hỏi các ngài Trí Tịnh, Trí Quảng, Hiển Pháp, Thanh Tứ sao lại hỏi Phật Ân!
Vì số trang có hạn, Phật Ân nhận rất nhiều câu hỏi, trong một số trang không thể giải đáp hết. Xin các bạn thông cảm, hẹn giải đáp những câu hỏi này ở các số sau.
- Ngọc Diệp (Long Thành)
HỎI: Lễ Phật Đản vừa qua, con nghe nói là lễ Vesak nghĩa là gì?
ĐÁP:
Vesak có nghĩa là tam hợp lịch sử Đức Phật có các ngày lễ lớn: Đản Sanh, Thành Đạo và Nhập Diệt. Phật tử tổ chức kỷ niệm chung để tưởng nhớ công ơn Đức Phật gọi là lễ tam hợp.
- Liên, Phú (Ngãi Giao)
HỎI: Trong lễ Khánh thành chùa Từ Quang vừa qua. TT. GH (Ban Đạo từ) xác định 2 điều, Phật tử chúng tôi nghe rất chướng tai là:
- 1. Chùa làm xong để tu học, tu học theo GHPGVN mới đúng chánh pháp còn theo bất cứ Giáo hội nào đều sai chánh pháp.
- 2. GHPGVN là thành viên trung thành của Mặt Trận Tổ Quốc. Vậy đúng hay sai?
ĐÁP:
Các đạo hữu nên tìm TT. GH mà hỏi thì tốt hơn.
Tuy nhiên, theo Phật Ân thì gọi là Đạo từ nên ngôn ngữ tác phong cho đúng cách lãnh đạo đúng chánh pháp, không nên lợi dụng diễn đàn để tuyên truyền theo thói đời, theo thế quyền, ngoài ra việc xác định chỉ có GHPGVN mới đúng chánh pháp thì chắc chắn là không đúng rồi lại thêm Giáo hội này là thành viên trung thành của Mặt Trận Tổ Quốc thì tùy Giáo hội, còn bảo chúng ta phải trung thành như họ thì không những chướng tai mà chắc phải đi rửa tai nữa là khác. Hơn nữa, người Phật tử VN chỉ trung thành với chánh pháp, trung thành với Tổ quốc VN mà thôi vì chỉ có chánh pháp với Dân tộc với Tổ quốc thì mới trường tồn, vĩnh viễn.
- Em Quảng Như, Quảng Tâm (Phan Thiết)
HỎI: Nghe nói người ta đã bán Việt Nam Quốc Tự rồi phải không? Ai bán?
ĐÁP:
Phật Ân cũng nghe nói như vậy, nhưng chưa có gì cụ thể chính thức, hy vọng rằng chỉ là tin vịt, còn nếu đó là sự thật thì “chuyện động trời” chứ không phải động đất – động đất thì nhà sập, cây đổ, đường hư, người chết. Còn động trời thì cả quả địa cầu bể vụn. Hãy chuẩn bị đi thì vừa.
- Quyền (Phan Rang), Kim (Nha Trang), Chi, Nga (Tuy Hòa), Hoa, Vân (Huế)
HỎI: Thời Pháp thuộc, người ta phá chùa để làm nhà thờ trên nền chùa, như ở La Vang, Nha Trang, Hà Nội, Sài Gòn… Bây giờ đã độc lập sao Phật giáo không đòi lại?
ĐÁP:
Đây là việc quốc gia đại sự, để chính quyền và Giáo hội lo, để lịch sử ghi nhận, hậu thế phán xét theo lẽ công bằng, chơn thiệt bất hư. Nói cho vui rằng “phụng sự chúng sanh” thì không đòi lại cũng là một hình thức phụng sự. Hơn nữa, đòi lại làm gì? Để làm chùa lại lên đó ư? Phật giáo đã có nhiều chùa rồi, thêm vài cái chùa nữa, Phật giáo có mạnh hơn lên không? Bố thí bao giờ cũng có phước!
- Tâm Hồng (Úc)
HỎI: Em muốn biết, tình hình GĐPT ở Việt Nam?
ĐÁP:
Em hỏi BHD/GĐPT ở Úc, chắc biết rõ vì các anh đó thường liên lạc với nhau. Hoặc hỏi thẳng BHD/TW anh Châu, anh Minh, anh Khôi sẽ biết rõ ràng hơn. Phật Ân biết nhưng ít chính xác bằng các anh đó.
- Phú, Minh, Đức (Sài Gòn)
HỎI: 1. Đọc quyển “Đạo tình, những niềm cảm xúc” của thầy MT. Có đoạn nói về Bồ tát Quảng Đức, thầy có hỏi “ba mươi lăm năm qua, ba mươi lăm mùa lá rụng. Ai quên, ai nhớ, ai phản bội, ai trung thành”. Thầy muốn ám chỉ ai không? Sao không nói rõ?
2. Một câu khác, thầy viết “muốn giữ nước phải lo giữ Đạo của nước, Đạo giữ nước chứ không phải Đạo cướp nước. Phật giáo là Đạo của nước, thương nước phải thương Đạo, mến Đạo, phải yêu nước, phá đạo của nước tức là bán nước”. Điều này có chủ quan lắm không?
ĐÁP:
Đây là 2 câu trong bài giảng về Bồ tát Quảng Đức tự thiêu năm 1963 mà thầy MT đã giảng sau 35 năm tại chùa Quan Âm ngày 02/04 năm Mậu Dần. Minh xác sự hy sinh của Bồ tát Quảng Đức là vì Dân tộc và Đạo pháp, lịch sử dân tộc đã ghi nhận Phật giáo và dân tộc VN là một. Các vị giảng sư đều khẳng định như thế, sự thật cũng là như thế. Trong lễ Phật Đản vừa qua, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng nói như thế. Đứng trên lập trường của một giảng sư Phật giáo thầy MT nói như vậy là hoàn toàn chính xác, không cần phải ám chỉ ai, nhưng ai có tật thì giật mình, không có gì lạ.
- Kim Hồng (Quy Nhơn), Linh (Sài Gòn), Trâm (Đà Nẵng), Phong (Đaklak)
HỎI: Bây giờ Kinh sách, băng đĩa in phổ biến nhiều quá, biết nên tụng, xem Kinh sách, nghe băng đĩa nào? Xin Phật Ân chỉ giúp.
ĐÁP:
Điều này Phật Ân cũng thấy rối. Thường thường muốn biết sách có giá trị cao thấp, độc giả thường lưu ý xem ai là tác giả, dịch giả, nhà xuất bản nào để định lượng giá trị của tác phẩm. Băng đĩa thì chú ý tên tuổi của giảng sư, nơi xuất xứ để xét định, dĩ nhiên việc gì cũng tương đối chứ khó mà tuyệt đối được. Rồi khi nghe, khi đọc quan tâm đến nội dung nghĩa là áp dụng phương pháp VĂN, TƯ rồi mới TU. Thời buổi chơn giả khó phân vàng thau lẫn lộn, chúng ta phải lưu ý mới khỏi nhầm lẫn.
- GĐPT Khánh Long (Long Thành)
HỎI: Lễ Phật Đản vừa qua chúng con thấy rất lớn, rất hoành tráng sao có người nói thua xa trước năm 1975?
ĐÁP:
Lễ Phật Đản vừa qua đúng là rất lớn, rất hoành tráng so với 33 năm qua. Nhưng so với lễ Phật Đản từ 1964 đến 1974 thì thua xa. Các năm này VN đang chiến tranh nhưng công chức, công nhân được nghỉ làm, trường nghỉ học, chợ nghỉ đông, chiến sĩ nghỉ bắn, các lò giết mổ nghỉ sát sanh, đò xe miễn thuế, công sở xí nghiệp có huyền môn, cơ quan công quyền có xe hoa, nên lượng người đi dự lễ đông hơn, lớn hơn là vậy đó.
- Cô Trung Khuê (Đak Nông)
HỎI: Giáo Hội bảo con cúng chùa cho họ rồi sẽ bổ nhiệm con trú trì. Vậy con phải làm sao?
ĐÁP:
Việc người ta dỗ cô cúng chùa cho Giáo hội, rồi Giáo hội mới cử cô trú trì. Đây chỉ là mánh của họ. Sự kiện này đã có nhiều người bị lừa rồi, vì khi cô cúng xong người ta bảo cô không có năng lực, họ cử người khác có năng lực hơn thì sao? Thế là cô mất hết. Vì cô đã hết quyền hành, cô cúng rồi thì người ta cám ơn và mời cô đi chỗ khác chơi, làm gì họ?
v Hàn Đại Thọ (Xuân Trường)
HỎI: Vụ việc chùa Bát Nhã ở Bảo Lộc như thế nào? Biết gì, Phật Ân cho biết với.
ĐÁP:
Đang An cư, không quan tâm việc này, nhưng nghe lôi thôi, phiền phức vô cùng. Tăng thân bị cúp điện, cúp nước sống sao nổi? Thầy P. Huệ lên thăm bị đánh. Ai chủ trương để P.G ở đó lâm vào tình trạng đau lòng như thế? Xin trực tiếp hỏi thầy N.H và thầy Đ.N. Chỉ có 2 thầy này mới trả lời được.
v Ánh Tuyết (Huế), Kim Loan (Cam Ranh), Phương (Tuy Hòa):
HỎI: Em đang sinh hoạt với GĐPT, nghe nói GĐPT bây giờ 3 – 4 phe là sao? Em biết theo ai?
ĐÁP:
Trong Phật giáo nói chung, GĐPT nói riêng. Không có phe phái gì cả, sở dĩ bị chia 5 xẻ 7 là do anh em chúng ta bị danh lợi hoặc thế lực vô minh chi phối, quan niệm lệch lạc, cố chấp, kiến thủ mà sinh ra. Đừng thơ ngây mà nói “theo ai cũng được”, thiếu kiên định lập trường dễ bị lợi dụng, dễ bị mua chuộc. Muốn biết rõ hơn nên hỏi Sen Trắng.
v Trung Nhu, Trung Báu (Sài Gòn), Thiên Phúc (Đắknông):
HỎI: Chúng con mới quy y theo Phật, muốn tìm đọc sách, báo P.G nên bắt đầu như thế nào?
ĐÁP:
Tin chưa chắc đã hiểu, mới quy y Phật, muốn tìm hiểu Giáo lý của Phật để tu, quan niệm này rất đáng tán thán. Kinh sách P.G bây giờ không thiếu, nên từng bước tìm hiểu cho vững chắc. Theo P.Â, các vị nên tìm đọc bộ Phật Học Phổ Thông của HT. Thiện Hoa là từng bước chắc chắn nhất, chưa vội đọc các sách quá cao, để khỏi bị tẩu hỏa nhập ma, đa thơ loạn tâm thì không nên lắm.
v Hoàng (BMT), Sáu (Đồng Tháp), Kim Dung (Sa Đéc) là H.T trong GĐPT/V.N:
HỎI: Cấp Tấn của anh Cầu ai trao? Khi tấn phong cấp Dũng, có căn cứ cấp Tấn không?
ĐÁP:
Việc này các em nên hỏi S.T thì đúng địa chỉ hơn. Tuy nhiên đã hỏi P. trả lời rằng: Cấp Tấn của anh Cầu do anh Nguyên Tín Nguyên Châu – Trưởng ban HD/TW/GĐPT/VN trao. Dĩ nhiên anh Cầu có cấp Dũng cũng phải dựa vào cấp Tấn do anh Châu trao. Như vậy, mặc nhiên thừa nhận anh Châu là cấp lãnh đạo của anh Cầu. Là HT/GĐPT chắc quý vị rõ điều này hơn ai hết, ai làm sai người đó đã vi phạm nội quy và quy chế của GĐPT.
v Nguyễn Hương (Bình Phước), Đỗ Lạc (Đà Nẵng):
HỎI: Mẹ con dẫn con quy y lúc còn nhỏ, 4–5 tuổi gì đó. Nay đã lớn, không biết Bổn sư là ai? Không nhớ Pháp danh? Vậy có quy y lại được không?
ĐÁP:
Bạn nên tìm thầy để quy y lại, 4–5 tuổi cha mẹ dẫn đi quy y, nhưng chưa hiểu, chưa biết, chưa ý thức, huống gì bạn không biết Bổn sư là ai? Lại quên luôn Pháp danh? Nên quy y lại để được có thầy hướng dẫn, có Pháp danh mà tu tập.
v Tâm Phương (Bà Rịa), Hiền (Định Quán):
HỎI: Trong Tâm Ảnh, thầy M.T nói với Niệm, rồi ai cũng nói “giữ Chánh niệm” ý thế nào? Có liên quan gì nhau?
