Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 12

11/09/201112:45(Xem: 8025)
Chương 12

NẺO VỀ CỦA Ý
Nhất Hạnh

PHẦN THỨ BA

XII

Cám ơn Steve đã viết thư dài cho tôi. Miền Trung Việt Nam vừa bị tai họa bão lụt lớn. Tôi cũng bị bận rộn quá nên đã ít viết thư được cho Steve. Các ông già bà cả cho biết là sáu mươi năm nay mới lại có một trận lụt lớn như vậy. Trận lụt sáu mươi năm về trước cũng xảy ra trong năm Giáp Thìn. Kỳ về Trung vừa rồi cùng với một số người trẻ tuổi góp phần vào việc cứu trợ, tôi được thầy tôi, năm nay đã tám mươi tuổi, kể cho nghe từng chi tiết về trận bão lụt Giáp Thìn sáu mươi năm về trước ấy. Trận lụt năm nay thật là kinh khiếp; hàng ngàn người bị nước cuốn trôi và hàng chục ngàn người thiếu nhà cửa, thiếu cơm ăn áo mặc, đã và đang thoi thóp chờ sự cứu trợ của những người đồng bào của họ. Ở miền Nam phong trào cứu trợ nạn lụt miền Trung được sự hưởng ứng rất sốt sắng của hầu hết mọi người. Biết bao nhiêu đoàn thể đã tổ chức quyên góp cứu trợ. Trường chúng tôi cũng góp được hàng mấy xe quần áo, thuốc men và thực phẩm. Từng đó chẳng thiếu đủ gì, nhưng chúng tôi đã tổ chức để tự thân mang những tặng phẩm đó ra tận nơi xảy ra tai nạn. Công việc này không dễ dàng gì đâu Steve ơi, bởi vì những nơi này đều nằm vào địa thế chiếc lược nguy hiểm. Người ta có thể bỏ mạng vì bom đạn hay vì những cuộc đụng độ có thể xảy ra bất cứ lúc nào nếu người ta nghe theo tiếng gọi của lương tâm mà tìm tới những nơi ấy.

Nhưng mà để tôi trả lời câu Steve hỏi đã nghe. Tôi biết Steve không ưng ở lại thành phố Nữu Ước nữa bởi vì Steve đã chán nó. Nhưng nếu Steve cố gắng thêm chừng bốn tháng nữa thì Steve đã có thể hoàn tất chương trình. Rồi sẽ liệu sau. Chắc có lẽ cậu lắc đầu chán nản khi nghe tôi khuyên như thế “đã chán rồi thì một vài ngày cũng khó chịu thay, huống hồ là bốn tháng trời!”. Chắc Steve đã phản ứng như vậy. Nhưng mà Steve ơi, nơi nào trên trái đất này thì cũng đều gần gần như nhau. Nếu mình vẫn mang tâm trạng như tâm trạng bây giờ, thì đi đâu mình cũng thấy cái y báo ấy. Có lẽ nếu có tôi bên cạnh, cậu sẽ chấp nhận Nữu Ước dễ dàng hơn. Steve không biết rằng có thể một ngày nào đó cái Nữu Ước chán ngấy của cậu có khi lại làm cho cậu sinh ra nhớ quay nhớ quắt nó cũng không biết chừng. Cũng như cái xứ sở đau thương nhiều thù hận và nhiều điều bạc bẽo này. Ngày trước có khi tôi nghĩ phải bỏ quách nó mà đi để không bao giờ trở lại. Ấy thế mà rồi khi xa lại đứng ngồi không yên, lại nhớ sinh ra nhớ quay nhớ quắt nó. Tôi hay có những tưởng tượng buồn cười lắm Steve. Ngày xưa có bữa đọc báo về chuyện phi hành không gian, tôi tưởng tượng một mình đang ngồi trên phi thuyền bay theo một quỹ đạo xoay quanh trái đất. Rồi vì một hư hỏng máy móc nào đó tôi không đốt được chiếc hỏa tiễn còn lại thành thử không thể vượt ra khỏi quỹ đạo được nữa và phải tiếp tục bay quanh trái đất mãi mãi. Mãi mãi cho đến khi hết lương thực, hết không khí và tôi chết rũ ra một mình không ai biết ai hay. Liên lạc vô tuyến với loài người ở dưới trái đất cũng bị cắt đứt. Và tôi cảm thấy rất cô độc khi nghĩ rằng chính xương cốt mình cũng không được nghỉ ngơi trong lòng trái đất. Tôi nhớ trái đất lạ lùng. Loài người ác độc, loài người gây khổ đau dằn vặt, loài người mà có khi tôi thấy không thể thương được, loài người ấy bây giờ tôi thấy thân thiết với họ một cách kỳ lạ. Thôi thì cho tôi trở lại trái đất đi, với loài người ác độc ấy đi, cũng được. Nhưng mà làm thế nào để trở lại. Dù anh muốn để xương cốt anh trên mặt đất thân yêu thì cũng không được nữa rồi mà. Anh có thể có ý định mở cửa phi thuyền và… nhảy xuống mặt đất. Nhưng thực tế thì anh không nhảy được. Bởi vì không có trọng lượng. Trái đất không muốn anh nữa. Trái đất không còn “hút” anh xuống nữa. Anh xa trái đất và loài người quá rồi.

Steve ơi, chỗ tôi ngồi viết cho Steve đây vẫn là làng quê thuộc tỉnh Gia Định. Khung cảnh đáng lý thì yên tịnh hoàn toàn nhưng tiếng máy bay phản lực của không quân làm tôi nhức óc. Sao mà máy bay bay hoài như thế không biết. Tiếng máy bay như đè nặng trên hai lá phổi của tôi. Hồi nãy tôi ngồi chơi với mấy em bé trong làng ở dưới chân đống rơm. Câu chuyện đang vui thì máy bay ào tới, tiếng máy bay át cả tiếng nói của chúng tôi. Mấy đứa nhỏ nhìn lên trời, theo dõi hai chiếc máy bay phản lực. Tôi thấy chúng không có vẻ thích thú như trong trường hợp thông thường của trẻ con nhà quê khi nhìn thấy máy bay. Chúng không vỗ tay reo cười. Trong mắt chúng, tôi thấy vẻ lo âu ghét bỏ. Tiếng tăm về tai nạn bom đạn giết chóc từ những miền quê khác đã bay tới làng.

Ở những nơi như thế này đây, trông thấy những vấn đề cụ thể của người dân quê, tham dự vào trong những vui buồn hàng ngày của họ, tôi thấy tâm hồn mình bình dị và có nhiều yêu thương. Tôi biết cái nếp sống khép kín của cái xã hội nhiều tiền bạc và tiện nghi cũng không thích hợp với Steve. Đối với nhiều người, phần lớn thì giờ trong cuộc đời họ đã và đang được tiêu phí trong sự theo đuổi những tiện nghi vật chất. Tôi không tuyên truyền thuyết bác ái đâu. Steve đừng e ngại. Tôi thấy trong cái xã hội sinh hoạt đầy tiện nghi, những vấn đề của con người lại còn to lớn và dằn vặt hơn trong cái xã hội mà tôi đang sống đây nhiều. Nỗi niềm cô đơn, trống trải và buồn chán, ý niệm về sự vô ích vô nghĩa của cuộc sống nó làm cho con người đau khổ bội phần. Cách đây mấy năm, tôi được xem đâu dó một khúc phim tài liệu ngắn thuộc loại xã hội nơi một chương trình vô tuyến truyền hình. Phim do ai thực hiện tôi cũng quên khuấy đi mất. Nhan đề cuốn phim là “người đàn bà cô đơn”. Tôi chỉ nhớ mang máng thôi, vì lâu quá rồi. Người đàn bà cô đơn đây là một người đàn bà có chồng, và chồng bà lại có địa vị trong xã hội. Họ lại có nhà cửa, xe hơi và tiền bạc. Giữa hai vợ chồng, không có vấn đề gì xích mích, lộn xộn. Người thiếu phụ cũng đã không gặp trở ngại gì trong vấn đề tình yêu và hôn nhân. Hai vợ chồng ở trong một ngôi nhà khá sang trọng trong thành phố Mỹ quốc. Họ chưa có đứa con nào. Vào đầu cuốn phim, ta thấy người thiếu phụ rên ư ử. Nét mặt biểu lộ sự chán chường mệt mỏi và xa vắng mênh mông. Trong cơn mê những đợt sóng từ dưới đáy tiềm thức chỗi dậy. Có một vẻ gì bất an hiện trên nét mặt đó. Một chút nước bọt nhễu hai bên mép thiếu phụ. Trong cơn mê, thiếu phụ vừa cựa mình vừa lắc đầu như đang vùng vẫy để thoát ra một cái gì. Lúc đó chồng của thiếu phụ chạy đến vỗ vai để thức nàng dậy. Người thiếu phụ mở choàng mắt, bỡ ngỡ một tí, rồi vụt đứng lên. Chỉ sau một giây thôi, nét mặt thiếu phụ trở thành vui vẻ, nhí nhảnh, yêu đời. Tất cả những nét chán chường, mệt mỏi biến mất. Thiếu phụ trở nên vui tươi, hoạt bát một cách mầu nhiệm. Nàng nói tíu tít như một con chim non để làm vui lòng chồng! “Em mới chợp mắt một tí. Anh đi đầu mới về đấy? Để em pha cà phê thật ngon cho anh”. Người chồng nhìn vợ một cách hơi lo lắng rồi hỏi nhỏ: “Em có sao không?”. Nàng trả lời vừa cười rất tươi “Không, em có sao đâu, em không sao cả”. Người chồng cho biết ông phải đi Cựu Kim Sơn gấp vì công chuyện làm ăn “Anh phải đi ngay - Vậy anh đi thay áo đi. Để làm cà phê xong, em sẽ giúp anh làm va li”. Nàng làm cà phê, trong khi người chồng loay hoay trong tủ áo. Bỗng nhiên tiếng hát trong phòng chấm dứt. Chiếc dĩa âm nhạc vừa hết. Nàng bỏ dỡ cà phê, tới thay đĩa mới. Âm nhạc nổi lên, lần này dồn dập náo nức. Rồi nàng trở lại với chiếc bình cà phê. Nhưng người chồng không chịu nổi âm nhạc. Có lẽ ông đã mệt vì âm nhạc. Ông đến gần máy, tắt đi. Và trở về tủ áo. Nhưng người thiếu phụ lại không chịu nổi sự im lặng. Nàng trở vào, cho quay chiếc đĩa hát trở lại. Rồi lại đến phiên người chồng thấy khó chịu. Họ thay phiên nhau văn máy và tắt máy như thế nhiều lần, một cách hầu như là vô ý thức.

