CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
Tập 2
Thích Nữ Giới Hương
Chương 5
Quan điểm về Đạo đức, Tâm lý, Thiền định, Tịnh độ
1. ẢNH HƯỞNG XẤU CỦA TIÊU CỰC
Nếu tâm quý vị thường dao động và ảnh hưởng bởi các ý tưởng tiêu cực thì tánh thông minh của quý vị sẽ bị sử dụng một cách rất sai lầm. Hãy nhìn vào lịch sử của loài người, trong hơn vài nghìn năm qua, chúng ta nhận thấy rằng các thảm kịch lớn lao nhất của nhân loại đã gây ra bởi lòng hận thù, sự sợ hãi và nghi ngờ của chúng ta.
(Worlds in Harmony)
2. BA LOẠI LƯỜI NHÁC
Có ba loại lười biếng sẽ cản trở sự tiến tu của chúng ta: Trì hoãn để mai sẽ tu, nghĩ mình thấp kém nên lười tu và lười không chịu chuyển đổi những thói xấu của mình, khiến những thói xấu cứ làm chủ mình.
(The Path to Tranquility, 47)
3. BẢN LAI TỐT
Tôi nghĩ rằng mặc dù bản chất xâm lăng tàn ác là một phần trong cuộc sống của quý vị nhưng sức mạnh ưu thế trong đời sống vẫn là tình thương của con người. Do đó, quý vị có thể làm vững chắc thêm đức tính tốt căn bản ấy bởi lẽ nó là bản chất của nhân loại.
(Book of Love and Compassion)
4. BẢN TÁNH CĂN BẢN
Mọi người đều bình đẳng và khao khát được có hạnh phúc cùng không thích khổ đau. Thêm nữa, tất cả chúng ta đều cảm thấy rằng mình có quyền hoàn thành khát vọng này. Đó là một phần trong bản chất căn bản của con người. Tôi không phải là người duy nhất, bạn cũng không có một đặc quyền nào cả. Khao khát của tôi muốn được hạnh phúc và vượt qua đau khổ là một phần trong bản tính của tôi; đó cũng là một phần trong bản tính của bạn. Như vậy, tất cả mọi người đều có quyền hưởng hạnh phúc và tránh khổ đau, đơn giản vì mọi người có chung bản tính căn bản này.
(An Open Heart)
5. BIẾT LẮNG NGHE & THÔNG CẢM
Mọi người đều quan tâm đến nền hòa bình thế giới. Vũ khí tối tân hay sức mạnh quân sự, trong vài trường hợp và hoàn cảnh, đôi lúc có thể mang lại nền hòa bình tạm bợ. Nhưng về lâu dài sự xung đột quân sự, lòng hận thù và nghi ngờ không thể giúp chúng ta có được nền hòa bình thế giới đích thực và trường cữu. Hòa bình thế giới chỉ thành đạt qua sự an lạc nội tâm, biết lắng nghe, thông cảm và kính trọng lẫn nhau của con người.
(Live In A Better Way)
6. BỒ TÁT HÓA THÂN
Có phải có một sự liên quan giữa Đức Phật và Chúa Giê Su là hai nhà sáng lập ra hai tôn giáo lớn trên thế giới?
Tôi không biết có sự kiện lịch sử nào nói về sự liên quan giữa chúa Giê su và Đức Phât không? Chúa Giê Su sống ở Trung Đông (thế kỷ thứ nhất) trong khi Đức Phật và giáo lý của ngài đã tồn tại trước đó vài thế kỷ (thế kỷ thứ sáu trước công nguyên). Cũng có những sự trao đổi văn hóa và tôn giáo thông qua các vị lái buôn. Có thể Thiên Chúa và đạo Phật có sự ảnh hưởng lẫn nhau trong cách này.
Về phương diện thiêng liêng, đối với chúng tôi thì Chúa Giê Su và Đức Phật trong nhiều kiếp đã là những vị bồ tát cứu độ chúng sanh.
(Path of Wisdom, Path of Peace)
7. BỐN ĐIỀU CỐT YẾU CỦA KINH ĐẠI THỪA
Có bốn điều cốt yếu để hiểu kinh đại thừa:
- Dựa vào lời dạy, không dựa vào thầy
- Dựa vào nghĩa, không dựa vào chữ
- Dựa vào chánh văn, không dựa vào lời giải thích
- Dựa vào thực chứng, không dựa vào kiến thức.
(The Path to Tranquility, 161)
8. BUỒN VÌ NHỚ TÂY TẠNG KHÔNG?
Vậy thì Ngài có cảm thấy buồn nhớ quê hương?
Không, không thật sự như thế. Những gì quan trọng hơn là sự hòa đồng của nhân loại. Ngạn ngữ Tây Tạng nói rằng: «Nơi mà ta cảm thấy hạnh phúc hơn cả đó là căn nhà của mình; bất cứ ai thân thiện với mình đều thuộc gia đình của mình». Sở dĩ điều đó có thể xảy ra được là vì xứ Tây Tạng quá rộng lớn. Mỗi khi chúng tôi gặp được một người nào khác (dù không phải trong gia đình) nhưng trong cái không gian mênh mông Tây Tạng đó, cả hai người xa lạ đều vui mừng như ruột thịt trong gia đình. Đấy là nhu cầu cần có thêm một nhân tính hay người thân khác!
9. CA HÁT
Trong giới luật của Phật Giáo cấm không cho người xuất gia nghe âm nhạc thế gian và tự diễn xuất âm nhạc. Nhưng ở đây vì lý do cúng dường chư Phật cũng như diễn tả lễ nhạc Phật Giáo để mọi người xem và hiểu về nội dung phong phú của triết lý nầy thì điều ấy không phạm giới. Vả lại, ngày nay đời mạt pháp, giáo lý của Đạo Phật đã thay đổi rất nhiều, phải mang đạo vào đời, do vậy cần phải phương tiện nhiều hơn nữa.
10. CÁCH MẠNG NỘI TÂM
Tôi không kêu gọi mọi người nên từ bỏ lối sống của họ hiện nay và tuân theo một luật lệ hay phương cách suy nghĩ mới nào khác. Đúng hơn, ý muốn của tôi là đề nghị mọi người vẫn giữ lối sống hằng ngày của mình, nhưng có thể chuyển hoá trở nên đạo đức, từ bi và hạnh phúc hơn. Chúng ta có thể khởi đầu xúc tiến cuộc cách mạng nội tâm của mình.
(Ethics For The New Millennium)
11. CÁCH MẠNH NỘI TÂM LÀ CẦN THIẾT HƠN CẢ
Các vấn đề xảy ra bên ngoài như chiến tranh, tội ác và bạo động cùng những vấn đề kinh nghiệm nội tâm, các đau khổ tình cảm và tâm lý sẽ không thể giải quyết được cho đến khi nào chúng ta có sự cải đổi từ nội tâm. Bởi thế mà các chính biến lớn trong vòng một trăm năm qua và hơn nữa dân chủ, tự do, xã hội chủ nghĩa – tất cả đều thất bại không mang lại được sự an lạc toàn cầu mà đáng lẽ ra chúng cung ứng, cho dù các tư tưởng ấy có cao đẹp đến đâu. Cần phải thực hiện một cuộc cách mạng, chắc hẳn như vậy. Nhưng không phải cách mạng chính trị, kinh tế hay cả kỹ thuật. Chúng ta đã có quá đủ kinh nghiệm của các thứ trên trong thế kỷ qua để nhận biết rằng một sự thay đổi bên ngoài sẽ không mang lại kết quả. Điều tôi chủ xướng là một cuộc cách mạng nội tâm.
(Ethics For The New Millennium)
12. CẦU NGUYỆN GIÚP PHÁT TRIỂN NỘI LỰC
Mỗi lần tụng kinh cầu nguyện, tôi không biết các vị van xin hay khẩn nguyện, nhưng dù trong trường hợp nào thì đây là một năng lực tinh thần mà chúng ta trải qua. Chúng ta hợp lực cầu nguyện tha thiết sẽ giúp phát triển nội lực tự tâm của mỗi chúng ta.
(The Path to Tranquility, 354)
13. CÓ THỂ LÀ NÉT ĐẸP?
Động cơ tốt sẽ tạo hành động tốt. Nét đẹp của hành động là phương pháp. Phật quả là nét đẹp của kết quả. Nói chung, nét đẹp là cái gì đó tích cực, nhưng nếu nó quá bị chấp thủ cứng ngắt thì thành sai và dễ đưa đến sai đường.
Nhưng tôi thường suy nghĩ về định nghĩa của nét đẹp. Chúng ta có nghĩ rằng thiện xảo trong giết người cũng là nét đẹp? Còn kỹ nghệ trong chiến tranh là làm thế nào mà chi ít nhưng kết quả tiêu diệt được nhiều mạng người? Có thể điều được xem là nét đẹp không? Xin quý vị trả lời.
(The Path to Tranquility, 150)
14. CÔ ĐƠN
Hiện nay, hàng triệu người hiện đang sống gần gũi chung đụng với nhau tại các thành phố lớn trên thế giới, nhưng có nhiều kẻ vẫn cảm thấy cô đơn. Có người, ngay cả không có lấy một người thân để chia xẻ nổi vui buồn khi gặp nghịch cảnh khổ đau. Thật là bi đát! Chúng ta không phải là những con vật có thể sống độc lập mà cần biết đoàn kết, hợp tác, nương tựa và giúp đỡ lẫn nhau để tồn tại. Nhưng rất tiếc và bất hạnh là chúng ta đã sống thiếu tình người và trách nhiệm đối với đồng loại của mình. Khuyết điểm này phải chăng là do hoàn cảnh xã hội được xây dựng trên nền tảng gia đình và cộng đồng của chúng ta? Hay do ảnh hưởng của đời sống vật chất, khoa học kỹ thuật và máy móc hiện đại bên ngoài? Tôi không nghĩ vậy.
(The Spirit of Tibet - Vision for Human Liberation)
15. CÔ ĐƠN & THA HÓA
Chúng ta đã tạo ra một xã hội trong đó con người nhận thấy ngày càng khó bày tỏ đến người khác thiện cảm căn bản của mình. Thay vì ý thức cộng đồng và liên đới là những nét đặc thù tìm thấy trong các xã hội (phần đông là nông dân) không giàu có bao nhiêu, chúng ta lại tìm thấy một mức độ cao của sự cô đơn và tha hóa. Mặc dù, có nhiều triệu người sống sát cạnh nhau ở các thành phố lớn, nhưng đa số, nhất là người già, lại không có ai để trò chuyện ngoài những súc vật. Xã hội kỹ nghệ tân tiến thường hiện ra trước mắt tôi như một bộ máy khổng lồ đang bị đẩy tiến tới. Thay vì mọi người sống cần góp phần trách nhiệm của mỗi cá nhân trong đó thì trở thành một thành phần rất nhỏ vô nghĩa của bộ máy, không có sự chọn lựa nào khác hơn là chỉ chuyển động khi bộ máy chuyển động.
(Ethics For The New Millennium)
16. CHÍNH MÌNH TỰ NGHIỆM
Trong Phật giáo, đức Phật dạy quý vị không nên tin vào bất cứ ai, cũng không nên tin vào giáo lý. Bạn không thể bảo rằng những lời dạy ấy là đúng vì người thuyết giảng là một bậc thầy cao cả. Nhằm kính trọng Phật pháp, quý vị không nên tin vào mỹ từ của lời nói mà cần chú ý đến nghĩa lý sâu xa qua những lời dạy ấy. Với tinh thần kính trọng giáo pháp, quý vị không nên tin vào lời kinh được diễn đạt mà cần chú tâm vào nghĩa lý chính xác của nó. Do đó, chính đức Phật đã dạy: “Này chư Tỳ kheo, các con không nên vì tôn kính Ta mà chấp nhận nghe theo giáo lý của đức Thế Tôn. Trái lại, các con nên tìm hiểu, nghiên cứu những lời dạy của Như Lai như người thợ kim hoàn nấu, lọc và phân tách vàng ra khỏi chất bẩn”.
(Ocean of Wisdom)
17. CHÚNG SANH AI CŨNG CÓ TÁNH PHẬT
Vì chúng ta cần chia xẻ tình thương với tất cả mọi người, cho nên bất cứ ai chúng ta gặp, dù trong hoàn cảnh nào chúng ta đều xem như những bậc cha mẹ và anh chị hay em của chúng ta. Chúng ta không quan tâm về khuôn mặt của họ là mới hay củ; lạ hay quen, họ mặc y phục như thế nào, đẹp hoặc xấu, rẻ hay đắc tiền; và tánh tình của họ ra sao, hiền lành hay dữ tợn, chúng ta vẫn thấy không có gì sai khác giữa họ và chúng ta. Thật là điều sai lầm khi chúng ta có óc kỳ thị, phân biệt giữa chúng ta với mọi người; hoặc giữa người này với người kia, vì như đức Phật đã dạy rằng tất cả mọi người chúng ta đều có Phật tánh, hay khả năng thành Phật giống nhau.
(Compassion and the Individual)
18. CHUYỂN HÓA LO SỢ
Một người bình thường có thể chuyển hóa được nỗi lo sợ và thất vọng của họ? Làm sao chúng ta có thể thực hiện được?
Ồ! Vâng, rất có thể. Ví dụ, khi còn nhỏ, tôi luôn luôn sợ các phòng tối. Thời gian qua, nỗi lo sợ cũng bớt đi. Khi tiếp xúc gặp gỡ mọi người, tâm quý vị càng khép kín, càng cảm thấy sợ hãi và bất an. Nếu lòng bạn càng mở rộng nỗi lo lắng càng giảm bớt. Ðó là kinh nghiệm của tôi. Khi tôi gặp bất cứ ai, dù họ là một nhân vật quan trọng, hay một kẻ hành khất, hay một người bình thường, đối với tôi không có gì khác biệt.
Ðiều quan trọng nhất là các bạn nên vui cười và phơi bày khuôn mặt thân ái của mình trước mọi người. Sự khác nhau về tôn giáo, văn hóa, tiếng nói và màu da đều không quan trọng. Người có học hay thiếu học, giàu hay nghèo, chẳng có gì khác nhau. Khi tôi mở rộng con tim và tâm hồn, tôi xem tất cả thiên hạ như những người bạn cũ thân quen. Thực hành được như vậy rất hữu ích.
(Book of Love and Compassion)
19. CHỨNG NGỘ
Trong cuộc đời, ngài có những kinh nghiệm nào đặc biệt hay những thách thức nội tâm lớn nhất của ngài là gì? Những chứng nghiệm nào có ảnh hưởng nhiều nhất đến sự phát triển cá nhân của ngài?
Về chứng nghiệm tâm linh thì tôi có một sự chứng ngộ tánh không (sunya/emptiness) nào đó và phần lớn chứng ngộ là bồ đề tâm, từ bi tâm. Điều này đã giúp cho tôi, nhất là phương diện hoằng pháp. Có thể nói rằng nó đã giúp cho tôi trở thành một con người mới. Tôi vẫn đang tiến xa hơn, đang cố gắng. Sự chứng nghiệm này đã giúp tôi có thêm sức mạnh nội tâm, có can đảm và dễ chấp nhận hoàn cảnh hơn. Đó là một trong những kinh nghiệm lớn nhất của tôi.
20. DỤC NHƯ Ý TÚC
Lòng ham muốn của con người cũng có hai loại: xấu và tốt. Khi chúng ta có lòng tham vị kỷ, chỉ biết nghĩ đến điều lợi cho riêng mình mà gây tai hại khổ đau cho kẻ khác thì lòng ham muốn đó, theo đức Phật dạy là một hành động bất thiện. Trái lại, khi chúng ta biết hướng lòng ham muốn của mình vào việc cứu giúp mang lại an lạc hạnh phúc cho tha nhân và tất cả chúng sanh thì sự ham muốn đó là một hành động lành mà con người nên cố gắng thực hiện.
