NẺO VỀ CỦA Ý
Nhất Hạnh
PHẦN THỨ BAIX
Những dòng chữ này có lẽ sẽ đến tay Nguyên Hưng vào những ngày cuối năm, trong khi ở các chợ Saigon thiên hạ đang tấp nập mua bán. Tôi có thể tưởng tượng được những núi dưa hấu cao ngất, những trái dưa hình thật tròn, da thật xanh và ruột đỏ thắm. Mùa này, ở đây, không sao tìm ra được một trái dưa hấu. Nếu có thì chắc chắn thế nào tôi cũng mua một vài trái rồi gọt thành những cái đèn dưa thật đẹp rồi. Hôm qua tôi có nhận được từ bên nhà gởi qua một gói quà tết, trong đó có mấy miếng trầm, mấy cây đèn bạch lạp, một hộp trà, một ít mức gừng, một ít mức trái tắc, và hạt dưa… Tôi mừng lắm. Tối qua, như một người rất nhàn rỗi, tôi đun nước pha trà, thắp bạch lạp và ngồi cắn hạt dưa một mình. Steve không chịu cắn hạt dưa, nói cho đúng là không biết cắn hạt dưa. Steve cũng không thể ăn mứt gừng; chú ta có nếm một tí và nhăn mặt kêu cay quá. Cậu chỉ uống được trà và nhắm nháp ít trái tắc.
Steve hỏi tôi ăn cái thứ hạt dưa ấy thì có ích lợi gì. Tôi nói: có nhiều cái lợi lắm chứ. Ở đây tuy người ta ăn rất nhiều trong các cuộc lễ, lễ giáng sinh, lễ tạ ơn vân vân… nhưng người ta không nói đến tiếng ăn. Còn bên xứ chúng tôi người ta nói thẳng thắn là ăn. Ăn Tết, ăn lễ sinh nhật, ăn cưới, ăn hỏi, ăn khảm tháng, ăn ngũ tuần, ăn lục tuần, ăn thượng thọ, ăn giỗ, vân vân… Mà Tết thì kéo dài những ba ngày; trong ba ngày liền phải ăn luôn miệng. Đi đâu, gặp ai mời, cũng ăn, cũng phải ăn. Mà thức ăn cũng mau no, chỉ có hạt dưa là ăn mãi không no. Như vậy cái lợi thứ nhất là ăn mãi mà không sợ phải no. Cái lợi thứ hai là ăn hoài mà không sợ hại cho sức khỏe. Ăn cái gì nhiều cũng có thể đau bụng, đau gan, trúng thực nhưng mà ăn hột dưa thì không sao; vì tuy cái miệng ăn hoài mà cái dạ dày không bao giờ đầy. Cái lợi thứ ba là đỡ phải nói chuyện nhất là khi ta không biết chuyện gì mà nói. Dù sao thì cái miệng của tôi cũng đang làm việc mà: Tôi ít nói vì cái miệng tôi đang ăn hạt dưa, chứ không phải làtôi không biết nói chuyện. Cái lợi thứ tư là tránh được cái hại đa ngôn đa quá. Hạt dưa dạy người ta ít nói, dạy người ta im lặng để suy nghĩ về những điều mình muốn nói, dạy người ta biết nghe những người khác. Từ đứa trẻ năm tuổi cho đến ông già tám mươi ai cũng có thể dạy cho ta được nhiều điều bằng các câu chuyện của họ - người ta thường là thế. Hạt dưa khiến cho ta chín chắn hơn, và giúp ta tránh được những câu nói vô ích, lầm lỡ, nhất là câu tuyên bố bừa bãi không dựa trên căn bản suy tư và nhận xét nào cả. Trong trường hợp này, biết thì thưa thốt, không biết thì “cắn hạt dưa” mà nghe. Khỏi phải dựa cột. Steve cười ngất khi nghe tôi nói như vậy và bảo rằng tôi có thể viết những ý đó thành bài nói về cái triết học của hạt dưa đỏ.