Bây giờ thì ông chồng đã lên máy bay rồi. Người thiếu phụ ngồi nhà một mình. Nghe nhạc hoài cũng chán lắm. Nàng chọn nhiều đĩa khác nhau, nhưng cuối cùng tắt máy. Rồi nàng đi tìm sách. Thế nhưng đọc được vài dòng, nàng gấp sách lại. Nàng không thể tiếp tục đọc sách nữa. Nàng chạy tới máy điện thoại. Gọi người này, rồi gọi người khác. Người này đi vắng, người khác bận. Không có ai để mời tới ngồi lê đôi mách cả. Nàng chán nản bỏ ống nói xuống và ngồi thừ ra.

Steve hãy tưởng tượng làm sao mà nàng có thế sống từ trưa đến chiều trong cái tâm trạng và điều kiện ấy. Vào lúc sáu giờ, đứa bé giao báo buổi chiều gõ cửa. Nàng mừng rỡ đến nỗi ta thấy hy vọng hiện trên nét mặt nàng. Nhưng không, đó chỉ là em bé đưa báo. Nàng nhận báo rồi đề nghị thằng bé ở lại một chút nói chuyện chơi. Cố nhiên là nó từ chối, bởi vì nó còn giao không biết bao nhiêu là báo nữa. Nó nhìn nàng, thương hại: “Tại sao bà không ra quán rượu đầu đường ấy. Vui lắm”. Nàng thấy lòng tự ái bị va chạm. Nàng nói: tôi không cần.

Thằng bé đi rồi, nàng càng thấy cô đơn trống trải. Nàng nghĩ tới chồng. Nàng chạy lại điện thoại. “Cô làm ơn cho tôi nói chuyện với chồng tôi, ở Cựu Kim Sơn. Long distance call. Person to person”. Phải rồi, person to person, chớ không phải poste to poter. Như vậy trong trường hợp chồng không có ở đó thì nàng khỏi phải trả tiền. Person to person! Một người liên lạc với một người. Một người nhất định nào đó liên lạc vưói một người nhất định nào đó. Nhưng mà sự liên lạc giữa người và người nó có làm tan biến được sự cô đơn của con người hay không, hay là con người chẳng bao giờ vượt qua được cái “vạn lý trường thành của hai vũ trụ chứa đầy bí mật” đó? Person to person!.

Nàng nghe tiếng chồng ở đầu giây kia. Nàng hỏi: “Anh đi về có bình yên không”. Chồng nàng trả lời “bình yên”. Thế rồi hết, thảm hại chưa. Nàng không có gì để nói nữa hết. Điện thoại nối liền hai miền xa cách. Chồng nàng đứng ở đầu đường dây kia cũng như đứng trước mặt nàng. Không có gì nói cho nhau nghe nữa hay sao? Mười năm trời ở bên nhau, người ta đã tìm tất cả những gì thuộc về của nhau rồi sao? Nàng thấy óc nàng rỗng tuếch. Nàng hỏi đại một câu: Ở Cựu Kim Sơn trời có mưa không anh”. “Không, trời ở đây tốt lắm, ấm lắm. Anh vừa tiếp xúc lần đầu với người ta về vấn đề công việc”. Và hình như người chồng nhận thấy cái gì là lại ở giọng nói của nàng. Chồng nàng hỏi “Em có sao không, em? Are you all right?”. Lần thứ hai trong buổi chiều chàng hỏi. Và lần thứ hai trong buổi chiều nàng trả lời “Em không sao cả. I am all right”.

Nàng không chịu đựng được nữa, cho nên nàng mặc áo rồi xuống đường. Nàng tìm tới quán rượu đầu đường. Đã hơn mười hai giờ khuya rồi. Quán cũng vắng. Nàng gọi một cốc Whisky, và ngồi nhìn. Lát sau cũng có một đôi vợ chồng cũng vào quán rượu. Người vợ đi vào phòng rửa mặt. Người chồng ngồi gần bên thiếu phụ gọi một ly rượu. Và họ quen với nhau. Thiếu phụ cô đơn. Còn người đàn ông thì thấy thiếu phụ có chút nhan sắc. Và biết đâu người đàn ông, tuy đi với người đàn bà của mình, cũng lại cô đơn. Họ trao đổi nhau vài câu nói cười thân mật. Nhưng người đàn bà đã trở về lại chỗ cũ, nhăn mặt tỏ ý không tán đồng sự thân mật đó. Không khí trở nên nặng nề.

Vào khoảng nửa đêm, ác mộng xâm chiếm giấc ngủ của người thiếu phụ. Dưới ánh sáng mờ nhạt của gian phòng ngủ, ta thấy nét chán chường cô độc ban trưa trên khuôn mặt nàng. Thiếu phụ vùng vẫy, nàng la hét trong cơn ác mộng. Một mình trong cơn ác mộng, một mình cô đơn. Nhưng bỗng có tiếng lách tách ở ổ khóa. Có tiếng cửa mở. Rồi cửa phòng ngủ cũng hé mở. Chồng nàng từ Cựu Kim Sơn về, lúc nửa đêm. Trông thấy cảnh tượng đó, chàng vội vàng chạy lại đánh thức nàng.

Người thiếu phụ giật mình tỉnh dậy, ngơ ngác, nét mặt còn in vẻ kinh hoàng. Người chồng cắt nghĩa: “Anh nghe thấy một cái gì không bình thường trong giọng nói của em hồi chiều, qua dây điện thoại. Cho nên bàn xong công việc, anh vội vã lấy máy bay trở về. Em nằm mơ thấy gì mà vùng vẫy la hét dữ vậy? Em có sao không?” Em có sao không? Are you all right? Lần thứ ba trong buổi chiều chàng hỏi Are you all right? Người thiếu phụ kiểm soát lại tình trạng. Nàng không thể trả lời như hồi chiều được nữa. Không. Rõ ràng nàng không trả lời như hồi chiều. Nhưng mà có vấn đề gì đâu? Nàng có đau ồm thiếu thốn gì đâu. Nhà cửa đầy đủ mọi tiện nghi. Chuyện gì cũng có máy móc đỡ tay chân làm thế cho nàng. Có chuyện gì thì cũng có điện thoại đó. Bếp có cháy hay trộm có thể lẻn vào thì có thể gọi cảnh sát. Người đàn bà không bất lực, không cần sự che chở của người đàn ông như thời nguyên thỉ, có nhiều rắn rết, hổ báo, sấm chớp. Người đàn bà không thiếu một thức gì. Nhà cửa sang trọng, sức khỏe đầy đủ, lợi tức dồi dào, chồng con có địa vị, có uy tín. Nhưng mà không thể nói rằng như thế là mọi sự êm đẹp tốt lành. Nàng nhìn chồng, thú nhận:”Em làm sao ấy, anh ạ. I am not all right”.

Và họ biết là họ có vấn đề.

Steve ơi, cái vấn đề đó là một trong những vấn đề lớn của cái xã hội bây giờ. Sự cô đơn của con người càng lúc càng lớn. Steve đưa mắt nhìn thử những buổi sinh hoạt gọi là tôn giáo, xã hội và tôn giáo, xã hội và thân hữu mà xem thì thấy. Nhà thờ và chùa chiền trở nên chỗ hội họp để các Ông các Bà giao tế, gặp gỡ và tổ chức những cuộc vui lấy danh nghĩa là sinh hoạt tôn giáo. Đi nhà thờ hay đi chùa đã trở thành một thứ trang sức, một thứ giải trí cho nhiều người. Hội họp để bầu cử những hội phụ nữ, hội từ thiện, hội cựu học sinh, hội chống võ khí nguyên tử vân vân… và để đàm luận và tổ chức công việc này nọ cũng chỉ là để giết thì giờ, là để chạy trốn sự cô đơn, trống lạnh của những đời sống khép kín trong cái vỏ tự ngã giả tạo. Họ có đi đâu thì cũng chỉ quanh quẩn trong cái vỏ ấy. Họ chỉ giao tiếp gặp gỡ những cái vỏ như là cái vỏ của chính họ. Chính bởi vì Steve bị lạc vào trong cái thế giới đó cho nên Steve không thể chịu đựng được. Nhưng mà nếu Steve thiết lập được sự liên lạc với cái thế giới rộng rãi bên ngoài cái vỏ kia thì dù cho Steve có ở lại trong cái môi trường đó, Steve cũng không cảm thấy bị tù túng như là đang cảm thấy bây giờ. Có lẽ tại vì cậu đã để cho con đường liên lạc kia bị bế tắc. Hãy nghĩ đến chúng tôi, hãy nghĩ đến cái thế giới rộng rãi mà trong đó ngày mai Steve sẽ bơi lội thì cậu sẽ thấy cái hoàn cảnh trong đó hôm nay cậu sống là một hoàn cảnh cần thiết. Hãy chấp nhận bốn tháng đó với một nụ cười, và với một thái độ tích cực. Rồi mọi sự sẽ biến hình trước con mắt của chúng ta. Mặt trời sẽ sáng hơn và cây cối sẽ xanh hơn. Con người sẽ dễ thương hơn.