(Live In A Better Way)
21. DỤC NHƯ Ý TÚC & KHÁT ÁI
Thân thể chúng ta thiếu nước và ta sẽ cảm thấy khát nước. Đức Phật gọi đó là sự khát ái (sự ham muốn về ái nhiễm) hay dục như ý túc (sự thúc đẩy hướng thiện). Đối với Đức Phật, khát ái là năng lực thúc đẩy nên sự tồn tại này. Tuy nhiên, nếu không có dục như ý túc này thì chúng ta không thể đạt được giải thoát hay Phật quả. Ngay thân thể cũng đòi hỏi những sắc dục và cũng có khi nhiệt tình thích làm điều thiện. Tất cả đều có hai mặt. Đây là bản chất của con người. Khi chúng ta bị cái ngã sai xử thì chúng sẽ trở thành tác hại cho người khác và chính bản thân mình. Chính cái ngã “tôi thích cái này, cái kia” tạo ra đau khổ. Và khi không có dục như ý túc hướng về điều thiện thì vị ấy bị chi phối bởi tham sân si mạn nghi tà kiến. Giác quan của chúng ta phản ứng rất nhanh. Chúng ta muốn sở hữu cái này hoặc muốn chối bỏ cái kia. Chỉ có dục như ý túc mới giúp cho chúng ta làm chủ khát ái.
(Path of Wisdom, Path of Peace, 54-5)
22. DỤC VỌNG
Theo khoa tâm lý học Phật Giáo, phần lớn những khổ đau của chúng ta đều phát xuất từ lòng dục vọng, và sự tham đắm của chúng ta vào mọi vật mà chúng ta lầm tưởng rằng chúng là những vật thể chắc thực bền lâu với chúng ta.
(A Human Approach to World Peace)
23. ĐẠO ĐỨC
Ngay cả các quốc gia giàu có và hùng mạnh nhất đã nhận biết rằng không thế bỏ quên những giá trị căn bản về nhân sinh. Ý niệm về đạo đức dành cho bang giao quốc tế ngày càng được xây dựng vững chắc. Đó là chưa kể đến những điều đã được diễn tả biến thành các hành động ý nghĩa, ít ra là những danh từ như “sự hoà hợp”, “bất bạo động” và “sự cảm thông” đã trở thành các từ ngữ của nhiều chính trị gia ngày nay. Đó là một sự phát triển hữu ích.
(Ethics for the New Millennium)
24. ĐIỀU NGỰ CHÍNH CHÚNG TA
Mục đích của đạo Phật là điều ngự chính mình chứ không phải để phê phán người. Chúng ta nên phê phán chính chúng ta. Chúng ta nên xử trí thế nào với sân giận, sự khát ái, chấp thủ, ganh tỵ của mình? Đây là những điều chúng ta nên quán chiếu hàng ngày.
(The Path to Tranquility, 135)
25. ĐIỀU NGỰ TÂM
Không có gì quan trọng bằng điều ngự tâm. Hãy quán sát con voi được thuần hóa với chánh niệm và cảnh giác. Chúng ta cũng thế nên tránh bị ảnh hưởng bởi những cảnh bên ngoài. Khi chúng ta đang tu tập ở một nơi thanh vắng, dường như tâm rất định. Nhưng khi rời đạo tràng, vô số vọng tưởng lại nổi lên trong tâm.
(The Path to Tranquility, 340)
26. ĐỐI PHÓ VỚI NHỮNG GIỚI HẠN
Ngài sẽ đối phó như thế nào với những hạn chế riêng tư, những giới hạn thuộc về con người?
Luận sư Shantideva cũng nói “Nếu Đức Phật toàn giác không thể làm vừa lòng chúng sinh thì làm sao ta có thể làm được?” (If the blessed Buddha cannot please all sentient beings, then how could I?). Ngay cả một đấng giác ngộ có trí tuệ và quyền năng vô hạn và có ý nguyện cứu độ chúng sinh thoát khổ cũng không thể giải trừ nghiệp cá nhân của mỗi người được.
27. ĐỒNG CHƠN XUẤT GIA
Ngài là vị đồng chơn xuất gia (xuất gia từ nhỏ). Liệu trẻ em Hoa Kỳ nên được luyện tập từ nhỏ hay đợi lớn lên sau này?
Có hai con đường để đến với Phật giáo. Một là từ lòng tin (belief) và hai là lý trí (reasoning). Hiện tại, trong kỷ nguyên này và tại hành tinh này, chỉ lòng tin không, không đủ để cho người ta vào đạo. Cho nên, cần có sự hướng dẫn của lý trí. Do vậy, tốt hơn, nên chờ sau này em bé lớn lên mới gởi vào chùa tu. Tuy nhiên, ngoại trừ trường hợp đặc biệt, đứa bé chịu ảnh hưởng của gia đình Phật giáo rất sớm khi em còn nhỏ và em phát tâm muốn xuất gia sớm.
(Ocean of Wisdom)
28. ĐỜI SỐNG ĐẠO ĐỨC
Thế nào là một đời sống tốt? Đó là đời sống đạo đức chứ không phải là một đời sống đầy vật chất. Đời sống đạo đức không chỉ cho chính bản thân ta mà còn những người xung quanh. Như thế người ấy có đời sống tốt trong kiếp này và kiếp tới và sẽ tiến cao trên nấc thang tâm linh. Mỗi tâm thức hôm nay là kết nối của tâm thức hôm qua. Chúng ta tin vào tái sanh nếu chúng ta còn luân hồi và chúng ta tin luật nhân quả. Lý thuyết tái sanh và nghiệp dựa trên nền tảng đạo đức này.
(Path of Wisdom, Path of Peace)
29. ĐỜI SỐNG TINH THẦN
Tôi nghĩ là điều sai lầm khi chúng ta hy vọng rằng những vấn đề khó khăn hiện nay của chúng ta có thể giải quyết bằng tiền bạc hay quyền lợi vật chất. Đúng là không thực tế chút nào khi chúng ta tin rằng có thể giải quyết đời sống tinh thần của chúng ta bởi ngoại giới vật chất. Hẳn nhiên, các tiện nghi vật chất thực sự cần thiết và giúp rất nhiều cho cuộc sống chúng ta. Nhưng đời sống tinh thần và nội tâm của chúng ta cũng không kém quan trọng, nếu không muốn nói còn cần thiết hơn. Chúng ta nên lánh xa những cám dỗ xa hoa vật chất vì chúng gây trở ngại cho sự tu tập của chúng ta.
(An Open Heart)
30. ĐỪNG ĐẦU ĐỘC TÂM HỒN
Theo kinh nghiệm của chính cá nhân tôi, ví dụ như khi tôi nghe những tin tức xấu về Tây Tạng - rất buồn và quá thường xuyên - phản ứng tự nhiên tức thời của tôi là một nỗi buồn lớn lao. Tuy nhiên, khi đặt vào khuôn khổ và tự mình nhắc nhở đến điều thiết yếu của con người là cần tình thương, sự tự do, chân lý và công bằng phải luôn luôn được đề cao, tôi thấy mình có thể chịu đựng khá tốt. Những cảm xúc giận dữ không đè nén được vốn chẳng làm gì hơn ngoài việc đầu độc tâm hồn, rách nát con tim và suy nhược ý chí, thường rất ít khi trỗi dậy cho dù trước các tin tức tệ hại nhất.
(Ethics for the New Millennium)
31. GIẢ TRANG
Chúng ta là những hành giả tu theo lời Phật dạy, vì vậy chúng ta tốt hơn loài côn trùng. Nhưng nhìn lại loài côn trùng rất vô tư, không có lừa gạt, trong khi chúng ta nói láo và quanh co để đạt mục đích của chúng ta. Nếu đứng ở phương diện này, thì chúng ta tệ hơn loài côn trùng.
(The Path to Tranquility, 379)
32. GIÁ TRỊ CỦA HẠNH PHÚC NỘI TÂM
Sự phát triển tiến bộ vật chất bên ngoài đôi khi giải quyết được vấn đề này, cùng lúc lại gây ra việc khó khăn khác. Ví dụ, một vài người tuy giàu sang, có trình độ học vấn và địa vị xã hội, nhưng lại không có hạnh phúc. Họ thường xuyên dùng thuốc ngủ và uống nhiều rượu. Họ cảm thấy thiếu thốn điều này hoặc bất mãn với điều kia. Do đó, những người này phải uống rượu hoặc dùng thuốc an thần để quên nỗi buồn. Ngược lại, có người tuy thiếu thốn tiền bạc nhưng ít lo lắng buồn phiền, tâm họ cảm thấy an lạc. Mỗi đêm họ ngủ ngon giấc. Mặc dù nghèo vật chất, nhưng lúc nào họ cũng cảm thấy mãn nguyện và hạnh phúc. Ðiều này chứng tỏ sự ổn định tinh thần rất quan trọng. Chỉ riêng vật chất đầy đủ vẫn không thể giải quyết hoàn toàn vấn đề khổ đau của nhân loại.
(How To Practice The Way To A Meaningful Life)
33. GIÁ TRỊ LUÂN LÝ
Tôi cần nhấn mạnh rằng tất cả chúng ta đều giống nhau. Một vài người nghĩ rằng đức Đạt Lai Lạt Ma có cái gì khác quý vị. Điều đó hoàn toàn không đúng. Tôi chỉ là một con người như quý vị. Chúng ta đều có Phật tánh giống nhau. Nơi mỗi người, sự phát triển tinh thần không đặt trên nền tảng đức tin tôn giáo. Tôi nghĩ rằng giáo lý căn bản của các tôn giáo đều dạy chúng ta phương cách phát triển đức tánh từ bi, lòng thương yêu giúp đỡ mọi người cũng như ý thức rằng cá nhân chúng ta không có gì quan trọng bằng những kẻ khác. Mặc dù triết lý và hình thức nghi lễ có khác nhau, nhưng bức thông điệp đạo đức chính yếu của mọi tôn giáo đều giống nhau. Đạo giáo nào cũng khuyên chúng ta làm lành tránh ác, nên giúp đỡ thương yêu và tha thứ cho nhau. Ngay cả những kẻ không có tín ngưỡng, họ cũng đề cao và tán dương những giá trị luân lý căn bản của con người.
(An Open Heart)
34. GIÁC NGỘ
Mục đích cuối cùng của những người thực hành theo Phật giáo là đạt đến quả vị hoàn toàn giác ngộ và thấu suốt mọi sự vật của một đức Phật. Phương tiện chúng ta nương vào để tu tập là thân người này với một tâm hồn thanh tịnh.
(An Open Heart)
35. GIẬN TÂM MÌNH
Khi nghĩ tới người mà chúng ta xem như kẻ thù, ta thường cho họ là có tự tánh độc lập. Chúng ta lại nghĩ rằng việc người đó gây hại cho chúng ta cũng có tự tánh riêng. Nhưng nếu kẻ thù bắn và gây thương tích cho bạn, thì chính viên đạn ấy ghim vào thân thể bạn chứ đâu phải kẻ thù. Ðó là khí giới được sử dụng bởi con người với tâm nóng nảy không kiềm chế được mình. Thông thường, ta sân hận với người đó, nhưng tại sao ta không giận cái tình cảm nhiễu loạn, nguồn gốc gây nên chuyện hại người này? Sao ta không giận viên đạn bắn vào mình? Sao ta lại chỉ ghét con người đứng giữa hai thứ đó?
(The Joy of Living and Dying in Peace)
36. GIỚI LUẬT
Khi thực hành các giới luật, hành giả nên xét nghĩ đến điều răn nào đức Phật dạy cần áp dụng và cho mục đích gì. Ví dụ, một vị Tỳ kheo tăng hoặc ni không được ăn phi thời, tức là sau hai giờ chiều. Tuy nhiên, có trường hợp ngoại lệ, chẳng hạn vị tăng bị đau ốm, nếu không dùng thức ăn thì bịnh nặng và khó chữa lành. Tương tự, Đức Phật cấm quý Sư không được nói dối. Ví dụ một vị Tỳ kheo phát nguyện luôn luôn nói sự thật, nhưng khi thấy một con nai đang chạy ngang qua khu rừng. Thình lình gặp anh thợ săn đến hỏi quý Sư có trông thấy con nai ở đâu không? Mặc dù luật đức Phật cấm vị Tăng không được nói vọng ngữ, nhưng vì muốn cứu mạng sống chú nai vàng cho nên lúc bấy giờ sư đã trả lời: “Tôi không thấy con nai nào chạy qua đây cả”; chứ không nói: “Ồ, tôi vừa thấy nó nhảy trèo lên cây”. Qua câu chuyện này, chúng ta nên hiểu rằng có giới luật đức Phật cấm, nhưng tùy trường hợp, Ngài phương tiện cho phép chúng ta hành động ngược lại, vì lợi ích cứu giúp chúng sanh.
(Ocean of Wisdom)
37. HAM MUỐN QUÁ ĐỘ
Theo tôi, con người sống ham muốn quá cũng không tốt. Tôi nhận thấy những người bạn Âu Mỹ của tôi thường xem tình yêu nam nữ như là điều cần thiết và quan trọng. Họ quan niệm rằng con người sống không có yêu đương thì cuộc đời trở nên buồn tẻ. Chúng ta cần phân biệt giữa tình yêu hay lòng dục vọng thấp hèn với tình thương cao cả muốn giúp đỡ mang hạnh phúc đến cho kẻ khác. Tình yêu trai gái đôi lúc khiến con người trở nên mù quáng, sanh tâm hẹp hòi ích kỷ, không còn sáng suốt để nhìn thấy rõ sự thật, do đó sẽ gây đau khổ cho nhau.
(An Open Heart)
38. HẠNH PHÚC NỘI TÂM
Tôi thấy không có điều gì sai lầm đối với sự tiến bộ vật chất. Mặc dù kiến thức về duy vật chủ nghĩa đã góp phần to lớn cho sự phúc lợi của con người, nhưng vẫn không thể xây dựng hạnh phúc lâu dài. Tại Hoa Kỳ nơi có nền khoa học kỹ thuật phát triển vượt trội hơn bất cứ quốc gia nào khác trên thế giới, vẫn đang còn nhiều sự khổ đau tinh thần. Lý do bởi vì sự hiểu biết vật chất chỉ có thể cung cấp cho con người loại hạnh phúc tùy thuộc vào các điều kiện vật chất, nhưng nó không mang lại cho các bạn nguồn hạnh phúc phát xuất từ nội tâm không liên quan gì đến ngoại giới.
(Ocean of Wisdom)
39. HÌNH TƯỢNG ĐỐI NGHỊCH
Thật là khác nhau giữa hai hình ảnh Đức Phật và Chúa Giê Su. Đức Phật thì an lạc tĩnh tọa trên tòa sen trong khi chúa Giê Su thật đau khổ trên thánh giá?
Cho phép tôi được trả lời đơn giản, không quá trang trọng là Đức Phật là một vị thái tử, ngài không bị ai ngược đãi trong khi chúa Giê Su là một đức cha và dân chúng La Mã (Romans) chống lại ngài. Đức Phật và chúa Giê Su sống trong bối cảnh hoàn toàn khác nhau. Mặc dù đức Phật mĩm cười tĩnh tọa nhưng vấn đề đau khổ là yếu tố căn bản trong những lời dạy của ngài. Đức Phật sanh trong giàu sang phú quý nhưng ngài từ bỏ tất cả để là một vị ẩn sĩ không nhà. Ngài đã trải qua sáu năm khổ hạnh rừng già ngày chỉ ăn vài giọt súp và miên mật hành thiền. Chỉ mong đạt được giác ngộ. Đó là vì sao thiền là phương pháp quan trọng trong Phật giáo. Đời sống của Đức Phật và chúa Giê Su thật đơn giản, tận tụy và hy sinh. Các ngài là những gương sáng để chúng ta chấp nhận lao trong đau khổ để giúp chúng sanh.
