CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
Tập 1
Thích Nữ Giới Hương
Chương 2
Tiểu Sử của Đức Đạt Lai Lạt Ma
Tenzin Gyatso, nói đủ là Jetsun Jamphel Ngawang Lobsang Yeshe Tenzin Gyatso, là pháp hiệu của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 là vị đạo sư lãnh đạo tinh thần của người dân Tây Tạng và nhiều đạo tràng Phật Giáo trên thế giới. Đức Đạt Lai Lạt Ma là tước hiệu của vua Mông Cổ Altan Khan ban cho Lạt ma Sonam Gyatso vào năm 1578. Từ đó, “Đức Đạt Lai Lạt Ma” trở thành danh xưng cho vị Lạt ma cao nhất trong truyền thống Phật giáo Gelug (Mũ Vàng). Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama) nghĩa là "Người bảo vệ đức tin" (Defender of the Faith), "Biển lớn của trí tuệ" (Ocean of Wisdom), "Vua của Chánh Pháp" (King of Dharma), “Viên bảo châu như ý” (Wishfulfilling Gem), “Hoa sen trắng” (White lotus) và Hóa thân Quan Âm (Kuan Yin Boddhisattva).
Người Tây Tạng tin rằng Lạt Ma là một vị giác ngộ, ngài đã chọn tái sinh nơi cõi đời này để mang lại lợi lạc cho tất cả quần sinh. Đức Đạt Lai Lạt Ma sinh vào ngày 06 tháng 07 năm 1935 trong một gia đình nông dân nghèo tại một ngôi làng nhỏ vùng Takster thuộc miền Đông Nam, tỉnh Amdo, Tây Tạng. Lhamo Dhondup nghĩa là Hoàn thành ý nguyện của Nữ Thần (Wish-Fulfilling Goddess) là tên thời thơ ấu của ngài. Lúc lên 2 tuổi, ngài được công nhận là hoá thân của Thubten Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 và ngài được đưa về thủ đô Lhasa để chính thức làm lễ tấn phong là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14
Ngôi nhà nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 ra đời[1]
GIA ĐÌNH CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
Ngôi làng Takster thuộc tỉnh Amdo là nơi gia đình của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 cùng khoảng hai mươi mái nhà lá nữa cư ngụ tại đây. Song thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma là nông dân, chủ yếu sống bằng nghề trồng trọt khoai tây, lúa kiều mạch và chăn nuôi cừu. Phụ thân của ngài tên là Choekyong Tsering, phụ mẫu của ngài là Diki Tsering. Ngài có 16 anh em, nhưng chết hết bảy người, chỉ còn hai người chị và bốn người em trai. Tsering Dolma là chị cả lớn hơn Đức Đạt Lai Lạt Ma 18 tuổi. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma mới sanh ra, chị đã giúp mẹ ngài để chăm sóc ngài như một vú nuôi. Trong nhật ký “Đạt Lai Lạt Ma, Con Trai tôi: Nhật ký của Thân Mẫu” (Dalai Lama, My Son: A Mother’s Story) do Diki Tsering, thân mẫu ngài kể rằng khi Đức Đạt Lai Lạt Ma mới sanh, chị ngài thấy một con mắt của ngài không mở to, chị lấy ngón tay cái của mình kéo mí mắt của ngài lên và may mắn, ngài mở mắt bình thường được và không bị nhiễm khuẩn gì nơi mắt cả.