ĐÁP:
Cái tối cần thiết trong đời sống người Phật tử là “Chánh niệm”, chữ Niệm trong Tâm Ảnh là chữ chung cho các đệ tử xuất gia của Phật Ân. Muốn nhắc rằng: “Niệm là nhớ, ghi nhớ là ức niệm, nghĩ nhớ là tư niệm, tưởng nhớ là tưởng niệm, nhớ chân chánh là chánh niệm”. Như vậy, bạn sẽ thấy chữ Niệm trong Tâm Ảnh có ý gì rồi.
v Thầy Quảng Nghiêm (Nha Trang):
HỎI: Ở Đồng Nai có mấy sân gôn (golf)? Nghe Long Thành nhiều lắm, Phật Ân đất rộng sao không mở sân gôn (golf) để kiếm tiền?
ĐÁP:
Thầy hỏi câu đầu tưởng thầy gõ lộn địa chỉ, đọc câu hai mới tin là thầy cố ý nói móc Phật Ân. Khoái quá, nên phải phân trần rằng: Nghe Long Thành có nhiều sân golf, nhưng Phật Ân chưa thấy mặt mũi cái sân ra sao cả, xin đừng xúi dại biến sân vườn của chùa thành sân golf. Cả thế giới có 2400 sân, trung bình mỗi nước có 14 sân mà Việt Nam ta đã có 166 sân, ngốn hết gần năm mươi ba ngàn (53.000) hécta đất chưa đủ cho đất nước này mạt hay sao mà thầy còn xúi dại. Cám ơn nghe.
v Tâm Thông (Sài Gòn), Trung Nhật (Huế):
HỎI: Các Tông phái P.G xuất từ đâu – có mấy Tông tất cả?
ĐÁP:
Phật tùy căn cơ chúng sanh mà Thuyết giáo để cứu độ, chưa có Tông phái. Khi P.G truyền qua phương Đông, các học giả thấy Phật Pháp quá mênh mông, để cho hành giả chọn đường tu học tiện lợi mới hình thành các Tông phái. Có Tông phái dựa vào Pháp, có tông phái dựa vào người, có tông phái dựa vào địa danh. Đến thời thịnh Đường, có thể tạm lược có 10 Tông phái có tên là:
- Tông Câu Xá: Lấy gốc Câu xá luận của Bồ tát Thế thân làm căn bản.
- Tông Thành Thật: Lấy Thành thật luận của Pháp sư Bạt ma, lập tông.
- Thiền Tông: Là Pháp môn “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”.
- Luật Tông: Lấy Tứ phần luật trong Ngũ bộ luật làm căn bản.
- Tông Thiên Thai: Bắt đầu từ Ngài Huệ Văn thời Bắc tề đến Ngài Huệ Từ rồi Ngài Trí Khải đời Tùy được hình thành.
- Tông Hoa Nghiêm: Lấy kinh Hoa Nghiêm làm căn cứ.
- Tông Pháp Tướng: Là Tông duy thức dựa vào 6 kinh Lăng già, A Tăng Đạt Ma, Hoa nghiêm, Giải thâm mật, Bồ tát tạng và Luận Du già, Nhiếp Đại thừa, Thành Duy thức mà thành lập.
- Tông Tam Luận: Dựa vào Trung luận, Bách luận, Thập nhị môn luận để lập tông.
- Mật Tông: Cũng có tên là Chân ngôn tông, lấy Chân ngôn mật giáo trong Địa nhật kinh, Kim cang đỉnh kinh làm căn cứ.
- Tịnh Độ Tông: Lấy Tịnh độ tam kinh là A Di Đà kinh, Vô lượng thọ kinh và Quán Vô lượng thọ kinh làm căn cứ.
Bạn cần nghiên cứu nhiều Kinh sách mới rõ thêm chi tiết, chúng tôi chỉ giải đáp đại cương. Bạn hoan hỷ!
(
CHUYỆN THUỐC LÁ
I.
Báo Tuổi Trẻ ra ngày thứ năm 29/05/2008, ở trang 9 có đăng một bài viết của ông Nghê Trường Sinh đã bỏ thuốc lá vì xấu hổ, trong bài ông Sinh nói rõ hai lần: Lần 1 bị đèn pin rọi thẳng vào mặt cảnh cáo ông đã hút thuốc lá trong rạp hát. Lần 2 bị Y công la trong bệnh viện ông lén hút thuốc lá trong phòng vệ sinh, và ông thật sự thấy xấu hổ nên quyết tâm bỏ thuốc lá và ông đã bỏ được.
(((
II.
Năm 1964 mẹ tôi bị một cơn bệnh hiểm nghèo. Bác sĩ điều trị ra điều kiện phải bỏ thuốc lá ông mới chữa, nếu không chịu bỏ thuốc thì về mà chết, ông không chữa vì vô ích. Mẹ tôi đồng ý, nhưng sau đó thỉnh thoảng lén hít vài hơi. Khi khám bệnh Bác sĩ nghe mùi thuốc khi mẹ tôi thở. Ông Bác sĩ chẳng nói, chẳng khám, nghiêm mặt rồi bỏ đi. Biết nguyên nhân, tôi cầm tay mẹ năn nỉ “Mạ thương chúng con, thương bản thân mạ, xin mạ bỏ thuốc, Bác sĩ giận mạ đó”, mẹ tôi rưng rưng nước mắt gật đầu. Tôi chạy tìm Bác sĩ, ông ta đang thẩn thờ ngồi trong văn phòng có vẻ suy tư nhiều lắm. Tôi trình bày và năn nỉ một hồi, ông Bác sĩ mới miễn cưỡng đứng dậy đi khám bệnh cho mẹ tôi và nhắc lại “Tôi cố tâm chữa trị cho bà cụ cũng vô dụng thôi và chắc chắn bà sẽ chết nếu không bỏ thuốc thì chữa làm gì?”. Xin thưa, mẹ tôi bị bệnh phổi khá nặng. Nhưng từ đó mẹ tôi bỏ thuốc hẳn, và dĩ nhiên bệnh lành, mẹ tôi sống thêm trên 10 năm nữa.
(((
III.
Trong câu chuyện của hai (2) Phật tử, tôi nghe rõ:
- Thầy mày nhắc đó hả? Môi tím ngắt, răng vàng khè, đứng nói chuyện tao phải đứng xa, hôi thuốc chịu không nổi.
- Thầy hút thuốc tốn tiền thầy, răng vàng môi tím của thầy, mày có vàng có tím đâu mà mày sợ.
- Nhưng mày biết, nếu vậy thì hảo tướng của thầy giảm đi, chúng mình cũng đau chớ.
- Thôi, tao không hút, mày không hút, nhiều vị khác không hút, còn thầy đó hút, kệ thầy.
- Biết rồi, nhưng người ta chê thầy tao thấy cũng đau, cũng buồn vì chúng mình thương thầy, mình là Phật tử mà.
(((
IV. Và,
Câu chuyện của hai (2) vị thầy:
- Hút thuốc không phạm giới, Phật không cấm!
- Phật không cấm nhưng tự mình cấm, còn giới, có phạm đấy. “Không dùng các chất độc hại, dùng là phạm. Như ma túy, giới có cấm đâu, nhưng dùng đến, luật pháp thế gian còn bỏ tù huống gì luật Phật”.
- Đời Tu sĩ, bỏ hết: danh lợi, tiền bạc, gia đình, thê tử đã bỏ hết rồi. Còn một điếu thuốc hút cho vui mà cũng cấm nữa, thì đời còn gì nữa đâu?
- Còn, còn nhiều lắm, còn bản thân, còn Đạo nghiệp, còn chúng sanh, còn sự tinh tấn cho đến ngày chứng ngộ.
- Bỏ gì mới khó, chứ bỏ thuốc khó gì đâu, nhưng không bỏ được.
- Xin thua, điếu thuốc không bỏ được thì danh, lợi, chức, quyền, ngũ dục bỏ sao nổi.
- Bỏ được chớ, nhưng không muốn.
- Bây giờ không phải thua mà là đầu hàng, vì biết sai, sửa sai được nhưng không muốn sửa ! Biết địa ngục là khổ mà cứ chun vô !
Vậy nên,
Đường lên Cực lạc thênh thang,
Thấy mà chẳng bước tìm đường quanh co.
Đường về Địa ngục vòng vo,
Chen nhau mà đến hỏa lò chun vô.
(((
Nghe sao, nói vậy, xin các Ngài đại xá cho việc nghe lóm, viết lóm.
TỨ ĐẠI CẢNH
- Cảnh 1
Xe chở thầy trò chúng tôi đi thuyết linh cầu siêu từ Xuân Sơn về. Lúc ấy khoảng 10 giờ đêm. Con đường mới tráng nhựa thật tốt từ Ngãi Giao về Tân Thành. Xe đang chạy ngon trớn, tài xế bỗng chạy chậm lại và bóp kèn inh ỏi, thì ra một chú chó đang gậm cái gì đó và đứng ngay giữa đường. Nghe tiếng còi, chú ta chạy vội vào lề tránh và xa chúng tôi chạy qua.
- Như thế có gì đáng nói.
- Có chứ.
- Cảnh 2
Xe tiếp tục chạy độ hơn 1km thì… cũng chạy chậm lại, chậm hơn nữa, cũng bóp kèn inh ỏi, còi kêu liên tục từng hồi, cuối cùng xe phải dừng lại, thì ra một con người, ở trần trùng trục, thở hổn hển nằm ngay giữa đường, mặc còi cứ kêu, đường ta ta cứ nằm, chúng tôi phải bước xuống kéo anh ta qua một bên đường xe mới đi được.
Chỗ anh ta nằm, một đống… không phải phân, hôi nồng nặc, hơi thở anh ta cũng nồng nặc không kém.
- Thì ra, khi say con người còn tệ hơn… như vậy đó!!!
- Cảnh 3
Trong căn phòng nhỏ, bệnh nhân nằm hút thuốc nét mặt tươi tỉnh, chung quanh chất đầy sữa, đường, cam, nước suối và nhiều bịch ny lông, lủ khủ quà, người đến thăm lớp trong, lớp ngoài, đứng chật phòng, thi nhau thăm hỏi, chúc tụng, cầm tay, rờ chân, ngôn ngữ rất ư thân thiết, có người nghẹn ngào: “T.T. bệnh, con lo quá, con ngại quá, con e… con sợ…!!!” Thật cảm động, thấm tình đạo, đẹp tình đời. Thì ra, phải rồi, bệnh nhân đương kim là CĐD mới đau đầu, nghẹt mũi đấy thôi.
- Cảnh 4
Trong bệnh viện, cũng bệnh nhân ấy, đang thở ốc-xy. Từ sáng đến chiều, từ chiều đến tối, lai rai 1, 2 ngày mới có một người đến thăm. Chú Thị giả ngủ gục ở góc giường, tủ trên đầu giường bệnh nhân vỏn vẹn 1 chai nước khoáng, 1 bình thủy. Bác sĩ bảo “Bệnh nhân đang hồi nguy hiểm”, chú thị giả thức dậy gật đầu – lẩm bẩm “Mấy tháng trước thầy làm CĐD mới nhức đầu, sổ mũi, vô số người thăm, vô số quà cáp. Bây giờ thầy hết làm CĐD bệnh gần chết chả thấy ma nào, hèn gì, ôi! Nhân tình thế thái!!! Hèn gì người ta tranh nhau… năn nỉ, xin xỏ, giành giựt, mua cho được cái chức CĐD.
Muốn cụ thể, xin mời giác linh TT. Trí T… lên mà hỏi, TT. sẽ cười vui kể rõ cho mà nghe.
sợ
I. (Theo HT. Minh Chiếu)
Trong một công ty nọ vị Giám Đốc đi công tác xa về, trong công ty có 2 công nhân bị nạn : 1 người mất xe, 1 người vợ chết. Ông Giám Đốc rất quan tâm đời sống công nhân nên đi ủy lạo, nhưng không tìm hiểu chi tiết cụ thể nên đã lộn. Khi đến nhà người mất xe, ông GĐ ủy lạo:
- Tôi thành thật chia buồn cùng anh, đời người ai cũng có lần chia tay.
Người công nhân tỉnh bơ:
- Xin cám ơn ông, nó đã quá cũ kỹ, Tôi đã có ý bỏ nó từ lâu, nay nó mất, tôi có tiếc gì đâu, tôi sẽ cố dành dụm tậu cái mới.
Ông Giám Đốc thầm nghĩ : Thằng này vô tình bạc nghĩa quá, thiếu đạo đức có lẽ phải cho nó nghỉ việc.
Ông Giám Đốc đến nhà người công nhân vợ chết, ủy lạo rằng : “Tôi nghe anh bị mất thứ cần thiết nhất trong đời. Thôi, đừng buồn làm gì, tôi sẽ giúp anh tạo cái mới. Thời đại này, có tiền thiếu gì cái tốt hơn !”
Đến lượt anh công nhân ngơ ngác : “Sao ông chủ mình nói những điều bất nhân bất nghĩa như thế !”
(
II.