(Path of Wisdom, Path of Peace, 74-5)
40. HỒI QUANG PHẢN CHIẾU
- Chắc chắn chúng ta sẽ chết. Chết là điều không thể tránh được. Đời sống của chúng ta đã cạn và không kéo dài được nữa.
- Chúng ta sẽ không biết khi nào chúng ta chết. Mạng sống con người khác nhau. Nguyên nhân gây ra cái chết cũng đa dạng. Thân này mỏng manh.
- Tất cả chúng ta đều giống nhau là phải chết vì vậy đừng có gây nhau và đánh nhau, khiến uổng phí tinh thần và nặng lượng của thân thể
- Bằng cách nghĩ sai các pháp là thường còn, chúng ta sẽ mang đau khổ cho chúng ta và người khác. Chúng ta nên giảm bớt những chấp thủ của chúng ta đối với các pháp.
- Chúng ta nên tận lòng tìm cách vượt biển khổ bằng cách nhìn vào bản chất vô thường của các pháp.
- Trong tương lai dài, điều mà giúp chúng ta nhất, chính là thái độ chuyển hóa của chúng ta.
(How To Be Compassionate, 52)
41. KẾT QUẢ CỦA THIỀN ĐỊNH
Bạn nên thiền định để tu tập hạnh hỷ xả và quán tưởng mọi chúng sinh như cha mẹ và anh chị em của mình. Sự giải thoát không thể tìm thấy từ bên ngoài như người ta cho bạn một vật gì. Khi đạt được kết quả giải thoát nhờ dứt trừ hết các nghiệp xấu phiền não, lúc ấy dù gặp chướng duyên bên ngoài thế nào, quý vị vẫn làm chủ tâm mình không để cho các niệm ác phát sinh. Nhờ vậy, chúng ta không tạo các nghiệp xấu mới và vòng luân hồi sinh tử cũng sẽ được chấm dứt. Cho nên, sự thành tựu hay không thành đạt kết quả giải thoát tùy thuộc vào việc đoạn dứt hay chưa đoạn dứt hết các nghiệp xấu ác mà nguồn gốc chính là do vô minh của chúng ta.
(Ocean of Wisdom)
42. KẾT QUẢ CHO SỰ TU TẬP
Thực vậy, một người có tật hay dễ nổi giận, nếu cố gắng biết kiềm chế dần dần họ có thể khắc phục được tánh xấu này. Người khác với tâm ích kỷ tham lam trước hết họ cần rõ điều tai hại của nó và sự lợi ích của đức tánh lợi tha cứu giúp mọi người. Từ đó, họ cố gắng dần dần sửa đổi bỏ điều xấu để làm việc tốt. Sau một thời gian thực hành họ sẽ thấy kết quả tất nhiên của hành động tu tập ấy.
(Kindness, Clarity and Insight)
43. KINH NGHIỆM CỦA NGƯỜI LY HƯƠNG
Trưởng thành như một người ly hương là điều hữu ích cho tôi. Tôi sống gần với thực tế hơn. Hồi tôi còn ở Tây Tạng với tư cách một vị Đạt Lai Lạt Ma, tôi đã cố gắng sống một cách thực tế, nhưng phần nào vì hoàn cảnh nên đã có một khoảng cách nhất định giữa tôi và đời sống bên ngoài, tôi có phần bị cô lập với thực tại. Và rồi khi trở thành một người ly hương, đó lại là cơ hội tốt để tôi có thêm kinh nghiệm, và nó cũng giúp tôi có thêm lòng cương quyết hay sức mạnh nội tâm.
44. KHẢ NĂNG TU TẬP
Tôi tin rằng mỗi chúng ta đều có khả năng tu tập, kiềm chế giữ tâm thanh tịnh giống nhau để có hạnh phúc và an lạc. Dù chúng ta giàu hay nghèo, học thức hay ngu dốt; màu da trắng hoặc đen, ở Đông hay Tây phương, chúng ta đều có chung khả năng đó. Tất cả chúng ta không có gì khác nhau về đời sống tinh thần và tình cảm. Mặc dù vài người trong chúng ta có lỗ mũi cao hay lớn hơn và màu da khác nhau, nhưng căn bản về cơ thể vật lý của chúng ta hoàn toàn giống nhau. Sự khác biệt rất ít.
(An Open Heart)
45. KHÁI NIỆM TỰ NGÃ
Trứng và tinh trùng thuộc về cha mẹ. Thân thể này thuộc về cha mẹ, nhưng ngay khi thức gá vào thành một phôi thai, cái thai hay bất cứ từ gì chúng ta muốn gọi nhưng chúng là cái mà trước đó chưa từng có. Khi thức gá vào tinh cha và huyết mẹ đó thì lúc đó tinh cha huyết mẹ trở thành thức.
(The Path to Tranquility, 44)
46. KHẮC PHỤC SỢ HÃI
Khi gặp một vấn đề quá khó khăn trong cuộc sống, không thể khắc phục, vượt qua được, tinh thần chúng ta sẽ trở nên khủng hoảng, đâm ra lo lắng và sợ hãi. Nếu chúng ta cố gắng quên đi, hay nói cách khác là không mấy chú ý đến nó nữa thì tình trạng sẽ thay đổi.
Khi sự việc bất an xảy ra, chúng ta nên quyết định dùng khả năng lý trí của mình để tìm hiểu và nhận thức rõ vấn đề hầu giúp chúng ta vượt thoát khỏi các ý tưởng sợ hãi. Dĩ nhiên, nếu có lý do chính đáng để lo lắng thì sự sợ hãi đó là cần thiết. Nó sẽ tạo ra các phương pháp phòng ngừa cho nên như vậy là điều rất tốt. Nhưng nếu sự sợ hãi không có căn nguyên thì chúng ta nên thiền định, quán chiếu để diệt trừ nó đi. Ðó là phương pháp thích hợp nhất.
(Book of Love and Compassion)
47. KHOẢNH KHẮC ĐÁNG NHỚ
Ngài có thể kể ra một khoảnh khắc đặc biệt nào đó trong quá trình tu tập của mình không?
Đầu tiên là tôi cảm thấy có chứng ngộ về thuyết tánh không, rồi cảm giác bồ đề tâm… vào khoảng thời gian năm 1965 hay 1966 gì đó. Đây thực sự là chuyện riêng tư. Đối với một hành giả chân chính thì những điều này phải được giữ kín.
48. KHÔNG AI ĂN CẮP ĐƯỢC
Chính nhờ nghe pháp thoại mà chúng ta trở nên hiểu đạo và biết tu tập, chuyển hóa vô minh thành trí tuệ. Nghe pháp như ánh sáng xóa tan bóng tối khiến tâm chúng ta trở nên phong phú, giàu có. Sự giàu có này không ai ăn cắp của chúng ta được. Đó là tài sản vô thượng.
(The Path to Tranquility, 151)
49. KHÔNG CẦN NÓNG GIẬN
Lòng từ bi, tánh nhẫn nhục và sáng suốt rất cần thiết trong cuộc sống hằng ngày và chúng ta nên hành trì tu tập thường xuyên. Tương lai, khó khăn đang chờ đợi, cho nên điều cốt yếu là chúng ta cần phải chân chính tu hành. Tánh giận dữ làm giảm khả năng phân biệt điều đúng và sai lầm nơi chúng ta. Khả năng phân biệt này là một trong những điều cao quý nhất của con người. Nếu mất khả năng đó thì chúng ta cũng chẳng còn gì. Ðôi lúc cần có sự quyết tâm mạnh mẽ, nhưng đừng bao giờ nổi cơn sân hận thì mới được. Chẳng cần phải nóng giận, vì nó không giúp ích được gì.
(How To Practice The Way To A Meaningful Life)
50. KHÔNG CÓ BẢN NGÃ
Phật giáo không chấp nhận một “bản ngã”, linh hồn hay cái ta thường còn. Tuy nhiên, bởi do tâm thức tùy thuộc vào thân vật lý mà tồn tại cho nên chúng ta tạm gọi nó là tâm thức hay cái thấy biết của con người. Nếu tâm thức hoàn toàn tách rời và không liên quan gì với cái thân (vật lý) thì sẽ không có sự khác biệt tâm thức giữa con người và thú vật. Khi bộ óc con người ngưng hoạt động và nếu tâm thức của họ cũng không còn tồn tại, thì làm sao giải thích được thuyết luân hồi? Tâm thức con người được phát triển tùy thuộc vào các nhân và duyên xa hoặc gần, trực tiếp hay gián tiếp.
Chẳng hạn khi tâm thức mình nhận biết về một cánh hoa cần phải có những trợ duyên khác. Trước hết là con mắt. Nếu thiếu nó dù chúng ta có ý thức về cánh hoa có hiện ra trước mặt, chúng ta cũng không nhận biết được nó. Trái lại, nếu chỉ có tâm thức và con mắt mà không có cánh hoa, chúng ta cũng chẳng thấy biết được nó. Nhưng nếu có hoa và con mắt tốt mà không có bộ óc, chúng ta cũng không thể nhận biết được cái hoa.
Tri giác hay tâm thức là một năng lực tinh tế mà qua đó chúng ta có thể hiểu biết được các sự vật. Tiếng Tây Tạng gọi là “Shepa” nghĩa là “ý thức về một vật gì”. Cho nên ngoài bộ não ra cần phải có thêm các trợ duyên vi tế hơn thì tâm thức con người mới hoạt động và phát triển được. Chúng ta có thể gọi đó là ánh sáng trong suốt (clear light) hay phần sâu kín vi tế nhất của tâm thức.
Ngay hiện giờ khi các giác quan chúng ta được sử dụng, nhưng hoạt động của chúng vẫn ở mức độ thô thiển. Vào lúc chúng ta nằm chiêm bao hay ngủ mê, một vài giác quan không hoạt động, nhưng tiềm thức của chúng ta vẫn hiện hữu. Các bác sĩ cho biết rằng có bệnh nhân đã qua đời, nhưng thân xác của họ vẫn tồn tại không hư thối trong một hai ngày và có trường hợp kéo dài đến vài tuần lễ. Lý do bởi lẽ tâm thức vẫn còn tồn tại và tiếp tục hoạt động nơi nhục thân của bệnh nhân. Nói cách khác là thần thức chưa lìa khỏi xác thân của người đó. Do bởi tâm thức còn làm chủ nơi thân thể cho nên thân xác của họ không bị hư thối, mặc dù bệnh nhân ấy đã hoàn toàn chết hẳn.
(Live In A Better Way)
51. KHÔNG ĐỘNG
Tâm của chúng ta không nên động bởi tám pháp: danh, nhơ, được, mất, vui, buồn, khen, chê.
(The Path to Tranquility, 339)
52. KHÔNG PHIỀN TRÁCH
Khi chúng ta có cái nhìn rộng rãi bao dung xây dựng trên tình thương, tôi nghĩ chúng ta sẽ dễ dàng thông cảm không ai than phiền trách móc gì. Một lần nữa nơi đây chúng ta thấy lòng từ bi vẫn là yếu tố quyết định.
(The Compassionate Life)
53. KHÔNG SINH TÂM ÁC ĐẠO
Lòng từ bi cũng mang lại cho chúng ta sức mạnh của nội lực. Một khi nó được phát triển, tự nhiên tâm của chúng ta sẽ mở rộng mà qua đó, chúng ta có thể truyền đạt, giao hảo tốt với con người và ngay cả mọi loài chúng sinh trong tình thương bao la. Trái lại, nếu chúng ta sinh tâm thù hận và ác cảm với người khác thì các ý tưởng bất thiện ấy sẽ quay ngược trở lại nơi chúng ta. Ðiều này dẫn đến kết quả nghi ngờ và sự sợ hãi sẽ tạo nên khoảng cách giữa chúng ta khiến cho sự liên lạc, thông cảm giữa chúng ta và người khác trở nên khó khăn. Rồi chúng ta cảm thấy bị xa cách và cô đơn. Thêm nữa, các thành viên trong cộng đồng cũng sẽ bày tỏ tình cảm tiêu cực, không mấy thân thiện đối với chúng ta.
(Book of Love and Compassion)
54. KHUYẾN KHÍCH HÀNH ĐỘNG ĐẠO ĐỨC CỦA MỖI CÁ NHÂN
Sự quan tâm chính của tôi là bằng cách nào để làm tăng trưởng sự hiểu biết sâu xa về giá trị nhân bản của con người. Giá trị đó là lòng từ bi, sự dấn thân và cứu giúp kẻ khác. Bất luận bạn theo tôn giáo nào, dù có tín ngưỡng hay không, nếu thiếu tình thương thì con người sẽ mất hết hạnh phúc.
(The Compassionate Life)
55. LÀM CHỦ ĐƯỢC TÂM MÌNH CHÚNG TA SẼ THẤY HẠNH PHÚC
Khi kiềm chế, làm chủ được tâm mình, mọi sự phiền não và âu lo tự nhiên sẽ giảm bớt đi và con người cảm thấy hạnh phúc hơn. Mối liên hệ giao tiếp giữa các bạn với mọi người cũng sẽ ảnh hưởng do sự thay đổi này. Từ một con người lương thiện, bạn sẽ trở thành một công dân tốt cho tổ quốc của bạn và sau cùng cho thế giới nhân loại.
(How To Practice The Way To A Meaningful Life)
56. LÀM CHỦ TÂM MÌNH
Nếu chúng ta làm chủ được tâm mình, dù phải gặp nghịch cảnh khó khăn, tâm chúng ta vẫn cảm thấy an lạc. Trái lại, khi tâm chúng ta vọng động, bị chi phối bởi sự lo âu, sợ hãi, nghi ngờ hay tham lam ích kỷ thì dù chúng ta có sống bên cạnh những người bạn tốt, hay giữa hoàn cảnh đầy đủ tiện nghi vật chất, chúng ta vẫn cảm thấy khổ đau.
(An Open Heart)
57. LÀM SẠCH MÔI TRƯỜNG TRONG TÂM
Chúng ta phải thấy rằng tất cả đất bên ngoài là biểu tượng của lỗi lầm trong tâm ta. Mục đích của chúng ta là rửa sạch những lỗi lầm đó. Vì vậy, khi chùi dọn cho phong cảnh bên ngoài đẹp, chúng ta cũng nên nhớ lau chùi cả tâm bên trong của chúng ta.
(The Path to Tranquility, 156)
58. LÒNG NGƯỜI BẤT AN
Làm sao với thế giới đầy hận thù và sân si có thể thành đạt một nền hòa bình đích thực? Hòa bình thế giới sẽ không bao giờ xuất hiện khi trong lòng người còn bất an. Ði tìm phương pháp bên ngoài để giải quyết vấn đề là một việc làm cao quý nhưng không thể thực hiện thành công vì trong tâm con người còn tràn ngập tham sân và thù hận.
(How To Practice The Way To A Meaningful Life)
59. LỢI ÍCH CỦA TÂM TỪ BI
Chúng ta hãy tìm hiểu sự lợi ích của tâm từ bi và lòng nhân ái trong cuộc sống hằng ngày. Nếu buổi sáng chúng ta thức dậy với nét mặt vui tươi và nụ cười hoan hỷ, tự động cõi lòng chúng ta được mở rộng trong ngày đó. Lúc ấy dù phải gặp một người không mấy gì thân, chúng ta cũng sẽ không bày tỏ thái độ bực mình mà còn vui vẻ chuyện trò với họ. Chúng ta có thể cởi mở tâm tình với người bạn chưa từng gặp mặt ấy. Một khi chúng ta xây đắp tình người trong một khung cảnh thân yêu, tự động nỗi lo âu của chúng ta sẽ tan biến và tâm mình cảm thấy an lạc. Bằng cách này, chúng ta sẽ dễ dàng có thêm nhiều bạn mới với những nụ cười thoải mái.