Người em kế của Đức Đạt Lai Lạt Ma là Thupten Jigme Norbu, cũng được công nhận là hóa thân của ngài Lama Taktser Rinpoche, Gyalo Thondup và Lobsang Samten. Em nhỏ nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma là Tenzin Cheogyal cũng là hóa thân của ngài Ngari Rinpoche. Dĩ nhiên, cũng không ai nghĩ ngài là một đứa trẻ đặc biệt hay gia đình lại có hơn một người là hóa thân (tuku/reincarnation) của các Lama. Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma sinh ra thì cũng có điềm lành là phụ thân của ngài bỗng qua khỏi cơn bịnh nặng và có hai con quạ đến đậu trên nóc nhà. Chúng đến vào mỗi buổi sáng, đậu ở đó một lúc rồi bay đi. Điều này rất đáng chú ý, vì đã có những hiện tượng tương tự cũng xảy ra trong thời gian mới chào đời của các vị Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất, thứ bảy, thứ tám và thứ mười hai. Sau khi các Lạt Ma đó ra đời, có hai con quạ bay đến đậu ở trước nhà như Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất được sinh ra trong chuồng bò, nơi mà gia đình họ đang ẩn náu ở đó để tránh khỏi sự tấn công của bọn thổ phỉ. Cả gia đình đều bỏ trốn, để lại hài nhi được giấu sau những tảng đá và quấn trong tấm chăn ấm áp. Sáng hôm sau quay trở lại, họ vô cùng kinh ngạc khi thấy hài nhi được bình yên vô sự và một con quạ thật to đang canh gác cho cậu bé khỏi sự đe dọa của những bầy quạ, kên kên và những con chó hoang dã khác. Về sau, khi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất lớn lên và tu tập có kết quả, trong lúc thiền quán, ngài tiếp xúc trực tiếp với các vị thần hộ pháp Đại Hắc Thiên (Mahakala). Lúc đó, ngài Đại Hắc Thiên đã nói rằng “Một vị như Lạt Ma đây đang hoằng dương Phật pháp, cần phải có một vị bảo hộ như tôi. Ngay trong ngày ngài ra đời, tôi là vị hộ pháp đã bảo hộ ngài” (somebody like you who is upholding the Buddhist teaching needs a protector like me. Right on the day of your birth, I helped you).
Như vậy chúng ta thấy rõ ràng có sự liên quan giữa thần Mahakala, những con quạ và các vị Ðạt Lai Lạt Ma. Trong trýờng hợp của cậu bé Tsering Dolma cũng thế, lúc đầu không có ai để ý, nhưng mới đây, thân mẫu Diki Tsering đã nhớ lại chuyện bà đã nhìn thấy hai con quạ bay tới đậu trước nhà vào mỗi sáng sớm và một lúc lâu chúng lại bay đi. Một chuyện nữa xảy ra mà thân mẫu Diki Tsering nhớ rất rõ là ngay sau khi cậu bé Tsering Dolma đến Lhasa, cậu liền nói rằng răng của cậu ở trong một chiếc hộp ở trong tòa nhà nào đó ở cung điện mùa hè Norbulingka. Khi họ mở chiếc hộp đó ra, bộ răng của vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 đang nằm ở đó. Cậu bé Tsering Dolma đã chỉ vào cái hộp và nói rằng răng của ta đấy (It’s mine).
Lhamo Dhondup (Đức Đạt Lai Lạt Ma phía cực trái) cùng với gia đình
Thuở nhỏ như những đứa trẻ khác, cậu bé Tsering Dolma cũng vô tư vui đùa cùng chúng bạn và thích gia nhập vào nhóm yếu hơn. Ngài cũng thích ngồi gần ổ gà là giả bộ kêu tiếng “cục cục” như con gà. Ngài cũng có sở thích hay xếp đồ vào túi như chuẩn bị sắp đi xa và ngài tuyên bố “Con sẽ đi đến thủ đô Lhasa. Con sẽ đi đến Thủ độ Lhasa và con sẽ đem cả phụ mẫu và gia đình cùng đi”[2]. Hay đến giờ ăn, ngài cũng thường dành ngồi vào ghế đầu bàn, chỗ của các vị lớn mặc dù mới có 2 tuổi. Đây là những điềm cho thấy sau này ngài sẽ là một vị lãnh đạo lớn.
