KINH TRƯỜNG A HÀM
Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
PHẦNIV
PHẨM2: UẤT-ĐAN-VIẾT
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“CõiUất-đan-viết có nhiều núi. Bên cạnh các núi ấy, có cácvườn cảnh, ao tắm, mọc nhiều loài hoa, cây cối mát mẻ,hoa quả dồi dào, vô số các loài chim cùng nhau hót. Lại trongcác núi ấy có nhiều dòng nước; nước ấy xuôi dòng ra biển,không chảy xiết; các loại hoa phủ trên mặt nước, chảybình lặng êm ả. Sát hai bên bờ, có nhiều cây cối, cànhnhánh mềm mại, hoa quả sum suê. Đất mọc cỏ mềm xoay vềbên phải, màu như đuôi công, mùi thơm như bà-sư, mềm nhưáo trời. Đất ở đó mềm; dùng chân đạp đất, đất lúnbốn tấc, dở chân lên, trở lại như cũ, mặt đất bằngnhư bàn tay, không có cao thấp.
“NàyTỳ-kheo! Cõi Uất-đan-viết kia bốn phía có bốn ao A-nậu-đạt;mỗi ao ngang dọc một trăm do-tuần. Nước ao lắng trong, khôngcó cáu bẩn. Có hào cùng bậc thềm bằng bảy báu chung quanh...cho đến, vô số các loài chim cùng nhau cất tiếng hót buồnbã, giống như sự trang trí của ao Ma-đà-diên không khác.Bốn ao lớn ấy, rộng mười do-tuần, nước sông xuôi dòngra biển, không có xiết; các loại hoa phủ trên mặt nước,chảy từ từ êm ả. Sát hai bên bờ sông có nhiều cây cối,cành nhánh mềm mại, hoa quả dồi dào. Đất mọc cỏ mềm,xoay về phía phải, màu như đuôi công, hương như bà-sư, mềmmại như áo trời. Đất đó mềm mại, dùng chân đạp đất,đất lún bốn tấc, giở chân lên, trở lại như cũ. Đấtbằng như bàn tay, không có cao thấp. Lại đất đai kia khôngcó ngòi rãnh, khe suối, hầm hố, gai góc, gốc cây, cũng khôngcó muỗi mòng, rắn, rết, ong, bò cạp, cọp, beo, thú dữ.Đất thuần châu báu, không có đất cát; âm dương điềuđộ, bốn mùa thuận hòa, chẳng lạnh chẳng nóng, không cócác sự não hoạn. Đất đai thấm ướt, bụi dơ không dậy,như dầu bôi trên đất, không có bụi bay. Trăm thứ cây cỏthường mọc, không có mùa Đông rét mướt, mùa Hạ nóng bức.Cây cối tốt tươi; hoa trái xum xuê. Đất mọc cỏ mềm, xoayvề phía phải, màu như lông công, hương như bà-sư, mềm nhưáo trời. Đất ở đó mềm mại; dùng chân đạp đất, đấtlún bốn tấc, dở chân lên lại, trở lại như cũ. Đất bằngnhư bàn tay, không có chỗ cao, chỗ thấp.
“Cõiấy thường có lúa thơm tự nhiên, chẳng gieo trồng mà tựmọc, không có vỏ trấu, như đóa hoa trắng, giống như thứcăn trời Đao-lợi, đầy đủ các vị. Cõi ấy luôn có nồi,vạc tự nhiên; có ngọc ma-ni tên là Diệm quang được đặtdưới nồi nấu. Khi cơm chín thì ánh sáng tắt, chẳng cầnlửa củi, không nhọc sức người. Cõi ấy có cây tên làKhúc cung, lá cây dày đặc chồng lên nhau theo thứ lớp, trờimưa không dột. Đàn ông, đàn bà cư ngụ dưới cây đó. Lạicó cây hương cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành. Khi quảấy chín, vỏ nó tự nứt, tự nhiên xuất ra các loại hương.Hoặc có cây cao sáu mươi dặm, hoặc năm mươi dặm, bốnmươi dặm; cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa quả đầy cành.Khi quả ấy chín, vỏ nó tự nứt, tự nhiên hương tỏa.
