ĐỨC VUA SÁNG TỔ MỘT DÒNG THIỀN
Tran Nhan Tong (1258 – 1308)
The King Who Founded A Zen School
Translated and Commented by Nguyen Giac
Thien Tri Thuc Publications, California 9010
Poems | Thơ |
1 SEEING A SCENE The
frosting season is gone. | 1 TỨC SỰ Xong
múa Giá chi thử áo xuân, |
2 FAREWELL TO THE TWO CHINESE ENVOYS, LY TRONG TAN AND TIEU PHUONG MAI Linh
Tri is far away; the farewell party stays warm in memory.
| 2 TIỄN
SỨ BẮC LÝ TRỌNG TÂN Thăm
thẳm Linh Trì ấm tiệc đưa |
3 FAREWELL TO THE TWO CHINESE ENVOYS, MA HOP AND KIEU NGUYEN LANG You
two star envoys have brightened the southern sky, | 3 TIỄN
SỨ BẮC MA HỢP Trời
nam, sao sứ rọi hai ngôi |
4 RESPONDING POEM TO KIEU NGUYEN LANG With
a luggage of light clouds, the spring just comes to the southern mountain,
scatters some flowers on the ‘mai’ plants, and reveals the imperial
virtue everyplace.
| 4 HỌA THƠ KIỀU NGUYÊN LÃNG Non
nam hành lý nhẹ mây tưng |
5 EARLY FLOWERS ON THE MAI PLANT(1) Reflecting
in water, a flower with five yellow petals circling around shows its beauty
among the coral reefs.
| 5 HOA MAI SỚM(1) Vàng
điểm tua hoa năm cánh tròn |
6 EARLY FLOWERS ON THE MAI PLANT (2) It’s
cold outside; I have not stepped over the door for five days.
| 6 HOA MAI SỚM(2) Ngại
rét năm ngày cửa biếng ra |
7 THE SCENE OF SPRING The
birds sing playfully, and the willow flowers bloom.
| 7 CẢNH XUÂN Chim
hót nhởn nhơ, hoa liễu dày, |
8 JOINING A BANQUET WITH HIS ROYAL HIGHNESS VAN TUC VUONG The
cooks brought out reddish boiled turtle feet and amber-colored fried horse
steaks.
| 8 DỰ YẾN VỚI VĂN TÚC VƯƠNG Chân
rùa bóc đỏ mọng
|
9 THAN QUANG PAGODA ON DAI LAM MOUNTAIN On
this high and vast realm, Than Quang Pagoda shows the sense of serenity.
| 9 CHÙA THẦN QUANG TRÊN NÚI ĐẠI LÃM Bát
ngát Thần quang gợi tịch u |
10 A POEM FOR THE LAKE COTTAGE IN FRONT OF PHO MINH PAGODA After
thousands of incense sticks burning, the cottage now is full of fragrance.
| 10 ĐỀ NHÀ THỦY TẠ CHÙA PHỔ MINH Xông
hết nghìn hương thơm ngát nhà, |
11 AN AFTERNOON AT THIEN TRUONG Here
and there, | 11 NGẮM CẢNH CHIỀU THIÊN TRƯỜNG Thôn
trước thôn sau tựa khói nhòa |
12 THE WESTWARD CONQUEST The
brocade sail flies along the wind, and the whitewater waves spring up flowers.
| 12 TRÊN ĐƯỜNG TÂY CHINH Hoa
sóng tung lên buồm gấm bay |
13 THE MOON The
lamp burns dimly, scattering light on the bamboo bed full of books. | 13 TRĂNG Đầy
sách, giường song chếch bóng đèn |
14 HIKING ON BAO DAI MOUNTAIN The
land is so quiet, | 14 LÊN NÚI BẢO ĐÀI Đất
vắng đài thêm cổ |
15 PLUM BLOSSOM Fearless
of the early snow, the plum | 15 CÂY MAI Sắt
đá gan lì khinh tuyết sớm |
16 ON THE ELEVENTH NIGHT IN THE YEAR’S SECOND MONTH I spread
a bamboo mat | 16 ĐÊM MƯỜI MỘT THÁNG HAI Rượu
chút sầu vơi, vị đậm đà, |
17 THE WIFE AT HOME IN SORROW She
gets up, puts aside the curtain, and sees the roses falling.