TÌM THẤY ĐƯỢC ĐỨC ĐẠT LAI LAT MA THỨ XIV
Trong cuốn phim Kundu (1997) do Martin Scorsesesản xuất, chiếu về cuộc đời của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 từ lúc tuổi thơ ấu đến trưởng thành trong hoàn cảnh đặc biệt giữa Tây Tạng và Trung Quốc. Đặc biệt chiếu về cảnh cậu bé Lhamo Dhondup được tăng đoàn và chánh quyền Tây Tạng nhận ra là hóa thân của Thupten Gyatso, Đức Lat Ma thứ 13. Vị Lạt Ma thứ 13 đã nhập Niết bàn vào năm 1933, hưởng thọ 57 tuổi. Bộ phim rất được tán thưởng và trình chiếu khắp nơi trên thế giới. Năm 1935, vị quan nhiếp chính (Regent) là một trưởng lão Lama, đi đến hồ thiêng Lhamo, phía nam Tây Tạng, cách thủ đô Lhasa khoảng 90 dặm. Đây là hồ thiêng mà người dân Tây Tạng tin rằng nhìn vào có thể đoán được tương lai. Quả vậy, trên mặt nước hồ thiêng yên tĩnh, ngài thấy hiện lên ba mẫu chữ Tây Tạng “Ah, Ka và Ma” và một ngôi chùa ba tầng với mái ngói ngọc bích và có con đường dẫn lên một ngọn đồi có một căn nhà nhỏ có máng xối rất kỳ lạ. Ngài quả quyết rằng chữ “Ah” là tỉnh Amdo, phía đông bắc, vì thế phái đoàn Tây Tạng hướng về Amdo để tìm vị Lạt Ma kế vị. Chữ “Ka” tức ám chỉ ngôi chùa ba tầng ở Kumbum gần nhà của chú bé. Chữ “Ma” là ám chỉ cho ngôi tu viện Karma Rolpai Dorje ở trên ngọn núi của ngôi làng gần bên và bây giờ Ban thiền Lạt Ma chỉ có hướng lên đỉnh đồi để đi tìm căn nhà. Khi Ban thiền Lạt ma tìm thấy căn nhà với chiếc máng xối kỳ lạ của cha mẹ cậu bé Lhamo Dhondup, phái đoàn nghĩ rằng ngài Đạt Lai Lạt Ma sẽ không ở xa nơi đây vì quang cảnh nơi này giống y như hình ảnh hiện trên mặt nước hồ thiêng.[3]
Buổi tối hôm đó, tăng đoàn Tây Tạng xin nghỉ lại nhà cậu bé Lhamo Dhondup để quán sát. Kewtsang Rinpoche, tu viện trưởng Tu viện Sera, là trưởng phái đoàn, giả bộ làm thị giả và chơi với cậu bé. Bé Lhamo Dhondup đã nhận ra ngài và gọi “Sera Lama, Sera Lama” (Xin chào Viện trưởng Tu Viện Sera! Xin chào Viện trưởng Tu Viện Sera!). Đây cũng là một bằng chứng cho thấy cậu bé Lhamo Dhondup là hóa thân của vị Lat Ma thứ 13 cho nên dù mới 3 tuổi mà đã biết đến một vị viện trưởng như vậy. Để xác chứng thêm, Lạt ma Kewtsang đưa ra một xâu chuỗi niệm Phật của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 và cậu bé Lhamo Dhondup đã nhận ra là của mình. Lạt Ma Kewtsang hỏi tiếp ngài là ai, Lhamo Dhondup liền trả lời ngay bằng một loại tiếng lóng của địa phương là "Sera aga'', nghĩa là ''Lạt ma ở tu viện Sera". Tăng đoàn đã để lẫn các vật dụng của ngài Thupten Gyatso giữa những vật dụng của người khác, nhưng cậu bé Lhamo Dhondup chỉ nhặt đúng ngay những đồ dùng thường ngày của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 như hàm răng giả, cây gậy, chiếc lắc linh, cuốn kinh và nhiều pháp cụ khác là của mình. Cậu bé thốt lên: “Của tôi”, “Của tôi” (It’s mine. It’s mine). Tăng đoàn vô cùng mừng rỡ xác nhận chính đây là vị Lạt Ma thứ 14 là hậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 và sẽ tiếp nối truyền thống Đức Đạt Lai Lạt Ma của trường phái Cách lỗ (Gelugpa). Sau đó, cậu bé Lhamo