Các Phật tử hồ hởi vì đã đến điểm hẹn sẽ gặp bạn thân sau nhiều năm xa cách, tâm trạng phấn chấn vụt tắt khi vị Phó trụ trì của một thiền viện lạnh lùng thông báo :
- Giải tán đi, ngưng lại ngay, họ không cho vân tập, các chị đi đi, có 2 nữ CA đã ngồi đây, họ sẽ làm phiền chúng tôi…
Vị trưởng đoàn bình tỉnh :
- Bạch sư cô, chúng con đã trình xin sư cô trước.
- Biết rồi, có phải tại chúng tôi đâu, mấy vị xin chúng tôi chứ có xin CA đâu, thôi, đi đi.
Các Phật tử, mỗi tỉnh chỉ có 2 hoặc 3 người sững sờ, ngạc nhiên, buồn bã ra mặt. “Đây chỉ mới 10 người còn 1 xe 50 người sắp đến giải quyết sao đây”. Chị Trưởng đoàn cười như mếu :
- Thôi được, cứ rời khỏi đây, đi tiếp, đến đâu, hãy tính.
Chỉ tội một nữ Phật tử ở Nha Trang đến sau rồi lủi thủi ra xe trở về Nha Trang một mình vì đã lạc đàn, mất hướng.
Cảnh này chẳng có gì hấp dẫn nhưng rất ấn tượng vì là một trú trì mà đuổi Phật tử của các nơi đến chùa mình như sợ ma. Không kịp cho lạy Phật, uống nước, vì sợ, sợ gì ? Sợ ai ? Tại sao lại sợ ? Ai làm cho cô sợ ? Biết ai trả lời ! Ôi tự do, độc lập, ôi hạnh phúc, ôi tình người, ôi Giáo hội, ôi Hiến pháp ! Các ngài đi đâu cả rồi !
(
III.
Tại phi trường Phú Bài, Huế, Tánh Thuần (người Việt gốc sư) tâm sự với 1 vị Tăng :
- Thời bây giờ lạ quá, Tây ba lô ngoài phố nhiều hơn lúc nào hết, nay lại xuất hiện nhiều học sinh ba lô, sinh viên ba lô (học sinh và sinh viên đi học, mang ba lô trên lưng, dù đang mặc cái áo dài trắng, mất vẻ đoan trang thùy mị của một người con gái VN), và cả Tăng ba lô nữa !
Linh quá, vừa nói xong Tánh Thuần chỉ ra phòng đợi ở phi trường, một đoàn 5 nam, 5 nữ mặc áo tu sĩ màu đà, nữ có cột một khăn màu đà trên đầu, trên vai ai cũng có 1 cái ba lô, có người kéo theo cả va li to tướng có bánh xe, đi vào. Vừa đi vừa cười nói râm ran rất vui vẻ. Một hiện tượng lạ ở đất thần kinh.
Cảnh này cũng chẳng hấp dẫn nhưng cũng là hiện tượng lạ vì “Tu sĩ thời ba lô” nên trở thành “Tăng ba lô” thời đại mới.
(
IV.
Trước cửa phòng cấp cứu của một bệnh viện, một người mẹ đau khổ tột cùng, khóc lóc xỉu lên xỉu xuống vì người con trai duy nhất đang hấp hối thở ốc xi, rút ống ra là tắt thở. Bà Ngoại, bà Dì, ông Cậu, người Cha của nạn nhân chạy lui chạy tới hết cơ quan này đến cơ quan nọ để xin đem xác con về, vì bệnh viện đã tuyên bố bất lực 99,9%. Đã 3 ngày 4 đêm cả nhà mất ăn mất ngủ, khóc lóc lạy lục các cơ quan chức năng. Ông Giám Đốc bệnh viện sẵn sàng cho chở về nhưng phải có giấy của cơ quan C.S giao thông. Đến cơ quan này hẹn mai, mai đến, hẹn chiều, chiều đến đòi phải được Viện Kiểm soát đồng ý và xác nhận một vài cơ quan khác nữa, kể cả đơn bãi nại của gia đình người bị đụng xe, mà người này không mất một sợi tóc. Muốn đem con về sớm để lo đám, thân thể nó đã bầm tím. Đã đi đứt mấy triệu bạc lo lót vẫn chưa yên. Khi tôi viết những dòng này thì Đồng Phúc, người đệ tử nhiều đau khổ, đã không còn nước mắt, giọng đã khàn, chân đã quỵ, tim như ngừng đập, phổi như muốn hết thở vì thương con, vì đau khổ, mà xác con, thằng Long, đứa con trai của Phúc vẫn chưa ra khỏi bệnh viện !
Lạ lùng, cả thế giới có lẽ chỉ ở VN ta. Vô lẽ kéo cả nhà đến cướp xác con về ? Ôi ! thủ tục ! Nguyên tắc ! Sao mi rắc rối quá vậy, mi không có lương tâm sao ?
Muốn thấy cảnh này rõ hơn xin đến BV 175 SG gặp một người mẹ đau khổ tột cùng: Đồng Phúc.
17H ngày 22/05 Ất Dậu
THAY CHUYỆN NGẮN MÀ TÁC GIẢ PHỤ TRÁCH
I.
Trước cổng một công ty khá lớn, một công nhân mặc áo xanh, râu tóc muối tiêu, gầy gò đang sử dụng máy cắt cỏ. Chiếc xe con bóng loáng từ trong sân công ty chạy ra, xe dừng lại, một người đàn bà sang trọng tuổi độ 30, từ trên xe bước xuống, ra hiệu cho người công nhân tắt máy cắt cỏ, gọi đến trước mặt, chẳng nói chẳng rằng, đưa bàn tay trắng muốt, móng dài, nhọn hoắt, đỏ chót, tán ngay vào mặt người công nhân hai tát nảy lửa kèm theo một câu “Đồ ngu, đã bảo hai, ba lần rồi, cắt cỏ phải chừa vài phân cho có màu xanh, cắt sát như vậy cỏ chết còn gì, tốn tiền trồng lại”. Người công nhân không kịp hay không dám phản ứng, lí nhí “Dạ, tôi tưởng...”, “Tưởng gì, không làm được thì nghỉ”. Nói xong bước lên xe, tiếng đóng cửa xe, chiếc xe hơn tỷ bạc, như tiếng gầm của sư tử cái. Người công nhân luống tuổi đưa tay thoa thoa cái má và hai hàng nước mắt chảy dài, tiếp tục cho máy cắt cỏ nổ dòn, tiếng máy như lời an ủi với 5 chữ “Vợ bệnh con đói đang chờ”...
II.
Cũng người công nhân ấy, dựng chiếc xe đạp cũ kỹ trước một căn “nhà”, nói là “nhà” cho có vẻ, chứ đúng nghĩa là “cái chòi”, uể oải bước vào nhà, người vợ nằm trên tấm ván thông ọp ẹp cố gượng dậy: “Anh về rồi hả, làm có được không, có lẽ em không qua khỏi, anh nên lo cho mấy đứa con... em mệt lắm”. Người chồng đi đến đỡ vợ dậy ngồi xuống bên cạnh: “Em đừng nói dại, anh đã có việc làm, đợi lành bệnh, gắng sống để cùng anh nuôi con, em có mệnh hệ gì, một mình anh, gà trống nuôi con sao nổi”. Người vợ cố nhướng mắt nhìn vào mặt chồng, rồi cũng cố đưa bàn tay yếu ớt sờ vào má chồng hỏi: “Má anh sao đỏ và có dấu tay như ai đánh vậy?”. Người chồng cầm tay vợ, ú...ớ... không trả lời và một lần nữa hai dòng nước mắt chảy dài xuống má. Không biết dòng nước mắt cảm động vì người vợ cận tử nhất sanh vẫn quan tâm đến chồng hay dòng nước mắt tủi thân, uất hận?!!!
III.
Mấy hôm sau, cũng căn nhà ấy, bốn đứa trẻ ốm yếu ngồi quanh chiếc quan tài của mẹ khóc lóc đau đớn, hai đứa lớn vừa khóc vừa kể lể rất thảm thiết, còn hai đứa nhỏ thì cứ thút thít gọi “Mẹ ơi”. Ông chồng (người công nhân ấy) thẫn thờ như kẻ mất hồn, tay run run thắp nhang vái trước quan tài vợ và chỉ im lặng để hai hàng nước mắt tiếp tục chảy không buồn lau. Lối xóm vài người thương cảm đem mấy ổ mì cho mấy đứa nhỏ, trên bàn thờ cúng chỉ vỏn vẹn một chén cơm và một dĩa đậu hủ kho, tiếng niệm Phật trong cái máy nhỏ phát ra do một nhà Phật tử bên cạnh cho mượn để thay tiếng tụng kinh, cái quan tài không biết xấu tốt do hội Từ thiện của một ngôi chùa gần bên đem cho. Đám tang người nghèo, không kèn không trống, không dám mời Thầy tụng kinh, ít người chia buồn phúng điếu, lặng lẽ âm thầm, trông thấy ai khỏi nao lòng, bốn đứa con còn nhỏ chỉ bịt trên đầu bốn cái khăn tang, bếp núc lạnh tanh, chẳng có hoa cườm, hoa tươi phúng điếu, chẳng có trướng – liễn, chẳng có đèn đuốc, lọng che quanh quan tài của các dịch vụ mai táng, chẳng có cáo phó, chẳng có cờ tang. Thế rồi...
IV.
Hai người công nhân cầm một vòng hoa tươi, một mâm trái cây đi vào theo sau là một người đàn bà sang trọng. Người công nhân (chủ nhà) ra đón mời vào, người đàn bà sững sờ đứng lại nhìn quanh, bốn đứa bé đi ra chắp tay xá chào rất lễ phép, người đàn bà quan sát thấy bốn đứa bé rất trắng trẻo dễ thương, trông khá thông minh, hai đứa lớn giống mẹ nó trong hình để trước quan tài, gương mặt trái soan, địa cát khá tốt, đôi mắt hiền từ… Thì ra… người đàn bà trong ảnh là… Trong nhà chỉ vài cái ghế cũ bà con lối xóm cho mượn, không dám thuê bàn ghế, không thuê dịch vụ mai táng, không dám mời Thầy tụng kinh tất cả đều không, vì nghèo, nghèo dưới cái nghèo.
Đứa con gái lớn vòng tay nói qua nước mắt: “Thưa cô, lẽ ra mẹ cháu chưa chết, nhưng vì nghèo, thiếu thuốc, thiếu ăn, ba cháu mấy tháng xin việc không có, chỉ mới đi làm hơn nửa tháng, chưa lãnh lương nên mẹ cháu...”.
Người cha ngăn lại: “Thôi con, đừng nói, linh hồn mẹ con buồn, rót nước mời cô đi”. Người đàn baø (hôm trước đã tát tai anh) đứng im lặng, có vẻ rất xúc động đưa tay âu yếm vuốt tóc mấy đứa bé, đến thắp nhang trước quan tài lâm râm nói nhỏ gì đó, như tâm sự với người quá cố, rồi đi ra đối diện với chủ nhà: “Xin lỗi, anh yên tâm, tôi sẽ lo đám cho chị chu đáo”. Chủ nhà: “Cám ơn cô”.
- Phụ.
Hôm sau, đám tang tự nhiên khá lớn, có mời Thầy đến làm lễ Khiển điện di quan, có Âm cung khiêng quan tài, có nhiều công nhân đến tiễn đưa, có xe tang rồng phụng nghiêm chỉnh và có luôn cả mấy chiếc xe con của Ban Giám đốc Công ty. Tất cả đều do bà Giám đốc đôn đốc chiếu liệu.
(
Chuyện là vậy đó, ai hiểu sao cũng được!
I.
- Dẹp, dẹp, quý vị lộn xộn mất trật tự quá. Tôi không phát nữa. Đi, đi, trật tự viên đâu rồi, đuổi họ đi.
Tiếng xua đuổi la hét của người (Thầy) phát phiếu trước một đám đông, ước tính cũng mấy trăm con người chen lấn, xô đẩy, tranh giành, đưa tay cao, lời xin xỏ, đàn ông, đàn bà, thanh niên, thanh nữ, Tăng, Ni, tiếng Nam, tiếng Bắc, tiếng Trung… áo đà chư Tăng, áo lam chư Ni, vét tông Thiện nam, áo dài Thiện nữ, váy đầm Phật tử, áo hở vai, hở lưng của Thiếu nữ, mùi nước hoa, mùi son phấn, mùi mồ hôi đủ thứ hương vị, màu sắc xanh, đỏ, tím, vàng, đen, trắng chồng chéo lên nhau. Một cảnh tượng hỗn độn chướng mắt chưa từng thấy.
Xin thưa, đó là cảnh phát phiếu để được vào tham dự lễ Phật Đản LHQ tại Mỹ Đình. Thấy đã đau, ghi lại càng đau, không những đau mà còn xấu hổ, Phật giáo chúng ta, tổ chức của chúng ta, nhìn hoạt cảnh này tôi nhớ hoạt cảnh năm xưa (1963)…
II.