“Lạicó cây Y cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành; khi quả ấychín vỏ tự nứt ra, tuôn ra các loại y phục; hoặc có câycao sáu mươi dặm, năm mươi, bốn mươi, nhỏ nhất là nămdặm, hoa quả đầy cành, tuôn ra các loại y phục. Lại cócây trang nghiêm, cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành; khiquả ấy chín, vỏ tự nứt ra, tuôn ra các thứ đồ trang nghiêmthân thể; hoặc có cây cao sáu mươi dặm, năm mươi dặm,đều đầy cành hoa quả, tuôn ra đủ các đồ trang nghiêmthân thể. Lại có cây hoa man cao bảy mươi dặm, hoa quả đầycành; khi quả ấy chín, vỏ tự nứt ra, xuất ra các loạitràng hoa; hoặc có cây cao sáu mươi dặm, năm mươi, bốn mươidặm, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa quả cũng đầy cành,xuất ra các loại tràng hoa. Lại có cây khí, cao bảy mươidặm, hoa quả đầy cành. Khi quả ấy chín vỏ tự nứt ra.Xuất ra các khí cụ; hoặc có cây sáu mươi dặm, năm mươi,bốn mươi, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa quả đều đầycành, xuất ra các loại khí cụ. Lại có cây quả cao bảymươi dặm, hoa quả đầy cành; khi quả ấy chín, vỏ tự nứtra, xuất ra các loại quả; hoặc có cây cao sáu mươi dặm,năm mươi, bốn mươi, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa quảđều đầy cành, xuất ra các loại quả. Lại có cây nhạckhí cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành; quả ấy khi chín,vỏ tự nứt ra, xuất ra các loại nhạc khí, hoặc có câycao sáu mươi dặm, năm mươi, bốn mươi, cây nhỏ nhất caonăm dặm, đều đầy cành hoa quả, xuất ra các loại nhạckhí.
“Cõiấy có ao tên là Thiện kiến, ngang dọc một trăm do-tuần,nước ao trong vắt, không có cáu bẩn. Các bên ao được xâylát bằng hào bảy báu. Bốn mặt quanh ao có bảy lớp lan can,bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây. cho đến, vô số cácloài chim cùng nhau ca hót, cũng giống như trước.
“PhíaBắc ao Thiện kiến có cây tên là Am-bà-la, vòng thân bảydặm, cao một trăm dặm, cành lá tỏa ra bốn phía năm mươidặm. Phía Đông của ao Thiện kiến phát xuất sông Thiệnđạo, rộng một do-tuần, nước sông chảy chậm, không códòng xoáy, có nhiều loại hoa phủ trên mặt nước; sát haibên bờ cây cối tốt tươi, cành nhánh mềm mại, hoa quảđầy cành; đất mọc cỏ mềm, xoay về phía phải, màu nhưlông công, hương như bà-sư, mềm như áo trời; đất ở đómềm mại, khi đạp chân xuống, đất lún bốn tấc, dở chânlên, trở lại như cũ; đất bằng như bàn tay, không có caothấp.
“Lạinữa, trong sông ấy, có các thuyền báu. Nhân dân ở nơi ấykhi muốn vào sông tắm rửa vui chơi, cởi y phục để trênbờ. Lên thuyền ra giữa dòng; nô đùa vui vẻ xong, lên bờgặp y phục thì mặc, lên trước mặc trước, lên sau mặcsau, chẳng tìm lại y phục cũ. Sau đó, đi đến cây hương.Cây cong mình xuống; những người ấy lấy các loại tạphương để xoa trên mình. Rồi đến cây y phục. Cây cong mìnhxuống; những người ấy lấy các loại y phục, tùy ý mặcvào. Tiếp đến, đi đến cây trang nghiêm, cây cong mình xuống,những người ấy lấy các thứ trang nghiêm để tự trang sức.Xong, đến cây hoa man; cây cong mình xuống, những người ấylấy các thứ tràng hoa, để đội trên đầu. Rồi đến câykhí, cây cong mình xuống; những người ấy lấy các loạikhí vật báu; lấy khí vật báu xong, tiếp theo, đến cây quả,cây cong mình xuống, những người ấy hái các quả đẹp,hoặc có người ăn nuốt, có người ngậm, có người vắtnước uống. Kế tiếp, đến cây nhạc khí; cây cong mình xuống,những người ấy lấy các loại nhạc khí, chơi đàn, đánhtrống và dùng âm thanh vi diệu hòa với tiếng đàn mà điđến khu vườn, tùy ý vui chơi, hoặc một ngày, hai ngày chođến bảy ngày, sau đó lại đi, không có chỗ nhất định.