Để chữa lành cái “bệnh” của người thiếu phụ kia, tôi tượng không cógì khó khăn đâu Steve. Hãy đem nàng ra khỏi nhà tù của những điều kiện tiện nghi vật chất. Cho nàng về sống trong cái xã hội của Châu Mỹ La tinh chẳng hạn. Hay là về đây, tại cái làng Bình Quới này thì cũng tốt. Rồi nàng sẽ đi giặt lấy quần áo ở bờ sông. Sẽ phải rùng mình khi thấy thứ nước uống thiếu trong sạch mà những người dân làng thường uống. Rồi nàng sẽ ở chung và sẽ chia xẻ những vấn đề của dân làng. Cái mớ kiến thức mà nàng có đó sẽ có thể giúp đỡ dân làng cải thiện sự sống của họ. Nàng sẽ phải cực khổ, lo lắng. Nhưng mà nàng sẽ có những nụ cười trong veo như nắng sớm. Tôi biết chắc như vậy mà. Tuy nhiên, Steve đừng nghĩ rằng công việc giải phóng nàng là một công việc dễ dàng đâu nhé. Dù đau khổ, người ta vẫn không có can đảm từ bỏ khổ đau. Con người sợ khổ đau cho nên cứ chịu khổ đau hoài.

Tiếp xúc với cuộc sống, với những khổ đau, những lo âu của thế giới bên ngoài, chia xẻ trong cảm thông tất cả những thứ đó với kẻ khác. Đó là phương thuốc mầu nhiệm nhất để xua đuổi thế giới u ám của sự cô độc nội tâm. Anh mà cô đơn là tại vì anh tự giam giữ anh trong một cái vỏ giả tạo, là tại vì anh tưởng rằng anh là một thực tại riêng biệt không có liên hệ tới những cái khác. Nhà Phật nói là tại vì anh cho là “ngã” một cái gì “vô ngã…”. Mà thôi, đừng có tin nhà Phật. Steve ạ, bởi vì tôi nghĩ rằng cái tôi của tôi đây tuy nó không là ngã mà nó cũng không là vô ngã đó Steve.

Cái thứ văn nghệ phản chiếu tâm trạng cô đơn thao thức cũng đã xuất hiện trên cái đất này lâu rồi Steve. Trong cái tình trạng bế tắc của chính trị, trong cái không khí trĩu nặng đe dọa của bạo lực và tiền bạc, con người rất dễ lây cái tâm trạng chán chường vô vọng đó. Huis clos No exit. Ngõ cụt. Không có nẻo ra. Cái gì cũng vô lý, cũng đáng nhổ nước bọt vào. Cái gì cũng giả dối. Sự vô lý cũng vô lý, sự giả dối cũng giả dối. Như thế đó, mà vẫn còn nói năng được. Nó tô một lớp sơn đen hắc ảm đạm lên cho khung cảnh. Nó trợ lực cho nếp sống liều lĩnh, không trách nhiệm. Nó mở miệng nhân danh cho tự do. Nếu cái thứ văn nghệ chỉ biết tuân theo lãnh đạo như một bộ máy được coi là một thái cực thì cái văn nghệ vô trách nhiệm này đích thực là một thái cực khác. Bên kia còn có thể nói vì một cái gì chứ bên này thì không thể nói vì một cái gì được hết. Tôi không bao giờ cho sự vô trách nhiệm là tự do cả. Tự do mà vô trách nhiệm thì không phải là tự do mà là tự hoại. Tự hoại và hủy hoại kẻ khác. Thứ văn nghệ đó làm cho tình trạng càng lúc càng bi đát, thứ văn nghệ đó giúp cho con người tự kỷ ám thị để càng bị dày vò trong cô đơn, chán chường và mệt mỏi. Thứ văn nghệ đó cào quấu những vết thương cho thêm rách nát. Chúng ta cần có một đường hướng khai thị và trị liệu. Khai thị để vạch rõ cho chúng ta biết sự thực về những vấn đề của chúng ta. Biết để mà có ý thức. Có ý thức để mà lo, chuyển hoán, cải tạo, chạy chữa; nghĩa là tìm ra được nguyên do của chứng bệnh và trị liệu. Nói thì chắc là Steve cười, chớ thực ra theo nguyên tắc này, ta phải isoler những người bị cái bệnh chán chường ra, hoặc giả phải isoler những người chưa bị bệnh ra một nơi. Nghĩa là phải thiết lập những “ấp chiến lược” văn hóa. Nhưng mà không phải cái kiểu “ấp chiến lược” ngày xưa của ông Diệm đâu, Steve đừng lo. Tôi nghĩ ở đây những trường đại học chẳng hạn, nên để tách biệt ra, đừng cho nằm tại Saigon. Phải có những thành phố dành cho đại học, như thành phố Princeton hay là Oxford vậy. Trường đại học cần có phong độ ngày xưa, nghĩa là phong độ một nơi tu luyện. Phải có hoàn cảnh và không khí của sự tu luyện. Chớ ở Saigon hay Nữu Ước hay Ba Lê thì khó học hành lắm. Hồi tôi còn ở Princeton tôi có nghe một anh sinh viên than rằng: “Thành phố Priceton đã như một tu viện rồi mà đại học Princeton là còn là một tu viện nữa. Thật là một tu viện trong một tu viện”. Thế mà không ai chối cãi được cái khả năng và không khí học tập ở Princeton đâu nhé. Steve có đồng ý không. Khi mà người ta mạnh khỏe thì mầm mống bệnh tật khó nhiễm và vật ngã được. Vấn đề không là đi tìm sự trốn tránh mà chính là đi tìm sự tự cường tự lực để chiến thắng.

Steve ơi, cái số tôi thế mà có nhiều may mắn. Bây giờ đây tôi có thể ngồi viết cho Steve yên ổn thế này cũng là nhờ các bạn trẻ bên này lo lắng và gánh vác được cho bao nhiêu trách nhiệm.hòi tôi ở bên đó cũng vậy. Nhớ lại cái hồi từ tháng sáu đến tháng mười năm 1963 mà xem. Thật là lận đận, lao đao. Hồi ấy như Steve biết, phong trào chống đối ông Diệm lên mạnh ở bên này. Một mình tôi ở bên đó phải lo biết bao nhiêu công việc. Ít có đêm nào ngủ được. Tiếng chuông điện thoại làm thần kinh tôi căng thẳng. May mắn có Steve và có một vài người bạn trẻ khác phụ lực cho. Mặc dù bao nhiêu hăm dọa và khó khăn, chúng ta vẫn đi tới một cách mạnh bạo. Tôi nhớ cái buổi chiều ở American BUddhist Academy, đến nét mặt lặng lẽ của Steve khi em đem bình sữa và thẻ kẹo sô-cô-la tới. Căn phòng là một căn phòng tham thiền kiểu Nhật có đệm chiếu tatami Steve đã ngồi quỳ gối và trao bình sữa cho tôi một cách hết sức lặng lẽ và dễ thương. Thật không khác gì một chú thị giả ở đông phương. Steve nói: ăn một thẻ sô-cô-la nhỏ thì lấy lại được năng lực mau chóng lắm. Buổi chiều đó đúng hai giờ, là mãn hạn thời gian tĩnh tâm và cầu nguyện. Tôi dã đóng cửa tĩnh tâm, nhập từ bi quán để cầu nguyện cho sự vượt thắng của tự do trên bạo lực, và thời gian đó kéo dài từ sáng thứ hai đến chiều thứ sáu. Tôi đã không ăn uống gì trong thời gian đó, trừ chai nước lã mà Steve đến thay một ngày hai lần. Hôm tôi họp báo ở Carnegy Hall, Steve cố gắng chạy tìm một nơi thanh tịnh cho thời gian tĩnh tâm ấy, và đã không tìm ra được. Tôi điều đình với ông U Thant cho tôi tĩnh tâm trong Hall ò meditation ở trụ sở Liên Hiệp Quốc, nhưng ông từ chối. Ông từ chối bởi vì ông không muốn tỏ rằng là Phật tử ông có ý bênh vực Phật giáo. Ông nói là sợ làm như thế tức là tạo ra một tiền lệ. Tôi gọi điện thoại cho Internationnal Church Center cũng ở tại Liên Hiệp Quốc. Họ trả lời là được, nhưng cái phòng ấy phải trả ba trăm Mỹ kim một ngày. Ba trăm Mỹ kim! Thế nghĩa là một ngàn năm trăm Mỹ kim cho một thời hạn từ thứ hai đến thứ sáu! Bán nhà đi chúng ta cũng không trả nổi. Tôi bèn gọi American First Zen Institute. Gọi nhiều lần nhưng không có ai trả lời. Sau cùng tôi gọi Đại đức trù trì ngôi chùa Riverside Drive và được chấp thuận. Lúc đó là lúc đại hội đồng Liên Hiệp Quốc bắt đầu họp về vấn đề Việt Nam. Trước đó, tôi đã làm việc gần gũi với nhóm các nước Á Phi đã đưa được vấn đề Việt Nam lên nghị trình của đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, nhất là với ông đại sứ Tích Lan. Và tôi cũng đã nói chuyện rất nhiều với báo chí và các hãng vô tuyến truyền hình. Hôm họp báo ở Carnegy Hall do tổ chức Nhân Quyền Quốc Tế bảo trợ, tôi nói “Dân tộc Việt Nam đã đau khổ nhiều rồi. Đây là lúc mà gia đình nhân loại phải cầu nguyện, phải hành động. Ngay sau cuộc họp báo này, tôi sẽ nhập thất tham thiền và cầu nguyện cho đất nước tôi, và tôi xin tất cả những thành phần gia đình của nhân loại, những ai biết thương xót và đau khổ vì Việt Nam, hãy góp sức cầu nguyện cho đau thương chấm dứt”. Báo chí tối hôm ấy có đạo đạt lại lời yêu cầu đó. Steve biết không, lúc ấy tôi đã gần kiệt lực rồi, tại vì trước đó đã phải lận đận đi Hoa Thịnh Đốn, Chicago và các nơi khác để vận động ủng họ cho cuộc đấu tranh bên nhà. Một cuộc diễn hành của Việt kiều đã được tổ chức trước tòa Bạch ốc. Biểu ngữ được chở từ Nữu Ước xuống. Cuộc diễu hành thật cảm động. Nhiều anh chị có con năm bảy tháng cũng ẳm đi biểu tình. Nhiều người Mỹ mua nước cam tới cho chúng tôi uống. Tất cả các hãng truyền hình đều có mặt.