Ước độ mấy chục ngàn người, đứng đầy sân, đứng chật đường, đứng khắp vườn, nghĩa là có chỗ nào đứng được là đứng. Đứng yên lặng, áo quần nghiêm túc, nam nữ riêng biệt, lớn đứng theo lớn, nhỏ đứng theo nhỏ, hàng ngũ chỉnh tề, mắt chăm chăm nhìn về một hướng trên lễ đài, chỉ một giọng nói duy nhất phát ra trên các loa phóng thanh: “Tôi biểu các Phật tử đi, thì đi. Tôi biểu đứng, thì đứng. Tôi biểu việc đó để tôi lo, thì để đó. Các Phật tử có nghe không?”
- Dạ nghe, dạ nghe.
Hàng chục ngàn người đồng lượt reo to. Không khí trở lại yên lặng – yên lặng chờ lệnh.
Thật hào hùng, thật vĩ đại, tinh thần kỷ luật, tinh thần tự giác của Phật tử Huế mở đầu cho cuộc vận động 1963, diễn ra tại Từ Đàm, cảnh ấy khó quên, quên sao được !
III.
Anh công an đang ngồi làm việc tại văn phòng. Một người đàn ông lớn tuổi, áo quần cũ mèm, mặt mày hiền hậu cầm một túi xách đi vào.
- Thưa anh, một người đi đường rớt cái túi xách, tôi nhặt được gọi theo không kịp đem đến nhờ anh tìm cách trao lại cho họ.
Anh công an hơi ngạc nhiên, gật đầu tươi cười và mở túi xách kiểm tra trong túi khá nhiều tiền, có cả giấy tờ tùy thân, bằng lái xe… và lập biên bản, khi đang làm việc thì hai người phụ nữ khá sang trọng hớt hải hấp tấp đi vào thấy cái túi xách trên bàn và vật dụng la liệt, nhảy vồ tới reo lên mừng rỡ:
- Đây rồi, của tôi.
Anh công an mời ngồi xuống ghế tiếp tục làm việc theo một chiều hướng khác.
Hai người phụ nữ nhìn người đàn ông lạ và có vẻ nghèo từ đầu đến chân, ngạc nhiên tột độ, tò mò hỏi:
- Anh làm nghề gì?
- Dạ, đạp xích lô.
- Gia đình được mấy cháu?
- Bốn.
- Nhà cửa có khá không?
- Ở nhà thuê, nghèo lắm.
- Xin lỗi, em hơi tò mò vợ anh làm gì?
- Bệnh, nằm liệt giường.
- Xin lỗi, tại sao anh lượm được của mà giao trả lại?
- “Nhơn phi nghĩa bất giao,
Vật phi nghĩa bất thủ”.
Nghe anh này xổ nho, người phụ nữ tò mò hơn.
- Xin lỗi, anh học lớp mấy?
Người đàn ông cười nửa mép, thành thật và ẩn chút cao ngạo.
- Cử nhân Văn khoa trước 75.
- Chúng tôi muốn tặng anh…
Người đàn ông cầm mũ đứng dậy, xua tay, vừa đi vừa nói.
- Cám ơn, cám ơn con người sống ở đời không có sĩ khí không đáng sống.
Anh công an và hai người đàn bà nhìn theo.
- Xã hội này, còn những vĩ nhân ẩn sĩ trong lốt phu xích lô, hiếm thấy!
IV.
Hai chiếc xe gắn máy chở bốn thanh niên đảo lui đảo tới trước một căn nhà. Một chiếc dừng lại trước cổng, một chiếc chạy thẳng vào sân. Tiếng con mực sủa vang, người chủ nhà rầy con mực, hai người khách vào nói chuyện bâng quơ với bà chủ. Tiếng con mực gầm gừ rồi im bặt, người ngồi sau yên xe ngoài cổng nhảy xuống ẳm con mực rồi hô “xong rồi mày”.
Cả 4 người trên hai chiếc xe gắn máy ôm theo con mực chạy thẳng. Bà chủ nhà chạy theo la ơi ới “trộm chó, trộm chó, con mực của tôi, bà con ơi trộm chó, thuốc chó”.
Sự việc xảy ra không đầy 2 phút. Bà chủ nhà đứng nhìn theo, nước mắt chảy dài xuống má. “Trời ơi! Con mực của tôi”.
1.
Trong lễ Chạp, người cháu gặp ông cậu mừng rỡ:
- Lâu rồi cháu mới gặp cậu, cậu có khỏe không ?
Người cậu nghiêm sắc mặt, nhìn người cháu gái:
- Cô đâu phải cháu tui.
Người cháu cụt hứng, ngỡ ngàng:
- Mới ba năm mà cậu quên cháu rồi hả ?
- Tui đâu có quên, tui nhớ rất kỹ, đứa cháu gái thân yêu của tui, tóc dài, mặt hiền từ, phúc hậu lắm. Còn cô tóc ngắn lại nhuộm đỏ, mặt bôi vôi, môi dính máu, mí mắt đen thui, ăn mặc thiếu trước hụt sau, nửa kín nửa hở, giống mấy con điếm đứng đường, lạc vào cái nhà này làm ông bà trên bàn thờ phải bỏ chạy, thì đâu phải cháu tui.
Cô gái tiu nghỉu, há hốc mồm, người mẹ đi theo đỡ lời:
- Anh ơi, em nói hoài mà nó không nghe, chạy theo mốt mới, thời trang, nó chê mình cổ lỗ sĩ.
- Còn cô, nhà ta có nề nếp gia phong, đẻ được thì dạy được, không dạy được thì đừng đẻ. Thời trang, văn minh cái kiểu nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi, như vậy mà cô dẫn nó về cái nhà này ư ? Đồ bất hiếu, đồ phản quốc.
Cô gái há hốc mồm, rưng rưng nước mắt:
- Cậu ơi, không gặp cậu ba năm rồi, cháu nhớ, gặp cậu mừng muốn chết, cậu mắng cháu nặng quá, cậu hết thương cháu rồi sao?
Người cậu dịu lại:
- Con xem, mẹ con, bà ngoại con, ba con, có ai tóc đỏ đâu, con nhuộm đỏ tức là con không chấp nhận màu tóc của ba, của mẹ, của ông bà, như vậy không phải bất hiếu sao?
Đồng bào Việt Nam ta mũi trẹt, da vàng, tóc đen. Bây giờ con tô vôi đầy mặt, kẻ mắt đen thui, môi bết son đỏ choét, ăn mặc theo Mỹ theo Tây, như vậy không vọng ngoại, không phản quốc là gì? Văn minh mà thiếu văn hóa là tuột dốc chứ không phải đi lên nghe chưa?
- Cháu hiểu rồi, cháu sẽ bỏ cái kiểu đua đòi không đúng cách. Cháu xin lỗi cậu.
- Ừ, vậy thì tốt, tới đây cậu thưởng cho cái này.
Lôi trong cặp một cái lược đồi mồi rất đẹp, có khắc mấy chữ “Quà cho cháu của tôi”.
Cậu cháu nhìn nhau cười, mọi người cười theo, đứa cháu ôm chầm ông cậu:
- Cậu vẫn còn thương cháu.
2.
Trong một phiên tòa, Chánh án gõ búa xuống bàn:
- Lyle, Erik tại sao hai anh nỡ bắn Cha Mẹ mình bởi 13 phát đạn tiểu liên UZI?
- Vì chúng tôi muốn chiếm hữu gia tài lớn của Ông Bà.
- Gia tài của Cha Mẹ, chắc chắn để lại cho hai anh, trước sau gì hai anh cũng hưởng trọn chứ có ai giành giựt đâu mà hai anh nỡ giết Cha Mẹ mình như thế?
- Hai Ông Bà còn sống khỏe, chắc lâu chết mà chúng tôi thì cần tiền gấp nên không thể chờ được.
- Chính tay hai anh bắn Cha Mẹ mình hay có ai khác?
- Chính chúng tôi chứ không có ai cả.
- Tại sao hai anh không thuê người khác giết mà tự mình sát hại Cha Mẹ mình?
- Tại vì sợ tốn tiền thuê và dễ lộ bí mật.
- Hai anh có biết tội lỗi giết Cha Mẹ như vậy là đại bất hiếu, đại phản phúc, đại ngỗ nghịch bất đạo không?
- Biết, nhưng chúng tôi cần tiền hơn những cái đó, xã hội kim tiền và tiền là trên hết.
- Bây giờ hai anh có ân hận không?
- Ân hận là gì? Chưa ai dạy chúng tôi điều đó.
Chánh án:
- Khủng khiếp. Tù chung thân.
(Phỏng theo vụ án mạng làm lạnh gáy cả nước Mỹ)
An ninh Thế giới số ra ngày 16/09/1999
3.
Trong ngôi nhà rất sang trọng, lầu 4 tầng, phòng khách rộng như một sảnh đường, cửa kính bóng loáng, bàn ghế sơn mài cẩn xà cừ óng ánh. Chiếc quan tài để giữa nhà, có đèn màu viền quanh di ảnh một ông cụ khá đẹp lão vừa mới từ trần, con cháu lủ khủ, người vào ra tấp nập, vòng hoa, trướng liễn treo la liệt, kèn trống inh ỏi, lũ nhỏ chạy nhảy, ăn uống linh đình, đám thanh niên ngồi quanh các bàn tròn trải khăn nhung đỏ chói, vừa đánh cờ tướng, bài tiến lên, đô mi nô, la hét om sòm, đám con gái cúp hạt dưa rào rào, rượu rót, bánh ăn, cà phê, nước ngọt lớp này đến lớp khác, chuyện buôn bán, chuyện chạy mánh, chuyện ghen tương, đánh lộn, xe cán chó đều được đem ra tranh nhau kể ì xèo. Chẳng ai để ý bên góc phòng một cái bàn thờ, tượng Phật cũ, rách, treo trên góc tường, bình hoa héo úa, quả phẩm lèo tèo vài trái, cặp đèn nhỏ xíu, cái ly uống nước làm bát nhang, tàng nhang bay vào đầy 3 ly nước cúng sắp một hàng. Một ông Thầy tụng ngồi bệt dưới chiếu ê a tụng kinh, mình mặc cái hậu vàng đã ngã màu cà ri, tóc chưa cạo bờm xờm, không biết ông tụng kinh gì, nghe không rõ, thấy mà thương… tội nghiệp cho Hương linh… tái sinh đi lên hay đi xuống.
Thì ra, đám ma cụ Cả, có hai ba người con Việt kiều, mấy người con khác là Bác sĩ, là Luật sư, Cán bộ bự – hèn gì !
4. (tiếp cảnh 3)
Tối đó, một ban nhạc Tây đổ bộ xuống trước ngõ, trống kèn rình rang sắp hai hàng trước bàn thờ ông cụ, lũ nhóc ngoài xóm chen lấn giành chỗ đứng xem. Nhạc trưởng ra hiệu, ầm ầm trống đánh, tò te kèn thổi, mấy bà nấu ăn trong bếp vất dao, vất thớt chạy ra, con cháu bịt khăn tang há hốc mồm cười toe toét tán thưởng, ông Thầy tụng cũng xếp kinh, cất mõ đứng làm khán giả, qua mấy bản tân nhạc xập xình, vị nhạc trưởng múa máy quay cuồng, nhún nhảy, cái dùi trên tay vị nhạc trưởng có cái râu bằng len như cái đuôi chồn, lại được ông ta quay quay, xoay xoay, thỉnh thoảng tung lên cao rồi đưa tay chụp lấy rất điệu nghệ, khán giả vỗ tay rầm rầm. Xong màn biểu diễn tân nhạc, đến màn biểu diễn phóng dao găm, thật ớn lạnh, một nắm dao nhọn hoắt, sáng giới, một người sống đứng trước một tấm gì gì đó. Ông nhạc trưởng múa múa rồi phóng dao ghim hai bên tai, trên đầu, bên hông của người đứng làm mẫu. Mỗi điệu nhạc, một nhịp trống là một mũi dao găm phóng ra. Trông rợn người. Khán giả vỗ tay tán thưởng ầm ầm. Eo ơi, một trò chơi, một pha biểu diễn, có người nhắm mắt không dám nhìn. Còn Hương linh? Ông cụ đang cười mà cái mặt méo xẹo. Chắc ông cụ sợ dao găm phóng trúng hình, nếu trúng, chỉ bể kính chứ Ông cụ đâu có chết lần thứ hai mà lo, không có những trò ấy thì đám ma không to, tiền Mỹ, tiền của bệnh nhân, tiền thầy cãi để làm gì cho mối gặm, lại mang tiếng đám ma cha mà không lo. Có vậy mới nở mặt nở mày với thiên hạ! Mấy nhà chung quanh xập xệ, người lớn đứng nhìn, lũ nhỏ đứng xem, có đứa bày cả “cái du” ra ngoài, vì nó nghèo, thiếu vải…
Tặng bà con trong Xã hội
- Cảnh 1
Trên chuyến xe đò từ Sài Gòn về Vũng Tàu, ngồi bên tôi là một người đàn ông sang trọng, liên tục hút thuốc, thuốc ba số, ông ta phì khói tự do như chỗ không người. Mọi người tỏ vẻ khó chịu. Ngài vẫn tỉnh bơ.