| 17 NIỀM OÁN HẬN CỦA NGƯỜI KHUÊ PHỤ Ngủ
dậy vén rèm, hồng thấy rơi, |
18 AN AFTERNOON IN CHAU LANG The
ancient temple | 18 CẢNH CHIỀU Ở CHÂU LẠNG Chùa
cổ đìu hiu khuất khói mờ |
19 THE LATE SPRING When
I were young, I did not understand the existence and the emptiness.
| 19 XUÂN MUỘN Tuổi
trẻ sao từng hiểu sắc không |
20 AN AUTUMN AFTERNOON IN VU LAM The
bridge reflects off the creek, and appears as flowers flying in the air.
| 20 CHIỀU THU Ở VŨ LÂM Lòng
khe vắt ngược bóng cầu hoa |
21 VISITING THE ROYAL TOMB CHIEU LANG IN A SPRING DAY Like
tigers and bears, the soldier statues stand guard at a thousand gates.
| 21 NGÀY XUÂN THĂM CHIÊU LĂNG Hùm
gấu nghiêm nghìn cửa. |
22 AN EARLY MORNING IN THE SPRING Getting
up and opening the door, | 22 BUỔI SỚM MÙA XUÂN Ngủ
dậy, mở cánh cửa, |
23 AT THE DONG THIEN LAKE At
around the Dong Thien Lake, the flowers and grass look not very vernal.
| 23 TRÊN HỒ ĐỘNG THIÊN Cảnh
hồ Động thiên nọ, |
24 THE THIEN TRUONG DISTRICT So
much lonely is this place -- with a few red among mostly green.
| 24 PHỦ THIÊN TRƯỜNG Rậm
lục thưa hồng thêm quạnh hiu |
25 A SONG FOR THE BAMBOOS Standing
amid the cold snow, keeping emptiness inside, and facing the fog –
| 25 BÀI MINH ĐỀ TRÚC NÔ Ruột
rỗng, tuyết giải |
26 AT THE MOUNTAIN COTTAGE, FEELING INSPIRED(1) Nobody
ties you; why do you ask for liberation? | 26 MẠN HỨNG Ở SƠN PHÒNG(1) Ai
buộc mà đi giải thoát tìm? |
27 AT THE MOUNTAIN COTTAGE, FEELING INSPIRED(2) The
right and wrong in my mind are falling off alongside the flowers in the
morning. | 27 MẠN HỨNG Ở SƠN PHÒNG(2) Phải
trái tâm theo hoa sớm rơi |
28 A POEM TO CHINESE ENVOY LY TU DIEN The
Chinese Emperor showers rains of kindness on every place.
| 28 TẶNG SỨ BẮC LÝ TƯ DIỄN Ơn
Hán tràn trề mưa móc tuôn |
29 A PRAISE TO TUE TRUNG THUONG SI You
stand higher for those | 29 CA NGỢI THƯỢNG SĨ TUỆ TRUNG Nhìn
lên càng cao |
30 A POEM TO THE TEMPLE OF HUONG CO CHAU VILLAGE Confined
in a breath, | 30 ĐỀ CHÙA THÔN HƯƠNG CỔ CHÂU Số
đời một màn kéo, |
31 DEATH POEM If
you constantly see | 31 KỆ THỊ TỊCH Hết
thảy pháp không sinh |
32 THE BODY Your
body is like a breath | 32 THÂN NHƯ Thân
như hơi thở vào ra mũi |
33 YOU SHOULD REMEMBER You
should remember (NOTE: The Marshal Tran Hung Dao composed this two-sentence poem to remind King Tran Nhan Tong that the Vietnamese kingdom had enough strong forces to fight against the invaders.) | 33 NGƯƠI NÊN NHỚ Cối
kê việc cũ ngươi nên nhớ, (GHI CHÚ: Tướng Trần Hưng Đạo nói hai câu thơ này để nhắc Vua Trần Nhân Tông rằng nước Việt còn có đủ binh hùng tướng mạnh để chống ngoạI xâm.) |
34 INSPIRED The
stone horse galloped twice | 34 TỨC SỰ Xã
tắc hai phen chồn ngựa đá, |
35 RESPONDING POEM TO LY TU DIEN Having
no talent, | 35 HỌA THƠ LÝ TƯ DIỄN Tự
xét không tài thẹn được đất |
After
Buddha, not a word should be spoken, because his dharma talks are still
echoing now.