Một điều bất tiện cho tôi nữa là phòng tham thiền nằm ở trên gác; mỗi khi muốn dùng phòng rửa mặt thì phải bước xuống và leo lên mấy chục bực thang. Mỗi một cử động tiêu phí nhiều năng lực. Trong năm ngày, tôi đã phải đi lên đi xuống có tới mấy mươi bận. Steve đã giữ gìn không cho nhà báo nào hay hãng truyền hình nào ra vào hết. Và mãi đến chiều thứ sáu khi đem sữa và thẻ sô-cô-la tới, Steve mới cho biết là chấm dứt thời hạn tĩnh tâm, tôi phải tiếp hai hãng vô tuyến truyền hình, bởi vì họ có ý muốn giúp cho vấn đề thêm sáng tỏ.

Tôi uống từng ngụm sữa nhỏ và “nhai” những ngụm sữa ấy trước khi nuốt. Và tôi cũng nhai một miếng sô-cô-la, tuy lúc đó tôi không tin cái thuyết của Steve mấy. Steve kể cho tôi nghe những chuyện đã xảy ra trong thời gian tôi nhập thất. Rồi Steve đưa cho tôi xem mấy cái thư ở nhà gởi sang. Có mấy cái thiệp chúc sinh nhật. Thì ra sinh nhật của tôi nhằm ngày hôm kia mà tôi không nhớ, lúc tôi đang còn trong thời gian nhập thất. Một cái thiệp do chính tay em tôi vẽ. Đó là một vườn cau vì bão tố đã gãy đổ gần một nửa. Phía dưới, em tôi đề: mưa quê hương…

Steve kể chuyện nho nhỏ cho tôi nghe trong khi ở phòng ngoài người ta bắt giây điện và bóng để sửa soạn cuộc phỏng vấn. Steve đã nói với tôi: “Thầy đừng nói, chỉ nghe thôi, để dành sức một lát nữa mà trả lời các cuộc phỏng vấn”. Cũng may Steve nhỉ, các cuộc phỏng vấn truyền hình thường chỉ kéo dài mươi mười lăm phút, không như những cuộc phỏng vấn của nhà báo có khi kéo dài cả tiếng đồng hồ.

Sau đó, Steve đưa tôi về nhà ở đường 109 bằng xe taxi. Những ngày sau đó Steve săn sóc tôi và không cho tôi làm gì hết. Steve nấu ăn thật tệ, nhưng mà trông thấy Steve lui cui dưới bếp, tôi thương quá. Tôi đã quen nấu cho Steve ăn, như một bà mẹ săn sóc con.

Thật là êm đềm, khi ta có dịp nhắc những kỷ niệm quá khứ cho nhau nghe, có phải không Steve? Nhưng cuộc đời không phải chỉ là quá khứ. Nó còn là hiện tại và tương lai. Chúng ta phải nhìn về phía trước mặt. Những ngày lao đao, trốn tránh lận đận hồi ấy đã qua rồi. Nhưng những vấn đề của hôm nay đang còn. Và chúng ta đang đối diện với chúng.

Chiều xuống rồi. Tối nay tôi phải trở về thành phố. Hẹn Steve thư sau.

Hết chương 12

VIII

Hôm thứ bảy, nghĩa là sau đó hai hôm, tôi đi chùa lễ Phật cầu nguyện cho mẹ bởi vì hôm đó nhằm ngày rằm tháng chín âm lịch, ngày giỗ của mẹ. Tình cờ hôm đó tại chùa cũng có đại lễ kỷ niệm bảy mươi năm ngày Phật giáo du nhập Hợp Chủng Quốc. Lễ này tổ chức liên tiếp trong ba ngày và có nhiều đại biểu từ các tiểu bang đến dự. Ngôi chùa không to lớn gì, thành thử giảng đường nơi hành lễ cũng chỉ lớn bằng giảng đường chùa Ấn Quang. Vậy mà họ gọi là đó là Mỹ Quốc Phật Học Viện (American Buddhist Academy). Cái tên thì lớn, kỳ thực chùa chỉ có một số lớp dạy giáo lý và thực hành cho các cư sĩ, còn ngoài ra thì dạy pha trà, cắm hoa và đàm thoại Nhật ngữ. Chùa thuộc hệ phái Tịnh Độ Chân Tông và do hai vị trông nom: Hozen Seki vị trú trì. Và giáo sư Phillips giảng sư. Vị này trước là giáo sư ở đại học đường Delaware.

Để tôi nói sơ lược về Phật giáo bên này cho Nguyên Hưng nghe. Ở Hiệp Chủng Quốc có vào khoảng tám mươi ngàn người theo đạo Phật, trong đó phần lớn là người Nhật và người Trung Hoa hoặc đã trở thành công dân Mỹ, hoặc chưa. Trung tâm Phật giáo đặt tại 1710 đường Octario, Cựu Kim Sơn. Các “tăng sĩ” đều là tân tăng của phái Tịnh Độ Chân Tông, khoảng bảy mươi vị, hầu hết là người Nhật rải rác trong các tiểu bang, một số có mặt trong các đại học Mỹ để dạy về ngôn ngữ và văn chương Nhật Bản. Có năm mươi bốn ngôi chùa lớn nhỏ rải rác khắp toàn lãnh thổ. Ngôi chùa ở Nữu Ước so với các ngôi chùa ở Cựu Kim Sơn thì nhỏ bé hơn nhiều. Trong số những người về dự lễ, tôi gặp hai tu sĩ Nam Tông khoác áo vàng, đại đức Anuruddha và đại đức Vinita một người từ tiểu bang Connecticut, còn một người từ Massachusetts. Lễ dâng hương cử hành lúc ba giờ chiều. Vị đại sứ Tích Lan, ông Susantha de Fonseka, cũng có mặt để đọc diễn văn chúc mừng.

Tôi đi bộ một mình đến chùa và đi thật thong thả. Chùa chỉ cách nơi tôi ở có năm ô (bloc) ở vào số 331 đường Riverside Drive. Khi tôi đến thì gần đến giờ thuyết pháp. Khán giả chỉ chừng hai trăm người gồm nhiều quốc tịch trong đó đa số người Nhật. Bài giảng không gây nổi cảm hứng làm tôi thất vọng. Ở đất này mà giảng như thế thì không làm sao gieo được hạt giống đạo Phật trong quần chúng. Nguyên Hưng cũng biết, giáo lý Tịnh Độ Chân Tông cũng như tổ chức của Tịnh Độ Chân Tông không khác giáo lý Thệ Phản là mấy, cả hai đều chú trọng đến tha lực. Vậy thì món ăn đó không thể nào được gọi là mới lạ đối với người Anh và người Mỹ. Thêm nữa để diễn giải giáo lý Cơ đốc của họ, đã có biết bao viện thần học, bao nhiêu nhà truyền giáo xuất sắc; trong khi đó tổ chức Tịnh Độ Chân Tông ở đây thiếu cơ sở giáo dục và đào tạo bắt chước một cách thiếu thông minh nên không thể không chứng tỏ sự kém cỏi non nớt của mình. Thực ra dân Mỹ là một dân có tinh thần tự lập tự cường; trong gia đình cũng như ở ngoài xã hội, con người được đào luyện để có tinh thần tự lập ấy và để khỏi phải nương tựa và sống bám vào những kẻ khác. Như thế chắc chắn một giáo lý như giáo lý tự lực của Thiền Tông sẽ rất thích hợp với họ. Giáo lý Thiền Tông hoàn toàn căn cứ vào tự lực để xây đắp, phát triển và giác ngộ bản thân trong lúc giáo lý Cơ Đốc và Tịnh Độ tự nhận khả năng thiếu kém của con người và nhấn mạnh đến năng lực cứu độ của một thế lực bên ngoài. Cho nên Nguyên Hưng sẽ không lấy làm lạ khi thấy sự truyền bá của đạo Phật Tịnh Độ ở đây chưa gặt hái được những kết quả nào đáng kể. Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy tư tưởng Thiền được hâm mộ một cách nồng nhiệt ở đây. Giáo sư Suzuki đã gây được những tiếng vang lớn lao về thiền học ở đất nước này. Sống trong một xã hội quá hoạt động, quá náo nhiệt, và khi đã mệt mỏi vì những tính toán những suy luận hình thức, cố nhiên người ta khao khát một cái trầm tĩnh, tươi mát và tự tại như tinh thần Thiền học. Có sống ở đây Nguyên Hưng mới thực chứng được điều đó.

Để bù lại sự thiếu kém về nội dung giá trị tư tưởng, các nhà truyền giáo Tịnh Độ ở đây phải dùng đến những hình thái sinh hoạt văn hóa Nhật. Người Mỹ ưa món ăn Nhật, nghe đàn Koto, chứng kiến các cuộc pha trà, cắm hoa, vân vân. Thế cho nên sau thời thuyết pháp, có một buổi trình diễn đàn Koto. Mà buổi trình diễn đàn Koto độc chiếc ấy đã kéo lại thăng bằng cho buổi giảng. Ngồi hai bên tôi là những người Mỹ. Họ tỏ vẻ lơ đãng trong thời thuyết pháp như họ lại đã tỏ ra rất thích thú khi nghe đàn Koto.

Tôi cũng thích những bài đã được trình diễn hôm ấy lắm, Nguyên Hưng. Nhạc sĩ Kimioto Eto. Chàng còn trẻ, vào khoảng ba mươi tuổi, khuôn mặt hiền hậu và dễ thương. Trong chiếc Kimono màu đen, chàng bước chậm chạp lên diễn đài, theo tay dìu đỡ của một chàng thanh niên khác. Tôi nghĩ có lẽ vì mắt chàng không trông được rõ. Sau lời giới thiệu của đại đức Saki, chàng chậm rãi ngồi xuống, mỉm cười lặng lẽ, và không nói năng chi. Sao mà tôi yêu cái dáng điệu ấy quá. Chẳng bao giờ chàng nhìn xuống khán giả. Chàng chỉ để tầm mắt trên khoảng rộng của chiếc đàn phủ khăn trắng. Và nụ cười của chàng, nụ cười thật lạ kỳ, thật là lặng lẽ, thật là hàm xúc. Tôi không ngờ ở đất này mà có được một nụ cười như vậy.