Ở nơi Nguyên Hưng ở, bây giờ đã bớt rét chưa? Bên này cố nhiên là trời còn rét lắm. Còn độ hai tháng nữa mùa đông mới qua. Tôi chắc ở chùa Từ Hiếu, các đồi thông đã bắt đầu xanh mướt rồi. Các đọt thông ở đấy vào mùa Xuân sao mà thẳng mà đẹp đến thế. Tôi biết thế nào Nguyên Hưng cũng để rất nhìêu thì giờ đi giữa những cây thông xanh mướt. Tôi chưa bao giờ nỡ bẻ một cành thông, thế nhưng tôi biết những đồi thông mang nhiều thương tích vào những ngày đầu Xuân khi thiên hạ đi hái lộc. Một cái vườn chùa đẹp đến mấy mà sau bữa hái lộc cũng trở thành xác xơ. Tôi nhớ có một năm nọ, chùa Xá Lợi phải trồng một ít cành thông để cho tín đồ hái lộc, như vậy đỡ hại cho những cây cảnh mà chùa phải săn sóc hết hơi mới có lên được. Tôi không biết cái gì đã xảy ra vào tối giao thừa. Không lý chùa phải yết thị rằng hái lộc thì chỉ được hái những cây thông còn các cây khác thì chừa ra. Nếu thế thì sẽ không ai hiểu tại sao. Mà nếu hiểu tại sao thì người ta sẽ không hái lộc nữa, bởi vì người ta nghĩ những cành thông kia không phải thực sự hút nhựa từ đất Phật, không thật sự mọc lên từ đất Phật. Cái tục hái lộc thì thật đẹp nhưng mà đông người hái lộc quá thì không còn đẹp nữa. Tôi nghĩ đến những buổi cầu nguyện đông đảo những buổi thuyết pháp đông đảo và tôi ao ước chúng ta còn có thể duy trì được những cảnh chùa thật thanh tịnh, những buổi gặp mặt truyền tâm giữa một thầy và một trò. Tôi ưa đi vào một chánh điện thanh tịnh và nhỏ bé, một chính điện dành cho sự đối thoại cá nhân giữa con người và đức Phật. Sự đối thoại ấy mới dễ trở thành một sự đối thoại tâm linh của chính mình. Chùa chiền và giáo đường bây giờ có khuynh hướng xây cất cho sự cầu nguyện tập thể. Đó là nhu yếu. Tôi cũng khát khao sự truyền tâm giữa một thầy một trò trong đó trò biết là tất cả con người của thầy đang hướng về mình, kêu gọi sự thức tỉnh và đáp ứng nơi mình, và thầy cũng biết là trước mặt mình cũng chỉ có một trò với tất cả con người trọn vẹn và đặc thù của nó. Trong đại hội Linh Sơn, khi Phật đưa cành hoa lên thì chỉ có Ca Diếp mỉm cười. Đột nhiên đại hội Linh Sơn biến mất, sự có mặt của mọi người trở nên không có. Chỉ có hai người: Phật và Ca Diếp là những người thật sư có mặt. Đám đông Nguyên Hưng ơi, trong những trường hợp như thế, chỉ là một con số không.
Có một buổi chiều đi bộ từ Nam Giao lên chùa tôi gặp một đoàn thiếu niên thiếu nữ Phật tử đi cắm trại từ các đồi thông Từ Hiếu về. Họ đi rải rác, người đi bộ, kẻ đi xe đạp. Người đầu tôi gặp cầm trên tay một cành thông. Người thứ hai cũng vậy. Rồi người thứ ba cũng vậy. Rồi đến cả đoàn. Tôi thấy xót ruột và đau xót cho những đồi thông. Có lẽ ngày Tết cơ sự cũng xẩy ra tương tợ như thế. Tết nầy Nguyên Hưng nhớ “bảo vệ” giúp các đồi thông nhé.
Giờ mà Nguyên Hưng đón giao thừa bên đó thì bên này là giữa trưa. Nghĩ cũng là một điều hay. Năm ngoái tôi đón giao thừa ở Princeton vào lúc mười hai giờ trưa, cùng với một em bé Việt Nam mời được ở cách đó không xa. Giờ đó, thành phố đó, thời tiết đó mà trong phòng chúng tôi cũng có giao thừa. Thiên hạ bên này vẫn đi làm việc tám giờ một ngày, chẳng ai để ý rằng ở Việt Nam Nguyên Hưng đang đón giao thừa, đang ăn Tết. Tại vì tôi biết tôi còn ở đây cho nên tôi cũng biết Nguyên Hưng còn ở đó, Việt Nam còn ở đó, và đêm Giao thừa vẫn hiện hữu. Tất cả chỉ là vấn đề nhận thức, chủ thể nhận thức không rời đối tượng nhận thức. Tôi nhớ có một bữa trưa tôi vào đọc sách nơi phòng triết học của thư viện Butler. Khi vào, tôi chỉ thấy có hai người đang ngồi tra cứu, hai người đàn ông lớn tuổi. Bữa đó tôi đi tìm đọc một cuốn sách của giáo sư Sneider. Đọc được một lúc, không biết rõ là bao lâu, bỗng dưng tôi thoáng thấy mùi hoa bưởi. Ban đầu tôi ngạc nhiên hết sức vì tôi nghĩ rằng ở địa phương này làm gì có hoa bưởi. Nguyên Hưng nên nhớ rằng tôi xa nhà đã lâu và bất cứ hình sắc âm thanh hương vị nào của quê hương đối với tôi cũng vô cùng quý giá, cứ tưởng tượng ngòi tại một xứ xa thật xa, mấy năm trời tự dưng được nghe thấy mùi hoa bưởi kỳ diệu ấy:
Bông lài, bông lý, bông ngâu,
Chẳng bằng bông bưởi thơm lâu, dịu dàng.