Dhondup được đưa về tu viện Kumbum. Vị Lạt Ma thứ 14 tí hon này lúc đầu cũng rất buồn và nhớ song thân, anh chị em và bạn bè của mình, nhưng cũng may là có sư huynh của ngài là Lobsang Samten đã ở tu viện Kumbum trước đó, giúp đỡ ngài và thầy giáo thọ của ngài là một vị thầy già chuyên dạy học cho các chú sadi hình đồng cũng rất tốt và vui tính. Cuối cùng, vị Lạt Ma thứ 14 cùng với gia đình và tăng đoàn về đến thủ đô Lhasa. (Hình bên: Đức Đạt Lai Lạt Ma lúc 3 tuổi)
Sau đó 18 tháng, Ma Bufeng, vị thủ lãnh của Hồi Giáo địa phương đã từ chối chấp nhận Vị Lạt Ma thứ 14 mà không có đóng tiền lo lót. Cho đến mùa hè 1939, phái đoàn của ngài Lạt Ma thứ 14 gồm ngài Lat Ma, song thân, sư huynh Lobsang Samten, thành viên trong tăng đoàn tìm ra ngài và nhiều chư Tăng Phật tử khác phải du hành khoảng ba tháng mới đến Lhasa. Trên đường đến Lhasa, Vị Lạt Ma thứ 14 được an vị trong chiếc kiệu nhỏ, cậu bé rất thích thú ngắm nhìn phong cảnh hai bên, những đàn bò, đàn lừa trên triền đồi cát Tây Tạng, những chú nai liếng thoáng chạy nhảy trong rừng và vô số những đàn chim bay theo nhiều kiểu hình dáng đặc kỳ ngộ nghĩnh. Còn khoảng hai dặm là đến thủ đô, một nhóm quan chức chánh quyền Tây Tạng đến tiếp đón và hộ tống phái đoàn đến Doeguthang. Mùa đông ngày 22 tháng 2 năm 1940 tại Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma được chính thức tấn phong tước vị là nhà lãnh đạo tôn giáo cho sáu triệu người Tây Tạng và năm 1940, tại cung điện Potala tổ chức buổi lễ trang trọng chính thức công nhận Vị Lạt Ma thứ 14 là vị thầy lãnh đạo tinh thần của toàn nhân dân Tây Tạng.
TU HỌC CẢ NỘI VÀ NGOẠI ĐIỂN
Đức Đạt Lai Lạt bắt đầu sự nghiệp tu học của mình vào lúc 6 tuổi. Ngài được đưa vào các tu viện chuyên đào tạo các vị Lạt Ma tại thủ đô Lhasa. Ngài nhập chúng ở tu viện Jokhang để thế phát xuất gia, đắp y như một chú điệu và bắt đầu hành sự tu tập với pháp danh là Jamphel Ngawang Lobsang Yeshe Tenzin Gyatso, nói gọn là Tenzin Gyatso. Hình bên: Đức Đạt Lai Mạt Ma Tenzin Gyatso lúc trưởng thành
Năm 24 tuổi, Ngài đã tham dự kỳ thi đầu tiên tại các đại học Phật giáo Drepung, Sera và Ganden. Tháng 03 năm 1959, lúc ngài được 25 tuổi, kỳ thi cuối cùng được tổ chức tại Jokhang, thủ đô Lhasa, trước mặt khoảng 20.000 học giả, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đậu kỳ thi cuối cùng để được phong chức Geshe (Tiến sĩ Triết học Phật giáo). Các môn học mà ngài phải thông suốt như Luận lý học (Logic), Văn hóa và Nghệ thuật Tây Tạng (Culture & Tibetan Art), Phạn ngữ (Sanskrit), Y học (Medicine), Triết học Phật giáo (Buddhist philosophy). Riêng môn Triết học này gồm có làm năm phần là Bát nhã (Prajnaparamita), Trung quán luận (Madhyamika), Giới luật (Vinaya), Luận A Tỳ Đạt Ma (Abidharma) và Nhân minh luận (Pramana) và các môn học phụ khác là: Biện luận (dialetics), Thơ ca (poetry), Âm nhạc (music), Kịch nghệ (drama), Thiên văn (astrology), Văn phạm (metre and phraseing ), vv… tức là vị tiến sĩ phải học qua các học thuật và giáo lý của cả nội và ngoại điển.