Chàng nói là chàng sẽ đàn để cúng dường ngày kỷ niệm 70 năm Phật giáo du nhập Mỹ quốc, để dâng lòng thành lên đức Từ Bi. Con số bảy, chàng nói, nó rất quan trọng đối với chàng. Cha chàng mất đây bảy năm, và mẹ chàng cũng từ trần bảy tháng trước. Nay là lễ bảy mươi năm kỷ niệm Phật giáo du nhập. Và đôi mắt nhỏ lệ. Khuôn mặt trầm lặng, tràn đầy xúc cảm; một niềm cảm xúc lẫn lộn trong tín ngưỡng, thương nhớ và bâng khuâng. Chàng đàn, những bản tự do tay chàng sáng tác. Bản đầu tiên là bản tiếng hát hy vọng. Điệu nhạc tuy trầm buồn thao thức nhưng chứa đầy sức sống nhẫn nại, chứa đầy ý chí cố gắng đi tới. Bản thứ hai là bản Gió mùa thu ngát hương thương nhớ, và bản thứ ba. Tiếng nói tin tưởng của chàng đối với đạo Từ Bi. Mỗi bài được cách khoảng với bài khác bằng một thời gian lặng yên trong nụ cười trầm tĩnh. Xong bản thứ ba, chàng nói cho mọi người biết là hai mắt chàng mù và chàng không thấy gì hết. Mọi người xúc động; tôi cũng xúc động cả tâm hồn, bởi vì trước đây không ai nghĩ rằng chàng lại là một người mù.

Nước mắt tôi muốn trào ra; tôi đứng dậy ra về trước mọi người, bỏ nữa chừng cuộc trình diễn. Tôi thấy như vậy là quá đủ. Trên con đường Bờ Sông tôi đi thong thả từng bước một, lòng thấy bâng khuâng. Nụ cười của Kimioto vẫn còn nguyên vẹn, huyền diệu, trầm lặng. Nếu không biết khổ đau, không bao giờ người ta có thể có được một nụ cười như thế. Và tôi hiểu tại sao nụ cười đã làm cho tôi xúc động ngay từ khi tôi mới trông thấy chàng.

Đường Riverside Drive vắng vẻ. Đột nhiên tôi nhớ tới lời những người bạn dặn dò không nên đi một mình trong đêm khuya trên các con đường vắng đô thành. Nữu Ước có rất nhiều bọn bất lương như bất cứ thành phố nào trên thế giới. Nghĩ như thế, tôi định rẽ sang đường 108 để trở vào Broadway. Vừa rẽ sang đường 108 tôi bỗng thấy mặt trăng, tròn như khuôn mặt hoa sen đức Phật, hiện ra giữa mảnh trời do hai nhà hàng nhà cửa cao vút bên đường chừa lại. Thật là mầu nhiệm. Mặt trăng ở về phía trước mặt tôi, và cũng đi về phía tôi đi.

Mặt trăng Rằm tháng Chín. Chắc là mẹ tôi cũng đi theo tôi đến chùa khi trăng mới mọc.

Cái mặt trăng ấy đã chiếu sáng trên nóc chùa lúc tôi ngồi nghe thuyết pháp, đã chiếu sáng trên nóc chùa lúc tôi ngồi nghe trình diễn đàn Koto. Và mặt trăng ấy bây giờ cũng lại đi theo tôi về tận nhà. Sáu năm về trước, mẹ tôi mất vào ngày trăng tròn tháng chín… Trăng khuya bao giờ hiền hòa êm dịu và mầu nhiệm như tình mẹ. Trong suốt bốn năm trời tôi có cảm giác rất rõ rệt là tôi mất mẹ. Nhưng mà có một đêm tôi nằm mơ thấy mẹ, và từ lúc đó, cảm giác kia không còn nữa. Tôi thấy mẹ tôi chưa bao giờ mất cả, và những đau khổ xót xa trước kia chỉ là những ảo giác trong một giấc mộng. Tôi còn nhớ đó là một đêm tháng tư ở cao nguyên. Tôi nằm mơ thấy mẹ tôi, dung nhan không có gì biến đổi. Tôi nói chuyện với mẹ tôi rất tự nhiên, không có một mảy may cảm giác rằng tôi trong bốn năm, chịu đựng ý tưởng mất mẹ. Chắc Nguyên Hưng muốn hỏi tôi rằng trong bốn năm ấy tôi có lần nào nằm mơ không. Có, tôi nằm mơ thấy mẹ tôi vài lần, nhưng mà những lần thấy như thế không có tác dụng gì rõ rệt sau khi tôi tỉnh thức cả.

Lần này, khi tỉnh thức, tôi cảm thấy tâm hồn bình yên một cách kỳ lạ và tôi thấy một cách rất hiện thực rằng sự sinh diệt của mẹ tôi là một cái gì do tôi tạo ra mà không phải là một thực tại khách quan. Sự hiện thực của mẹ tôi không tùy thuộc vào sinh diệt; không phải nhờ sinh mà mẹ tôi có, không phải vì diệt mà mẹ tôi không có. Cái có với cái không là sáng tạo phẩm của nhận thức chủ quan và do có không hẳn là có và không không hẳn là không. Có là để đối với không, và không là để đối lại với có. Thực ra, đã có thì không thể nào là không, và từ không thì không thể nào sinh ra có. Tôi không muốn lý luận với Nguyên Hưng, tôi chỉ muốn nói với Nguyên Hưng, thế thôi. Bữa đó, tôi thức dậy vào lúc một giờ rưỡi khuya và thấy phép mầu hiển hiện. Niềm đau xót không còn nữa và tôi chứng thực rằng ý tưởng mất mẹ trong suốt bốn năm vừa qua chỉ là những ý tưởng. Thấy được mẹ trong giấc mơ ấy rồi tức là thấy mẹ tôi mãi mãi. Điều này tôi càng thấy rõ hơn khi tôi đi mở cửa đi ra vườn. Vườn đầy ánh trăng khuya dịu dàng và nhiệm mầu. Đó là sự có mặt của mẹ, nhớ thương, đó không là một sự tự an ủi mình. Tôi có thể thấy mẹ tôi bất cứ ở đâu và lúc nào tôi muốn.

Nguyên Hưng, hồi tháng tám trong lúc còn ở Medford, tôi có viết để làm quà cho những người trẻ tuổi quen biết ở nhà một đoản văn tôi là Bông Hồng Cài Áo. Ngồi ở trong nhà gỗ Pomona, tôi đã viết ra những dòng chữ giản dị kia trong lúc chim hót vang rừng. Khi tôi gửi nó đi rồi - tôi gởi cho Nhiên - tôi mới biết rằng những cảm nghĩ trong ấy phát sinh từ một cái nhìn khá mới lạ, cũng là cái nhìn mà tôi đã diễn tả trong lá thư viết cho thầy Thanh Từ. Ngày xưa nói về văn học Việt Nam, tôi cứ giảng đi giảng lại mãi câu thơ:

“mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

đình tiền tạc dạ nhất chi mai”.

của Mãn Giác Thiền Sư đời Lý, rất khâm phục ý tưởng của tác giả nhưng mà chưa bao giờ đón nhận được cái tâm tư của tác giả một cách đích thực. Thì ra trong lúc nhận thức cởi mở, trong lúc cái vỏ cứng nứt rạn, ta có thể trông thấy những điều thật là mầu nhiệm. Cũng như ta có thể thấy được sự hiện hữu của cành mai trong một đêm tăm tối và lạnh lẽo của mùa Đông.

Chúng ta sinh vào thời đại trong đó sự xung đột giữa các giá trị cũ và mới đang sắp đi đến chỗ kết thúc. Tuy vậy nó chưa kết thúc được, và dấu vết của sự xung đột còn hằn lên rõ ràng trong tâm hồn chúng ta. Những câu hỏi mới của triết học đã làm cho chúng ta bơ vơ thêm, lạc lõng thêm, thao thức thêm. Trong trạng thái rối bời của tâm trí, ý niệm về sự vô lý của hiện hữu xấu xa, con người xấu xa; con người muốn tốt cũng không thể nào tốt được, hiện hữu muốn đẹp cũng không thể nào đẹp được. Trong tình trạng đó lắm khi chúng ta còn có ảo tưởng rằng chúng ta có tự do, chúng ta còn là chúng ta. Nhưng hẳn Nguyên Hưng cũng đã từng biết rằng kinh nghiệm bản thân rằng chúng ta nhiều khi chỉ viết chính tả, mà kẻ đọc cho chúng ta viết vốn không phải là ta mà lại là những dấu vết được ghi trên chúng ta, hoặc nói một cách khác hơn là mệnh lệnh của nghiệp lực cộng đồng. Chúng ta đã không được là chúng ta thì, nếu chúng ta có tự do đi nữa, tự do đó cũng không phải là tự do của chúng ta. Có lúc chúng ta không còn “ham” tự do nữa, có lúc chúng ta sợ hãi tự do: đó là tại vì chúng ta không thực là chúng ta. Chúng ta bị bao phủ rất là nhiều lớp rong rêu và vôi gạch. Chúng ta cần đập vỡ tất cả để được giải thoát. Nhưng chúng ta sợ sự đập vỡ đó, bởi vì chúng ta cứ tưởng những lớp vôi gạch rong rêu đó mà vỡ thì chúng ta cũng vỡ luôn, mà những lớp vôi gạch rong rêu đó, than ôi, có phải là chúng ta đâu.