Seeing the flower from Buddha’s hand, the patriarchs jumped into the ring, danced in four directions, laughed in unison, and all pointed fingers to the bloom. If we can not clearly hear Buddha’s words or see the flower being lifted high, we should carefully watch the dharma dance enjoyed by partriarchs to find a path to enter the ring. Especially, just watch Tran Nhan Tong. The show is beautiful; however, is there truly a path leading to liberation? We see that the patriarchs walked, ran, jumped, danced and hopped onto so many different paths around the flower. So, when we see the maze of footprints left by patriarchs, should we say that that is truly a pathless way? Tran Nhan Tong replied that Buddha had not spoken a word in forty-nine years. Not a word was spoken, while we still hear now the echoes from Buddha’s dharma talks? That means that we should hear the soundless sound? Tran Nhan Tong then said that the practitioners could not see and hear Buddha via forms and sounds. Does that mean that we can only see and hear Buddha via the formless and the soundless? What should we do now? Form appears and disappears; sound arises and vanishes; however, we want to enter the realm of undying peace. Let’s see the form and hear the sound again. The nature of awareness is shining bright, recognizing the form and sound. The form and sound come and go, while the nature of awareness neither comes nor goes. It’s just there, just like the reflecting nature of a clear mirror, and like the echoing nature of an empty hall. The nature of awareness has no form, so the mirror displays so many different forms; it has no color, so we can see so many different colors around us. Thus, it is formless; ditto, it is soundless. That is why Tue Trung said, “Just know that all scenes come from your mind. Realizing that the mind and scenes are originally empty, you will see the enlightenment in all places.” The form appears in the mirror and then disappears, but the reflecting nature of the mirror is still there, serene and clear. The sound arises in the mind and then vanishes, but the nature of awareness is still there, hearing and recognizing. Hence, we can see that Buddha is currently holding the flower, see that the flower is right now being lifted from his hand – from his one hand. Hence, when we see the flower from his one hand, we are hearing the clap of one hand. The patriarchs saw, and we can see now – not only seeing a flower, but also seeing the nature of awareness; ditto with the sound. The flower is being lifted high, the bird is flying and the cloud is floating; however, they all are originally empty, and truly motionless. When we realize that all things come from the mind, then we will see in all places the realm of motionless peace, in which there is no such thing as time or suffering. Thus, we can see the flower and hear the clap of one hand when we feel and interact via first impressions from the choiceless awareness, which behaves like the reflecting nature of a mirror and like the echoing nature of an empty hall. When we hear a bird singing, the first impression does not show us where the melody comes from. When we hear and just hear only, we don’t make any choice that whether we like or dislike the melody, and don’t make any judgement that the melody comes whether from the TV or computer, from the front yard or back yard. When we hear and just hear only, we realize that the melody is manifested in the mind. Each of us would hear the melody differently. And thus, we know that the melody is the mind being manifested, and know that all things are truly quiet, serene and peaceful. When we see a bird singing on a tree in a forest, and if not a thought arises, then we see that there is no such thing