TÂY TẠNG TẠI DHARAMSALA, ẤN ĐỘ
Sau đó, do hoàn cảnh đất nước không thuận lợi, ngày 17 tháng 03 năm 1959, Ngài sang tỵ nạn tại thành phố cao nguyên Dharamsala, một ngọn đồi phía Bắc Ấn Độ, thuộc bang Himachal Pradesh. Ngài thành lập chánh quyền lưu vong Tây Tạng với hơn 30,000 dân Tây Tạng đang lưu lạc cùng về đây sinh sống lập nghiệp.
Các lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế, văn hóa, an ninh xã hội, y tế, giáo dục, vv… đã dần dần được tái hoạt động tại Ấn Độ. Các trẻ em Tây Tạng được đi học và một Trường đại học Tây Tạng được thành lập tại Ấn Độ. Có hơn 20,000 chư tăng ni và 200 tu viện Tây Tạng được xây dựng để duy trì và bảo vệ truyền thống văn hóa và tôn giáo Tây Tạng. Từ đó Dharamsala, cao nguyên sương mù thầm lặng đã trở thành một đất nước Tây Tạng thu nhỏ, một “Tiểu Lhasa” nhộn nhịp.
THẾ GIỚI CÔNG NHẬN
Sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma và dân Tây Tạng ổn định, ngài đã đem hết sức mình để giảng pháp, hoằng dương chánh pháp. Không giống các vị Lạt ma tiền nhiệm của mình, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã đi hơn 62 nước trên sáu lục địa. Ngài đã tiếp kiến được nhiều Tổng thống, Thủ tướng và các nhân vật cao cấp trong nhiều đất nước. Ngài đã trao đổi với các nhà khoa học và các vị lãnh đạo tôn giáo cũng như xã hội ở Tây Úc, Bắc Mỹ, Liên Xô và Á Châu. Trong những chuyến du hành ở các nước ngoài, ngài đã mạnh mẽ vận động sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các tôn giáo. Ngài đã tham dự vô số những buổi hội nghị liên tôn, chia sẻ thông điệp về bổn phận toàn cầu, tình yêu và lòng từ bi. Vào ngày 5 tháng 10 năm 1989, ngài được trao tặng giải thưởng Nobel hoà bình.
NHỮNG GIẢI THƯỞNG VÀ VĂN BẰNG
Từ năm 1959 đến nay, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã là tác giả của 72 cuốn sách. Ngài đã nhận được 137 giải thưởng và văn bằng Tiến Sĩ Danh Dự. Danh thơm của ngài như một vị Phật sống, một sứ giả của hòa bình, một bậc thầy tâm linh vĩ đại đã vang xa khắp thế giới. Tuy nhiên, bao giờ ngài cũng bày tỏ sự khiêm cung, thân thiện, giản dị của một vị tăng Phật giáo. Ngài thường nói: “Tôi chỉ là một vị thầy tu” (I am only a simple Buddhist monk).
Đức Đạt Lai Mạt Ma lãnh Văn bằng Tiến Sĩ tại trường Đại Học Benaras Hindu, India
NĂM 1957 - 1999
Stt | Thời gian | Văn Bằng Danh Dự | Địa điểm |
1 | 1957 | Tiến Sĩ Văn Chương | Trường Đại Học Benaras Hindu, India |
2 | 31/8/1959 | Ramon Magaysay | Cộng đồng Ramon Magaysay, Philippines |
3 | 16/9/1959 | Admiral Richard E. Byrd Memorial | International Rescue Committee, USA |
4 | 23/1/1963 | Huy Chương Lincoln | Research Institute of America, USA |
5 | 1969 | Huy Chương Lakett | Norwegian Refugee Council, Norway |
6 | 17/6/1979 | Huy Chương đặc biệt (Special Medal) | Asian Buddhist Council for Peace, Mongolia |
7 | 17/9/1979 | Tiến Sĩ Thần Học | Carol College, Waukesh, USA |
8 | 27/9/1979 | Tiến Sĩ Triết Học Phật Giáo | University of Oriental Studies, USA |
9 | 4/10/1979 | Tiến Sĩ Nhân Văn Học (Humanities) | Seattle University, USA |