Ngày tôi khám phá ra cái điều mà tôi nói đó, tôi bổng thấy tôi nhìn tất cả mọi vật với một cặp mắt khác lạ. Trước hết, tôi nhìn vào tôi, và tôi thấy thân thể tôi quả là một cái gì mầu nhiệm. Tôi chưa bao giờ nhìn tôi như thế. Tôi thấy không có lý do gì mà ta lại có thể nhìn thân thể ta, một trong năm phần của hợp thể ngũ uẩn, với một cặp mắt coi thường. Chúng ta có khuynh hướng coi thường những gì nằm trong tầm tay của chúng ta. Chúng ta đánh giá chúng một cách quá hạ và lắm khi vì u mê chúng ta nguyền rủa sự tồn tại của chúng. Như đôi mắt của tôi đây chẳng hạn. Vì tôi có đôi mắt, và vì tôi cho đó là một sự thực hiển nhiên - mà hiển nhiên sao được, làm gì mà hiển nhiên được một cách dễ dàng thế - cho nên tôi không chú trọng tới chúng, không cần hỏi han chúng, không nhận được thông điệp của chúng và do đó tôi mất chúng. Có cũng như không. Chỉ khi nào người ta bị mù đột ngột, người ta mới cảm nhận được sự hiện hữu trước kia của đôi mắt; nhưng cảm nhận như thế thì muộn quá rồi. Một người mù được sáng mới biết thế nào là sự hiện diện quý giá của một đôi mắt; người đó có thể sống sung sướng ngay trên trái đất, sung sướng hơn cả trên thiên đường. Thế giới đầy màu sắc này, cùng với đôi mắt kia là những gì thật mầu nhiệm, là những gì có thể hiến dâng cho chúng ta những sung sướng ngây ngất. Từ lúc đó chẳng khi nào nhìn mây trắng trời xanh mà tôi lại không nhìn với nụ cười. Thế giới đột nhiên giầu có hẳn lên và tươi sáng hẳn lên. Người mù mới sáng có thể tìm thấy thiên đường, nhưng hắn sẽ làm quen với thiên đường trong một thời gian ngắn, rồi vẫn coi thường thiên đường, cho thiên đường là cái gì hiển nhiên. Và vì vậy, hắn sẽ mất thiên đường trong vài ba tuần lễ, nhiều lắm trong vòng ba tháng. Trong khi đó một con mắt tâm linh của Nguyên Hưng sẽ không bao giờ làm mất thế giới pháp thân.

Hồi nhỏ chúng ta được dạy rằng những đau khổ lớn của con người là sinh, lão, bệnh, tử, là ước mong mà không được thành tựu, là hợp nhau mà không được chung nhau, là khắc nhau mà vẫn vẫn phải gần nhau. Nhưng mà Nguyên Hưng ơi, những đau khổ đích thực của con người không nằm trong sinh, lão, bệnh, tử, không nằm trong trường hợp ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc. Nó nằm ở trong cái cách chúng ta nhìn thực tại. Quả là như vậy đó, Nguyên Hưng. Sinh lão bệnh tử, sự chia cách, sự kết hợp vẫn có những mầu nhiệm của chúng, vẫn là những đặc tính quý giá của hiện hữu. Điều quan trọng nhất là làm như thế nào ngồi yên lành trên những đợt sóng hiện tượng đó với một nụ cười của bản thể không sinh không diệt.

Tôi nhớ trong kinh Bảo Tích có một đoạn như sau đây. Phật nói: Có một người nhặt cục đất ném vào con chó. Con chó đau quá, tức giận chạy theo cục đất để cắn trả thù. Con chó không biết rằng kẻ thù không phải là cục đất mà là người ném cục dất. Cũng như vậy, những kẻ khờ dại nghĩ rằng mầu sắc, âm thanh, hương vị v.v… là nguyên do khổ đau và kết luận rằng muốn hết khổ đau thì phải tiêu diệt hoặc lánh xa sắc, thanh, hương, vị, xúc… Kỳ thực đau khổ không nằm trong sắc, thanh, hương,vị xúc. Đau khổ nằm nơi cách nhìn và sử dụng của chúng ta đối sắc, thanh hương vị xúc. Vấn đề là như thế. Chúng ta khổ đau không phải vì thực tại chất chứa khổ đau, mâu thuẫn và vô lý mà vì chúng ta đã nhìn thực tại qua những lớp màn nhận thức đen tối mang nặng tư kiến tư dục của chúng ta để thấy thực tại chất chứa khổ đau, mâu thuẫn và vô lý. Có lần đi xa quê nhà hằng năm phải nói tiếng ngoại quốc cả ngày tôi bổng thấy nhớ những giọng nói quen thuộc quá chừng. Lắm khi tôi ao ước được nghe những giọng nói quen thuộc ấy đến nỗi tôi nghĩ rằng vài ba phút thôi cũng đủ làm cho tôi sung sướng suốt ngày. Mà kỳ lạ thực, Nguyên Hưng, tự nhiên - sao lại tự nhiên - một buổi sáng chuông điện thoại reo và tôi được nghe tiếng của Phượng từ bên nhà gọi sang. Câu chuyện tuy ngắn ngủi và chỉ gồm có một số câu hỏi về công việc nhưng tôi cũng thấy quý giá và do đó cũng sung sướng đến mấy ngày. Từ đó mỗi khi nói chuyện với một người thân là tôi để hết tâm ý vào câu chuyện và ngthe thấy cả tiết điệu của giọng nói. Tôi phân biệt được giọng nói và cả những lo âu những cảm động những thao thức vân vân… chứa đựng trong giọng nói. Đó thật cũng là một điều mầu nhiệm. Dễ gì mà nghe được như thế, hiểu được như thế và cảm nhận được như thế. Tuy vậy trong chúng ta ai cũng có điều kiện để nghe, để hiểu để cảm nhận. Tôi không bao giờ còn thái độ khinh suất và lơ là với bất cứ một hiện tượng nào xẩy ra đến trước giác quan của tôi. Một cái lá rơi vào phòng hay một tiếng kêu của em bé chơi đùa dưới bãi cỏ non cũng là một sứ giả của hữu thể. Tôi nhìn ngắm, lắng nghe tiếp nhận thông điệp của hữu thể đó do chúng mang đến. Sự xa cách người thân yêu, sự thất vọng sự chạm trán với những gì ta không ưa thích cũng trở nên mầu nhiệm và tràn đầy tính cách xây dựng. Nhờ những thứ đó mà tôi mới được là tôi. Nguyên Hưng mới được là Nguyên Hưng và nụ cười kia mới có thể là một nụ cười. Dưới ánh sáng của cái nhìn ấy, thấy những yếu đuối những dại dột của con người cũng có những khía cạnh mầu nhiệm của chúng. Có những bông hoa khi nở rồi thì không bao giờ còn héo tàn nữa. Nhìn dưới ánh sáng ấy thì sinh diệt nào có khác chi niết bàn. Vì vậy có một đêm trong giờ tư duy tôi bỗng muốn la lên rằng: sự nghiệp của các đức Phật đã được hoàn tất tự những bao giờ, và sở dĩ nó đã hoàn tất cũng vì nó chưa bao giờ thực sự khởi đầu cả.

Nguyên Hưng, nhìn lại lịch sử nhân loại và nhìn lại quá khứ của chúng ta, Nguyên Hưng sẽ phải công nhận rằng quả tình Nguyên Hưng không thể phân biệt được cái gì là thực sự may và cái gì thực sự rủi, cái gì thực sự tốt và cái gì thực sự xấu. Chắc Nguyên Hưng còn nhớ câu chuyện người trại chủ mất ngựa. Mất ngựa có hẳn đó là rủi ro không, điều đó chỉ có một cái nhìn bao quát thời gian và không gian mới trả lời được. Bất cứ sự thành công nào cũng kéo theo sự bất lợi của nó và bất cứ sự thất bại nào cũng đóng góp được vào cái ánh sáng trí tuệ hoặc cái thành công của tương lai. Ta có thể nói rằng cái kia vừa may lại vừa rủi, vừa tốt lại vừa xấu, và như thế có khác chi nói rằng không thực sự có may, rủi, tốt, xấu mà chỉ có nhận thức ngắn và hẹp của con người tạo nên tốt xấu. Tất cả đều là những phân biệt biến kế của nhận thức. Nguyên Hưng, người ta nói rằng không thể nào thành lập được một nền luân lý nếu không thiết lập được tiêu chuẩn thiện ác. Nhưng mà mây bay hoa nở, gió thoảng, nước trôi có cần đến luân lý đâu, có cần đến tiêu chuẩn thiện ác đâu. Thế mà nhiều kẻ lại khen ngợi họ là những bậc thánh, những nhà đại luân lý, nhiều kẻ lại nhìn vào họ, xét nghiệm hành động ngôn ngữ và tư tưởng họ để cố thiết lập ra một nền đạo đức luân lý có cơ sở tiêu chuẩn thiện ác đàng hoàng, và gán cái nền luân lý tìm ra ấy cho họ. Họ chỉ mỉm cười. Nếu nói rằng chính họ, họ không biết thế nào là thiện là ác, thì chắc là không ai không nghĩ rằng họ nói đùa. Chỉ có người điên mới nói thực một câu như vậy. Cho nên người điên nào cũng khó tìm ra một tri kỷ để trao tâm ấn của mình. Một nhà thi hào là gì? Đó là một người không biết gì hết về kỹ thuật vần điệu. Chỉ khi nào anh không phải là thi hào, anh mới biết thế nào là vần điệu mà thôi.

Thế thì, Nguyên Hưng, thứ cam lộ mỗi ngày mà họ uống có thể được bọn phàm nhân xem là độc dược. Mà nói cho ra lẽ, thì độc dược bao giờ cũng là độc dược đối với ai. Đối với người đã nhìn thấy sự vật, thì nhận thức đồng thời là hành động; đâu có thể nói rằng ta phải thiết lập triết lý hành động trên cơ bản triết lý nhận thức, khi chúng ta còn là tù nhân của ý niệm ngôn từ thì chúng ta mới vướng vào sự phân biệt nhận thức và hành động mới có cái hăng hái trẻ con để bàn luận về triết học hành động. Đối với kẻ đã nhìn thấy thì không có sự nhận thức chân lý cũng như không có phương châm hành động. Không có sự chứng đắc và không có đối tượng của chứng đắc. Tâm Kinh đã chẳng nói thế là gì. Và bởi vì đã là sự sống chân thực, đã là gió thoảng, là mây bay, là nước trôi, là hoa nở, kẻ kia cần gì phương châm hành động. Khi người ta bay thì người ta không cần biết đến những luật lệ những dấu hiệu đi đường của xe cộ, dù là xe lớn hay xe nhỏ. Ngôn ngữ kẻ kia sẽ là ngôn ngữ của mây, của gió, của hoa, của nước. Anh đừng đến đặt cho họ những câu hỏi vớ vẫn về triết học. Họ sẽ trả lời anh bằng một câu thơ, hoặc giả họ sẽ hỏi anh xem anh ăn cơm chưa, đã rửa bát chưa. Nếu anh bị bó chặt trong câu hỏi họ sẽ chỉ ra núi rừng:

“Bất tín, chỉ khán bát cửu nguyệt.