(The Compassionate Life)
60. LUYỆN TÂM
Dựa trên nền tảng của sự bình đẳng này, chúng ta nên phát triển tâm xả đối với mọi người. Trong lúc thiền định, chúng ta cần luyện tập tư tưởng “Chính bản thân tôi muốn sống có hạnh phúc và không thích khổ đau, mọi người khác cũng vậy; chính bản thân mình đương nhiên có quyền thoả mãn khát vọng này và mọi người khác cũng có quyền đó”. Chúng ta nên lập lại ý tưởng này vào lúc chúng ta thiền định và cả trong cuộc sống hằng ngày cho đến khi nó thấm nhuần vào tâm hồn chúng ta.
(An Open Heart)
61. MÁU và SỮA
Con thích uống sữa và con không thích nhìn thấy máu. Máu là đau khổ. Ví dụ khi bạn lỡ cắt nhầm tay chảy máu.
Vâng, không có máu chúng ta không sống được. Bộ não cần máu, không cần sữa. Thật ra, máu thì quan trọng hơn đối với chúng ta. Thỉnh thoảng chúng ta cần sữa nhưng chúng ta luôn luôn cần máu. Khi chúng ta thấy một người nào bị thương trầm trọng, người ấy cần truyền máu, chứ không cần truyền sữa. Chúng ta cảm thấy chúng ta cần máu nhiều hơn là sữa. Máu giữ mạng sống. Cũng giống như Fabien vừa nói máu là đau khổ như khi chúng ta chảy máu. Chiến trường đổ máu là hậu quả của chiến tranh, sân giận, thù ghét. Vì vậy, khi chúng ta thấy máu, chúng ta sợ hãi. Sữa là kết quả của tình thương và ấm áp, vì vậy khi thấy sữa, chúng ta cảm thấy an lạc.
(A Coversation With Dalai Lama On Money, Politics, And Life As It Could Be, 49)
62. MÂU THUẪN
Tôi thường thấy sự mâu thuẫn trái ngược giữa cô đơn và thoải mái khi ra nước ngoài. Điều này xảy ra khi tôi đến một quốc gia mới, lúc đầu mọi sự đều bày tỏ hết sức vui vẻ, thoải mái. Mọi người tôi gặp đều rất thân thiện. Không có gì để than trách cả. Nhưng rồi, ngày qua tháng lại, tôi được nghe kể những nỗi khó khăn của người ta, các lo lắng và buồn phiền của họ. Bên dưới bề mặt, nhiều người cảm thấy bực bội, cô đơn, chán nản với cuộc sống của mình. Kết quả, họ sống trong tình trạng thờ ơ, không thỏa mãn với nhau và thiếu vắng cảm giác an bình nội tâm.
Đó là nét đặc trưng của thế giới tân tiến ngày nay.
63. MỤC TIÊU PHÁ RỐI ĐƯỢC THÀNH CÔNG
Hãy nghĩ rằng người bạn hàng xóm thù ghét và luôn luôn tạo rắc rối cho bạn. Nếu bạn không kiềm chế được sự nóng giận và có hành động thù hận chống lại họ, bạn sẽ bực mình sinh ra đau bao tử, mất ngủ, rồi bạn sẽ phải dùng đến thuốc an thần. Nếu dùng nhiều thuốc này, thân thể bạn sẽ bị tàn hại. Kết quả là nét mặt bạn luôn luôn không vui và càu nhàu rồi các bạn thân cũng xa lánh không đến thăm bạn nữa. Tóc bạn sẽ dần dần bạc trắng và sức khỏe của bạn ngày càng sa sút. Nhìn bạn như vậy, người bạn láng giềng sẽ rất vui. Sức khỏe của người láng giềng cũng không ảnh hưởng gì và vị ấy lại còn rất mừng vì mục tiêu phá rối bạn đã thành công.
(An Open Heart)
64. NIẾT BÀN
Theo lời Phật dạy có ba bước. Bước đầu tiên là buông xả chấp thủ về cuộc đời này. Thứ hai loại bỏ tâm khát ái đối với thế giới này. Thứ ba là không chấp ngã. Thật tâm tu tập những điều này sẽ đưa đến trạng thái giải thoát gọi là niết bàn.
(The Path to Tranquility, 39)
65. NỖ LỰC TU TẬP
Chỉ có cầu nguyện không cũng chưa đủ. Cầu nguyện phải đến từ bên trong. Không có sự nỗ lực tu tập của chính chúng ta, cầu nguyện sẽ không có hiệu lực.
(The Path to Tranquility)
66. NỘI TÂM
Hạnh phúc và thỏa mãn của con người phải đến từ nội tâm. Thật là sai lầm nếu hy vọng những thõa mãn đến từ tiền hoặc vi tính.
(The Path to Tranquility, 38)
67. NỮ LẠT MA
Trong tương lai cả nam và nữ đều có thể trở thành những Lạt ma cao cấp nhất chứ?
Nếu một nữ Lạt ma có phẩm hạnh hoàn toàn, có tu chứng và viên tịch nếu muốn thì vị ấy vẫn có thể tự tái sinh lại là một nữ nhân. Do thế, tôi nghĩ, trong thế kỷ 22, sẽ có nhiều vị tái sinh nữ trong những học viện ni. Thế thì sẽ có sự tranh đua giữa những học viện Lạt ma tăng và học viện Lạt ma ni. Đó sẽ là một loại thi đua tích cực.
68. NGÀI LÀ HÓA THÂN QUAN ÂM
Ngài có phải là hóa thân của Bồ Tát Đại Bi Quán Thế Âm (Chenrezi/Avalokitesvara). Ngài có cảm nghĩ gì về điều này?
Tôi không thể nói chính xác được, trừ khi tôi ra sức tham thiền, nhập định quán tưởng về lại cuộc đời của mình trong từng hơi thở một. Tuy nhiên, chúng tôi tin có bốn loại tái sinh:
Thứ nhất là loại thông thường, trong đó sinh linh không thể quyết định sự tái sinh của mình.
Loại tái sinh thứ hai là của một vị Phật toàn giác, chỉ cần hóa hiện một thân vật chất để tiếp tục công việc giáo hóa chúng sinh. Trong trường hợp này, rõ ràng vị ấy là một vị Phật.
Loại tái sinh thứ ba là của một người đã từng có những thành tựu tâm linh trong quá khứ, có khả năng chọn lựa, hay ít nhất cũng có thể tác động đến địa điểm và hoàn cảnh tái sinh.
Loại tái sinh thứ tư được gọi là hiển lộ sự gia hộ, trường hợp này người tái sinh được ban ơn gia hộ vượt ngoài khả năng thông thường, để làm những việc lợi ích, như giảng dạy chân lý giải thoát cho người khác. Được tái sinh loại này là do trong các kiếp quá khứ người đó đã có ý nguyện mạnh mẽ giúp đỡ chúng sinh.
Dù có thể thuộc vào một loại tái sinh nào đó, nhưng tôi không thể nói chắc là mình thuộc loại nào.
69. NHÂN DUYÊN SINH PHẬT GIÁO
Trong lời phát biểu khi nhận giải Nobel Hoà Bình, đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói: “Chúng ta tùy thuộc vào nhau trong mọi sinh hoạt của đời sống. Chúng ta không thể tồn tại khi sống tách rời khỏi xã hội và không biết gì về các sự việc xảy ra bên ngoài cộng đồng của nhân loại. Khi gặp những khó khăn, chúng ta cần giúp đỡ lẫn nhau cũng như nên chia sẻ nguồn vui của chúng ta cho những kẻ khác”. Về mặt triết lý, lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma phản ảnh lý “Nhân Duyên Sinh” của Phật Giáo.
(Mandala, số tháng 6 – 7, năm 2005).
70. NHẤT THIẾT DO TÂM TẠO
Bản chất của tâm là một việc càng quen thì càng dễ làm. Nếu sự khổ nhỏ ta chuyển hóa được thì ta sẽ có thể chịu đựng nổi khổ lớn lao hơn. Một công việc khi quen thuộc sẽ trở nên không khó làm. Người nào thường hay chịu đau với các vết thương nhỏ, dần dần sẽ quen chịu đựng nổi đau đớn lớn hơn. Chúng ta thấy nhiều người giãy nẩy khi bị sâu bọ cắn, sẽ cảm thấy khó chịu khi gặp cảnh đói khát hay bị gai châm chích làm trầy da. Ai đã quen với các chuyện khổ lặt vặt đó rồi thì họ cũng coi thường chúng. Cho nên khi gặp những vấn đề nhỏ như nóng lạnh, mưa gió, đau ốm hay bị thương tích, nếu chúng ta quá lo âu chỉ khiến cho tình hình trở nên tệ hại thêm.
(The Joy of Living and Dying in Peace)
71. NHỚ TIẾC TÂY TẠNG
Mỗi khi nghĩ đến Tây Tạng thì Ngài cảm thấy nhớ những gì?
Nhớ Tây Tạng là nhớ đến quê hương tôi, dân tộc tôi. Ở đó, bên cạnh đa số người sống hiền lành, là cũng có cả những người hung dữ trên xứ Tây Tạng (Ngài bật cười). Tuy nhiên nói chung, tập thể người Tây Tạng và nền văn hóa Phật giáo của họ rất hiền lành.
Đôi khi tôi cũng nhớ đến khí hậu. Tại Ấn độ vào mùa mưa bão thì người ta thường tự nhủ: «Thật tiếc! Khí hậu ở Lhasa khô ráo và dễ chịu biết chừng nào... ». Và khi nghĩ đến mùa đông ở Lhasa với những cơn gió bụi mù thì người ta lại tự nhủ: «Thật là may được lưu trú trên đất Ấn! » (Ngài bật cười). Tất cả chỉ là tương đối mà thôi...
72. PHÁT TRIỂN NỘI TÂM
Chỉ riêng kiến thức không thể tạo nên hạnh phúc mà nó vốn bắt nguồn từ sự phát triển nội tâm, chứ không dựa vào các yếu tố bên ngoài. Thực vậy, mặc dù kiến thức giúp chúng ta hiểu biết tường tận và chính xác về các hiện tượng ngoại giới là một thành tựu to lớn, nhưng sự thúc đẩy giới hạn vào việc theo đuổi nó thay vì mang đến hạnh phúc lại có thể gây tai hại. Nó có thể khiến chúng ta không tiếp xúc được với thực tại rộng lớn hơn của kinh nghiệm con người, và đặc biệt sự lệ thuộc vào người khác.
(Ethics For The New Millennium)
73. PHẬT GIÁO CHỦ TRƯƠNG CÁ NHÂN TẠO TÁC
Trong nhiều tôn giáo, Phật giáo được xem như đạo vô thần, vì không chấp nhận đấng tạo hóa hay Thượng đế. Trái lại Phật giáo chủ trương tự cá nhân tạo tác, nghĩa là do hành động con người đã tạo nên chính cuộc sống của mình. Trong tinh thần này, Phật giáo được hiểu như không phải tôn giáo mà là môn khoa học về tâm linh.
(Universal Responsibility and The Good Heart)
74. QUÁN CHIẾU
Để quán chiếu bản chất bên trong, chúng tôi nghĩ nên để dành thời gian ngồi tĩnh lặng và thẫm sát thế giới bên trong chúng ta. Điều này sẽ hữu ích. Khi một người quá sân hận và chấp thủ thì chính lúc thiền quán đó nên hỏi lại mình rằng: “Cái gì là chấp thủ? Cái gì là bản chất của sân giận?”
(The Path to Tranquility, 41)
75. QUÁN CHIẾU TRONG HOÀN CẢNH CĂNG THẲNG
Khi chúng ta cảm thấy quá sân hay quá tham. Thì người quá tham sân đó đường như cần sự giúp đỡ?
Khi chúng ta quán chiếu các pháp dường như quá căng thẳng. Chúng ta sẽ thấy rằng chúng dường như tồn tại trong chính chúng.
Tuy nhiên, không có gì tồn tại trong cách này. Mọi điều tùy thuộc vào nhân, duyên của nó và tùy thuộc cách mà chúng ta nhận thức chúng.
Khi chúng ta phản ứng quá mạnh, chúng ta sẽ thấy chúng ta mất cái nhìn như thật về con người và các pháp là tùy thuộc lẫn nhau.
Chúng ta cố gắng quán chiếu để giảm tâm tham và sân. Khi chuyển hóa được tâm niệm tham và sân thì chúng ta từ từ sẽ cởi bỏ những chấp thủ của mình. Từ ngày chúng ta sanh ra đến nay, chúng ta gặp rất nhiều tai họa từ tham sân. Đây là cách loại trừ, ít nhất là giúp biến mất những chướng ngại trên đường chúng ta đi tìm hạnh phúc.
(How To Be Compassionate, 41)
76. QUÁN CHIẾU VỀ SÂN GIẬN
Sân giận tạo nên lời lẽ và thành động thô tháo khiến không khí không vui. Sân giận không cần thiết và không có giá trị. Ngay cả một sân giận nhỏ cũng có khả năng tạo nên hậu quả lớn.
(How To Be Compassionate, 58)
77. QUÁN SÁT TÂM
Lịch sử thế giới đơn giản là sự tập hợp, ghi chép các kết quả về những tư tưởng thiện và ác của loài người. Tôi nghĩ điều này là rõ ràng như vậy. Khi đọc lịch sử, chúng ta nhận thấy rằng nếu muốn có một tương lai tốt đẹp và hạnh phúc hơn, chúng ta cần quán sát tâm của mình hiện nay để tu tập hầu gặt kết quả lành cho ngày mai.
(The Compassionate Life)
78. QUAN TÂM SỰ CÔNG BẰNG VÀ CHÂN LÝ
Theo kinh nghiệm cá nhân trong những chuyến công du ngoại quốc, tôi được yêu cầu thuyết giảng về hoà bình và từ bi trước cử toạ đoàn, thường vượt quá số ngàn thính chúng. Tôi không tin khoảng bốn mươi hay năm mươi năm về trước, các đề tài đó được lôi cuốn hấp dẫn số đông người như thế. Những tiến triển này chứng tỏ sô đông loài người chúng ta ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các giá trị căn bản như sự công bằng và chân lý.
(Ethics for the New Millennium)
79. QUÂN BÌNH
Phần đông con người chú trọng nhiều đến những tiến bộ văn minh vật chất và xao lãng các giá trị đạo đức tâm linh. Cho nên, chúng ta cần giữ quân bình giữa đời sống vật chất ngoại giới và tinh thần thuộc nội tâm. Các đức tính tốt của chúng ta có thể nói là những giá trị luân lý nhân bản của con người. Chúng ta nên phát triển và bảo vệ các hành động thiện đó cũng như chia xẻ, mang những điều phúc lợi này đến giúp đỡ cho tất cả chúng sanh. Chúng ta nên tôn trọng quyền làm người của mọi kẻ khác. Do đó, chúng ta cần ý thức rằng sự an lạc và hạnh phúc tương lai của chúng ta tùy thuộc vào nhiều người khác trong xã hội chúng ta đang sống.
(An Open Heart)
80. SÁNG SUỐT
Sự nhận thức sâu xa và sáng suốt về nguyên nhân gây ra những khó khăn trong đời sống hiện nay có thể giúp chúng ta cải đổi được không khí sinh hoạt trong gia đình. Thực vậy, đôi lúc vì một sự hiểu lầm, xích mích nho nhỏ sẽ gây nên trận cải vả ồn ào giữa vợ và chồng hay giữa cha mẹ và con cái. Nếu chúng ta nhận xét vấn đề một cách phiến diện và nóng nảy sẽ dẫn đến sự tranh chấp gây gỗ và có thể đưa nhau ra tòa ly dị. Tuy nhiên khi chúng ta bình tĩnh sáng suốt, chúng ta sẽ giải quyết mối bất hòa dễ dàng qua sự thông cảm, khoan dung và tha thứ.