10 | 19/10/1979 | Ánh Sáng Tự Do (Liberty Torch) | Gilbert Di Luchia Friends of Tibet, USA |
11 | 16/1/1984 | Tiến Sĩ Danh Dự | University of Paris, France |
12 | 28/9/1987 | Huy Chương Albert Schweitzer Humanitarian | Human Behavior Foundation, USA |
13 | 16/6/1988 | Huy Chương Leopold Lucas | University of Tuebingen, W. Germany |
14 | 21/6/1989 | Huy Chương Nhân Quyền Raoul Wallenberg Congressional Human Rights | Human Rights Foundation, USA |
15 | 23/9/1989 | Huy Chương Recognition of Perseverance of Times of Adversity | World Management Council, USA |
16 | 4/12/1989 | Huy Chương Prix de la Memoire | Foundation Danielle Mitterrand, Paris, France |
17 | 10/12/1989 | Giải Nobel Hòa Bình (The Nobel Peace Prize) | Norwegian Nobel Committee, Norway |
18 | 14/1/1990 | Tiến Sĩ Thần Học | Central Institute for Higher Tibetan Studies, Sarnath, India |
19 | 30/5/1990 | Tiến Sĩ Danh Dự | University of Bologna, Bologna, Italy |
20 | 6/6/1991 | Tiến Sĩ Danh Dự | Karnataka University, India |
21 | 8/12/1990 | Huy chương Distinguished Peace Leadership Award 91 | Nuclear Age Peace Foundation, USA |
22 | 25/3/1991 | Huy Chương Shiromani Award 1991 | Shiromani Institute, India |
23 | 17/4/1991 | Huy chương Advancing Human Liberty | Freedom House, New York, USA |
24 | 23/8/1991 | Huy Chương Hòa Bình và Thống Nhất (Peace and Unity Award) | National Peace Conference, Delhi, India |
25 | 10/10/1991 | Huy Chương Cùng Hợp Nhất (United Earth Prize) | Klaus Nobel United Earth, USA |
26 | 10/10/1991 | Huy Chương Chuyển Bánh Xe Pháp (Wheel of Life Award) | Temple of Understanding, New York, USA |
27 | 16/2/1992 | Tiến Sĩ Triết Học | Lafayette University, Aurora, USA |
28 | 5/5/1992 | Tiến Sĩ Luật Học | University of Melbourne, Australia |
29 | 6/6/1992 | Tiến Sĩ Danh Dự | University of Rio de Janeiro, Brazil |
30 | 11/9/1992 | Giáo Sư Danh Dự | Kalmyak State University, Kalmyk |
31 | 17/9/1992 | Giáo Sư Danh Dự | Novosibirsk State University, Buriat |
32 | 26/11/1992 | Tiến Sĩ Danh Dự | Jain Vishva Bharati University, Ladnun, India |
33 | 14/3/1993 | Huy chương International Valiant for Freedom Award | The Freedom Coalition, Melbourne, Australia |
34 | 20/3/1994 | Huy chương Fellow of University | Hebrew University, Jerusalem, Israel |
35 | 21/4/1994 | Huy chương The Wallenberg | University of Michigan, Detroit, USA |
36 | 25/4/1994 | Tiến Sĩ Văn Khoa | Berea College, Berea, USA |
37 | 26/4/1994 | Tiến Sĩ Nghệ Thuật và Nhân Văn | Columbia University, USA |
38 | 27/4/1994 | Huy Chương World Security Annual Peace | New York Lawyer's Alliance, USA |
39 | 4/6/1994 | Huy Chương Franklin D. Roosevelt, Freedom | Franklin & Eleanor Roosevelt Institute, USA |
40 | 2/1/1995 | Tiến Sĩ Văn Chương | Nagpur University, India |
41 | 5/4/1995 | Tiến Sĩ Triết học | Rissho University, Tokyo, Japan |
42 | 26/7/1996 | Huy Chương The President's Medal for Excellence | Indiana University, Bloomington, USA |
43 | 23/3/1997 | Tiến Sĩ Danh Dự | Chungshan University, Kaohsiung, Taiwan |
44 | 31/3/1997 | Tiến Sĩ Danh Dự | University of Colorado, Boulder, USA |