Đến ngã ba Vũng Tàu, xe dừng lại cho khách lên xuống. Một cụ già rách rưới đi xin, đến bên xe, nhìn mọi người – chìa cái ca ra trước mặt ông khách tỏ ý xin tiền, điều lạ là ông ta không hề mở lời. Vị khách sang trọng giả lờ, ông ta lại chìa cái ca gần sát mặt ông khách. Vị khách tỏ ra khó chịu, đưa tay gạt cái ca qua bên – hằn học “Không cho, không có tiền lẻ”. Cụ già xin ăn lại dí cái ca vào tay cầm thuốc của vị khách, cười gằn: “Không cho thì thôi, quyền ông, nhưng ông không có quyền gạt tay tôi, ông có biết, điếu thuốc ông đốt ba phút, tôi đủ sống ba ngày, ông hiểu chưa?”. Nói xong, cụ già đi một lèo qua siêu thị Cora.
Tôi thầm nhủ: “Kỳ cục, cả hai đều kỳ cục”.
- Cảnh 2
Giựt mình thức giấc vì tiếng ồn ào, bên kia suối, sau nhà. “Bà con ơi, nó đánh tôi, nó giết tôi, cứu tôi với”, tiếng người vợ trẻ la làng cầu cứu. “Giờ này ai cứu mày, không đưa, tao đánh chết”, tiếng người chồng đáp lại. “Có đâu mà đưa, mày không làm gì, ăn bám vợ con, đòi tiền đánh bạc, uống rượu, tao không đưa” “Không có à, không đưa à, sao mày có tiền ăn hàng bạc trăm, tao chỉ cần mấy chục thôi. Không đưa tao đánh chết, ráng chịu…”. Bịch, bịch, ối, ối, đéo mẹ mày, tổ cha mày, loảng choảng, ầm ầm, tiếng con nít khóc ré lên, làng ơi, xóm ơi, cha ơi, mẹ ơi, bịch bịch, ầm ầm, hí hí, hu hu… âm thanh hỗn độn, khiếp đảm… chung quanh vẫn im ắng – lạ gì, chuyện hằng ngày lặp đi lặp lại như một điệp khúc của cái nhà mà tôi cho là “địa ngục” ấy.
Boòn… Boòn… tiếng Đại hồng chung của chùa trên vang vọng giữa đêm khuya.
Tôi lẩm nhẩm: “Văn chung thanh, phiền não khinh, ly địa ngục, xuất hỏa khanh, nguyện thành Phật, độ chúng sanh. Mô Phật”.
- Cảnh 3
Đường phố quá hẹp không đủ chỗ đậu cho trên 15 chiếc xe lớn nhỏ của một đám cưới Việt kiều – và bên kia đường phía trước mấy trăm thước là đoàn xe tang cũng hơn 20 chiếc. Oái ăm ở chỗ hai nhà đối diện nhau, cách nhau một con đường không quá 10 thước. Hai đoàn xe đậu ngược chiều. Hồi hôm, bên nhà đám cưới nhạc xập xình, la hét suốt đêm, bên nhà đám tang đàn cò đàn nhị trống kèn cũng ai oán kể lể đến gần sáng. Hôm nay được ngày, đám cưới đám ma đều tốt, giờ động quan, giờ rước dâu cũng giờ tốt – thế là, nhà bên này khiêng quan tài đi ra, nhà bên kia rước dâu đi ra cùng lúc, máy ảnh, máy quay phim cả hai bên chớp lia lịa – con cháu đám tang khá đông, khăn trắng đầy đường, bên kia bà con anh Việt kiều cũng đông lắm, áo quần thật sang. Đường sá chật chội, hai bên tránh nhau vẫn không đủ, nên chen chúc rất buồn cười. Nhìn đại cảnh này, thằng con tôi cười to: “Ai cưới cứ cưới, ai vui cứ vui, ai chết thì chết, ai khóc cứ khóc – đời mà!”.
- Cảnh 4
Từ ngoài đi vào, một tu sĩ khoảng 50 cà nhắc cà cò, áo quần bùn đất, chân quấn băng dính máu, tay tím bầm – đúng là mới té xe – xin giúp đỡ vì có một chú điệu đang nằm viện cấp cứu, hai thầy trò té xe. Dù không quen biết, tôi hoan hỷ rút hầu bao cúng dường. Anh C.A. đang ngồi nói chuyện cười bí hiểm. Vị tu sĩ đi xong, anh ta mới nói: “Vô lẽ, bắt người trong chùa, lại thêm thấy thầy giúp kẻ đồng đạo, tôi làm thinh, dưới mắt tôi ông ta là tu sĩ giả”.
Hai tuần sau, gặp ở một chùa khác, cũng con người ấy, hình thức ấy, có vẻ tiều tụy hơn, áo quần rách hơn, máu me dính đầy người hơn, cũng cái trò té xe, đệ tử nằm viện. Dù tức bực, tôi cố dằn lòng, mỉa mai: “Lại té xe, đệ tử nằm viện phải không? Nặng nhẹ?”. Chưa nghe hết câu, nhận ra tôi, lão thầy giả vôi chuồn một nước không dám nhìn lui.
Tản Mạn
CHUYỆN NGÔN NGỮ – CHỮ NGHĨA
Ngôn ngữ, chữ nghĩa đôi lúc tạo nên nhiều rắc rối. Tôi thấy, tôi biết, tôi nghe, tất cả đều là có thật, thật 100%. Có chuyện nghe để cười, cười như mếu, có chuyện thấy vui vui, nhưng vui mà không cười nổi.
Tôi muốn ghi lại vài cái biết nho nhỏ vụn vặt sau đây để nói với các bạn, nhất là các bậc giảng sư, MC, thuyết trình viên… hãy cẩn thận khi phát ngôn hay viết lách, dù chỉ vô tình cũng làm đảo lộn mục đích hay xoay chuyển cả tư tưởng của hàng trăm, hàng ngàn thính giả mà chỉ có một vài từ.
Có những chuyện nghe như đùa, và có thể chối tai, nhưng sự thật là thế, “bỏ đi Tám” cũng uổng, nghe sao nói vậy, thấy sao ghi vậy, thì “cười đi em” vẫn hơn, chết ông tây bà đầm nào đâu mà e ngại!
1.
Trong một văn thư của GĐPT/VN gởi đi có câu “Giáo hội đang gặp khó khăn” bị người ta vô tình hay cố ý trích ra để xuyên tạc, họ bỏ bớt 2 chữ “ĐANG GẶP” câu văn trở thành “Giáo hội KHÓ KHĂN”, thế là cả tổ chức GĐPT bị kết án, bị hiểu lầm, bị nghi ngờ, bị ghét bỏ dây dưa một thời gian dài… tai hại không nhỏ.
2.
Lễ tang của một vị đại lão Hòa thượng, về chứng minh, một vị Hòa thượng lãnh đạo tối cao của Giáo hội khi ban đạo từ đã nói “lộn” 2 chữ “tang lễ” thành “hôn lễ”. Thế là một trận cười giữa hàng chục ngàn người đang nghiêm trang tham dự lễ tưởng niệm và di quan của vị Hòa thượng viên tịch trở thành… Các bạn cứ tưởng tượng tai hại thế nào!
3.
Sau một trai đàn chẩn tế tại một Tu viện, khi Kinh Sư đã hạ đàn, một vị Thượng tọa với tư cách Trưởng ban Hoằng pháp cấp tỉnh kiêm luôn chức xướng ngôn (MC) lên cầm máy dõng dạc “Đàn tràng viên mãn mời tiểu ban trật tự vào thu dọn CHIẾN TRƯỜNG”. Nghe qua, hàng trăm người ngơ ngác, kẻ thức giả lắc đầu. Riêng vị Thượng tọa MC vẫn tỉnh bơ cười như chẳng có chuyện gì !
4.
Gia đình Phật tử An Truyền đi điếu một câu liễng cho ba của một huynh trưởng quá cố với câu chúc “THÁC SANH CỰC LẠC”, một nhóm người ngồi lề bình phẩm: “Tụi GĐPT chơi khăm, nó dám chê người chết và cả chúng ta đều là kẻ SÁT SANH thì làm sao mà về Cực Lạc được”. Thế là hè nhau tranh luận rồi tìm tác giả hạch tội đòi đưa ra xử lý. May sao ông già của tác giả là một nhà nho có uy tín giải thích và nộ cho lũ ngu một trận, mới yên chuyện.
5.
Trong một cuộc lễ, MC giới thiệu: ông A nguyên Chánh đại diện (vì ông chánh này đã nghỉ việc), ông B đương kim Chánh đại diện (đang làm việc thay ông A). Thế mà ông B phùng mang trợn mắt phản đối: “MC đừng chơi khăm tôi, ông A đã nghỉ việc, tại sao giới thiệu ông còn nguyên như vậy đã chê tôi là BỂ phải không? Không được”. Ôi ! MC có lỗi gì, tại ông suy diễn theo các dốt đáng sợ của ông thôi.
6.
Một vị học giả bị bắt buộc đọc một bài thuyết trình ca ngợi sự xâm lăng của ngoại quốc đối với đất nước mình. Trong bài thuyết trình tràng giang đại hải, kẻ xâm lăng chỉ cần có một câu: “Tôi kêu gọi chúng ta phải chấp nhận… sự thật này”. Khi đọc đến chữ “chúng ta…” vị học giả ngừng lại hạ kính xuống, im lặng, lấy khăn lau nước mắt, gần cả phút mới đọc tiếp mấy chữ “chấp nhận sự thật này”.
Những giọt nước mắt của vị học giả thay cho chữ “phải” đã kéo theo hàng ngàn giọt nước mắt khác của thính giả… Mưu đồ của kẻ cướp nước đã bị đánh bại hoàn toàn trong buổi thuyết trình ấy, chỉ cần thay một chữ bằng sự yên lặng và những giọt nước mắt.
7.
Lễ tang của một vị đại lão Hòa thượng, đơn vị đi điếu là lãnh đạo cấp tỉnh, đi một vòng hoa tươi chỉ để tên đơn vị mình rồi với một chữ “VIẾNG”. Ban tổ chức tang lễ phát hiện chỉ cười, còn môn đồ thì viết bài chê trách phản đối kịch liệt và chụp hình đưa lên mạng cho cả thế giới xem. Thế là một làn sóng chê trách chưởi bới cấp tỉnh này là vô học, vô lễ, thiếu đạo đức, chê luôn cả lãnh tụ. Vậy vô tình hay cô ý? Được gì! Để có một hậu quả tai hại, phải xin lỗi, phải bị tai tiếng đủ mọi rắc rối trên đời! Ôi, một kinh nghiệm đau lắm phải không?
8.
Thông cáo của phòng Tổng Giám thị đầu niên học ra lệnh cho học sinh có câu “Nam sinh mặc áo phải bỏ trong quần. Nữ sinh phải mặc áo dài”. Không hiểu người viết chấm phẩy lộn hay vị giáo viên cố tình đọc lộn, thông bào rằng: “Nam sinh mặc áo phải bỏ trong quần nữ sinh” phải mặc áo dài! Thế là, từ đó trở thành một câu chuyện bàn luận tác ý tai hại cho cả lũ nhỏ suốt cả năm học.
9.
Trong di chúc của một người cha dạy con cháu “Các con cháu chỉ theo duy nhất là đạo Phật, không được theo một tôn giáo nào khác, đứa nào không nghe lời cha dặn phải họp hội đồng gia tộc mà “khai trừ” ra khỏi dòng họ”. Khi đọc lên con cháu có nhiều đứa le lưỡi vì đã trót lỡ có vài lệch lạc. Sau cùng vị chủ trì đến thắp hương trước bàn thờ cha xin phép cho chữa lại hai chữ “khai trừ” thành chữ “khuyên dạy” để được nhẹ nhàng hơn. Thế là vui vẻ cả nhà chỉ cần thay 2 chữ.
10.
Điện đàm trao đổi giữa hai người bạn. Vị ở trời Âu đề nghị một đề sách “Phương pháp truyền đạo mới”. Vị ở Việt Nam nghe chữ “truyền đạo” sao nặng nề và có tính cách ngoại nhập nên đề nghị thay chữ “truyền đạo” thành 2 chữ “hoằng hóa” nghe nó dễ thương mà đầy đạo vị và nhẹ nhàng hơn. Thế là Ha… Ha… chúng ta nhất trí.
11.
Trong nhiều buổi lễ, vị MC là cư sĩ trước khi lễ thường mời “Buổi lễ sắp bắt đầu, chư tôn đức Tăng, Ni chỉnh trang y hậu để chuẩn bị dự lễ”.
Một vị Hòa thượng đã la: “Chúng mày ra lệnh cho Tăng Ni hả. Hãy cẩn thận ngôn ngữ, thông báo thì được chứ không được ra lệnh”. Đúng thôi.
12.