(An Open Heart)
81. SỐNG VỚI TÂM XẢ
Vượt thoát ra khỏi lòng hận thù và tức giận, chúng ta có thể xử lý mọi tình huống có kết quả tốt hơn nhiều. Nếu chúng ta tiếp xúc mọi việc với tâm xả, chúng ta sẽ nhìn thấy vấn đề một cách rõ ràng hơn và từ đó giúp chúng ta áp dụng phương pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề. Ví dụ, nếu một đứa bé đang làm một hành động gì đó gây nguy hiểm cho chính nó và mọi người như là chơi với những que diêm, thì chúng ta có thể trừng phạt nó. Khi chúng ta trừng phạt như vậy, một điều rất có thể xảy ra là đứa bé sẽ không phản ứng sự tức giận của chúng ta mà đáp lại là bé ý thức sự khẩn cấp và lo ngại của chúng ta.
(An Open Heart)
82. SỰ BỎ QUÊN NỘI TÂM CỦA CHÚNG TA
Hẳn nhiên, chúng ta có thể kể ra rất nhiều khuynh hướng tiêu cực trong một xã hội tân tiến. Không có gì nghi ngờ về sự leo thang mỗi năm của các vụ giết người, bạo động và hãm hiếp. Thêm vào đó, chúng ta thường xuyên nghe nói các câu chuyện sách nhiễu tình dục hay bóc lột ngay trong gia đình và cộng đồng rộng lớn hơn và con số gia tăng của giới trẻ nghiện ngập hút xì ke và uống rượu cũng như tỷ lệ rất lớn của những cuộc ly dị đã ảnh hưởng đến trẻ em như thế nào.
Ngay cả trong cộng đồng ly hương bé nhỏ của chúng tôi cũng không thoát khỏi ảnh hưởng của các tệ nạn đó. Chẳng hạn trước đây tự tử là điều hầu như không thấy xảy ra ở xã hội Tây Tạng nhưng gần đây lại có một hoặc hai thảm kịch loại đó, ngay cả trong cộng đồng ly hương của chúng tôi. Cũng thế, mặc dù thế hệ trước đây nghiện ngập ma tuý không có trong giới trẻ Tây Tạng, giờ đây thì chúng tôi đã có vài trường hợp – hầu hết xảy ra tại các nơi hấp thụ nếp sống đô thị tân tiến.
Tuy nhiên, các vấn đề trên không như các nỗi khổ bệnh, lão và tử là những điều có tính cách thiên nhiên không sao tránh được. Chúng không đến từ sự thiếu hiểu biết. Khi suy nghĩ tận cùng, chúng ta nhận thấy rằng tất cả đều là vấn đề đạo đức. Mỗi trường hợp đều phản ảnh sự hiểu biết của chúng ta về điều gì đúng hay sai, tích cực hoặc tiêu cực, thích đáng hay không thích đáng. Nhưng vượt lên trên đó, chúng ta có thể chỉ thẳng vào một điều hết sức căn bản: sự bỏ quên điều mà tôi gọi là nội tâm của chúng ta.
(Ethics For The New Millennium)
83. SỰ KHIÊM TỐN CỦA MẸ TERESA
Ngài nói Bồ Tát là những vị phục vụ người khác. Vậy mẹ Teresa được giải Nobel hòa bình cũng là một bồ tát?
Tôi gặp mẹ Teresa năm 1988 tại phi trường Delhi. Mẹ rất khiêm tốn, đã tạo một ấn tượng đặc biệt cho tôi. Đứng về quan điểm Phật giáo, mẹ là một vị bồ tát lớn, một mẫu con chiên của Thiên Chúa sống hết lòng vì người khác, đặc biệt cho những người nghèo khổ. Có thể nói tôi cũng không có khả năng làm giống như mẹ.
(Path of Wisdom, Path of Peace, 76)
84. SỰ QUÁ LO LẮNG SẼ KHÔNG GIÚP ĐƯỢC GÌ
Nếu chúng ta lo lắng sắp xếp cho một việc gì đó thì không có lý do gì để tuyệt vọng. Nhưng nếu không có điều gì giúp cho thay đổi sự tình thì sự tuyệt vọng cũng không giúp ích gì. Tại sao chúng ta lo lắng nếu vấn đề đó được giải quyết? Nếu đó là một giải pháp thì chúng ta không nên sợ. Nếu cái đó không thể giúp thay đổi vấn đề thì chúng ta nên để qua một bên. Quá lo lắng chỉ làm chúng ta tổn sức lực của mình, có hại, vô dụng. Tôi thường theo quy luật hy vọng cho điều tốt và chuẩn bị cho điều tệ xảy ra.
Nói chung, đạo Phật tin vào nghiệp và luật nhân quả. Khi chúng ta trải qua đau khổ, thất bại, điều này giúp cho ta có kinh nghiệm của sự thất bại và chúng ta có trách nhiệm với nghiệp này. Suy nghĩ như vậy sẽ hữu ích cho ta trong sự không còn lo lắng và tuyệt vọng nữa. Chúng ta được quyền hy vọng nhiều điều. Khi một hy vọng không thực hiện được thì đây là một tai họa. Có nhiều khả năng xảy ra trong đời sống và có những ước mơ khác được thành tựu. Nếu chúng ta đặt tất cả trứng vào một cái sô thì khi sự thất bại đến sẽ tạo cho ta một sự tuyệt vọng và đau buồn ghê gớm. Nhiều người đã tự tử vì điều này. Tuy nhiên với sự suy tư chính chắn thì chúng ta không nên quá thất vọng hay quá lo lắng.
(Path of Wisdom, Path of Peace, 118-9)
85. SỰ TĨNH LẶNG LÀ CỘI NGUỒN HẠNH PHÚC
Nhưng nếu tìm hiểu sâu xa hơn, chúng ta nhận thấy rằng ba thứ này – tài sản, bạn bè và ngay cả thể xác của chính mình – không phải một trăm phần trăm là cội nguồn hạnh phúc của chúng ta. Ðôi khi tài sản của quý vị đã tạo nên buồn phiền cho các bạn; vì bạn bè mà chúng ta gặp những sự khó khăn, và do có thân thể mà quý vị phải chịu nhiều đau đớn. Giả sử ngay cả những điều này là nguồn gốc mang lại hạnh phúc cho các bạn thì chúng cũng không phải luôn luôn hoàn toàn. Chúng có thể bao gồm chỉ một phần, nhưng chắc chắn không phải là một trăm phần trăm hạnh phúc của chúng ta.
Trái lại, sự thanh tịnh hay tĩnh lặng nơi tâm là cội nguồn hạnh phúc rất quan trọng. Hầu như chắc chắn nếu tâm ta thanh tịnh thì sự an lạc sẽ phát sanh. Kẻ thù bên ngoài, dù mạnh mẽ cách mấy cũng không thể đánh phá trực tiếp vào tâm tĩnh lặng của chúng ta. Vì nó là vô sắc (không có hình tướng). Nguồn hạnh phúc hay sự an lạc tối thượng này chỉ có thể hủy diệt bởi chính sự giận dữ của chúng ta. Cho nên, kẻ thù và người đích thực phá hủy sự an bình của quý vị chính là lòng sân hận.
(Worlds in Harmony)
86. SỰ THIẾU CÂN XỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ TU TẬP
Trong các nước chậm tiến thuộc “Thế giới Thứ Ba”, đủ loại bệnh tật bộc phát rất nhiều do đời sống thiếu điều kiện vệ sinh. Trái lại, các xã hội kỹ nghệ ở đô thị, chúng ta thấy nhiều thứ bệnh khác xuất hiện do tình trạng nhiễm ô môi sinh. Ngoài ra, còn có các bịnh tạo nên do thần kinh bị căng thẳng. Tất cả điều ấy cho thấy có những lý do vững chắc để nghĩ rằng có mối liên hệ giữa sự đề cao quá mức không cân xứng về các tiến bộ vật chất bên ngoài với sự thiếu hạnh phúc, lo âu và bất mãn của xã hội tân tiến.
(Ethics For The New Millennium)
87. SỰ THÔNG CẢM
Khi chúng ta nhìn xung quanh mình, ngôi nhà chúng ta đang ở, con đường mà chúng ta đi, quần áo chúng ta mặc, thực phẩm mà chúng ta ăn, chúng ta phải hiểu rằng tất cả các thứ này đều do mọi người làm ra. Không có cái gì tồn tại cho chúng ta thụ hưởng và sử dụng mà không xuất phát từ lòng tốt của nhiều người vô danh đã giúp chúng ta. Khi chúng ta suy nghiệm theo cách này, lòng cảm mến của chúng ta đối với mọi người sẽ phát triển, sự thông cảm và gần gũi với họ cũng tăng lên.
(An Open Heart)
88. SỨC MẠNH CỦA TÂM LỰC
Thái độ căn bản của ta đối với đau khổ rất khác hẳn với cách chúng ta kinh nghiệm nó. Ví dụ như có hai người đau khổ trước một căn bệnh ung thư giống nhau. Điểm khác biệt duy nhất giữa hai bệnh nhân là cái nhìn của họ về bệnh trạng. Một người nhìn như điều gì phải chấp nhận và nếu có thể chuyển đổi thành cơ hội để phát triển một sức mạnh nội lực. Một người lại phản ứng trước hoàn cảnh của mình với nổi sợ hãi, buồn phiền và lo lắng cho tương lai. Mặc dù trên phương diện thể xác không có gì sai khác giữa hai người trong nỗi đau khổ của họ, nhưng lại có sự khác biệt sâu xa trong kinh nghiệm về cơn bệnh của mỗi người. Trong trường hợp sau, ngoài sự đau đớn thể xác, lại còn thêm sự khổ đau tinh thần.
(Ethics for the New Millennium)
89. TÁN THÁN PHÁP MÔN NIỆM PHẬT
Có hai vị Lạt-Ma là Ajo và Reto cùng theo học một thầy. Reto là một học giả tinh thông Kinh điển, có thể giảng giải, trích dẫn hầu như tất cả sách vở một cách dễ dàng, trong khi Ajo chỉ chuyên tâm Lễ Bái và Thiền Định.
Lạt Ma Reto ghi danh vào Đại Học Drepung, tốt nghiệp thủ khoa, trở nên một Pháp Sư nổi tiếng của Tây Tạng, trong khi Lạt Ma Ajo vẫn ẩn tu tại làng Chumbi.
Sau nhiều năm không gặp nhau, một hôm Pháp Sư Reto có dịp công du qua làng cũ. Nhớ đến người huynh đệ đồng môn, ông ghé lại ngôi chùa xưa thăm hỏi. Gặp nhau cả hai đều mừng rỡ chuyện trò vui vẻ, Reto bèn hỏi Ajo đã tu học đến đâu. Lạt Ma Ajo thành thật thưa rằng: “Bao năm nay chỉ chuyên tụng một bộ Kinh A Di Đà mà thôi”. Pháp Sư Reto lắc đầu than cho chú em quê mùa hủ lậu, Kinh điển thiên kinh vạn quyển không đọc mà chỉ đọc tụng có một bộ Kinh tầm thường mà gần như ai cũng biết. Reto bèn giảng giải cho Ajo một hồi về những pháp môn cao siêu cho đến tận khuya mới đi ngủ.
Vừa chợp mắt ít lâu, ông đã giật mình tỉnh giấc vì thấy ánh sáng ở đâu chói loà cả một vùng. Ánh sáng này phát ra từ phía chánh điện ngôi chùa nên ông ngạc nhiên rời trú phòng bước ra xem thế nào.
Ông thấy Lạt Ma Ajo đang chắp tay đảnh lễ, trì tụng Hồng Danh Đức Phật A Di Đà nhưng quanh ông này hào quang sáng rực cả chánh điện. Ông thấy trong hào quang đó có một ao sen lớn bằng các thứ ngọc báu với những lâu đài, dinh thự toàn bằng vàng. Ngoài ra, còn có những giống chim lạ cất tấu lên những điệu nhạc hoà nhã, vi diệu nghe như tiếng giảng Kinh, rồi trời đổ mưa hoa, những bông Mạn Đà La rơi xuống ao báu toả ánh sáng khắp nơi.
Pháp sư Reto nín thở theo dõi cho đến khi Lạt Ma Ajo trì tụng xong bộ Kinh A Di Đà thì linh ảnh đó mới biến mất. Quá xúc động, Reto vội bước vào hỏi làm sao Ajo lại có được thần thông như vậy. Lạt Ma Ajo cho biết ông không hề có thần thông gì cả mà chỉ chuyên tâm trì tụng sáu chữ Hồng Danh mà thôi.
Lạt Ma Reto lại hỏi: “Nhưng ta thấy hào quang sáng ngời trong chánh điện và những linh ảnh lạ lùng. Chắc chắn chú phải có những phương pháp tu luyện gì nữa chứ?”
Lạt Ma Ajo cho biết không hề áp dụng một phương pháp gì ngoài việc gìn giữ Thân-Khẩu-Ý cho thật thanh tịnh, trang nghiêm để trì tụng Hồng Danh Phật A Di Đà mà thôi.
- Làm sao có thể như vậy được? Như ta đây làu thông Kinh điển, tu tập bao năm nay mà đâu đã có kết quả gì? Lạt Ma Reto thắc mắc.
- Có lẽ huynh chỉ đọc văn giải nghĩa để thoả mãn trình độ trí thức giỏi biện luận như một nhà thông thái mà thiếu hành trì, không chí thành cung kính, đọc Kinh còn nghi ngờ, chỉ trọng về Lý Tánh mà không chuộng sự tu dưỡng Thân-Tâm chăng? Như em đây thì chuyên tâm tin tưởng vào lời khuyên dạy của Chư Phật, tin rằng có cõi Tây Phương Cực Lạc, tin vào Đại Nguyện của Phật A Di Đà và tha lực tiếp dẫn của Ngài, rồi chí thành nguyện cầu sẽ được sinh sang cõi nước Cực Lạc (Tín-Nguyện-Hạnh).
Pháp Sư Reto bừng tỉnh vội vã chắp tay đảnh lễ người em đã khai ngộ cho mình. Ông trở về Lhassa trình bày sự việc cho Đức Đạt Lai Lạt Ma, rồi xin từ chức Pháp Sư về nhập thất tu Thiền trong dãy Tuyết Sơn.
Đức Đạt Lai Lạt Ma truyền lệnh cho xây một ngôi Chùa nguy nga rộng lớn để xứng đáng với công đức tu hành của một vị Cao Tăng và phong cho Lạt Ma Ajo chức Hoà Thượng (Rinpoche). Tuy nhiên, Hoà Thượng Ajo không thích việc có một ngôi chùa riêng như vậy, ông chỉ muốn tiếp tục sống trong ngôi chùa nhỏ bé nơi thung lũng Chumbi mà thôi. Vị quan trông coi việc xây cất lấy làm lạ bèn hỏi tại sao, thì Ngài cho biết dù chùa cao to đẹp đẽ, dù cung vàng điện ngọc cũng chỉ là hình thức bên ngoài, hữu sinh hữu hoại, nay còn mai mất, không thể so sánh với cảnh giới của cõi Cực Lạc được.
Sau cùng, người ta đành mời Ngài về trụ trì Chùa Tse Cholin, một ngôi chùa lớn trong vùng, vì vị trụ trì tại đây đã qua đời trước đó ít lâu. Hoà Thượng Ajo nhận lời quản trị ngôi chùa này nhưng vẫn tiếp tục sống tại ngôi chùa nhỏ bé cũ gần đó, vì ông biết rằng vị trụ trì Tse Cholin sẽ Hoá Thân trở lại đây trong một thời gian không lâu nữa.