45 | 1/6/1997 | Tiến Sĩ Danh Dự | Regis university, Denver, USA |
46 | 11/9/1997 | Tiến Sĩ Khoa Học Quốc Tế (Doctor of International Diplomatic Science) | University of Trieste, Trieste, Italy |
47 | 25/11/1997 | Huy Chương Paulos Mar Gregorious | Paulos Mar Gregorious Committee, India |
48 | 8/5/1998 | Huy Chương Juliet Hollister | Juliet Hollister Foundation, New York, USA |
49 | 8/5/1998 | Tiến Sĩ về Nhân Văn Học | Brandeis University, Boston, USA |
50 | 11/5/1998 | Tiến Sĩ Thần Học | Emory University, Atlanta, USA |
51 | 15/5/1998 | Tiến Sĩ Luật Học | University of Wisconsin, Madison, USA |
52 | 11/11/1998 | Tiến Sĩ Danh Dự | Seton Hill College, Greensburg, USA |
53 | 7/4/1999 | Tiến Sĩ Danh Dự | University of Brasilla, Brazil |
54 | 9/4/1999 | Tiến Sĩ Danh Dự | University of Buenos Aires, Argentina |
55 | 16/4/1999 | Tiến Sĩ Thần học | Florida International University, USA |
56 | 12/10/1999 | Huy Chương Bồ Đề (Boddhi Award) | American Buddhist Congress, USA |
57 | 24/11/1999 | Huy Chương Life Time Achievement | Hadassah Women's Zionist, Israel |
58 | 12/12/1999 | Huy Chương Diwaliben Mohanlal Mehta Award for International Peace & Harmony | Diwaliben Mohanlal Mehta Charitable Trust, India |
NĂM 2000 – 2011
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Cựu Tổng Thống Geogre W. Bush trao Huy Chương Quốc Hội Hoa Kỳ (Congressinal Gold Medal) lên Đức Đạt Lai Mạt Ma vào ngày 17 tháng 10 năm 2007 (bên trái là Bà Nancy Pelosi, Ông Nghị viện Robert Byrdand Tổng thống Mỹ George W. Bush) | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Tóm lại, Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 là một hóa thân Bồ tát, một người đã suốt đời hy sinh thân mạng mình để mang lại an lạc và hạnh phúc cho con người. Ngài đã xuất hiện như một định mệnh để thừa kế dòng tái sanh huyền bí của trường phái Cách lỗ (Gelugpa) Mũ Vàng. Ngài đã giữ tước vị Đức Đạt Lai Lạt Ma, Nguyên thủ quốc gia Tây Tạng, trong một giai đoạn bấp bênh nhất trong lịch sử Tây Tạng. Hiện nay, vẫn trong thân phận người tị nạn lưu vong, tuy nhiên, ngài rất lạc quan và hạnh phúc trong sứ mạng đem ánh sáng Phật pháp, đem tự do, công bằng và hạnh phúc cho con người và thế giới. Những cống hiến của ngài chẳng những cho riêng Tây Tạng mà cho cả thế giới và ngày càng có nhiều nơi khắp năm châu bốn biển biết đến ngài. Do đó, chúng ta thấy ngài là một trong những người được kính tặng nhiều huy chương và văn bằng danh dự nhất (137 tấm từ năm 1957 đến năm 2011 và còn tiếp nữa). Văn bằng như là những biểu tượng của những thành quả hoa trái mà ngài đã cống hiến trong việc xây dựng con người và xã hội. Nhìn vào những thành quả mà ngài đạt được, chúng ta rất kính nễ và vui mừng. Đây là niềm hãnh diện vô cùng cho tăng sĩ Phật giáo Tây Tạng nói riêng và Phật giáo trên thế giới nói chung. Vâng! Thật là hạnh phúc thay! Có một Bồ tát Quan Âm hóa sanh tại trái đất này. * * |
[1] http://images.search.yahoo.com/images/view/dharamsala.
[2] http://en.wikipedia.org/wiki/14th_Dalai_Lama.
[3] Dalai Lama, My Son: A Mother’s Story, Diki Tsering, New York: Viking Erkana, 2000, 89.