Mùi hoa bưởi, mùa hoa của quê hương của ca dao, tôi không đọc Sneider được nữa. Tôi suy nghĩ, và tôi kết luận rằng mùi đó không có thực, không phải là từ tánh cảnh, đới chất cảnh mà từ độc ảnh cảnh tới, nghĩa là ảnh tượng khứu giác được phát hiện trở lại từ tiềm thức. Như thế thì đã có một vài lần tôi trải qua trường hợp ấy rồi. Tôi yên trí, tiếp tục đọc Sneider. Nhưng chỉ một lát sau, mùi hoa bưởi trở lại, hiện thực hơn nhiều, khiến tôi ngừng đọc, ngồi xét lại. Tôi nghĩ rằng có người nào mới vào phòng đọc sách, trong số đó có thể có một cô nữ sinh có sức nước hoa mùi hoa bưởi. Kỳ thực tôi không biết có thể có thứ nước hoa chế tạo bằng hoa bưởi không. Nhưng tôi cứ cho là có. Và tôi nghĩ, trong lúc đầu vẫn cứ nhìn vào trang sách như từ khi mới ngồi xuống đọc, rằng người phụ nữ trang điểm bằng thứ nước hoa kia phải là một người thanh nhã, có dáng dấp Việt Nam, ít nhất là dáng dấp đông phương. Có một cái gì thúc đẩy tôi nhìn lên coi ai mang theo mùi hoa bưởi thân yêu đó. Nhưng mà tôi vẫn không ngửng đầu lên. Tôi tinh nghịch nhủ rằng nếu ngửng đầu lên và tìm thấy một người không giống gì hết với sự tưởng tượng, nghĩa là một người không trang nhã, không có tính cách đông phương, một người béo tốt đẫy đà phấn son trát đầy đầu đầy cổ thì tôi sẽ bị nếm một thứ thất vọng nào đó. Như vậy mà tôi ngồi cho tới năm phút, không ngững đầu lên mà cũng không đọc Sneider. Rồi kết cuộc thì ra làm sao, tôi biết, Nguyên Hưng sẽ hỏi. Nhưng mà tôi không nói đâu, Nguyên Hưng tự đoán lấy. Ai dại gì mà nói điều ấy cho Nguyên Hưng nghe. Tôi mắc cở lắm. Chỉ khi nào Nguyên Hưng giỏi thật giỏi không cần biết tới các kết thúc của câu chuyện thì tôi mới nói cho Nguyên Hưng nghe mà thôi.
Nguyên Hưng, tôi đã phải học thêm Duy Thức từ lúc mười sáu tuổi và cái tuổi non nớt đó không cho phép tôi hiểu thấu được những cái như kiến phần tướng phần, sở sở, duyên duyên. Rất khó mà hiểu tại sao kiến phần và tướng phần là những cái không thể rời nhau mà hiện khởi, tại sao mà chủ thể không thể tồn tại biệt lập ngoài đối tượng. Ấy thế mà hồi đó tôi cũng biết đàm luận về Duy Thức cũng làm bài thi và cũng được điểm cao. Tôi lý luận như thế này: Duy thức là nhờ vào nhận thức thì vạn hữu mới trở thành thực hữu. Không có nhận thức thì do đâu mà biết có với không tức cũng như không có gì cả. Đó, tôi chỉ cắt nghĩa ngây thơ như vậy, còn các lối giải bày khác tôi không nắm được, hoặc tôi cho là vô lý không thể chấp nhận được. Những dòng này do tôi viết và Nguyên Hưng sẽ đọc. Những dòng nầy hiện giờ Nguyên Hưng chưa đọc. Vậy thì những dòng nầy, kể cả bản chất tư tưởng tình cảm, giấy, mực, thời gian, không gian, nét chữ vân vân… chỉ nằm trong nhận thức tôi. Và cả Nguyên Hưng nữa, Nguyên Hưng đối tượng của những dòng chữ này, cũng nằm trong nhận thức tôi. Mà tất cả mọi hiện tượng khác như quê hương Việt Nam với những cây cam cây bưởi đầy hoa, những cây dừa duyên dáng những cây cau cao vút và thẳng băng, cũng như thành phố náo nhiệt tôi ở đây, cũng như mặt trời, tuyết, mây, trăng, sao… đều nằm trong nhận thức tôi. Tất cả đều là khái niệm và thế giới của tôi trong đó có Nguyên Hưng, có cây bưởi, cây chanh cây khế, cũng là một thế giới khái niệm. Vài bữa nữa thì những dòng chữ nầy tới tay Nguyên Hưng. Nguyên Hưng ssẽ thấy tôi hiện hữu trong đó, thành phố tôi hiện hữu trong đó, nhưng mà tất cả những thứ ấy cũng trở thành khái niệm trong nhận thức Nguyên Hưng và không thể được đồng nhất đối tượng của nhận thức tôi. Và ta cứ cho rằng thực tại bản chất tánh cảnh vô chất nằm trong phần căn bản của nhận thức cộng đồng, hoặc có thể gọi là tự thể phần của thức hay của thức cộng đồng cộng biến; còn thế giới khái niệm, thế giới đới chất