as the self, and see that we are the bird and that we are the song; we are the entire universe. Furthermore, if there is nobody around there, if there is nobody there to do the seeing or hearing, the question is that is there any bit of sound? And is there any bit of sound being manifested in mind? Or should we answer that the four phrases -- existence, nonexistence, both existence and nonexistence, neither existence nor nonexistence – can not be applied? Similarly, we can also understand Tran Nhan Tong via The Prajna Paramita Heart Sutra, in which Buddha stated that form was emptiness, and that emptiness was form. Thus, we are really living in the realm of emptiness. Just watch the mind. Before a thought arises, that is the formless emptiness. When a thought arises, a form appears. Before the flower is seen, that is the formless seeing. Before a sound is heard, that is the formless hearing. We are all bathing in the river of form and emptiness. The water in river is the emptiness, and the waves are the forms; they have no difference. Hence, when seeing, just see and see only; when hearing, just hear and hear only. Live with the nature of awareness – the choiceless awareness. That is when we live with the unborn mind. Just watch the mind, and see the nature of awareness. Tran Nhan Tong said so. A few words should be added here. The translation might not transfer well, and this humble postscript might be deficient; however, this is the best that the writer can do. If there is any merit in this book, it is due to the Zen Masters in Vietnam, some of whom taught the writer directly and compassionately, while others taught indirectly via their poems and sayings. If any mistake is found in this book, it is the writer’s solely responsibility. May these words inspire those who want to learn the way of Zen, help those who are praticing, and become a rain of flowers to praise those who have entered the gateless gate. The End | Sau Đức Phật, không lời nào nên nói nữa, bởi vì pháp thoại của ngài vẫn còn đang âm vang. Do vậy, các tổ sư Thiền Tông chỉ nói bằng lời vô ngôn, và làm nhiều động tác để hiển thị ý nghĩa lời Phật. Nhìn thấy đóa hoa trên tay Phật, chư tổ đã phóng vào vòng, nhảy múa nơi bốn hướng, cười vang đồng điệu, và cùng chỉ tay về đóa hoa. Nếu chúng ta không có thể nghe rõ lời Phật hay thấy rõ đóa hoa đang đưa cao, chúng ta nên cẩn trọng quan sát điệu pháp vũ chư tổ đang vui hưởng để tìm lối nhập môn. Đặc biệt, hãy nhìn vào ngài Trần Nhân Tông. Màn trình diễn đẹp tuyệt; tuy nhiên, thực sự có một lối đi tới giải thoát? Chúng ta thấy chư tổ đi bộ, chạy, nhảy, múa và phóng người vào quá nhiều lối khác nhau quanh đóa hoa. Do vậy, khi chúng ta thấy mê lộ của các dấu chân do chư tổ để lại, ta nên nói rằng thực sự đó có phải là lối đi không lối đi? Ngài Trần Nhân Tông trả lời rằng Phật không nói lời nào trong 49 năm. Không lời nào nói, trong khi chúng ta còn đang nghe âm vang từ pháp thoại của Phật? Thế nghĩa là chúng ta nên nghe âm thanh vô thanh? Rồi ngài Trần Nhân Tông nói rằng người tu không có thể thấy và nghe Đức Phật xuyên qua sắc tướng và âm thanh. Thế có nghĩa là chúng ta chỉ có thể thấy và nghe Đức Phật qua vô tướng và vô thanh? Chúng ta nên làm thế nào bây giờ? Sắc tướng hiện ra, rồi biến mất; âm thanh sinh khởi và tan biến; nhưng chúng ta muốn vào cõi an bình bất tử. Hãy nhìn vào sắc tướng và nghe âm thanh lần nữa. Tánh biết đang chiếu sáng, nhận ra sắc và thanh. Sắc và thanh tới và đi, nhưng tánh biết không tới, không đi. Nó chỉ ơ đó, hệt như tánh chiếu của gương sáng, và như tánh vang dội của tòa nhà trống. Tánh biết không có hình tướng, nên gương hiện ra rất nhiều hình khác nhau; nó không có màu sắc, nên chúng ta có thể thấy nhiều màu khác nhau quanh ta. Thế nên, nó là vô