Phân phân hoàng diệp mãn sơn xuyên!”

Phải rồi. Không tin, hãy ngắm mùa thu đến; tơi bời lá rụng ngập sơn xuyên. Còn nếu anh cứng đầu thì họ có thể lấy gậy đánh anh cho anh chừa đi cái thói quen đem kính khái niệm đi soi chân lý. Nguyên Hưng ơi, ở Phương Bối chúng ta mà có được một thi sĩ như thế thì núi rừng đã đẹp lại càng thêm đẹp, phải không.

Trong kinh Phật, từ ngữ trang nghiêm được dùng theo nghĩa làm cho đẹp và Bồ-tát trang nghiêm Phật độ có nghĩa là sự hiện hữu của các vị Bồ-tát làm cho đất Phật đẹp đẽ hẳn lên. Tôi nhớ có lần vua Huệ Tông nhà Lý nghe danh Hiện Quang thiền sư, cho người lên núi mời ngài về cung. Người từ chối, trả lời rằng nội các vị Thiền sư tài đức hiện đang phục vụ ở thủ đô cũng đã là trang nghiêm đến điện các rồi. Sự có mặt của người đạt đạo quả có thể làm đẹp cuộc đời bằng chính đạo đức vô hành của họ. Mà đạo đức vô hành thì làm gì có tiêu chuẩn, có phương châm hả Nguyên Hưng.

Bây giờ là mấy giờ, Nguyên Hưng biết không? Còn mười lăm phút nữa là nửa đêm. Lễ Giáng Sinh sắp đến rồi. Nghĩ cũng thật là một điều mầu nhiệm. Tôi thức trong cái giờ linh thiêng này, ngồi đây viết cho Nguyên Hưng. Những ý tưởng của tôi trào lên và tôi cảm thấy dễ chịu khi trút chúng bớt xuống đầu ngòi bút. Tôi vừa nói cho em nghe về nguồn linh cảm đã khiến cho tôi biết nhìn, biết nghe thế giới hiện tượng một cách cẩn thận. Có những giây phút chỉ xảy đến một lần hoặc vài lần trong đời, xảy đến như sự xuất hiện của một vị sứ giả của chân như, một thông điệp của thực tại, và nếu ta vô tâm, ta sẽ để cho chúng đi qua và không bao giờ trở lại. Bí quyết của Thiền tông chắc hẳn là ở chỗ khám phá được đường đi nẻo về của những giây phút như thế và sửa soạn, cống hiến cơ hội cho chúng trở lại. Và cuối cùng, làm cho ánh sáng rạng rỡ của nó tỏa chiếu rạng rỡ trong một chuyến trở về, không từ đâu tới mà cũng sẽ không đi về đâu. Để tôi đọc cho Nguyên Hưng nghe bài thơ sau đây của Quách Thoại nóivề sự hiện diện của bông hoa thược dược:

“đứng yên ngoài hàng dậu

em mỉm nụ nhiệm mầu

lặng nhìn em kinh ngạc:

vừa thoáng nghe em hát

lời ca em thiên thâu

ta sụp lạy, cúi đầu…”

Nguyên Hưng có nghe gì không? Tôi thấy rất rõ là giây phút đã xuất hiện bức màn đã hé, dù trong giây lát, và thi sĩ đã thấy. Bông hoa thược dược đứng ngoài hàng dậu kia, có lẽ vì “hiển nhiên” quá, nên không ai thực sự trông thấy. Khi tâm linh ta nghe được tiếng hát bất diệt của nó và nhìn thấy nụ cười nhiệm mầu của nó thì nó không còn là một bông hoa thược dược tầm thường nữa. Nó là sứ giả, nó là thông điệp, nó là pháp thân. Tôi nhớ có lần Trụ Vũ ca ngợi:

“cánh hoa là tứ đại

mà tỏa hương tinh thần

mắt em là tứ đại

mà rạng ngời yêu thương”

Tôi tưởng Trụ Vũ không ca ngợi mà thốt ra những lời biểu lộ một sự ngạc nhiên. Giây phút cũng đã tới, ánh sáng lòe lên rồi lại tắt. Nhưng trong một đời người mà có được một lần thấy, nào có phải là ít ỏi gì đâu. Đã thấy được một lần thì có thể thấy mãi. Vấn đề là ở chỗ ta có tha thiết không, có thành khẩn không, có cẩn trọng không, thế thôi. Trong thế hệ những người trể tuổi đang bị giam giữ vào ngục tù của chán nản, của sự vô lý và sự tự khinh, ta thấy không biết bao nhiều người nhận thức thực tại như một cái gì nhầy nhụa và thân thể tâm hồn mình như một vũng bùn tanh hôi. Thảm thương biết bao. Sự giải thoát, như thế, chỉ có thể đi tìm nơi hủy diệt. Tứ diệu đế nên áp dụng trong mục đích tìm ra và tiêu diệt nguyên nhân của nhận thức đen tối ấy thì là một điều quý hóa. Còn nếu, vì muối giải thích biện hộ cho sự thực thứ nhất bằng cách phải bôi lem bức tranh thực tại, gán cho thực tại tính cách khổ tự nó không có gì đó là bắt đầu một cuộc vu khống to lớn. Thực tại không khổ không lạc, chỉ có qua nhận thức ta nó mới là khổ hay lạc mà thôi. Nói như thế, Nguyên Hưng ơi không phải là nói rằng những trận động đất, những con vi trùng, những trận chiến tranh, những hiện tượng sinh lão bệnh tử… là không có thực. Chúng có thực chứ, cũng như muôn ngàn hiện tượng khác. Nhưng tự thân của chúng không phải là sự đau khổ. Và con người có thể giảm thiểu sự hiện hữu của chúng đến một giới hạn nào đó. Còn tiêu diệt chúng hoàn toàn, đó là điều không thể thực hiện. Cũng như muốn có trắng mà không có đen, có dài mà không có ngắn, có sinh mà không có tử, có một mà không có nhiều. Tính cách biến kế của nhận thức tạo tác ra thế giới khổ đau, những như người thợ vẽ vẽ ra hình ma quỹ và khiếp sợ chính những bức hình của mình. Những bức hình ấy, Nguyên Hưng ơi, nào phải là ảo ảnh: nó là những bức hình có thực.

Nguyên Hưng, đêm mùng hai tháng mười tiếp sau đó là một đêm tôi cần ghi nhớ. Nguyên Hưng cứ tưởng tượng một trời đầy sao sáng, không trăng; nhưng ngôi sao nào cũng sáng cũng đẹp cũng lấp lánh, cũng to như đôi mắt của trẻ con, trên một nền trời không gợn mây. Cố nhiên khung trời đó chỉ là khung trời nội tâm. Vì hôm ấy ở thành phố tôi ở mưa gió về đầy trời. Các cửa phòng đều đóng kín. Suốt một đêm tôi không ngủ, vì có muốn đi ngủ thì “cũng không thể nào ngủ được”. Đầu hôm tôi thức để đọc Bonhoeffer, và giai đoạn chót của đời chàng đã giúp tôi làm bừng tỉnh dậy cái bầu trời đầy sao sáng sẵn có trong tâm linh mỗi người. Tôi bỗng thấy sung sướng lạ kỳ và có cảm nghĩ rõ rệt rằng tôi có thể chịu đựng nổi. Viết đến đây tôi còn thấy tâm hồn rạt rào những cảm xúc mới lạ, và có lẽ Nguyên Hưng cũng đang chia xẻ những cảm xúc ấy với tôi. Bonhoeffer chỉ là một giọt nước cuối cùng làm tách nước tràn đầy, một nhân duyên cuối cùng, một làn gió nhẹ thổi tới cho trái cây chín muồi rụng xuống. Được sống trọn một đêm như thế thì ta không nên than trách chi hết nữa về cuộc đời. Những đêm như thế đẹp lắm Nguyên Hưng; lòng ta ngập tràn thương yêu. Can đảm và nghị lực dâng tràn, ta thấy óc và tim ta là những đóa hoa; những cảm xúc, những rung động, những đau khổ của chúng ta đều hiện hữu một cách rất mầu nhiệm, tuy ta biết rằng hình hài ta vẫn là hình hài của chính ta. Nguyên Hưng chớ cho rằng đó là một trạng thái tôn giáo, đạo đức hay thánh thiện của tâm hồn, khơi động do một nguồn cảm thông hay một ân huệ thiêng liêng nào. Trạng thái tâm linh ấy hoàn toàn nhân bản. Tôi biết, ngay trong giờ phút đó, không có thần thánh, không có giác ngộ ngoài tim tôi, phổi tôi, những hạch tiết tuyến, những tế bào của cơ thể tôi. Sự sống đã mầu nhiệm mà khổ đau cũng mầu nhiệm. Cuộc đời sẽ xấu xí sẽ đen tối và sẽ không thể có, nếu không có khổ đau. Trong cuộc đời không có thường có ngã nhưng cũng không có vô thường vô ngã. Không có sự chết nếu quả thực ta thấy được sự sống. Chỉ nên nói sự sống, và đừng bao giờ dại đột nói Sự sống miên viễn; mệnh đề sự sống miên viễn cũng như ý niệm trường sinh bất tử tự nó là một sự mâu thuẫn, một sự dốt nát, một sự tham lam. Tham lam chỉ là dốt nát; và tham lam dốt nát đánh mất chính sự sống.

Suốt một tháng, tôi tiếp tục tư duy và quán tưởng hình dung các vị Bồ-tát trong Kinh Pháp Hoa và Bát Nhã. Chân dung các vị ấy đẹp lắm, hèn gì các vị ấy không “trang nghiêm” được cho đất Phật. Mà cần gì là đất Phật. Cứ nói đến trái đất của chúng ta đây, sự có mặt của các vị Bồ-tát như thế cũng đủ làm cho đất chúng ta trở thành đất Phật? Cây nêu mà dân Việt dựng lên để ăn tết cũng phản chiếu ước muốn của dân ta rằng đất này là đất Phật, có phải không Nguyên Hưng.