và độc ảnh, là thế giới được tạo tác nên do khuynh hướng biến kế chấp trong đó tướng phần và kiến phần là hai mặt hiện tượng của một tự thể… Điều này tôi thấy rõ trong một buổi khuya ở chùa Trúc Lâm cách đây chưa đầy hai năm. Đêm đó tôi thức dậy lúc hai giờ rưỡi khuya và không ngủ lại được nữa. Tôi nằm yên lặng cho đến khi chuông khuya bắt đầu ngân nga mới chỗi dậy. Tôi đưa chân xuống tìm đôi dép nhưng không tìm ra, có lẽ đôi dép đã bị tôi đẩy vào gậm giường từ hồi tối. Tôi không tìm đôi dép nữa, cứ đi chân trên nền đất tìm ra cửa sổ. Nền đất lạnh gây cảm giác mát lạnh nơi gang bàn chân của tôi, và sự thấm lạnh ấy đột nhiên khiến tôi tỉnh táo và minh mẫn một cách lạ thường. Tôi đi từng bước tìm tới cửa sổ và tỳ tay nơi cửa sổ nhìn ra ngoài. Trời đất vẫn còn đen tối và tôi không nhìn thấy được gì cả. Tuy nhiên trong đêm đen, tôi vẫn biết cây lá trong vườn còn đó, và bụi trúc đào cũng còn đó ở bên góc kia. Cây hoa dại vẫn còn ở trước cửa sổ tôi. Mà sở dĩ như vậy là tại vì chủ thể nhận thức không thể tồn tại ngoài đối tượng nhận thức. Trong lòng đêm thâu hay trong lòng nhận thức cũng vậy, khóm trúc, cây hoa dại đang đóng vai trò đối tượng sở duyên, chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức không thể rời nhau. Và ngoài kia, núi sông, trời đất, những ngôi sao lớn nhất, và thực hữu, và mặt trời của tôi cũng chỉ nằm trong lòng nhận thức. Đột nhiên thời gian và khoảng cách tự nhiên tiêu diệt, tan biến. Đột nhiên năng và sở tan biến. Đột nhiên diệt và sinh tan biến. Dù em có xa cách vạn muôn do tuần ấy cũng được nối liền trong một lân hư trần. Dù cho bách thiên vạn kiếp thì bách thiên vạn kiếp ấy cũng trở về nối liền với hiện tại trong một sát na. Hiện hữu của em tự nhiên trở về bừng hoa nơi nhận thức tôi. Đột nhiên tôi mĩm cười. Có lẽ lúc ấy mà có một người rình thấy được tôi đang cười trước một đêm đen không trông thấy gì, không trông thấy ai mà cũng không có gì trông thấy mình, không có ai trông thấy mình, người ấy sẽ ngạc nhiên, hoặc có thể hoảng sợ lạnh tới xương sống. Bởi vì cái cười của tôi đối với người ấy có thể có tính cách ma quái hoăïc là của một người sắp sửa điên tới nơi rồi. Có chi mà đáng mỉm cười trước một cái màn đêm đen nghịt và vô nghĩa như vậy. Nhưng Nguyên Hưng biết rằng màn đêm tuy có đen nghịt thật nhưng không vô nghĩa chút nào. Nó trở thành rạng rỡ vô cùng trong nhận thức tôi. Và hiện hữu mầu nhiệm trở thành bừng tỏa nơi nụ cười huyền diệu ấy. Tôi biết là em còn đó vì tôi còn đây và tôi biết tôi còn đây vì em còn đó. Nếu có thì năng duyên và sở duyên cùng có, nếu không thì năng duyên và sở duyên cùng không. Cho nên chủ và khách cùng thuộc về một tự thể vào trong chủ đã có sẵn khách.
Tôi biết rằng lát nữa khi bình minh về thì sẽ cũng không có gì khác lạ xảy ra trên bình diện hữu thể. Mầu trời xanh biếc phương tây và màu chân trời hồng đỏ phương đông cũng chỉ là xanh là hồng trong nhận thức tôi. Xanh không phải thuộc về tự thể xanh và hồng cũng không thuộc về một tự thể hồng. Xanh cũng có nghĩa là xanh đối với tôi, trong nhận thức tôi. Cũng như hồng. Cũng như Sinh. Cũng như Diệt. Cũng như Đồng. Cũng như Dị. Cũng như Lai. cũng như Khứ. Tất cả đều chỉ là hình ảnh nhận thức. Nhìn vào mắt tôi đi và em sẽ thấy em trong đó. Em rạng rỡ thì mắt tôi cũng rạng rỡ. Em mầu nhiệm thì nhận thức tôi cũng mầu nhiệm. Và ngược lại, tôi xa xăm thì em, hình bóng em va tự thể em, cũng trở nên xa xăm. Hãy nhìn vào mắt tôi thì em sẽ biết vũ trụ của tôi sáng hay tối, thiện hay ác, vô cùng hay hữu hạn, sinh tử hay niết bàn. Có lần Trụ Vũ nói:
Bởi vì mắt thấy trời xanh
Cho nên mắt cũng long lanh mầu trời
Bởi vì mắt thấy biển khơi
Cho nên mắt cũng xa vời đại dương.