tướng, vô hình, vô ảnh; tương tự, nó là vô thanh, không tiếng, không âm thanh. Đó là lý do ngài Tuệ Trung nói, “Cảnh cảnh từ tâm sanh. Tâm cảnh xưa nay không. Chốn chốn ba-la-mật.” Hình tướng xuất hiện trong gương và rồi biến mất, nhưng tánh chiếu của gương vẫn ở đó, lặng lẽ và trong trẻo. Âm thanh khởi trong tâm và rồi biến đi, nhưng tánh biết vẫn ở đó, nghe và nhận biết. Do vậy, chúng ta có thể thấy rằng Đức Phật hiện đang cầm đóa hoa, thấy rằng hoa hiện đang đưa cao từ tay ngài – từ một tay. Do vậy, khi chúng ta thấy hoa từ một tay ngài, chúng ta đang nghe tiếng vỗ của một bàn tay. Chư tổ thấy, và chúng ta có thể thấy bây giờ -- không chỉ thấy hoa, nhưng cũng thấy tánh biết; tương tự với âm thanh. Hoa được cầm lên, chim đang bay và mây đang trôi; tuy nhiên, tất cả chúng đều nguyên vốn là không, và thực sự bất động. Khi chúng ta nhận rằng vạn pháp từ tâm sinh, thì chúng ta sẽ thấy mọi nơi chốn đều là cõi an bình bất động, trong đó không hề có gì gọi là thờI gian hay khổ đau. Do vậy, chúng ta có thể thấy hoa và nghe tiếng vỗ của một bàn tay khi chúng ta cảm nhận và tương tác qua ấn tượng ban đầu từ tánh biết vô phân biệt, nơi hiển lộ như tánh chiếu của gương và như tánh vang của nhà trống. Khi chúng ta nghe một con chim hót, ấn tượng ban đầu không cho chúng ta biết ca điệu này từ đâu. Khi chúng ta nghe và chỉ nghe thôi, ta không có lựa chọn nào, dù là thích hay không thích ca điệu này, và không phán đoán rằng ca điệu này từ TV hay máy vi tính, từ sân trước hay sân sau. Khi ta nghe và chỉ nghe thôi, ta nhận ra rằng ca điệu đó hiển lộ trong tâm. Mỗi người chúng ta sẽ nghe ca điệu ở cách khác nhau. Và như thế, chúng ta biết rằng ca điệu đó là tâm hóa hiện ra, và biết rằng vạn pháp là thực sự lặng lẽ, vắng lặng và an tĩnh. Khi chúng ta nghe một con chim hót trên một cây trong rừng, và nếu không có niệm sinh khởi, thì chúng ta thấy không hề có gì gọi là cái tự ngã, và thấy rằng chúng ta là con chim và thấy rằng chúng ta là ca điệu được hót; chúng ta là toàn thể vũ trụ. Thêm nữa, nếu không có ai quanh đó, nếu không có ai ở đó để thấy hay để nghe, câu hỏi là có bất kỳ chút xíu âm thanh nào không? Và có bất kỳ chút xíu âm thanh nào hiển lộ trong tâm hay không? Hay
chúng ta nên trả lời rằng tứ cú – có, không, vừa có vừa
không, không có cũng không không – không có thể ứng dụng?
Tương tự, chúng ta cũng có thể hiểu ngài Trần Nhân Tông qua Bát Nhã Tâm Kinh, trong đó Đức Phật nói rằng sắc tức là không, và rằng không tức là sắc. Do vậy, chúng ta thực sự đang sống trong cõi của Không. Hãy nhìn vào tâm. Trước khi một niệm sinh khởi, đó là cái không vô tướng. Khi một niệm khởi, một hình tướng hiện ra. Trước khi hoa được thấy, đó là cái thấy vô tướng. Trước khi âm thanh được nghe, đó là cái nghe vô tướng. Chúng ta đều đang tắm trong dòng sông của sắc tướng và cái rỗng rang vô tướng. Nước sông là Không, và sóng là Sắc Tướng; chúng không khác gì nhau. Do vậy, khi thấy, hãy thấy và chỉ thấy thôi; khi nghe, hãy nghe và chỉ nghe thôi. Hãy sống vớI tánh biết – cái biết vô phân biệt. Đó là khi chúng ta sống với tâm bất sinh. Hãy nhìn tâm, và thấy tánh biết. Ngài Trần Nhân Tông dạy như thế. Vài lời xin thêm nơi đây. Bản dịch có thể không chuyển ngữ tốt, và lời bàn thêm nhỏ nhoi này có thể bất toàn; tuy nhiên, đây là những gì tốt nhất mà tác giả có thể làm. Nếu sách này có công đức nào, đó là do chư vị Thiền Sư tại Việt Nam, trong đó vài vị đã dạy cho tác giả một cách trực tiếp và từ bi, trong khi các vị khác đã dạy gián tiếp qua các bài thơ và ngữ lục. Nếu sách này có lỗi nào, sẽ hoàn toàn là trách nhiệm riêng của tác giả. Nguyện xin những lời này khích lệ cho những vị muốn học Thiền Tông, giúp những vị đang tu tập, và trở thành một trận mưa hoa để ca ngợi những vị đã vào được pháp môn không cửa vào này. Hết |