Có khi tôi thấy các vị Bồ-tát trong hình dáng nghèo nàn và lem luốc nhưng khỏe mạnh của họ. Như Trì Địa như Thường Bất Khinh. Một người thì chuyên môn đi nối lại những cây cầu gãy và đắp lại những con đường hư làm gián đoạn giao thông và liên lạc. (Thế giới chúng ta hôm nay có biết bao niều cây cầu đã gãy đổ và bao nhiêu nẻo giao thông bị cắt đứt, hả Nguyên Hưng? Và thế giới chúng ta hôm nay đã có được bao nhiêu Trì Địa, đem tâm lực và thân lực mình để nối lại những nhịp cầu thông cảm và hiểu biết giữa con người với con người, giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa nền văn hóa này với nền văn hóa khác?) Người thứ hai thì đi đâu cũng nói vào tai mọi người rằng: ông có đủ khả năng tiến tới, vậy hãy tin ở sức mình, đừng nên có mặc cảm bất lực, đừng nên thụ động. “Tôi không dám khinh ngài, ngài sẽ thành Phật”. Bức thông điệp của bình đẳng, của tinh thần tự tín tự lực ấy nếu không do những con người kiên nhẫn như Thường Bất Khinh mang đi thì biết do ai? Nguyên Hưng cứ nghĩ đến những người dân quê ở xứ ta và những người dân quê ở các nước chậm tiến khác. Ai nói cho họ biết rằng họ tin nơi sức lực của chính họ để tạo một tương lai cho chính họ, một tương lai mà họ có quyền nắm lấy như bất cứ ai? Thế giới của chúng ta đang cần có thêm nhiều vị Bồ-tát như thế, luôn luôn trên các nẻo đường về, gieo rắc niềm tin, sự tự lực tự cường cho nhân loại. Còn Bồ-tát Quan Thế Âm nữa, mà sau này được gọi là Quán Tự Tại. Chân dung của người là chân dung của sự cảm thông và của sự tìm tới với khổ đau không ngần ngại không e sợ bất cứ một trở ngại nào. Nghe tiếng kêu đau thương của cuộc đời và tìm tới bằng mọi cách. Tìm tới trong bất cứ một hình dáng nào thích hợp. Nguyên Hưng, một vị tăng sĩ, một nhà chính trị, một nhà tư bản, một nhà cư sĩ, một người đàn bà, một em bé, một thiên thần, một con ác quỷ… hình dáng nào thích hợp thì dùng hình dáng ấy. “Ưng dĩ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phu nữ thân đắc độ giả, tức hiện trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phụ nữ thân nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ đồng nam đồng nữ thân đắc độ giả, tức hiện đồng nam đồng nữ thân nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ thiên, long, dọa xoa, càn thát bà, atula, khẩn na la, ma hầu la già, nhân phi nhân đẳng thân đắc độ giả tức giai hiện chi nhi vị thuyết pháp”. Nguyên Hưng có nghe không? Thế giới chúng ta ngày nay phải được cứu nguy bằng mọi mặt bằng mọi hình thức mọi hình thức mọi phương tiện theo tinh thần đại bi tự tại của Quan Thế Âm, phải được xây dựng bằng thái độ dấn thân của tinh thần Thường Bất Khinh, Trì Địa. Lại còn hình dung của Địa Tạng nữa; hình dung của một con người muốn có mặt nơi chốn nhiều đau khổ nhất của cuộc đời. Chừng nào địa ngục còn chưa trống không thì chừng ấy tôi còn phải ở lại địa ngục. Dấn thân mà với tinh thần như thế thì mới thực là dấn thân, có phải không Nguyên Hưng. Tôi tưởng ở đâu có những con người như thế là ở đấy đất phải nở hoa, dù cho ở địa ngục. Dù cho ở bất cứ địa ngục nào.

Nguyên Hưng, tiếp tục đi tìm hình dung các vị Bồ-tát, lắm lúc tôi thấy họ trong những chiếc áo thật đẹp, ngọc minh châu sáng ngời trên đầu, trên tay và trên cổ. Nguyên Hưng hãy nghĩ đến Vô Tận Ý xem. Các vị tăng sĩ thì không bao giờ được miêu tả bằng những hình dáng như vậy. Chắc chắn là hình dáng đó tượng trưng cho sự trang nghiêm tịnh độ. Sự có mặt của họ làm dẹp cho cuộc đời. Áo của các vị Bồ-tát đẹp như những chiếc áo trẻ em ngày Tết. Tôi nghĩ đến một ngày hội đầu xuân. Không ai nhìn thấy khổ đau của con người rõ bằng các vị. Nhưng cũng không ai giữ được nụ cười tươi không bao giờ héo như các vị. Tôi nghe họ nói: chúng tôi không có mặt để khóc than; chúng tôi có mặt để làm đẹp cho cuộc đời. Cám ơn, cám ơn các vị. Cám ơn các bạn. chúng tôi sẽ mặc những chiếc áo đẹp nhất mà chúng tôi có thể cùng với các bạn tô điểm cho cuộc đời. Các vị sẽ sung sướng lần đầu được những người sùng bái các vị gọi các vị là bạn. Các bạn sẽ không còn bị xa cách và bị hiểu lầm do những người quá sùng kính các bạn nữa. Chúng tôi thấy sự có mặt của các bạn rồi. Chúng tôi đến đây, và chúng tôi không có một mảy may tự hào, một mảy may kiêu ngạo, phạm thượng. Chúng tôi chỉ đến với tình thương, với sự hiểu biết. Chúng tôi đã thoát khỏi chiếc vỏ cứng đã từng giam hãm chúng tôi. Này con chim hoàng oanh, cổ họng ngươi tuy bé nhỏ nhưng ngươi hãy hát lên sáng nay, để ca ngợi tính cách mầu nhiệm của thực hữu. Chuỗi ngọc mà Vô Tận Ý vừa trao tặng cho Quan Thế Âm thì long lanh, sáng ngời, trong suốt; tràng nhạc của người cũng sẽ long lanh, sáng ngời trong suốt như thế. Để cho nắng mai tuôn chảy trên các sườn đồi như những dòng thủy tinh và để cho tất cả các bông hoa lớn nhỏ trên cánh đồng cỏ xanh đều cùng nở một lượt đón chào sự tỉnh thức mầu nhiệm.

Nguyên Hưng, tôi đã nói đến cái đêm mầu nhiệm trong đó óc tim tôi nở như những đóa hoa, và tôi tìm thấy các vị Bồ-tát không như những thần linh xa cách con người mà là những người bạn quý mà ta có thể gặp ngay trong cuộc sống này. Tình cờ mà những điều tôi thấy phù hợp với những điều trong bài “nguyện sinh” mà chúng ta thường đọc hàng ngày: Hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh, bất thối Bồ-tát vi bạn lữ. Tim ta và óc ta một khi đã nở thành những đóa hoa thì những đóa hoa này sẽ không bao giờ héo cũng như những đóa sen nở ở Tịnh Độ. Sen nở thì thấy được ánh sáng và tìm được bạn đường.

Nguyên Hưng, hôm qua viết cho Nguyên Hưng, đến đúng nửa đêm Giáng sinh thì tôi ngừng lại. Tôi mặc áo thật ấm, mở cửa ra ngoài và đi đến Campus Center. Tuyết vẫn lặng lẽ rơi. Đến Campus Center tôi gặp anh Ralph Nelson đang ngồi bó gối xem TV một mình trong gian phòng rộng thênh thang. Tôi đến ngồi cạnh Ralph và theo dõi chương trình đặc biệt đêm Giáng sinh. Tôi nghĩ có lẽ Ralph buồn lắm, và cô đơn lắm trông một đêm như đêm nay. Ralph quê ở tận miền Nam, xa quá không về nhà được trong dịp lễ Giáng sinh này. Ralph đã lái xe hơi từ hôm qua, về miền tây Pennsylvania, để thăm một người bạn. Và trên đường về Princeton hôm nay, Ralph bị kẹt tuyết và suýt phải ngủ giữa đường. Ngủ giữa đường thì nguy hiểm lắm, dù là ngủ trong xe, dù là quay kín các cửa xe lên. Bởi vì trời rét lắm không thể chịu nổi. May mắn Ralph vượt khỏi chướng ngại và trở về Campus lúc mười một giờ. Tôi hỏi: “Anh cảm thấy buồn không, trong đêm Giáng sinh này, khi mọi người đều en famille? “Tôi sống lẽ loi cũng quen rồi, Ralph đáp, thành ra không buồn lắm”. Tuy vậy khi ngó anh ta, tôi biết anh ta đang buồn. May mắn lúc đó, máy truyền hình bắt đầu trình bày một phim trào lộng nên tôi thấy trên miệng Ralph một nụ cười. Một giờ rưỡi khuya chúng tôi đi Campus center. Thì ra tuyết vẫn tiếp tục rơi. Tuyết lên cao tới gần đầu gối. Tôi phải lội về Brown Hall từ giả Ralph, rồi vào phòng lau chân thay bít tất, hơ chân vào lò sưởi.

Năm ngoái tôi đi chơi suốt một ngày Giáng sinh bằng xe hơi ở vùng quê và đã chứng kiến được không khí thân mật của các gia đinh vào ngày lễ ấy. Thật không khác gì ngày tết bên ta. Trẻ con và người lớn ai cũng có quà, và có rất nhiều quà. Tôi bị một em nhỏ hỏi: “Ông theo đạo Phật hả? Vậy ở xứ ông, người theo đạo Phật như ông có ăn lễ Giáng sinh không?” Tôi trả lời: “Có chứ, bên xứ tôi người Phật tử ăn lễ giáng sinh vào ngày rằm tháng tư và họ gọi ngày Giáng sinh là ngày Phật đản.” Tôi nghĩ đến những chú bé con như thế ở trại Cherroskees và ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng.

Hết chương 8
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com