Nguyên Hưng, khi nụ cười trong đêm thâu bừng nở rồi thì tôi có cảm giác nhẹ nhàng như mây khói và tôi thấy tôi nằm ngữa bơi nhẹ nhàng trên một giòng suối trong mát lạnh. Đầu tôi gối trên những chiếc gối sóng nhỏ. Nhìn lên trời tôi thấy trời xanh mây trắng của ngày cũ. Mây vẫn trắng, trời vẫn xanh. Mây có thể trắng hơn và trời có thể xanh hơn. Đó phải chăng là dấu hiệu của thực tại bất sanh bất diệt? Tôi nghe lá thu khô xao xác trong rừng cây, tôi ngửi thấy hương thơm ngất ngây của cỏ rơm đồng nội.
Những cảm giác ấy thoáng qua mau khi tôi trông thấy một ngôi sao trên trời. Ngôi sao đưa lối cho tôi trở về trước cửa sổ, hai chân trên nền đất mát và hai bàn tay tỳ lên song cửa. Tôi còn đây, tôi hiện hữu cho thế giới hiện hữu, cho em hiện hữu. Cũng như hòn sạn kia, cũng như đám mây kia. Sự hiện hữu của chúng kéo theo sự hiện hữu của tôi. Và nếu viên cuội kia mà không thật sự hiện hữu thì tôi đây làm sao hiện hữu được? Đã có thì có từ hạt bụi. Mà hạt bụi đã không thì tam thiên đại thiên thế giới cũng không. Tôi cũng không. Em cũng không.
Nguyên Hưng, tôi thấy tôi rất bằng lòng cái quê hương này của chúng ta. Dòng sông kia là hình bóng trôi chảy dịch hóa của vạn tượng. Nhờ có sự trôi mà có sự sống. Sự chết cũng nằm trong sự Sống bởi vì không có chết thì không thể có sống. Hoan nghênh sự trôi chảy. Hoan nghênh vô thường vô ngã. Bởi vì có vô thường vô ngã nên mới có thế giới đẹp đẽ của thi ca của thiền. Và còn vườn chuối của đồng bằng kia nữa. Hình bóng của êm mát, ngọt ngào, hiền lành. Và cũng còn những hàng cau thơm ngát… Mặt trái đất sở dĩ đầy tràn cát bụi, là vì chúng ta chỉ nhìn xuống cát bụi. Không, tôi không muốn rời bỏ chốn này để đi về cực lạc hay thiên đường. Quê hương của tôi là đây, ngay trên mặt đất. Chỉ cần ngẫng đầu nhìn lên là tôi trông thấy trăng sao của đêm rằm, của tâm linh. Chính vì được ở đây, vì được dứng đây nên tôi mới thấy được như thế. Điều quan yếu không phải là từ giã, chối bỏ, trốn tránh. Điều quan yếu là nhận thức ra rằng hễ mắt ta mở thì ta trông thấy… Cảnh giới niết bàn quyết định có đủ những thứ cây như cây bàng, cây cau, cây khế, cây chanh, cây bưởi. Tôi thấy như thế. Và tôi buồn cười quá. Tôi buồn cười cho chính tôi, ngày xưa, đã đi tìm niết bàn như một cái gì cách biệt và trái chống với thế giới sinh diệt… Chân như hiển hiện mầu nhiệm nơi tử sinh.