“PhíaNam ao Thiện kiến, phát xuất sông Diệu thể. Phía Tây ao Thiệnkiến, phát xuất sông Diệu vị. Phía Bắc ao Thiện kiến,phát xuất sông Quang ảnh, cũng giống như trên. Phía Đôngao Thiện kiến có khu vườn tên là Thiện kiến, ngang dọcmột trăm do-tuần; vòng quanh bốn bên khu vườn có bảy lớplan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, nhiều màu đanxen bảy báu tạo thành. Bốn phía vườn ấy có bốn cửa lớn,lan can bao quanh, đều do bảy báu tạo thành; trong vườn sạchsẽ, không có gai góc, đất đai bằng phẳng, không có ngòirãnh khe suối, hầm hố, đồi gò, cũng không có muỗi mòng,ruồi, rệp, rận, rắn rết, ong, bò cạp, hổ báo, ác thú;đất toàn các báu, không có cát, âm dương điều độ, bốnmùa thuận hòa, chẳng lạnh chẳng nóng, không có các hoạnnạn; đất đai nhuận thấm, không có bụi bặm, như có dầuxoa đất, đi bụi không bốc lên, hằng trăm loài cỏ thườngmọc, không có Đông rét Hạ bức; cây cối tươi tốt, hoaquả đầy cành; đất mọc cỏ mềm, xoay về phía phải, màunhư lông công, hương như bà-sư, mềm như áo trời; đất đaimềm mại, khi đạp chân xuống, đất lún bốn tấc, dở chânlên, đất lại như cũ.
“Vườnấy thường mọc lúa thơm tự nhiên, không có vỏ trấu, trắngnhư đóa hoa, đầy đủ các vị, như cơm trời Đao-lợi. Vườnấy thường có nồi chõ tự nhiên; có ngọc ma-ni, tên là Diệmquang đặt dưới nồi chõ; khi cơm chín, ánh sáng tắt, chẳngcần lửa củi, chẳng nhọc công người. Vườn ấy có câytên là khúc cung, lá chồng lên nhau theo thứ lớp, trời mưakhông dột. Các nam nữ ấy cư ngụ ở đó. Lại có cây hương,cao bảy mươi dặm, hoa quả đầy cành; khi quả ấy chín, vỏtự nứt ra, xuất ra các loại hương, có cây cao sáu mươidặm, năm mươi, bốn mươi, cho đến cao năm dặm, hoa quảđầy cành, xuất ra các loài hương... cho đến cây khí, cũnggiống như trên.
“Nhândân ở cõi ấy đến vườn ấy vui chơi giải trí, một ngày,hai ngày... cho đến bảy ngày. Vườn Thiện kiến ấy khôngngười bảo vệ, tùy ý dạo chơi, sau đó lại đi.
“PhíaNam ao Thiện kiến có khu vườn tên là Đại thiện kiến, phíaTây ao Thiện kiến có khu vườn tên là Ngu lạc; phía Bắcao Thiện kiến có khu vườn tên là Đẳng hoa, cũng giống nhưthế.
“Ởcõi ấy, vào nửa đêm, cuối đêm, Long vương A-nậu-đạtthường thường vào lúc thích hợp khởi mây lành cùng khắpthế giới rồi mưa nước ngọt xuống, giống như khi vắtsữa bò; nước đủ tám vị, thấm nhuận khắp nơi; nướckhông đọng lại, đất không bùn lầy. Giống như thợ làmtràng hoa dùng nước rưới hoa, khiến không khô héo, thấmướt tốt tươi. Khi ấy, ở cõi đó vào lúc gần sáng khôngcó mây che, bầu trời trong vắt; biển nổi gió mát, trong lànhhiu hiu, chạm nhẹ vào người, toàn thân sảng khoái.
“Cõiấy trù mật, nhân dân sung túc. Nếu khi cần ăn thì dùng gạothơm tự nhiên bỏ vào trong chõ, dùng ngọc Diệm quang đểở dưới chõ; cơm tự nhiên chín, ánh sáng ngọc tự tắt.Các người đi đến, tự do ăn cơm. Người ăn không đứngdậy thì cơm không hết; người ăn đứng dậy thì cơm cũnghết. Cơm ấy tinh khiết như đóa hoa trắng, đầy đủ mùivị như cơm cõi trời Đao-lợi. Người ăn cơm đó không cócác bệnh, khí lực dồi dào, nhan sắc tươi vui, không có gầycòm.