Theo Hoà Thượng Ajo, thì Đức Phật đã chỉ dẫn rất nhiều Pháp môn khác nhau, các đệ tử tuỳ theo căn cơ trình độ lãnh hội mà tu hành được giải thoát. Tuy nhiên vì biết vào thời Mạt Pháp (Kali Yuga), chúng sanh nghiệp sâu, trí mỏng khó có thể trông cậy vào tự lực cá nhân mà giải thoát, nên Đức Phật đã truyền dạy riêng một phương pháp giản dị là Pháp môn Niệm Phật cầu Vãng Sanh. Pháp môn này giản dị mà công năng vô cùng mầu nhiệm, bất khả tư nghì, vì ngay như Đức Di Lặc chỉ còn một kiếp nữa sẽ thành Phật mà ngày đêm sáu thời còn đảnh lễ, trì niệm Hồng Danh Chư Phật.
Theo Hoà Thượng Ajo, thì cách trì tụng Hồng Danh phải đặt căn bản trên sự chí thành, khẩn thiết thì mới được Cảm Ứng. Dù làm đúng các Nghi thức nhưng tâm không thành thì khó có kết quả gì, tóm lại vấn đề trọng yếu vẫn là ở Tâm. Ngài chỉ phương pháp Quán Tưởng, là lúc nào cũng giữ trong Tâm hình ảnh của Đức Phật A Di Đà và cảnh giới cõi Cực Lạc mà trong đó bất cứ thứ gì cũng phát ra hào quang sáng chói, nơi mà tiếng gió thổi, chim hót, lá cây rụng cũng phát ra những Diệu Âm. Ngài cho biết làm sao để lúc Đi-Đứng-Nằm-Ngồi cũng đều chú tâm vào hình ảnh Đức Phật A Di Đà cho đến lúc thật thuần thục, không thấy có mình là Người Niệm Phật và Phật là một vị mà mình đang Niệm, chỉ có một ánh sáng vô tận, vô lượng chiếu soi. Niệm đến chỗ Vô Niệm, cho đến Nhất Tâm Bất Loạn, thì sẽ được cảnh giới bất khả tư nghì.
Hoà Thượng Ajo cho biết sáu chữ Hồng Danh A Di Đà Phật có một oai lực vô cùng rộng lớn với những Mật nghĩa sâu xa, mà chỉ có Phật với Phật mới hiểu rõ cùng tận mà thôi. Phật A Di Đà là Pháp giới tàng thân, bao nhiêu công đức của Chư Phật trong mười phương pháp giới, nơi một Đức Phật A Di Đà đều đầy đủ cả. A Di Đà có nghĩa là nguồn sáng vô tận (Vô Lượng Quang), tuổi thọ vô lượng (Vô Lượng Thọ); hay nói theo nghĩa khác là bao gồm toàn thể không gian (ánh sáng) và thời gian (tuổi thọ) tượng trưng cho chân lý tuyệt đối bất khả tư nghì.
(Lama Anagarika Govinda, Nguyên Phong chuyển ngữ).
90. Ngài có sự khuyên bảo tổng quát nào cho những hành giả ở Tây Phương không?
Điều quan trọng là phải suy nghĩ thật kỷ lưỡng trước khi tham dự vào một truyền thống tâm linh. Một khi đã tham gia rồi, quý vị phải gắn bó với nó. Đừng làm như một người thử thức ăn trong tất cả những nhà hàng khác nhau nhưng chẳng bao giờ thật sự ngồi xuống để thưởng thức một buổi ăn. Hãy suy nghĩ một cách cẩn thận trước khi tiếp nhận một sự thực hành; rồi thì theo đuổi xuyên suốt nó. Với cách này quý vị sẽ đón nhận một số kết quả nào đấy từ việc thực tập này, ngay cả chi dành một ít thời gian mỗi ngày. Trái lại, nếu quý vị cố gắng để theo đuổi tất cả những phương pháp thực tập khác nhau thì quý vị sẽ không đi đến đâu.
91. TÁNH PHẬT
Thêm nữa, sự nhận thức rõ về lời Phật dạy mọi chúng sanh đều có Phật tánh hay đời này sanh ra được làm thân người là một điều vô cùng phước báu cũng như cuộc sống là vô thường sẽ giúp chúng ta nỗ lực tinh tấn tu hành để mong được giải thoát luân hồi sanh tử.
(Live In A Better Way)
92. TÂM AN LẠC
Sự bình an trong tâm là chìa khóa: Khi tâm của bạn an lạc, những vấn đề khó khăn bên ngoài không thể gây ảnh hưởng, tạo phiền não cho bạn được. Với tâm định tĩnh và sáng suốt như vậy sẽ giúp bạn dễ dàng giải quyết thành công những cuộc khủng hoảng rắc rối và duy trì được nguồn an lạc hạnh phúc ở nội tâm. Ðó là điều rất quan trọng. Khi tâm bạn không an lạc thì đời sống vật chất của bạn dù có đầy đủ tiện nghi, giàu sang phú quý cách nào, bạn vẫn luôn luôn cảm thấy lo âu và đau khổ.
(The Policy of Kindness)
93. TÂM BẤT AN
Làm sao con người có thể khắc phục được tâm bất an và sợ hãi?
Cách hay nhất là trước khi làm việc gì, chúng ta nên nghĩ đến hậu quả của nó. Thông thường khi gặp một việc xấu, chúng ta cho đó là điều rủi và lúc việc tốt xảy đến, chúng ta nói rằng đó là điều may. Thực ra, nếu bảo rằng do điều rủi với may thì hoàn toàn không đúng mà hành động của chúng ta còn chi phối bởi luật nhân quả. Tùy theo nhân thiện hay ác gây ra mà chúng ta sẽ gặp điều tốt hay xấu, may hoặc rủi, thành công hay thất bại. Ngoài ra, theo Phật giáo còn do hành động hay nghiệp báo của chúng ta gây ra trong quá khứ. Phương cách khác để diệt trừ tâm lo sợ là chúng ta tự hỏi người đang sợ hãi là ai, có thực không? Ta đang ở đâu? Ta là ai? Bản chất của ta là gì? Ngoài thân xác vật lý hay thay đổi này có cái Ta thực sự không? Suy nghĩ như vậy sẽ giúp tâm bạn bình an không còn lo sợ nữa. Đôi khi do tụng niệm thần chú, cầu nguyện Phật gia hộ, nỗi lo sợ nơi quý vị cũng sẽ tan biến đi.
(Kindness, Clarity and Insight)
94. TÂM CÓ KHẢ NĂNG NGĂN CHẶN SỰ KHỔ ĐAU CỦA THỂ XÁC
Sức mạnh tinh thần có thể giúp cho nhu cầu sức khoẻ thân thể bởi lẽ tâm thức của con người có khả năng ngăn chặn sự khổ đau của thể xác. Giả sử có hai bệnh nhân, cùng một bệnh, cùng nằm một phòng trong một bệnh viện. Một người thì bi quan, lo lắng phiền muộn cho bệnh tật của mình, một người khác thì coi bệnh tật là một thử thách, tinh thần rất lạc quan, xem nhẹ bệnh tật mình đang mang.
Kết quả người có tinh thần lạc quan thì sớm lành bịnh và được xuất viện sớm.
95. TÂM LINH
Người ta có thể gọi là “Sự phát triển tâm linh”, nhưng khi nói “tâm linh” tôi không có ý đề cập đến bất cứ đức tin tôn giáo nào. Khi dùng từ “tinh thần” (spiritual) tôi muốn nói đến các thiện tánh căn bản của con người. Ðó là tình thương, sự hy sinh, thành thực, khắc kỷ và sáng suốt được hướng dẫn bởi những ý nghĩ thiện của con người. Tất cả chúng ta đều có các đức tính tốt trên ngay từ lúc mới ra chào đời, chứ không phải trong cuộc sống sau này.
(Book of Wisdom)
96. TÂM LINH & VẬT CHẤT
Sự tiến bộ vật chất hẳn nhiên quan trọng trong việc thăng hoa đời sống con người. Ở Tây Tạng chúng tôi không chú tâm mấy đến việc phát triển về kỹ thuật và kinh tế, nhưng ngày nay chúng tôi nhận thấy đó là một hành động sai lầm. Cùng lúc, chỉ lo phát triển vật chất mà thiếu phần bồi dưỡng tâm linh cũng sẽ gây nên nhiều vấn đề khó khăn nghiêm trọng. Tại vài quốc gia, người ta chỉ quan tâm đến sinh hoạt vật chất bên ngoài và ít chú trọng đến sự phát triển đời sống tâm linh. Tôi tin rằng cả hai đều quan trọng và cần nên thực hiện song hành với nhau nhằm duy trì sự quân bình tốt đẹp giữa chúng.
(The Policy of Kindness)
97. TÂM LÝ & CẢM XÚC
Trước đây các nông dân kêu gọi những người thân gia đình giúp đỡ việc trồng trọt gặt hái, ngày nay họ chỉ cần gọi điện thoại đến nhà thầu. Chúng ta nhận thấy đời sống tân tiến được tổ chức cách nào để khiến sự lệ thuộc trực tiếp với người khác trở thành nhỏ nhất. Tham vọng phổ quát của mỗi người, ít hoặc nhiều, là có một căn nhà riêng, chiếc xe riêng, máy điện toán riêng, vv… để có thể càng độc lập càng tốt. Đây là điều tự nhiên và có thể hiểu được.
Chúng ta cũng có thể nêu ra rằng con người vui hưởng được sự phát triển tự lập, đó là do kết quả của tiến bộ vật chất và kỹ thuật. Thực vậy, con người ngày nay có thể độc lập với người khác nhiều hơn bất cứ lúc nào. Nhưng cùng lúc với sự phát triển ấy lại phát sinh một ý thức rằng tương lai của tôi không còn tuỳ thuộc vào người chung quanh mà đúng hơn lệ thuộc vào việc làm của tôi hoặc phần lớn tuỳ thuộc vào chủ nhân của tôi. Điều này lại khiến chúng ta nghĩ rằng, bởi vì người khác không quan trọng cho hạnh phúc của tôi cho nên hạnh phúc của họ cũng không quan trọng đối với tôi. Sự đau khổ tâm lý và cảm xúc phát sinh trong những hoàn cảnh đặc biệt như vậy.
(Ethics For The New Millennium)
98. TÂM LÝ CÔ ĐƠN
Tâm lý cô đơn là trạng thái thường xảy ra trong mỗi con người. Hàng triệu người hiện đang sống gần gũi chung đụng với nhau tại các thành phố lớn khắp nơi trên thế giới, nhưng có nhiều kẻ vẫn cảm thấy cô đơn. Nhiều người, ngay cả không có lấy một người thân để chia sẻ nỗi vui buồn khi gặp nghịch cảnh khổ đau.
Tôi nghĩ những xúc cảm cô đơn bắt nguồn từ hai nguyên nhân chính. Thứ nhất là hiện nay chúng ta quá đông đúc. Ngày xưa khi thế giới còn ít người, mỗi cá nhân ý thức sâu sắc hơn là họ đều thuộc vào một gia đình chung của nhân loại, con người hiểu nhau nhiều hơn và sự tương trợ giữa người này với kẻ khác cũng rõ rệt hơn. Ngay cả thời buổi hiện đại, trong các làng nhỏ nơi thôn quê, mọi người đều quen biết nhau, cho nhau mượn dụng cụ và máy móc để làm ruộng và nếu công việc có tầm vóc rộng lớn thì họ hợp lực để cùng nhau làm. Ngày xưa thì người ta hội họp thường xuyên hơn, đi nhà thờ, cầu nguyện chung với nhau. Họ có nhiều dịp để hàn huyên với nhau hơn. Ngày nay địa cầu quá đông đúc, hàng triệu người sống chen chúc trong các thành phố lớn. Người ta có cảm giác mối bận tâm duy nhất của họ là làm việc và lãnh lương thế thôi. Mỗi người có một đời sống độc lập. Máy móc hiện đại giúp cho đời sống thường nhật ít bị ràng buộc hơn, vì thế người ta thường có cái cảm giác thật sai lầm là những kẻ chung quanh chỉ giữ một vai trò thứ yếu, không lien quan gì đến sự an vui của chính họ. Tình trạng đó đã đưa đến sự thờ ơ và cảm giác lẻ loi.
Nguyên nhân thứ hai của sự cô đơn là do lối sống trong các xã hội tân tiến nên lúc nào con người cũng bận rộn một cách kinh khủng. Nếu ta mở lời nói với ai, dù chỉ để hỏi một câu «Thế nào, có khoẻ không?» ta cũng có cảm giác đánh mất vài giây đồng hồ quý báu trong cuộc đời mình. Vừa đi làm về ta đã nhào vào tờ báo: «Nào, xem có tin tức gì mới lạ không?» như vậy nhanh và khỏi phiền hơn là đàm luận với một người bạn, mất thì giờ.
Trong một thành phố, ta quen biết nhiều người thì hãy cố chào nhau một lời. Người ta vẫn cứ nghĩ rằng gợi chuyện với nhau là một việc vừa nguy hiểm, bị soi mói, lại vừa không thiết thực. Do đó, người ta tránh né mọi sự giao tiếp và mỗi lần nếu có ai cất lời muốn nói chuyện với ta thì ta lại có cảm giác như là họ muốn tấn công ta, tìm hiểu chuyện này kia để soi mói vậy.
Tình trạng đó dễ làm cho xã hội mất hết tính cách nhân bản và cuộc sống trở thành máy móc. Sáng sớm dậy, ta đi làm. Hết ngày, ta giải trí trong một hộp đêm hay một nơi nào khác.
Ta về trễ, cảm thấy ngầy ngật trong người, lăn vào giường ngủ được vài giờ. Sáng hôm sau, tuy vẫn còn ngái ngủ, đầu óc thẫn thờ, nhưng vẫn phải đi làm. Có đúng là những người trong thành phố sống theo cách ấy suốt một phần lớn đời họ chăng? Mỗi con người trở thành một bộ phận cơ khí, dù muốn hay không thì cũng phải chuyển động theo một sự vận hành chung như vậy. Đến một lúc nào đó, lối sống ấy sẽ trở thành quá nặng nề và rồi người ta sẽ thu mình trong sự thờ ơ.
Tôi đoán chắc rằng nếu tôi sống trong một thành phố lớn, ở Hoa kỳ chẳng hạn, và nếu như tôi chỉ tiếp xúc với những người địa phương thì dần dần tôi cũng sẽ trở thành giống như họ. Chẳng có cách gì để lựa chọn khác hơn. Có thể tôi cũng sẽ tìm đến các hộp đêm, về nhà trễ. Sáng hôm sau còn ngái ngủ nhưng cũng vẫn phải đi làm. Rồi đến một lúc nào đó, tôi cũng sẽ hoàn toàn quen với lối sống như thế!
Đừng tìm cách để giải trí mỗi đêm. Tan sở thì nên về nhà. Dùng cơm tối trong thanh thản, uống một tách trà hay một thứ uống khác, đọc một quyển sách, nghỉ ngơi và đi ngủ trong thư giãn. Buổi sáng thức dậy sớm. Tôi nghĩ rằng nếu đi làm với một tâm hồn tươi mát và sảng khoái thì cuộc sống sẽ khác hơn nhiều.
Bất cứ ai cũng có thể nhận thấy dễ dàng là cảm tính cô đơn thật không ích lợi và cũng chẳng thú vị gì cả. Mỗi người trong chúng ta nên tìm cách loại bỏ cảm tính ấy. Nó lệ thuộc vào rất nhiều nguyên nhân và điều kiện, vì thế hãy nên tìm cách ngăn chận nó càng sớm thì càng dễ hơn.