Nguyên Hưng chắc còn nhớ những cơn mưa lớn ở miền Nam đất nước ta. Có một lần tôi ngồi ở nhà một người bạn tôi trông thấy một cảnh tượng mà nhìn ngắm mãi không biết chán. Trời mưa lớn. Bên kia đường. Đối diện với chỗ tôi đang ngồi là một tiệm bán chạp phô lụp xụp. Trong tiệm treo đầy những guốc giây thừng, dây kẽm, song chảo, và bày biện một ngàn thứ lặt vặt khác như nước mắm, đèn cầy, tương kẹo đậu phọng, vân vân… vì vậy tiệm tối om. Lại thêm trời mưa to nữa. Tôi thấy một đứa bé chừng sáu tuổi đang ngồi ăn cơm một mình trước cửa tiệm ngay chỗ bậc cửa ra vào, gần sát giọt nước trên mái chảy xuống. Đứa bé ngồi trên một chiếc đòn thấp. Nó ở trần và chỉ mặc một một chiếc quần cụt. Thân hình đứa bé đen nám, có lẽ tại nó hay chạy chơi ngoài nắng quá. Tay trái nâng một bát cơm, tay phải thì cầm đũa. Nó ăn rất dè dặt, mắt hết ngước nhìn những giọt nước rơi từ mái tôn theo những chiếc bong bóng trước sân. Tôi ngồi cách nó chừng mười thước, nhưng tôi có thể biết được đứa bé đang ăn cơm với trứng vịt chan nước mắm. Những miếng trứng vịt nhỏ xíu chôn dưới đáy bát. Nó lấy đũa moi lên và ăn từng miếng cơm một cách dè xẻn. Vừa ăn nó vừa ngắm mưa một cách thích thú vô cùng và cũng bình tĩnh vô cùng. Tôi ngắm nhìn nó và theo dõi nó trong từng cử chỉ từng cách nhìn. Thân hình nó có vẻ rắn chắc, mạnh khỏe. Ngắm nó tôi thấy sự an lạc. Có lẽ cái chữ le bien-être của tiếp Pháp theo nghĩa chính xác nhất là dùng vào đấy thì rất đúng. Và rất hay nữa. Tôi thấy tim nó đập điều hòa. Phổi nó, dạ dày nó, ruột nó, gan nó, các hạch tiết tuyến của nó làm việc điều hòa. Cái gì cũng thông suốt, cái gì cũng không bị trục trặc. Giả dụ nó bị nhức răng thì cái diện mạo của nó sẽ nhăn nhó, sẽ khó chịu, nó không thể nào an nhiên hạnh phúc như thế kia được. Tôi ngắm nó như ngắm một sự toàn bích, như ngắm một bông hoa, như ngắm một cảnh bình minh. Và tôi chợt thấy chân như và niết bàn hiện hữu. Tôi bị thâu hút vào hình bóng đó và an nhiên trầm tĩnh ngắm nhìn đứa bé như biểu hiện của pháp thân, của niết bàn, của sự an lạc. Tôi thấy sự an lạc đó nơi cách nhìn, mỗi cái và cơm, mỗi cái ngước mắt. Tôi biết chắc rằng lúc đó nó không có ý thức phân biệt rằng nó thuộc giai cấp nghèo, nó không thấy cái quần cụt đen đúa của nó là xấu xí so với quần áo sang trọng của những đứa trẻ khác, rằng chân nó không có giày đẹp, rằng ghế nó ngồi là một cái đòn khập khểnh nghèo nàn. Không không phân biệt, nó không tủi thân, nó không ham muốn. Mà nó sung sướng hoàn toàn, an lạc hoàn toàn. Chỉ nhìn nó, tôi cũng thấy an lạc tràn ngập cả bản thể. Lúc đó có mấy cái bóng đi qua đường, mầu tím mầu đỏ. Tôi thấy nó ngước lên nhìn một một chút - tôi theo dõi nó rất tỷ mĩ - rồi lại đưa mắt trở về với đám bọt nước trước sân, miệng vẫn nhai và cái đầu gục gặc có vẻ thích chí lắm. Tôi biết nó không mảy may chú ý về những người vừa đi qua đường mà tôi biết chắc là hai người thiếu nữ mang dù, vài tôi thoáng thấy những cái áo màu tím màu đỏ. Và chắc chắn cũng vì những cái màu đó, những cái màu chói lọi đó, mà nó ngước mắt lên mà thôi. Mặt nó không lộ một tí thay đổi nào khi nhìn lên. Bỗng tôi thấy nó đưa mắt về phía đầu đường và miệng nó nở một nụ cười rạng rỡ. Nó hoàn toàn bị thu hút bởi cái cảnh tượng đầu đường. Thấy rõ sự sung sướng cực độ biểu lộ trên mặt nó, tôi cũng nhìn về đầu đường. Tôi thấy có hai đứa trẻ đẩy một chiếc xe mây có bốn bánh gỗ đi lại, trên xe có em bé ngồi. Tất cả đều ở truồng. Và cả ba đứa nô đùa thích thú trong mưa. Những chiếc bánh xe gỗ lăn mau, thỉnh thoảng gặp những vũng nước trên đường bắn tung tóe ra hai bên. Tôi nhìn trở lại đứa bé đang ăn cơm. Nó ngừng hẳn công việc ăn và theo dõi trò chơi của ba đứa trẻ ngoài đường. Hai mắt sáng như sao. Tôi không biết hai mắt của tôi có phản chiếu hai mắt của nó không, nhưng có một điều tôi biết rõ là lúc đó tôi cũng sung sướng cực kỳ. Có lẽ là không sung sướng bằng nó, cũng có thể là tôi sung sướng hơn nó, hơn ở chỗ tôi biết sung sướng.