Năm 1963 sinh viên Huế lên Từ Đàm tham gia cuộc vận động, tiếp xúc với quý Thầy quen dùng chữ “BẠCH THẦY”.
Sau đó, trong buổi Linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng Đại học Huế, tiếp xúc với sinh viên, SV.HVG đứng dậy “BẠCH CHA” cả hội trường cười ồ và chính Linh mục Cao Văn Luận cũng ngớ ngẩn. Thì ra, Bạch Thầy thì hay mà Bạch Cha thì… dễ tức cười lắm.
13.
Trong một buổi ăn chiều, ngày 24/12, người con gái xin phép “Tối nay bạn có có mời đi chơi Noel, con xin phép ba má cho con đi chơi với bạn 12 giờ đêm về”, người con trai xin phép “Con cũng vậy, bạn con có mời đi ăn Noel”. Người mẹ trả lời “Các con là Phật tử, đi Noel có sao không?”. Người cha chen vào “Không sao đâu, chúng nó xin ĂN NOEL, CHƠI NOEL, chứ có đi dự lễ Noel như đi dự lễ Phật đản đâu mà bà ngại, mà nếu có cũng chẳng sao, Phật giáo mà”.
Người mẹ lại cười “Hèn gì lễ Noel là lễ ăn chơi nên đông đúc là phải, các con phải cẩn thận vì nhậu nhẹt say sưa năm nào cũng tai nạn lia chia, nguy hiểm lắm”.
14.
Vợ đi chợ về trao cho chồng đang đọc sách mấy tờ báo mới “Ông đọc báo có gì hay nói cho tôi nghe với”. Ông chồng nhìn vợ cười “Bà cũng biết chữ mà”.
Như sực nhớ điều gì, bà vợ ngồi xuống bên cạnh chồng thỏ thẻ “Nè ông, tại sao nói đọc báo, đọc sách, xem sách, xem báo ít nói xem kinh mà thường nói tụng kinh vậy ông?”. Chồng nhìn vợ thân mật “Bà là Phật tử hỏi hay nhỉ? Đọc, xem cho biết cho vui, còn tụng là phải vận dụng hết tâm tư chí thành chí kính, mắt nhìn, miệng tụng, tâm suy, lại có pháp khí chuông mõ trợ duyên để đem lời Phật dạy vào tâm thức mà tu hành, chứ xem và đọc đâu có ý nghĩa cao đẹp bằng chữ tụng”.
- Ừ hé, vậy tối nay ông đi chùa tụng kinh với tôi nhé.
15.
Trước một căn nhà mới xây khá đẹp, khắc một hàng chữ công phu to bự, sơn phết nghiêm túc một dòng chữ “Văn phòng trường Cơ bản Đồng Nai”.
Nơi này có hàng trăm, hàng ngàn người tới lui ở đây, ai cũng đặt câu hỏi: “Trường Cơ bản Đồng Nai là trường gì nhỉ?”, vậy mà gần 2 năm tồn tại, kể cũng lạ.
16.
Một ngôi trường khá lớn, ở trong là mấy dãy lầu 4 tầng, sân rộng, thiết trí đẹp, văn minh, hiện đại, xe cộ sang trọng ra vô thường xuyên, chở mấy ông kỹ sư, giáo sư, tiến sĩ, xe con bóng loáng, chểm chệ oai phong, trước cổng là một bảng hiệu to đùng, có chữ đồng, mạ vàng đẹp, phải nói là quá đẹp vì ít ra cũng cả mấy chục triệu mới làm được tấm bảng này, với nội dung 5 chữ: “Trường Đào tạo Dầu khí”, chúng ta hiểu rằng “mấy ông ngài oai phong lẫm liệt bằng cấp đầy mình này là những người đào tạo ra dầu khí. Hèn gì xăng nhớt cứ mãi leo thang, làm người ta nhức óc”.
Muốn rõ, tìm đường về Long Hải mà thấy. Không biết bây giờ cái bảng này còn không!
17.
Trước cổng một nghĩa trang rất hoành tráng, nghiêm chỉnh, có một vườn dầu rất đẹp, địa điểm trên trục lộ 51 nên người dân đi lại, tụ tập, lại là con đường du lịch nên khách ngoại quốc cũng đông. Một tấm băng vải vàng chữ đỏ rất lớn vì để nguyên cả khổ vải, để đón phái đoàn có hàng trăm tăng ni trong huyện đến làm lễ. Nội dung tấm băng ghi “Kính mừng đại lễ PĐ” (chữ Phật đản viết tắt).
Đại lễ PĐ là lễ gì nhỉ?
Vậy mà có ai góp ý sửa sai và có chịu sửa sai hay cố tình chơi chữ?
18.
Ông bạn sinh viên của tôi là BT. thuộc dòng Hoàng Phái, cao ráo, đẹp trai, thông minh, học giỏi, vui vẻ, sống rất dễ thương. Bạn bè yêu mến đặt cho một biệt danh là “Âu Dương công tử”. Cậu ta nghe hay nên rất hoan hỷ nhận rồi khoe với mọi người cái tên tuyệt đẹp đó. Người nào chưa đọc kiếm hiệp của Kim Dung thì chẳng biết gì, còn ai đã đọc truyện Kim Dung thì biết rõ nên đều ôm bụng cười thầm. Vì Âu Dương công tử là cái tên của một nhân vật bất tài, đểu giả, sở khanh, độc ác, cháu của Âu Dương Phong Tây Độc, một trong ngũ bá, võ công ngang với Nam Cái Hồng Thất Công, Đông Tà Hoàng Dược Sư, Đoàn Nam Đế và Vương Trùng Dương…
Nhất là mấy nữ sinh viên đã đọc truyện Kim Dung thì lại còn che miệng cười dữ.
Ông bạn tôi thiệt thà chẳng biết mô tê tưởng mọi người ngưỡng mộ cái tên hay đáo để của mình mà bạn bè đã thương mến tặng cho. Một thời gian sau không biết có ai nói rõ hay bạn tôi đọc được sách mà vỡ lẽ, biết bạn bè chơi khăm, chọc quê. Tội nghiệp BT. đạp xe đi tìm từng người, đến từng nhà tuyên bố hủy bỏ cái biệt danh “Âu Dương công tử”.
Tôi góp ý “Mở một bữa tiệc mời hết bạn bè để tuyên bố cho long trọng mới có kết quả”.
Ông bạn tôi cười “Tốn kém, chẳng cần, từ đây đứa nào gọi tau là Âu Dương Công Tử thì cho lỗ mũi ăn trầu, ráng chịu”.
Dễ thương chi lạ !
19.
Tôi có người cháu kêu bằng cậu, lúc nhỏ sinh hoạt trong GĐPT An Truyền, nó là một oanh vũ gương mẫu, vui vẻ, điềm đạm dễ thương. Sau bao nhiêu biến cố cậu cháu xa nhau, nó đã thành văn thi sĩ lúc nào không hay. Thấy tác giả tên Mường Mán xuất hiện trên sách báo, tôi cứ ngỡ là người Thượng nhưng sao lời văn đều mang hơi ấm quê hương làng Chuồn. Hiểu ra mới biết Mường Mán là Trần Văn Quảng. Đến bây giờ tôi vẫn chưa rõ lý do của Quảng lấy tên là Mường Mán nhưng tôi thích thú với cái tên này, nó có cái gì hay hay là lạ vui vui, có tính nghệ sĩ không kiểu cách, không giả trá, chơn chất, quê mùa, gần gũi, có lẽ đây là cảm giác của riêng tôi, chưa hẳn là đúng với ý của Quảng. Rồi bây giờ Quảng mở một tiệm ăn, lấy hiệu duy nhất một chữ “Ruốt” nghe thật là kỳ cục, tôi lại khoái, có lẽ dân Huế là dân mắm ruốt, vào Sài Gòn mở quán lấy tên là ruốt, dĩ nhiên (tôi nghĩ) chỉ có dân Huế mới khoái ruốt, thấy ruốt (dù chỉ thấy chữ) là nhớ Huế ngay, nhớ sông Hương núi Ngự, nhớ Thuận An Tư Hữu, nhớ làng Chuồn, nhớ Vĩ Dạ, nhớ Thanh Dương, Cự Lại, Hòa Duân ngay. Có lẽ vậy mà xa lâu vẫn nhớ Huế. Thấy chữ ruốt là biết ngay chủ quán là người Huế.
20.
Cái chữ, cái tên, cái nghĩa nó bao la, nó hàm chứa nhiều ý nghĩa, nhiều mục đích, tùy theo chiêu thức của mỗi vùng sử dụng, vì vậy nên cái nạn “treo heo bán chó” đầy dẫy giữa chợ đời.
- Phở Bắc nổi tiếng được treo lủng lẳng ở các quán ăn, nhưng được mấy tô đúng “Phở Bắc”.
- Bún bò Huế dăng khắp đầy đường, nhưng có mấy nơi đúng nghĩa “Bún bò Huế”. Vậy mới có “Bún bò Huế” bà Dung, bà Bưởi ở Thủ Đức. Không những đúng bún bò Huế do người Huế chính hiệu pha chế mà chủ nhân còn đem cả một kinh thành Huế thu nhỏ vào vườn quán của mình, vậy mới tự hào là Huế.
21.
Cô Nguyệt gặp cô Nga giữa chợ hỏi:
- Nga, hồi hôm này đi đâu, tau tới nhà tìm không có?
- Tau lên ngủ lại với Thầy trên chùa – (Nga vô tư trả lời)
Mọi người chung quanh trố mắt nhìn, ngạc nhiên có người lắc đầu. Một bà cụ lớn tuổi đến trước mặt Nga nghiêm chỉnh chỉ mặt:
- Nè, cô ăn nói bậy bạ, đàn bà con gái sao lên ngủ lại với thầy trên chùa?
Trong lúc Nga bối rối bước lui, Nguyệt vội đỡ lời:
- Thưa bác, Thầy đây là sư cô.
- Sư cô thì nói là sư cô, muốn oai cầu danh cầu tướng thì nói là ni sư, sư bà, sao gọi là thầy để người ta hiểu lầm.
- Dạ, sư cô có dạy, mình học, gọi chữ thầy có sao đâu?
- Đồ ngu (bà cụ mắng) ở thế gian danh lợi đầy mình, có dạy chữ nghĩa, nghề nghiệp cho học sinh người ta cũng gọi cô giáo (đàn bà), thầy giáo (đàn ông), kẻ tu hành cần gì ba cái vặt vãnh đó mà để đệ tử kêu bằng thầy, gây hiểu lầm rắc rối – tụi bây ngu cả lũ.
Nga chấp tay xá bà cụ “Dạ con hiểu, con hiểu, con sẽ gọi chức danh đúng đắn hơn, xin lỗi bác”.
Bà cụ tươi cười, vẻ mặt trở lại hiền hậu:
- Cô có lỗi với Tam Bảo, dùng chữ dùng nghĩa bậy bạ gây hiểu lầm tai hại, chứ có lỗi gì với tôi đâu. Tôi cũng xin lỗi cô, tôi chỉ nóng lòng vì Phật Pháp.
22.
Một người khách nam có vẻ quê mùa, ít học đến một ngôi chùa vắng ở (BC – LT – ĐN) tìm chẳng thấy ai, nhè nhẹ đi vào nhà chúng ở. Thấy có một cái phòng hé mở, trên cửa phòng ghi 4 chữ “Phòng thầy Trú trì”. Anh ta đi đến nhẹ xô cánh cửa khom lưng nhìn vào. Một tiếng “Á” rùng rợn vang lên.
Anh ta dội ngược quay lưng chạy ra sân, thở dốc, hốt hoảng, ngồi xuống bậc thềm.
Một lúc sau, vị Sư cô trú trì đi ra, vẫn còn tức bực, xấu hổ, trách mắng:
- Đây là chùa Ni, đi vào sao không xin phép, không lên tiếng, đồ vô học, mất lịch sự.
- Thưa cô, cô tha lỗi, con không biết vì con thấy chữ Thầy Trú Trì con tưởng… - tưởng… - tưởng… có việc gì?
Thì ra Sư cô trú trì đang thay áo! Mấy hôm sau dòng chữ được thay “Phòng Ni – Sư trú trì”.
23.
Trong một lễ cúng dường trai tăng chung thất, cha mẹ cầu siêu cho con, vị chứng trai là một bậc giảng sư rất ư chi là bệ vệ. Nghe lời tác bạch tha thiết, nức nở của người mẹ thương con, vừa đọc vừa khóc vì thương nhớ con, tình mẫu tử mới xa nhau 49 ngày.
Vị chứng trai đáp từ cũng với lời lẽ thương cảm “Quý vị đã noi gương Ngài Mục Kiền Liên, sắm sanh lễ vật cúng dường chư Tăng…”, mọi người nhìn lên ngơ ngác, vị thị giả chạy đến kề tai nói nhỏ “Bạch Thầy, đây là cha mẹ cầu nguyện cho con” “Ừ, ừ quý vị đã noi gương đức Phật muốn độ cho La Hầu La…”.