Mỗi gia đình là mỗi tế bào căn bản của xã hội. Do đó, gia đình phải là một nơi mà chúng ta cảm thấy hạnh phúc, sống trong yêu thương và trìu mến. Nếu trong gia đình và cả ở trường học mà trẻ nhỏ được dạy dỗ và lớn lên trong bầu không khí như thế, thì sau này khi lớn lên và ra đời chúng sẽ có đủ khả năng để giúp đỡ kẻ khác. Khi gặp một người nào đó lần đầu tiên, chúng vẫn giữ được phong cách thoải mái và ngỏ lời với người ấy mà không sợ sệt gì cả. Chúng sẽ tiếp tục tạo ra một bầu không khí như thế chung quanh chúng và rồi cảm tính cô đơn sẽ bớt đi, không còn như ngày nay nữa.
99. TÂM TĨNH THỨC
Nếu chúng ta có lòng thương thì chính chúng ta trong mỗi ngày, mỗi giờ và giây phút sẽ có an lạc. Ngay cả những người khác như hàng xóm láng giềng và kẻ thù của ta cũng cảm thấy hạnh phúc. Với tâm giận dữ và hận thù, chúng ta sẽ không có sự bình an. Khi chúng ta nổi cơn nóng giận, vào lúc ấy chúng ta không còn bình tĩnh sáng suốt để suy nghĩ, nhận định biết rõ hành động của mình là đúng hay sai. Nếu quá tức giận đến nổi điên cuồng, chúng ta không thể xét đoán, nhận biết chính xác vấn đề và kẻ thù sẽ lợi dụng cơ hội xen vào để gây rối. Trái lại, nếu thấy một người nào đó đang tạo các hành động xấu ác, chúng ta nên tìm cách ngăn cản họ với tâm không giận dữ và tốt hơn cả là thực hành đức tánh nhẫn nhục. Chúng ta cần giải quyết sự việc với tâm tĩnh thức để có thể sáng suốt nhận rõ vấn đề.
(Universal Responsibility and The Good Heart)
100. TÂM THỨC VI TẾ
Tôi được biết có ít nhất là mười hay mười lăm trường hợp như thế đã xảy ra tại Ấn Độ trong vòng ba mươi năm qua. Đặc biệt trường hợp vị thầy giáo thọ của tôi, sau khi các bác sĩ cho biết rằng ông đã chết thực sự nhưng ông vẫn ở trong tình trạng hôn mê kéo dài đến mười ba ngày. Do vậy mà tôi tin rằng phần tâm thức vi tế nhất luôn luôn tồn tại. Nó có thể tạm thời thay đổi nhưng trường kỳ hiện hữu chứ không bao giờ hủy diệt. Cho nên tâm thức gồm có hai loại: phần thô thiển nương gá vào xác thân con người giả tạm này để sinh tồn hoạt động, nhưng phần vi tế nhất sẽ còn mãi không mất. Và trên căn bản đó mà có sự tái sinh luân hồi.
Bản chất của tâm thức là trung dung hay vô ký. Nó có thể ảnh hưởng bởi tánh thiện hay tánh ác. Lấy ví dụ những người hay có tánh giận dỗi nhất thời. Lúc còn trẻ, tôi cũng thường bị như thế, nhưng không bao giờ kéo dài lâu đến trọn ngày. Nếu bản gốc tâm con người là hoàn toàn ác thì khi chúng ta nổi sân, sự sân hận đó sẽ còn mãi. Nhưng thực tế không phải vậy, vì lúc này chúng ta sân, khi khác lại không. Tâm con người, nguồn gốc cũng không hẳn là hoàn toàn thiện, bằng chứng là nó luôn luôn thay đổi, buổi sáng tâm chúng ta nghĩ chuyện lành và chiều lại tưởng việc ác. Cho nên, đức Phật dạy tâm thức của chúng sanh là trung dung hay vô ký.
(Live In A Better Way)
101. TẤT CẢ DO TÂM TẠO
Khi người ta thương thì trong tâm không có sự ghét bỏ. Ngược lại khi trong tâm mình ghét ai đó thì tâm ấy không có chỗ cho sự thương yêu. Bởi vậy, nếu một người luôn luôn thực hành hạnh từ bi, lợi tha thì chắc chắn trong tâm của họ sẽ không có chỗ cho hận thù và ích kỷ. Tất cả đều do tâm tạo. Nên tâm dẫn đầu tất cả mọi pháp là vậy.
102. TINH THẦN QUAN TRỌNG
Nên có sự quân bình giữa sự tiến bộ vật chất và tinh thần, sự thăng bằng thành đạt qua những nguyên tắc xây dựng trên tình thương và lòng từ bi. Tình thương và lòng từ bi là những điều căn bản của các đạo giáo. Tất cả mọi tôn giáo có thể học hỏi lẫn nhau. Mục đích sau cùng của các tín ngưỡng là đào tạo những con người có tình thương. Người đạo đức nên có lòng từ bi, khoan dung và không ích kỷ. Nếu mọi năng lực và ý tưởng của bạn chỉ tập trung nghĩ đến sự giàu sang và của cải vật chất (tất cả những thứ đó thuộc về thế gian này), nhưng nhiều lắm tối đa chúng chỉ có thể tồn tại một trăm năm. Và một trăm năm sau thì chúng chẳng còn gì.
(Ocean of Wisdom)
103. TÌNH THƯƠNG CỦA CÁC BỒ TÁT
Khi đề cập đến tình thương, nó gồm có hai loại: vị kỷ và lợi tha. Con người nếu chỉ biết yêu thương mình, tự thấy mình là quan trọng hơn kẻ khác và không bao giờ hành động lợi ích cho tha nhân, đó là thứ tình thương ích kỷ, chẳng mang lại hạnh phúc an lạc cho bất cứ ai. Trái lại, tình yêu lợi tha là tình thương rộng rãi bao la. Đó là lòng từ bi của chư Bồ Tát muốn cứu độ tất cả chúng sanh.
Với tâm đại bi, các ngài thường xuyên liên tục hành động giúp đỡ mọi người không chỉ trong nhiều ngày tháng hay năm mà là thời gian vô tận; không phải trong một kiếp, hai hay ba kiếp mà là hàng triệu, vô lượng kiếp. Chư vị Bồ Tát không bao giờ chán nản hay mệt mỏi khi phải phục vụ cứu giúp chúng sanh trong thời gian dài vô hạn như thế; cũng không thối tâm khi nghĩ tới số lượng chúng sanh nhiều không kể xiết mà các ngài cần phải cứu độ cho họ. Nếu không có tâm từ bi rộng lớn thì không ai có thể hành động lợi tha cứu giúp chúng sanh phi thường như vậy.
(Live In A Better Way)
104. TỐI THƯỢNG LÀ HẠNH PHÚC TINH THẦN
Một vài người rất giàu, nhưng chúng ta nhận thấy họ thường không có hạnh phúc gì cả. Sự cảm mến, tình thương và lòng từ bi là những chất liệu hết sức cần thiết cho cuộc sống của nhân loại. Tâm an lạc giúp nhiều cho sức khỏe của chúng ta. Hẳn nhiên các tiện nghi vật chất, thực phẩm và thuốc men cũng mang lại sự lành mạnh cho thân thể con người. Nhưng hạnh phúc tinh thần vẫn là điều quan trọng nhất cho sức khỏe tốt của chúng ta.
(Live In A Better Way)
105. TOÀN GIÁC
Để giúp mọi người một cách hoàn hảo, chúng ta phải là những bậc giác ngộ hoàn toàn hay phần nào đó của Bồ Tát hạnh. Chúng ta phải chứng ngộ tánh không và lý bất nhị.
(The Path to Tranquility, 378)
106. TU LÀ GẠN LỌC TÂM
Ngài quan niệm rằng cuộc sống của mỗi chúng ta giống như một ly nước nghiệp đầy vẩn đục. Có người có màu đậm, có người có màu nhạt. Tu học theo giáo lý của Phật Giáo, dù cho là Nam Tông, Bắc Tông hay Mật Giáo đi chăng nữa, nó chỉ có một giá trị duy nhất là gạn lọc tâm của mình để cho ly nước ấy càng ngày càng trong ra. Mỗi một buổi tọa thiền, mỗi một lạy sám hối, mỗi một lời sám hối, mỗi một cành hoa cúng Phật vv... là một công đức để gội nhuần tâm thức của mỗi chúng sanh. Điều ấy chúng ta có thể làm trong đời nầy hay đời kế tiếp. Miễn sao ly nước nghiệp ấy chỉ toàn một màu trắng trong, không còn một chút bợn nhơ, dầu cho đó là một vi tế nghiệp đi nữa cũng không còn.
107. TU SĨ PHẬT GIÁO
Là một tu sĩ Phật Giáo theo nhận thức của tôi mọi sự việc đều do tâm. Điều quan trọng là con người cần có lòng từ bi và tình thương yêu đồng loại. Nếu tâm con người biết phát triển theo hướng tốt thì các ngành như chính trị, khoa học hay kinh tế cũng đều tiến bộ mang phúc lợi đến cho mọi người. Một người có thiện tâm sẽ gây ảnh hưởng tốt trong đời sống hằng ngày của họ. Một gia đình nhỏ, dù không có con cái nhưng nếu vợ chồng biết thành thực yêu thương nhau, vẫn có hạnh phúc. Trái lại, trong đại gia đình nhiều người, chỉ một người nỗi giận, cả nhà đều cảm thấy buồn phiền, bực bội ngay. Cho dù mỗi ngày quý vị được dùng nhiều thức ăn ngon, xem các phim hay trên màn ảnh vô tuyến truyền hình, các bạn vẫn cảm thấy không có an lạc. Do đó, hạnh phúc con người tùy thuộc nhiều ở tinh thần hơn là vật chất. Mặc dù vật chất là cần thiết nhưng chúng ta phải làm chủ và sử dụng nó một cách hợp lý. Nói một cách khác, trong thời đại khoa học kỹ thuật của thế kỷ hôm nay, con người muốn tránh khổ đau, cần phải có trí tuệ và tình thương hướng dẫn đời sống vật chất của mình.
(Kindness, Clarity and Insight)
108. TU TẬP
Lúc tôi mới mười lăm tuổi, Trung Cộng đã xâm lăng miền đông Tây Tạng, và trong vòng một năm chính phủ Tây Tạng chỉ định tôi phải điều hành mọi công việc quốc gia. Ðây là thời kỳ khó khăn nhất khi tôi nhận thấy nền tự do độc lập của đất nước chúng tôi bị chà đạp và năm 1959 tôi bắt buộc phải trốn thoát rời khỏi thủ đô Lhasa trong đêm tối. Trong thời gian lưu vong sống tại Ấn Ðộ, hằng ngày chúng tôi phải đối đầu với nhiều vấn đề khó khăn từ nhu cầu tìm cách thích nghi với khí hậu địa phương đến việc tái lập các cơ sở giáo dục và văn hóa cho dân chúng tị nạn Tây Tạng. Nhờ tinh thần tu tập đã giúp tôi có quan điểm làm cách nào để có thể giải quyết mọi vấn đề mà không đánh mất nhận thức rằng tất cả chúng ta là con người đang bị hướng dẫn lầm lạc bởi những ý tưởng sai quấy, ngõ hầu đoàn kết lại trong việc mưu tìm lợi ích chung và sẵn sàng cải thiện cuộc sống của chúng ta.
(How To Practice The Way To A Meaningful Life)
109. TU TẬP PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Pháp tu của Phật Giáo Tây Tạng có thể được thực hiện ở Hoa Kỳ?
Điều quan trọng là nắm lấy tinh hoa của Phật giáo Tây Tạng. Phật giáo Tây Tạng cũng có nhiều hệ phái, phương pháp tu khác nhau nhưng tất cả đều lợi ích. Cùng lúc nắm lấy truyền thống để tu tập thì cũng phải uyển chuyển thay đổi theo hoàn cảnh mới ở Mỹ. Cũng thế trong quá khứ, khi một tôn giáo từ bản địa đến một vùng đất mới thì mang theo truyền thống tinh hoa, khi đến đất mới, Phật giáo sẽ phát triển và uyển chuyển theo văn hóa của đất nước đó. Một số phải giữ theo truyền thống Tây Tạng. Đây là trách nhiệm của các vị.
(Ocean of Wisdom, 65)
110. TÙY THUỘC Ý CHÍ
Con người cảm thấy cuộc sống hạnh phúc hay đau khổ là tùy thuộc vào ý chí và tinh thần chịu đựng mạnh hay yếu của chính mình. Phần đông mọi người không thể khắc phục vượt qua, có khi suốt cả ngày đêm phải đối đầu với cảnh khổ nghiệt ngã. Nhưng nếu chúng ta có thể nhẫn nhục chấp nhận và biết lợi dụng cuộc sống khó khăn đó để tu tập, chuyển đổi nội tâm của mình thì kết quả rất là tốt. Do đó, nếu xét thấy hoàn cảnh bất lợi có thể thay đổi được thì không cần phải bận tâm. Nhưng nếu không thể cải thiện thì cũng chẳng nên lo âu, vì dù lo lắng cách mấy chúng ta vẫn không thể giải quyết được việc gì cả.
(The Joy of Living and Dying in Peace)
111. TỰ CHUỐC LẤY BUỒN PHIỀN
Khi có tâm trạng buồn chán, thất vọng; chúng ta nên tạo nơi cơ hội thuận lợi để cải thiện hoàn cảnh bi quan của ḿnh. Nếu gặp người đối xử bất công với mình, chúng ta nghĩ nếu có thể chịu đựng được mà không thiệt hại gì lắm thì tốt hơn chúng ta nên vui vẻ chấp nhận. Trường hợp nếu nhận thấy hành động như vậy bất lợi thì chúng ta nên suy xét lại vấn đề với sự bình tĩnh sáng suốt chứ không phải bởi lòng sân hận của mình. Tôi nghĩ hành động với lòng phẫn nộ và giận dữ, chính chúng ta sẽ chuốc lấy buồn phiền nhiều hơn là kẻ khác đã gây ra sự khó khăn cho mình.
(An Open Heart)
112. TỰ TẠI
Nếu chúng ta không để ý gì đến lòng dạ xấu xa của anh bạn hàng xóm, tâm chúng ta sẽ cảm thấy an lạc và hạnh phúc; nhờ vậy mà sức khỏe của chúng ta vẫn tốt, tánh tình vui vẻ và có nhiều bạn sẽ đến thăm. Do đó, cuộc sống của chúng ta ngày càng thành công. Nhìn chúng ta an nhiên như thế, anh bạn láng giềng chắc không khỏi bực mình. Tôi nghĩ rằng đây là phương cách khôn ngoan nhất để đáp lại tâm địa xấu muốn quấy rầy của anh hàng xóm. Tôi không nói đùa đâu. Trong vấn đề này, tôi có rất nhiều kinh nghiệm, khi gặp nghịch cảnh chướng duyên, tôi thường cố gắng xem như không có việc gì xảy ra. Tôi tin rằng thực hành được như vậy rất hữu ích cho chúng ta. Chúng ta đừng nghĩ rằng lòng tha thứ và tánh nhẫn nhục là dấu hiệu của sự yếu hèn. Trái lại, theo tôi, chúng là tượng trưng cho sức mạnh của đạo đức.
(An Open Heart)
113. TƯ TƯỞNG XẤU LÀ KẺ THÙ CỦA CHÚNG TA
Tư tưởng xấu từ đâu đến?
Trong Phật giáo có nhiều cách giải thích về tâm xấu của con người. Thói xấu do ảnh hưởng kiếp trước, do ảnh hưởng của những người xung quanh khiến chúng ta mất đi lòng tin căn bản của con người.
Kẻ thù thật của chúng ta là những tư tưởng xấu. Chúng ta có thể chạy thoát những kẻ thù bên ngoài nhưng sân giận và oán thù là kẻ thù trong tâm vẫn ở trong tâm dù ta có khóa cửa lại rồi. Khi chúng ta có những tư tưởng tiêu cực, chính chúng ta hại chúng ta trước nhất. Tôi nhớ có một lần tôi sửa cái đồng hồ. Mặc dù sửa đồng hồ là sở thích của tôi, nhưng khi tôi thất bại vài lần sửa nó thì tôi bèn quăng nó và đập bể các vật khác.