Bỗng tôi nghe nó dạ một tiếng và ôm bát đũa vào nhà. Có lẽ cha mẹ nó gọi vào để bảo nó xới thêm một bát cơm nữa. Hồi lâu tôi thấy n ó không trở ra. Nó có thể trở vào ngồi ăn chung với bố mẹ nó. Cũng có thể nó bị mắng là ăn một chén cơm lâu quá không xong chỉ lo ngồi chơi ở ngoài ngưỡng cửa. Nhưng mà bị mắng như thế thì tôi nghiệp quá. Người ta không biết được rằng nó được sống ở thiên đường ở niết bàn, ở chân như. Người ta không biếùt được rằng những phân biệt, những mừng tủi, những toan tính giết chết thiên đường. Xin đừng la mắng ánh sáng, đừng la mắng những con chim mùa xuân bé nhỏ.
Làm sao anh lên thiên đường được nếu anh không trở thành trẻ thơ. Làm sao anh thấy được chân như bằng con mắt phân biệt. Những hàng chữ này tôi muốn tự nhiên mà trở thành thơ dại. Tôi muốn đè cổ Nguyên Hưng xuống để xem cái xoáy tóc ở phía nào. Một xoáy ở với cha, hai xoáy ở với mẹ, ba xoáy ở với dì… mấy xoáy thì ở với quê hương nhỉ. Tôi đang ngồi đây, chờ Nguyên Hưng trả lời. Tuyết giờ này đang rơi. Tôi muốn liệng về cho Nguyên Hưng một nắm lạnh buốt.
Ngày xưa chúng ta đã từng ước muốn làm những chàng dũng sĩ cần thiết cho cuộc đời, “bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi”. Nhưng chúng ta không biết rằng những chất liệu nào người ta có thể tạo nên một chàng dũng sĩ. Chúng ta muốn được như những chàng dũng sĩ trong các truyện kiếm hiệp. Bây giờ ngồi đây, nhớ lại ước ao đó mà bấc giác mỉm cười. Bộ mặt chúng mình không giống gì một dũng sĩ cả. Thà như ngày xưa cầm kiếm tre đánh nhau và bắt chước y hệt của những lời kiếm khách. Bây giờ nơi thành phố náo nhiệt và lạnh buốt này viết cho Nguyên Hưng lòng tôi cũng vẫn còn đôi chút rộn ràng về cái mộng ngày xưa. Thì ra cuộc đời từ khi có cái mộng của chúng ta vẫn là một cuộc đời kiên nhẫn, kiên nhẫn chờ đợi những chàng dũng sĩ không thể không có trong cuộc đời. Nhưng mà các chàng dũng sĩ ngày xưa trước khi xuống núi cứu giúp đời đều được huấn luyện võ nghệ thời gian lâu dài với các bậc kiếm tiên sư phụ. Còn vốn liếng của chúng ta chỉ có một cuốn Tỳ Ni Nhật Dụng và những cái tài nấu cơm, quét sân, gánh nước, bổ củi. Đã thế trong những kẻ học làm dũng sĩ như chúng ta, có nhiều người không nắm được về kỹ thuật nào về sự nấu cơm, quét sân, gánh nước và bổ củi ấy. Rồi bị bắt buộc vào núi, hoặc tình nguyện xuống núi. Tài nghệ không có, bản lĩnh không có làm sao mà cứu giúp đời. Ấy vậy mà một số người trong chúng ta đã tưởng mình là những chàng dũng sĩ thực thụ. Những chàng dũng sĩ cần thiết cho cuộc đời. Và chính cuộc đời cũng nói như thế, cũng công nhận như thế! Cuộc đời chỉ cần những chàng dũng sĩ giả hiệu, và các chàng dũng sĩ như chúng ta vì thế càng ngày càng tin chắc mình là dũng sĩ. “Cuộc đời nếu không có ta…” Nếu không có ta, chắc cuộc đời đã tàn lụi rồi nhỉ. Nhưng mà Nguyên Hưng ơi trong những năm ở Phương Bối và chính ngay bây giờ nữa, cuộc đời đã tàn rụi đâu. Cuộc đời còn đó, kiên nhẫn chờ đợi mà. Chỉ sợ những người muốn làm dũng sĩ không chờ đợi được chính mình mà thôi. Chúng ta đã gặp những chàng dũng sĩ trên bước đi của chúng ta. Không có bản lĩnh thực của dũng sĩ, họ phải mượn tạm khí giới của cuộc đời. Họ sử dụng được tiền bạc, danh vọng và thế lực. Nhưng mà những khí giới ấy chỉ có thể đối phó với cuộc đời thôi chứ không thể đối phó với bản thân và bảo vệ cho đời sống thực sự của chính các chàng dũng sĩ. Để đối phó với vấn đề sinh tử của chính mình, các chàng dũng sĩ phải dùng sự bận rộn. Sự bận rộn, sự bận rộn. Ai chế tạo ra hóa phẩm kỳ diệu này mà sức tàn phá không khác bom nguyên tử, không khác chi khói thuốc phiện. Cái thế giới nội tâm trống trải quá, và con người bây giờ có thể đối phó với một cuộc chiến tranh dễ dàng hơn đối phó với một cái trống trải của lòng mình. Bận rộn công việc thì than phiền là bận rộn chẳng có thì giờ nghỉ ngơi được. Con người bây giơ không biết nghỉ ngơi. Hoặc giả chỉ biết nghỉ ngơi bằng những loại bận rộn khác, cũng được gọi là bận rộn. Hễ có được một chút thì giờ rỗi rãi ngừng tay thì không chịu đựng nổi. Phải với tay vặn cái nút thu thanh. Hoặc phải vớ lấy một tờ báo, đọc bất cứ bài vở gì, tin tức gì. Đọc quảng cáo cũng được. Phải có một cái gì để nhìn, để nghe, để nói, để trấn giữ đừng để cho cái đầu của sự trống trải xuất hiện. Mặt mũi của sự trống trải sao mà kinh khiếp quá.