Mọi người lại nhìn nhau, vị thí chủ (người mẹ) là một Phật tử uyên thâm giáo lý đôi mắt ráo hoảnh.
24.
Cũng lễ cúng dường trai tăng, chứng trai là một bậc Phó kiêm Trưởng Ban hoằng pháp của một tỉnh nọ đáp từ:
“Quý vị đã có lòng thành thiết trai cúng dường, tôi xin giải thích rõ ý nghĩa chữ “cúng dường”… … … (15 phút), bây giờ giải thích thêm chữ “trai tăng”… … … (15 phút), quý vị đã hiểu rõ chữ cúng dường, chữ trai tăng thì cần hiểu rõ thêm xuất xứ lễ trai tăng như thế nào (15 phút nữa)…”.
Trong hàng chư tăng có người nói nhỏ “Thưa ngài, cơm canh nguội rồi, thí chủ họ đã ngồi bẹp xuống vì quỳ quá lâu!” “Ừ, để tôi kết thúc… … … (5 phút nữa)”.
Gần 1 giờ đáp từ, trong bàn trai tăng nhiều vị “đồng ý” một giấc trưa.
25.
Trong dịp Đại lễ Phật đản, trên một lễ đài của Giáo hội Huyện… trước quan khách và trên dưới độ 300 tăng ni và tín đồ tham dự.
Vị Chánh đại diện Phật giáo Huyện kiêm Trưởng ban Tổ chức, kiêm Chủ Sám cuộc lệ, xướng Bát tướng Thành Đạo để mọi người lễ bái. Ngài xướng thêm:
- Nhất tâm đảnh lễ Ma Gia Phu Nhơn Hoàng Hậu.
Một vị Thượng tọa đứng bên cạnh nhắc:
- Xướng tiếp đi “Tịnh Phạn Vương Phụ Hoàng”.
Không ngờ, cái micro mạnh quá ở bên ngoài nghe rõ, nên có nhiều tăng ni chúm chím cười, còn quan khách… … … ai biết chi mô.
26.
Trong một đám tang, một vị sám chủ còn trẻ, tập sự thuyết linh hết lời ca ngợi hương linh: nào là HL là một Phật tử thuần thành, một tín đồ trung kiên của GH, một công dân tốt, sống có đạo đức được mọi người kính mến… Trong hàng ngũ thính giả có nhiều tiếng xì xầm…
Lễ xong, ra ngồi giải lao, vị chủ sám muốn biết kết quả buổi thuyết linh nên gọi một Phật tử đến gần:
- Này, đạo hữu nghe thầy giảng thế nào? Có được không?
- Dạ, bạch thầy, thầy giảng hay lắm, nhưng… tàu đã trật đường rầy, vì cái ông chết này chưa một lần đi chùa, chưa ăn chay một bữa, nổi tiếng ở địa phương là một người xảo quyệt, gian manh. Chỉ người con trưởng là Phật tử nên làm ma chay cha theo nghi thức Phật giáo. Thành thử, thầy ca ngợi ông ta mọi người xì xầm…
Vị sám chủ lẩm bẩm “Thì ra mình lầm, khen không đúng đối tượng, chỉ làm trò cười cho người nghe…”. Một kinh nghiệm cần nhớ !
27.
Lễ chung thất một Sư cô trú trì của một chùa nọ, mời một vị giảng sư đến giảng, vị giảng sư khuyến khích hàng môn đồ đệ tử nên “tiếp tục sự nghiệp của thầy tổ, noi gương thầy tổ để truyền đăng tục diệm, hoằng pháp lợi sanh…”.
Khi giảng xong, trở về phòng nghỉ, có một sư cô đến gần thỏ thẻ:
“Thầy ơi, vị sư cô viên tịch là một người thiếu học, ít tu, bất tài, chỉ biết bắt đệ tử làm nhang, làm tương, làm chao đi bán kiếm tiền. Bây giờ thầy biểu họ noi gương như vậy, tiếp tục sự nghiệp như vậy, con e Phật giáo nguy to”.
Vị giảng sư chưng hửng, bụng bảo dạ “Hố to, sao ta khờ đến thế”.
28.
Một vị tu sĩ trẻ tuổi, muốn tập sự thuyết linh. Một hôm, có dịp, trong một lễ tang một hương linh chết vì xe đụng. Vị tu sĩ ấy lớn nhất trong đám kinh sư, nên vừa chủ sám vừa pháp sư. Pháp sư vỗ thủ xích gọi “Này Hương linh Nguyễn Văn A lắng nghe. Ngươi vì tạo nhiều ác nghiệp, nay phải chịu quả báo, chết thê thảm máu rơi thịt đổ, ngươi phải thành tâm sám hối…”. Tang gia gục đầu, thính giả lắc đầu nhưng vì đang cử hành lễ, mọi người im lặng, không khí hết sức nặng nề… Sau giờ hành lễ, vị pháp sư giải y chưa kịp uống nước thì tiếng xôn xao, tiếng khóc, tiếng can ngăn an ủi ở nhà sau. Rồi một cụ già bước lên trước mặt vị pháp sư lễ phép thưa “Bạch thầy, mời thầy ra xe con và tài xế tiễn thầy về, ở đây lâu bất tiện”.
Như có một cảm giác không yên nào đó, vị pháp sư theo cụ già ra ngõ, nghe có tiếng nói lớn vọng theo “Để tui hỏi thầy đã, tui thỉnh thầy về cầu nguyện cho cha tui chứ đâu phải mời thầy về để thầy mắng linh hồn cha tui”. Lúc này vị pháp sư trẻ tuổi mới vỡ lẽ do không khéo sử dụng ngôn từ nên đã xúc phạm hương linh, con cháu trong nhà mới có phản ứng gay gắt như vậy – hèn gì… hú hồn.
29.
Ở các nước Tây phương, dù tổ chức bất cứ lễ gì cũng nhắm vào ngày Chủ nhật. Vậy nên, có người hỏi:
- Hôm nay đã cuối tháng 7, sao còn tổ chức lễ Vu Lan.
Vị trú trì cười:
- Có gì đâu, vì ngày này là ngày CHÙA NHẬT.
Nghĩa là:
Làm việc suốt tuần, chỉ có một ngày ta làm chủ chính ta, gọi là ngày CHỦ NHẬT, cuối tuần đi nhà thờ gọi là ngày CHÚA NHẬT, và cũng ngày đó ta nghỉ đi làm mà đi chùa lễ Phật gọi là ngày CHÙA NHẬT. Thế thôi!
- Chính xác.
1.
Năm 1963. Bác A tụng kinh Phổ Môn trong nhà. Hai người mật vụ của cụ Cẩn rình nghe. Bác tụng đến câu “Diệt trừ phiền não Diệm”. Hai cậu nghe thế, nhảy ngay vào, còng tay bác A:
- Rõ ràng chưa, Phật giáo của các anh đang âm mưu “diệt trừ Tổng thống Diệm”, đừng chối nữa nhé.
Một tháng tù tỉnh queo! Biết răng mà nói!
- Lảng nhách 2
Một cậu thanh niên khác đạo, tán tỉnh một cô gái Phật giáo. Cậu ta muốn trổ tài, ngâm một câu thơ:
“Cây bồ đề lá cũng bồ đề
Anh đạo em ngoại không hề chi mô”
Cô gái ngâm tiếp:
“Cây bồ đề lá cũng bồ đề
Anh đạo em ngoại rủ rê làm gì?”
Cậu ta không buông tha:
“Cây bồ đề lá cũng bồ đề
Anh thấy em đẹp nên mê em rồi”
Cô gái gắt giọng:
“Cây bồ đề lá cũng bồ đề
Anh đeo như đĩa, em chê anh tồi”.
2.
- Thầy muốn thọ giới Tỳ Kheo?
- Vâng.
- Phô tô chứng điệp sadi chưa?
- Rồi.
- Có phòng tư pháp ký sao y không?
- Có.
- Bản chính đâu?
- Đã phô tô, ai thêm bớt? Phòng tư pháp sao y vẫn không tin, nộp quách bản chính có khỏe hơn không? Lảng nhách.
3.
- Cô muốn thọ giới Tỳ Kheo?
- Vâng.
- Sao chứng điệp thức xoa chưa?
- Rồi.
- Chứng điệp sadi đâu?
- Thi đại học. Đòi chứng chỉ mẫu giáo làm gì nhỉ – Lảng nhách.
4.
Đứng đợi gần nửa giờ, lão chăm chú đọc tập hồ sơ dầy cộm, sư cô nóng lòng vẫn không dám hối thúc. May quá, lão ngẩng đầu lên hỏi:
- Cô xin thọ giới Thức xoa?
- Dạ.
- Cô xuất gia năm 79, thọ giới năm 80, như vậy hành điệu chưa quá 1 năm. Nguyên tắc là phải tu 3 năm mới cho thọ giới Sadi. Hồ sơ này bất hợp pháp.
- Thầy Tổ xét tôi đạo hạnh cho thọ Sadi đã 8 năm nay, nay xin thọ Thức xoa đầy đủ hồ sơ theo thể lệ hiện hành, sao lại bất hợp pháp?
- Tôi đã nói cô phải thọ lại Sadi mới được.
- Mô Phật, đã thọ Sadi hợp pháp năm 80, nay bắt thọ lại Sadi năm 88. Sao lạ đời vậy nè?
Ông thư ký này đúng là lảng nhách.
Xin hỏi M.T.C. Thư ký GH tỉnh ĐN.
5.
- Buổi cải lương giải hạ một tỉnh nọ nghe tốn bao nhiêu vậy thầy?
- Chỉ sơ sơ vài triệu thôi. Họ hát giúp vui làm công quả mà.
- Đa tạ – công quả mới vài triệu – thẳng thừng chắc... Tiền đâu mà xài đẹp thế?! Giải hạ sao rước cải lương?
- Vì ban chức sự trường hạ là dân mê cải lương.
Lảng Nhách, Hạ 1987
- 1. Trưởng ban tổ chức
Chưa đến giờ họp, ba vị Thượng Tọa ngồi quanh một cái bàn dài (dài thòng), nhấp nháy chén trà nguội, một vị lên tiếng:
- Năm ni ngài phó là trưởng ban tổ chức trường hạ một năm đi.
- Hì, hì, tui ở xa bất tiện, các anh phải gánh giúp.
- Mô được, ở xa thì có việc xa, ban tổ chức có nhiều chức vụ, ngài trưởng và ngài phó không gánh thì ai gánh, tụi này chỉ làm các chức vụ “chầu rìa” thôi.
- Đó, đó, nhìn con rít bò thì biết.
- 2. Xem mặt đặt tên
- Kinh nghiệm các năm trước, ban giáo thọ năm ni cần đổi mới, trực thuộc thẳng với ban chức sự trường hạ chứ không có trưởng ban và chỉ chọn lọc 10 vị thôi, để đạt chất lượng hơn.
- Chọn ai?
- Nè, bảng “chì” đã được ghi tên.
- Nhất trí, đồng ý, nhưng… còn…
- Không nhưng, không còn, mà cũng không hết, cứ rứa là cứ thế, để kết quả sẽ trả lời.
- Thì ai nói gì đâu mà…
- Không thì cũng không mà gì hết, xem mặt đặt ngồi, cứ thế!
- Độc tài và hàm hồ quá.
- Hì, hì, thú vị là ở chỗ đó.
- 3. Bổ túc hồ sơ
- Như tỉnh hội đã ấn định, ai chưa đủ hồ sơ? – Thầy thư ký hỏi.
- Con !
- Con !
- Con !
- Mèn đất, răng thiếu nhiều rứa?
- Tại tụi con có biết gì đâu, tưởng theo luật Phật. Tăng Ni đến mùa an cư là phải đi tìm nơi thuận duyên để an cư, chứ đâu có biết thể thức hành chánh rắc rối như vậy.
- Chưa hết đâu cô, còn rắc rối hơn nữa.
- Thầy cho tụi con về hai hôm để bổ túc hồ sơ.
- Được, mấy hôm cũng được, nhớ lo cho đủ, giấy tờ rắc rối lắm…
- 4. Lại hồ sơ
- Thầy ơi, hồ sơ con bổ túc rứa đủ chưa thầy?
- Tôi chưa nhắc, cô đã hỏi. Thiếu chữ ký của mặt trận huyện và bản sao chứng điệp chưa có phòng tư pháp ký.
- Có mặt trận xã ký rồi mà thầy.
- Ở trong huyện Long Thành thì được nhưng cô khác huyện nên phải có cấp huyện xác nhận mới hợp lệ theo nguyên tắc mới của tỉnh hội, rắc rối vậy đó.
- Khổ quá thầy ơi, lên về mất thì giờ và tốn tiền xe, chịu hết nỗi.
- Còn tốn cả sức khỏe nữa chứ.
- Thầy biết, thì thầy giúp con.
- Được, để khi mô thầy làm trị sự trưởng hẳn hay, thực tế là lo bổ túc hồ sơ đi đã.