Thường chúng ta thích nhìn lỗi người khác mà không nhìn lỗi mình. Đây cũng là kẻ thù trong tâm. Nuôi kẻ thù trong tâm thì điều thiện khó tăng trưởng. Hiểu như vậy thì kẻ thù bên trong bớt làm giặc và chúng ta đừng nuôi chúng. Mặc khác, kẻ thù bên ngoài hôm nay thỉnh thoảng trở thành bạn tốt của chúng ta trong ngày mai. Trong kinh nghiệm sống, tôi thường được học nhiều hơn từ những người mà tôi xem là kẻ thù.
(Path of Wisdom, Path of Peace, 128)
114. TỶ PHÚ VẪN CHƯA HẠNH PHÚC
Thực vậy, sự phát triển, tiến bộ về mặt vật chất không chưa đủ để mang lại hạnh phúc cho con người. Lý do rất giản dị, vì con người không phải là sản phẩm của máy móc mà còn có đời sống tinh thần. Bởi vậy, chúng ta phải cần đến những điều khác hơn ngoài thế giới vật chất bên ngoài để có được hạnh phúc.
Điều quan trọng nhất trong cuộc sống của con người là tình thương. Thiếu tình thương, con người không thể có hạnh phúc chân thật. Nếu chúng ta muốn có một đời sống, một gia đình, một người bạn hàng xóm và một quốc gia hạnh phúc hơn thì bí quyết thành công hoàn toàn nằm ở trong tâm con người. Dù cho dân số năm tỷ người hiện đang sống trên trái đất này trở thành triệu phú hết, nhưng thiếu vắng sự an lạc nội tâm thì con người vẫn không thể có sự bình an và hạnh phúc lâu dài.
(Live In A Better Way)
115. THAM LÀ NGUỒN GỐC CỦA MỌI TỘI ÁC
Chúng con thường nghe nói là không thể tránh khỏi nhân quả nhưng chúng con cảm thấy khó để làm điều tốt và tránh điều ác?
Chúng ta phải quán những nguyên nhân tạo ác sâu sắc trong lòng chúng ta. Ngay lúc chúng ta để cho những năng lực ác thống lãnh, tức chúng ta đã tích lũy nghiệp xấu và hại chúng ta. Chỉ một lý do này thôi, chúng ta phải luôn luôn nỗ lực duy trì năng lực thiện trong chúng ta.
Phật dạy, hầu hết các điều xấu đến từ gốc tham lam muốn sở hữu tài vật hay tình cảm gì đó. Chính tâm tham này dẫn đến hành động xấu và cuối cùng là chiến tranh. Chúng ta không nên để những tham sân si đầu độc mình. Tất cả những khủng hoảng khởi dậy cũng đều từ lòng tham này.
Tôi sanh trưởng trong Phật giáo đại thừa, tôi tin rằng lòng từ bi và tình thương sẽ giúp chúng ta chiến thắng tất cả những tư tưởng xấu. Điều này cũng giúp tôi khi tiếp xúc với người Trung Quốc. Nếu tôi cho phép tôi sân hận, thù ghét người Trung Quốc thì đây không phải là dấu hiệu của sức mạnh mà trái lại, tôi sẽ mất sự an lạc của nội tâm. Có người phản đối rằng sự tu tập sẽ hướng đến thay đổi con người nhưng không đóng góp nhiều trong những vấn đề căn bản của chính trị. Nói chung, như vậy những vấn đề chính trị sẽ tạo nên thái độ tiêu cực. Trong những kế hoạch lâu dài thì những vấn đề này chỉ có thể giải quyết khi con người đã thay đổi.
(Path of Wisdom, Path of Peace, 126-7)
116. THEO LỘ TRÌNH CỦA CUỘC ĐỜI
Có lẽ các tu viện ở Tây Phương trông yên ả thanh thản nhưng ở bên ngoài, đặc biệt các thành phố thì đang chạy nhanh theo kim đồng hồ, chưa bao giờ dừng một giây. Nhìn vào đời sống phố thị, dường như mỗi lãnh vực của đời người sắp xếp thật chính xác như đinh vít vừa chính xác cái lỗ vặn. Để sống còn, các vị phải theo khuôn mẫu đó và khoảng trống được đặt dành cho các vị.
(The Path to Tranquility, 274)
117. THIỀN ĐỊNH
- Để xây dựng được tánh cách, tu tập kiên nhẫn là quan trọng
- Để tu tập được kiên nhẫn thì cần có kẻ thù
- Hiểu cách này thì kẻ thù rất có giá trị để tạo cơ hội cho chúng ta
- Thay vì giận dữ với những người cản trở ta, chúng ta nên thù đáp với lòng biết ơn.
- Khi chúng ta có những tư tưởng sân hận, thù ghét người bạn mình thì người bạn trở thành kẻ thù. Khi chúng ta có tình thương và hiểu kẻ thù thì kẻ thù thành bạn. Quán chiếu thế nào giúp chúng ta có nhiều bạn hơn.
(How To Be Compassionate, 23-4)
118. THIỀN ĐỊNH TÁNH KHÔNG
Nếu người nào tu tập thiền định chỉ huân tập về Không thôi, thì không cắt đứt được sự luân hồi, mà còn phải dùng phương tiện của Trung Luận để cắt đứt nó.
Khi nhận chân được bộ mặt thật của hiện tượng thì chúng ta có thể thoát ly khỏi sanh tử luân hồi. Người nào thực hành con đường Trung Đạo của Đạo Phật, nhận chân được chân tướng của các pháp thì kẻ ấy có khả năng cắt đứt sự ràng buộc của luân hồi.
Nên kết hợp giữa Chỉ và Quán và từ đó phải quán sát triệt để về khái niệm của Tánh Không. Đây là hình thức của Định. Hãy quán niệm tất cả mọi hiện tượng đều không. Vì tất cả đều do nhân duyên tạo thành và tất cả đều là ảo ảnh, không thật có.
Ngoài ra cũng nên tu tập về những pháp môn khác như phương tiện để bổ sung cho phương pháp tu tập về Tánh Không. Khi đó phước đức sẽ tăng và trí tuệ sẽ được phát triển, từ đó mới có thể chuyển hóa tâm linh chính mình một cách dễ dàng hơn. Muốn có được phước đức, không ngoài việc kinh hành lễ bái, sám hối vv... Những pháp môn nầy phải thực hành hàng ngày đừng cho gián đoạn. Thực hiện lòng từ bi cũng sanh ra phước đức. Chúng ta cũng thường xuyên tán thán chư Phật, lễ bái thường xuyên, sám hối những tội lỗi nhiều đời nhiều kiếp, trì tụng những bộ kinh Đại Thừa sau đó phải phát nguyện chọn pháp môn để tu và cuối cùng là hồi hướng tất cả những phước báu đó đến khắp pháp giới chúng sanh thì phước đức đó sẽ phát sanh một cách tự nhiên, do công năng hành trì hằng ngày của chúng ta.
119. THIỀN MINH SÁT
Thỉnh thoảng, tôi nói lời gay gắt, nhưng lúc ấy, tức khắc tôi liền nghĩ: “Ồ, tôi nói bậy rồi”. Tôi nghĩ như vậy, vì tôi quyết tâm thực hành đức tính từ bi và trí tuệ. Hằng ngày những quán chiếu này đã trở nên rất hữu ích và có giá trị trong chính cuộc sống của tôi. Cho nên, tôi biết rằng bạn và tôi đều cùng chung có một tâm hồn và con tim, mà tôi muốn chia sẻ với các bạn.
(How To Practice The Way To A Meaningful Life)
120. THỦ PHẠM TẠO ĐIỀU BẤT AN
Người có tâm lành thì không biết sân giận. Các tánh xấu đố kỵ, ganh ghét và thù hận chính là thủ phạm đã tạo nên mọi điều bất an và phiền não cho chúng ta. Con người có thể nhất thời gặt hái thành công, nhưng cuối cùng các ác tính sân hận này sẽ gây nên những khó khăn dẫn chúng ta đến thất bại.
(Kindness, Clarity and Insight)
121. NGHỊCH CẢNH LÀ CHỐN THIỀN MÔN
Nếu so sánh dân chúng Tây Tạng tha hương ở Ấn Ðộ với những người ở các quốc gia khác, chúng ta sẽ nhận thấy rằng con người Tây Tạng có đức tính rất can đảm. Mặc dù phải đối đầu, chịu đựng sự đau khổ cùng cực, nhưng nét mặt của người dân Tây Tạng lúc nào cũng b́nh thản, không một chút buồn phiền âu lo. Tôi biết có nhiều người đã trải qua nhiều năm cực khổ. Một vài vị đã nói với tôi rằng đó là thời gian tốt đẹp nhất trong cuộc đời của họ vì họ có nhiều thì giờ để cầu nguyện, ngồi thiền và tu tập.
(The Joy of Living and Dying in Peace)
122. TRÁNH KHÔNG HẠI NGƯỜI
Chẳng những trong cầu nguyện mà trong đời sống hàng ngày chúng ta nên giúp người khác. Nếu chúng ta cảm thấy chúng ta không thể giúp người khác, thì ít nhất chúng ta đừng có hại họ.
(The Path to Tranquility, 103)
123. TRÍ THÔNG MINH CỦA CON NGƯỜI
Điều quan trọng là trí thông minh của con người cần được sử dụng theo đường hướng xây dựng. Ðó là bí quyết để thành công. Nếu biết dùng đúng đắn khả năng của chúng ta thì con người không những chỉ tránh bớt được sự gây tai hại, khổ đau cho nhau cũng như hủy diệt quả địa cầu mà còn mang lại hạnh phúc cho chính những cá nhân quý vị. Ðiều đó hoàn toàn nằm trong tay các bạn.
(Book of Love and Compassion)
124. VĂN TƯ TU
Khi bắt đầu tu tập, chúng ta không nên kỳ vọng quá nhiều. Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của vi tính và kỹ thuật hóa. Chỉ bấm một cái nút là tất cả thay đổi, còn tâm thì không có bấm nút. Mà quá trình tu cần có thời gian để văn, tư, tu.
(The Path to Tranquility, 170)
125. VÌ SAO BỊ BỊNH TÂM THẦN?
Gần đây, tôi gặp một nhóm các khoa học gia Mỹ cho biết tỷ lệ số người mắc bệnh tâm thần tại Hoa Kỳ hiện nay rất cao, chiếm khoảng mười hai phần trăm dân số. Như chúng tôi đã thảo luận trình bày rõ ràng, lý do gây nên sự buồn chán, và căng thẳng thần kinh không phải vì nghèo nàn vật chất mà bởi trong cuộc sống giữa con người, vắng bóng sự chia sẻ hiểu biết, thiếu thông cảm và tình thương.
(The Compassionate Life)
126. VÌ SAO CĂNG THẲNG?
Đối với người giàu, trong khi chỉ có một số ít biết cách sử dụng một cách thông minh sự giàu có của họ – nghĩa là không phải sống xa hoa phung phí mà biết chia xẻ với người thiếu thốn, nghèo khổ – thì phần đông lại không biết. Họ bị vướng mắc trong ý tưởng phải chiếm đoạt, tích lũy nhiều hơn nữa đến nỗi không còn chỗ cất chứa bất cứ thứ gì khác trong cuộc đời. Trong sự cuốn hút đó, thực tế họ đã làm tiêu tan, đánh mất giấc mơ hạnh phúc mà đáng lẽ ra sự giàu có sẽ mang đến cho họ. Kết quả, họ thường xuyên bị ray rứt, giày vò đau đớn giữa sự nghi ngờ về chuyện gì có thể xảy ra và hy vọng sẽ thu gặt, chiếm hữu được nhiều thêm nữa để rồi làm mồi cho sự đau khổ tinh thần và cảm xúc – mặc dù bên ngoài họ có vẻ sống cuộc đời hoàn toàn thành công với đầy đủ tiện nghi. Điều thường thấy ở những người giàu có trong các nước phát triển vật chất là các chứng bệnh lo lắng, bất mãn, mất quân bình và căng thẳng.
(Ethics For The New Millennium)
127. XIN LỖI
Tôi thỉnh thoảng trở nên cáu kỉnh và thốt những lời cộc cằn với người khác. Giây phút sau, cáu kỉnh lắng dịu. Tôi cảm thấy bối rối: lời cằn nhằn đã thốt và không có cách gì rút lui lại.
Mặc dù lời đã thốt ra và âm thanh của lời nói cũng đã biến mất nhưng sự ảnh hưởng của chúng vẫn còn. Vì vậy, chỉ còn một cách để tôi có thể làm là xin lỗi vị đó.
(The Path to Tranquility, 146)
128. Ý NGHĨA BÁO ÂN PHẬT
Người Phật tử chúng ta quy y Phật, Pháp và Tăng. Với tâm thanh tịnh, ta thường kính lễ trước các tượng chư Phật và Bồ Tát, nhưng khi ta nhìn đến chúng sinh, đặc biệt những người mà ta coi là kẻ thù thì ta thường sanh tâm ganh ghét và tranh đua. Sao lại ngược đời như vậy? Khi chúng ta có những người bạn rất thân và quý mến thì chúng ta thường cố gắng tránh làm những điều gì mà họ không ưa. Chẳng hạn như ta thích dùng các món ăn cay trong khi bạn ta lại không muốn thì khi mời họ đến dùng cơm, ta sẽ nấu thức ăn theo khẩu vị của họ. Trái lại, nếu ta cứ làm những món ăn bỏ nhiều ớt rất cay, không quan tâm đến sở thích của người bạn thì thực sự ta có xem họ là bạn quý chăng?
Hình như chúng ta không thực sự xem đức Phật là người bạn thân. Ý tưởng và sự quan tâm duy nhất của Ngài là cứu giúp chúng sanh an lạc, còn chúng ta thì sao? Trái lại, chúng ta tôn kính đức Phật nhưng chúng ta lại quay lưng không nghĩ tưởng đến chúng sanh. Vì cứu độ chúng sanh mà đức Phật tạo được nhiều phước đức. Với tâm tĩnh thức Ngài đã đạt quả vị giác ngộ thành Phật, trong khi chúng ta lại hoàn toàn không chú ý quan tâm gì đến chúng sanh cả. Làm vậy, khốn nỗi chứng tỏ chúng ta không coi Phật như một người bạn thân của mình.
(The Joy of Living and Dying in Peace)
129. Ý NGHĨA CHÂN THỰC
Ngay từ lúc mới chào đời, tất cả chúng ta đều cần đến sự giúp đỡ của người khác. Nếu thiếu tình thương của cha mẹ, chúng ta không thể sống vì thiếu sự chăm sóc. Khi trẻ nhỏ lớn lên trong sự thường xuyên lo lắng mà không có nơi nương tựa, chúng sẽ đau khổ suốt đời. Vì trí óc của trẻ thơ còn non dại, cho nên chúng rất cần đến sự giúp đỡ, yêu thương của cha mẹ. Ngay cả người lớn cũng cần đến tình thương. Nếu gặp một người lạ chào tôi với nụ cười hiền dịu và bày tỏ cử chỉ thân thiện, tôi vô cùng cảm kích trước hành động ấy, mặc dù tôi không quen biết hay thông hiểu tiếng nói của họ, nhưng tôi cảm thấy hết sức ấm lòng. Trái lại, nếu thiếu tình thương, ngay cả đối với người đồng hương mà tôi quen biết nhiều năm tôi vẫn cảm thấy không mấy gì vui. Tình thương và lòng từ bi là ý nghĩa chân thực của tình thân hữu anh chị em ruột thịt, vô cùng quý báu. Chúng giúp cho cộng đồng phát triển tồn tại và là nền tảng của xã hội.
(How To Practice The Way To A Meaningful Life)