“Lạiở cõi ấy, thân thể con người như nhau, hình mạo giốngnhau, không thể phân biệt. Dáng người trẻ trung, như ngườikhoảng hai mươi tuổi ở Diêm-phù-đề. Người cõi ấy, rănghọ bằng đều, trắng sạch, kín sát không hở; tóc màu xanhbiếc, không có cáu bẩn; tóc xõa xuống bằng tám ngón tay,ngang vai thì dừng, không dài không ngắn. Người ở cõi đónếu khi khởi tâm dục thì nhìn chăm chăm nữ nhân rồi bỏđi; người nữ ấy theo sau vào trong vườn. Nếu nữ nhân vàngười nam kia là cha, mẹ hoặc liên hệ trong cốt nhục, khôngphải là người nên hành dục thì cây không cong xuống chelại, thì họ tự chia tay. Nếu chẳng phải cha, mẹ và nhiềuliên hệ đến cốt nhục, đúng là đối tượng hành dâm thìcây cong xuống che phủ thân họ, tùy ý hưởng lạc, một ngày,hai ngày... hoặc đến bảy ngày, khi ấy mới thôi. Ngườinữ ấy mang thai; bảy hoặc tám ngày thì sanh. Sanh ra con traihay con gái, cũng mang đặt ở ngã tư đường, đầu trục lộgiao thông, bỏ đó rồi đi. Các người đi đường, đi ngangqua bên nó, đưa ngón tay cho nó mút, ngón tay chảy ra sữa ngọt,nuôi lớn thân bé. Qua bảy ngày rồi, bé ấy trưởng thành,bằng với người lớn; nam thì theo nhóm nam, nữ thì theo nhómnữ.
“Ngườicõi ấy khi mạng chung, không ai khóc lóc, trang nghiêm tử thi,đặt ở ngã tư đường, bỏ đó rồi đi. Có loài chim tênlà Ưu-úy thiền-già gắp tử thi ấy để ở phương khác.
“Lạinữa, người ở cõi ấy khi đại tiểu tiện, đất liền nẻra; đại tiểu tiện rồi, đất khép trở lại. Nhân dân cõiấy không lệ thuộc sự tham luyến, cũng không cất chứa,thọ mạng có hạn định; chết rồi sanh lên trời. Vì saongười cõi ấy thọ mạng luôn có hạn định? Đời trướcngười cõi ấy tu mười hạnh thiện, khi thân hoại mạng chungsanh vào cõi Uất-đan-viết, thọ mạng ngàn tuổi, chẳng hơnchẳng kém. Vì thế, người cõi ấy thọ mạng như nhau.
“Lạinữa, người sát sanh đọa vào đường ác; người không sátsanh sanh vào nẻo thiện. Kẻ trộm cắp, tà dâm, hai lưỡi,ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt, tham lam, ganh ghét, tà kiếnđều đọa vào đường ác. Người không trộm cắp, khôngtà dâm, không hai lưỡi, không ác khẩu, không nói dối, khôngnói thêu dệt, không tham lam, không ganh ghét, không tà kiếnthì khi thân hoại mạng chung sanh cõi Uất-đan-viết, thọ mạngngàn năm, chẳng hơn chẳng kém. Vì vậy, người ở cõi kiathọ mạng bằng nhau. Lại nữa, tham lam keo kiệt chẳng thườngbố thí thì chết đọa đường ác; tâm thoáng không keo thườnghành bố thí sanh chốn thiện. Có người bố thí cho Sa-môn,Bà-la-môn và bố thí cho người bần cùng, ăn xin, bệnh ghẻ,khốn khổ, cho họ y phục, thức ăn uống, xe cộ, tràng hoa,hương thơm, giường chõng, phòng xá; lại tạo lập tháp miếu,đèn đuốc cúng dường, thì người ấy khi mạng chung sanhvào cõi Uất-đan-viết, thọ mạng ngàn tuổi, chẳng hơn chẳngkém, vì vậy, người cõi kia thọ mạng bằng nhau. Vì sao gọingười Uất-đan-viết là hơn hết? Vì nhân dân cõi ấy chẳngthọ thập thiện nhưng toàn bộ hành động của họ tự nhiênhợp với thập thiện, khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõilành. Vì vậy, người ở đó được khen là Uất-đan-viếthơn hết. Uất-đan-viết, ý nghĩa như thế nào? Đối vớiba cõi kia, cõi này là tối thắng, tối thượng cho nên gọilà Uất-đan-viết.