Nhìn cái mặt méo xẹo và đôi mắt rơm rớm của cô, tôi bâng khuâng tự hỏi: An cư mà chạy theo mấy cái giấy này, có an không nhỉ? Và cấp lãnh đạo giáo hội nâng đỡ tăng ni tu học đến mức nào đây!
- 5. Xét có cần
- Thưa cô, em đọc quyển Nghi thức Qua đường của Tòng Lâm Vạn Thiện quá dài và quá khó khăn, mà nghi qua đường chúng mình áp dụng mấy bữa nay sao đơn giản quá, em phân vân không biết nghi nào đúng.
Trầm ngâm một lúc, sư cô mỉm cười:
- Cô chưa đọc nghi của Tòng Lâm Vạn Thiện nhưng khi các ngài soạn và in thành sách chắc là không sai và nghi của chúng ta áp dụng lâu nay tuy đơn giản thiệt nhưng cũng không sai đâu, tùy trường hợp mà ứng dụng thôi.
- Thưa cô, nếu vậy thì theo em mình nên chiết trung giữa hai nghi thức đừng quá đơn giản mà cũng đừng quá rườm rà, có lẽ hay hơn.
Sư cô cười vui, hỏi lại:
- Lý do nào em đề nghị như vậy?
- Dạ... dạ...
Thấy cô ni trẻ ấp úng, sư cô cười vui hơn:
- Em cứ nói cô nghe, đề nghị của em hay lắm, nhưng cô muốn biết rõ hơn quan niệm của em trước khi đề nghị, chứ cô không thắc mắc gì đâu, đừng ngại.
- Dạ, thưa cô, vì em nghĩ: chúng trường hạ này có đủ thành phần, Nam Bắc tông, Thiền tông và Tịnh Độ tông, lại đủ người Trung lẫn Nam, nên không những nghi lễ mà mọi sinh hoạt khác cũng nên chiết trung để tạo sự hòa chúng dễ dàng.
- Thiện tai, thiện tai, ý kiến của em đáng tán thán, cô sẽ đề nghị ban chức sự xem lại vấn đề.
- 6. Lại một số vấn đề
- Thầy thư ký quả thật đa sự, trời nóng như thiêu lại đặt vấn đề đắp y khi qua đường. Ở Bửu Lộc thầy chánh đại diện cũng bảo chúng tăng như vậy, mấy thầy rắc rối thiệt !
À, mà này, việc nhập hạ an cư đắp y qua đường không phải quý thầy bày ra đâu nhé, xét lại vấn đề coi.
Thầy thư ký vốn dĩ là người hành chánh, nguyên tắc lắm. Coi chừng, phàn nàn tào lao, ổng nghe được, không khỏi uống cà phê đậm.
- 7. Từ chết đến bị thương
Mỗi tuần có 2 giờ đại bác nổ, ngồi nghe giảng như ngồi hứng đạn, mảnh văng lung tung, ai cũng cảm thấy không chết cũng bị thương – nhưng lại vô cùng thú vị – “trung ngôn nghịch nhĩ”, “nói thật mất lòng” mà cô bé Liên Tâm hay Tâm Liên gì đó, học đòi sư phụ, khe khẽ ngâm câu:
“Mất lòng còn ruột còn gan
Còn tim còn phổi lo chi mất lòng”
Vị sư phụ giảng bài như “sút bóng”.
Sa Tăng Hạnh
Hạ, Ngọc Thành 1987
hình ảnh quảng cáo
1.
Một cặp tình nhân thôn quê, đi trên bờ ruộng khá thơ mộng và rất hạnh phúc. Một anh chàng thanh niên dân thành phố, ăn mặc rất sang, cỡi trên một chiếc xe môtô đời mới, láng cón chạy ngang, cô gái vội nhảy lên sau yên xe, ngoài nhìn lui người tình thôn quê đưa tay khoát lia lịa, bay bay. Trong lúc anh chàng thôn quê thộn mặt ra ngơ ngáo, ngạc nhiên.
Ừ, thời đại này, lòng thủy chung không bằng một chiếc môtô đời mới. Con gái Việt Nam như vậy ư? Nhục lắm. Quảng cáo xe môtô.
2.
Bên cửa sổ, một giàn hoa rất đẹp. Hai, ba người đàn bà nhìn thấy một người đàn bà khác đang giặt quần áo với một loại xà phòng khác.
Các bà trong phòng trề môi, cười chê, châm biếm, xà phòng đó mà giặt gì, chỉ có xà phòng này… mới đáng dùng mà thôi.
Ôi! Tâm địa người phụ nữ Việt Nam đê hèn, xấu xa như vậy sao?
Quảng cáo xà phòng mà.
3.
Một người đàn bà trung niên, mặc áo dài màu đà Việt Nam, tay cầm cái quạt giấy dáng điệu rất ư chi là quan liêu, vừa đi vừa tuyên bố “Ai lấy con gái tôi, chỉ cần một cái đầu máy video”. Mang nặng đẻ đau nuôi nấng trên dưới 20 năm chỉ đổi một cái đầu máy, con gái Việt Nam rẻ mạt – Ôi giá trị của ba đảm đang.
4.
Một nền nhà được lát gạch men láng cón nhưng hơi dơ, một mảnh vải trắng được lau qua với một loại nước… nền nhà trở nên láng sạch, mảnh vải cũng sạch. Một chú bé mới biết bò xuất hiện rồi vô tư cầm mảnh vải nhét vào mồm.
Tuổi trẻ hay bắt chước, nhìn cảnh này lũ trẻ Việt Nam đều nhai khăn lau nhà. Hèn gì lớn lên chúng đâu cần học vẫn có đủ bằng cấp rất cao và ngồi ghế cũng rất cao.
(
Cơ quan nghe nhìn của nhà nước (đài truyền hình quảng cáo sản phẩm của các công ty), vô lẽ cả Ban Giám đốc đài truyền hình để nhân phẩm của người Việt Nam bị các công ty hạ thấp xuống tận cùng của xã hội mà không thấy. Việt Nam kiên cường và oai hùng chứ đâu tệ như đài truyền hình quảng cáo. Vậy mà vô số người nhìn lên màn hình đã không thấy nhục mà còn nhe răng cười hô hố. Hết biết, biết chết liền.
Muốn bán, không ai hỏi giá nên phải rao, rao càng to hàng càng dỏm, hàng dỏm thì ế, ế nên quảng cáo, quảng cáo là nói láo, nói láo là nói dỏm, nói dỏm ai cũng ghét. Nhưng trên đời này mấy ai không nói láo. Nói láo là mang tội vọng ngữ.
Thế đấy! Bần tăng có một mớ hàng cần bán, toàn hàng dỏm, mỗi thứ để mỗi nơi. Ai cần mua bần tăng xin giới thiệu, bán:
- Món 1
Hàng này chưng dọn khắp nơi, di chuyển được, nhất là trên các chợ, phố Sài Gòn, mỗi ông quấn y vàng xệch xoạt, kéo theo vài bà cũng xệch xoạt như ông. Có lúc cũng kèm theo vài nhóc cũng rứa đi “Khất thực”. Cả sáng trưa chiều tối, chợ cá hàng tôm – món này đều len vô hết. Cần bán.
- Món 2
Sơn bằng phấn, trét bằng son, áo quần lòe loẹt. Tín tâm thì ít, giáo lý không rành, pháp danh thì chưa có, đến chùa cũng Phật tử như ai mà... tìm vết thầy này để nói xấu, tìm thẹo cô nọ để rêu rao. Món này made “Phật tử dỏm” – Cần bán.
- Món 3
Món hàng này dỏm công khai, dỏm trắng trợn, dỏm lố bịch, phá kỷ cương, phá luật tự nhiên, phá ngôn từ đứng đắn, phá tư tưởng con người khi xưng hô, gây hiểu lầm rắc rối, tạo tội lỗi danh tướng, nâng tính xấu ngã mạn cống cao. Món này cần bán gấp, giá rẻ mạt. Xin hỏi mua ở các “vị nhi nữ” tự xưng hoặc bắt đệ tử gọi bằng THẦY. Thầy mà không có...
- Món 4
Món hàng này lại quá kín đáo, quá tinh vi. Lão tăng không rao đố ai biết – này nhé, kề tai nghe rõ – lão nói nhỏ cho nghe. Tìm hỏi mua nơi vài vị (rất ít) có chức, có quyền, nêu chiêu bài “Phụng Phật, hộ Pháp, độ Tăng” – xin tiền, quyên của, rồi... tuôn về phương nao! Mà chùa không sửa, kinh không in, Tăng Ni Chúng đói rách. Có vị bán tiếng là lo cho Trường Hạ, xin cho Đại Chúng, mà Đại Chúng vẫn xác xơ, Trường Hạ vẫn hoàn xơ xác. Món này hiếm quý, không hợp với địa nhưỡng Long Thành, nên – Ráng tìm... mà mua.
- Món 5
Món hàng này không phải dỏm nhưng cũng nên bán – hàng rất dễ thương, dùng bền, tốt, chỉ thiếu chút “Chánh Tư Duy”. Xin hỏi mua nơi các Phật Tử nhiệt tâm hy sinh nhưng làm Phật sự không hợp cơ, hợp cảnh, hợp thời, phục vụ không đúng chỗ, cúng dường không đúng nơi, cũng phí – cần bán không gấp!
(
Còn và còn rất nhiều món hàng độc đáo lắm, nhưng bần tăng chỉ bán vài món thôi. Mai mốt giàu đổi tên là Tăng Phú. Dại chi bần mãi. Ai là kẻ tri âm?
Bần Tăng Cửu Chỉ
Hạ 1987
Vậy là bạn và tôi lại gặp nhau.
Tặng bạn một cái gương soi mặt nhỏ. Hãy nhìn vào để thấy rõ gương mặt mình.
Như bao lần gặp nhau trước đây, tôi chỉ mong thấy bạn (bất cứ thành phần nào, nam phụ lão ấu, sĩ nông công thương, Tăng Ni, Chúa Phật...) xin đừng tiếc một nụ cười.
Thân ái,
Thích Khinh An
MỤC LỤC
Lời đầu....................................................... 03
Mảnh vụn hồng.......................................... 04
Bất khả tư nghị........................................... 10
Chuyện điệu chùa tôi.................................. 19
Lại chuyện chùa tôi.................................... 23
Thần tăng đi học......................................... 31
Chuyện chùa tôi 2....................................... 33
Chuyện như đùa......................................... 37
Kẻ sĩ........................................................... 40
Chuyện vui có thật..................................... 44
Mấy đoạn phim đời..................................... 48
Thắc mắc chút chút.................................... 52
Lại thắc mắc............................................... 58
Cứ hỏi........................................................ 68
Hỏi tiếp...................................................... 78
Hỏi nữa...................................................... 84
Chuyện thuốc lá......................................... 90
Tứ đại cảnh................................................. 94
Sợ.............................................................. 97
Thay chuyện ngắn mà tác giả phụ trách................ 102
Dẹp! Dẹp!................................................. 107
Vậy đó...................................................... 112
Cũng ngộ.................................................. 119
Tản mạn chuyện ngôn ngữ – chữ nghĩa................ 123
Lảng nhách............................................... 145
Những mảnh kim cương........................... 148
Hình ảnh quảng cáo.................................. 154
Rao vặt..................................................... 157
Lời cuối sách............................................ 160
Phương danh các Phật tử ấn tống sách này:
Ở Canada:
- Đạo tràng chùa Pháp Vân
- Đạo tràng chùa Bát Nhã
- Đạo tràng chùa Đức Phổ
- Gia đình chị Loan
- Gia đình cô Lưu
- Gia đình anh Son
- Gia đình chị Thiết
- Gia đình chị Thiệt
- Gia đình anh Cao
- Gia đình anh Lộc
- Trung Tâm
- Nguyên Huấn
- Trung Đạo
- Trung Hoàng
- Trung Vũ
- Trung Ngọc
- Trung Chi
- Lệ Đức
- Cát Tường
- Khánh Chung
Ở Úc:
- Đạo tràng chùa Quang Minh
- Đạo tràng chùa Linh Sơn
- Đạo tràng tu viện Quảng Đức
- Đạo tràng chùa Bảo Minh
- Đạo tràng chùa Hoa Nghiêm
- Đạo tràng chùa Liên Trì
- GĐPT ở Adelaide
- GĐPT ở Sydney
- GĐPT ở Melbourne
- Gia đình anh Thiện
- Duyên Anh
- Đình Anh
- Trung Anh
- Trung Hoa
Xin hồi hướng công đức
Xin liên hệ:
Thích KHINH AN (Minh tâm)
Chùa PHẬT ÂN
Long Thành – Đồng Nai
ĐT: 0613.844.618 – 0612.643.400 – 0933.451.848
***
Trang Nhà Quảng Đức chân thành cảm ơn Thầy Trung Đạo và Thầy Hiếu Niệm đã gởi tặng phiên bản điện tử của tập sách này (Thích Nguyên Tạng, 17-10-2013)