Nguyên Hưng, hồi nhỏ tôi có đọc những câu chuyện nói về kẻ ra ngoài thì tả xung hữu đột oai phong lẫm liệt nhưng đến khi về tới nhà là sợ vợ thin thít không dám cựa quậy. Thì những chàng dũng sĩ của ra cũng thế đó. Nhìn qua cái bận rộn của họ, ta có nghĩ rằng họ là dũng sĩ thật nhưng đến khi theo họ trở về nội tâm thì ta tháy tình cảnh tan hoang bi thảm không cùng. Chàng dũng sĩ của chúng ta đi xuống núi là để chuyển hóa cuộc đời nhưng rốt cuộc lại bị cuộc đời chuyển hóa… Tay ấn không vững thì đã không trị được âm binh ma chướng mà còn bị âm binh ma chướng vật ngã nữa. Chàng dũng sĩ của chúng ta không có được một chút bản lĩnh tâm linh nào thì làm sao có thể là một chàng dũng sĩ thật sự?
Nguyên Hưng cũng biết rằng cái cuốn Ty Ni Nhật dụng ấy là một thứ sách “binh pháp nhập môn” của chúng ta; thứ sách khi chúng ta mới được gia nhập thiền môn thì chúng ta phải lấy ngay sách đó làm sách gối đầu giường. Nó chỉ cho chúng ta nắm lấy tâm ý của chúng ta. Trong những phương pháp động tác thường nhật như ăn uống, đi đứng, nằm ngồi, làm việc… Chúng ta phải tự theo dõi chúng ta, dò kiếm những dấu chân và công việc đó khó khăn như công việc dò theo dấu chân trâu để tìm ra con trâu lạc. Dễ gì mà dò biết được lối đi nẻo về của tâm của ý. Tâm ý chúng ta cũng như con vượn chuyền cành. Nó chuyền cành này sang cành khác, thoan thoát mau lẹ. Bắt được nó không phải là chuyện dễ, nhưng công việc ở đây không phải là công việc bắn chết. Công việc ở đây không phải là công việc dọa dẫm, ép buộc. Công việc ở đây là biết được đường đi nẻo về của nó, để không cần dọa dẫm ép buộc mà vẫn có thể đi sát với nó, có nó trong tay bất cứ lúc nào mình muốn. Cuốn sách mỏng đó cho ta những biện pháp đầu để đối phó, hồn nhiên mà vô cùng hiệu lực. Nó dạy ta quan sát và điều phục theo một đường hướng rất thich hợp thiên nhiên tất cả mọi động tác thân thể ngôn ngữ tâm lý của chúng ta. Khi ta đưa hai bàn tay vào chậu nước trong chẳng hạn, nó dạy ta làm phát khởi trong có một tư tưởng trong sáng, tin tưởng và ý thức: “Khi tôi rửa tay bằng nước trong, tôi ước ao bằng mọi người trong chúng ta đều được hai bàn tay tinh khiết để có thể tiếp nhận và duy trì chân lý”. Và trong tất cả mọi động tác, những tư tưởng trong kia đến cùng với ý thức minh mẫn, để tạo nên chánh niệm làm cho mọi động tác thường được coi là tầm thường nhất như đi vệ sinh, hốt rác, chặt cũi… cũng trở nên thánh thiện. Tràn ngập tính chất thi ca và nghệ thuật. Za-zen. Thiền thì đâu cần ngồi. Cuộc đời không phải để mà ngồi dù ngồi chín năm xây mặt vào vách cũng thế. Ngồi chỉ là những bước đầu. Cũng vì vậy mà chúng ta đã được hướng dẫn nấu cơm, rửa bát không chỉ là để có bát sạch. Nói cho đúng mức ngôn ngữ, thì nấu cơm không phải để có cơm, rửa bát không phải để có bát sạch. Và nấu là nấu chứ không phải là nấu cho xong, rửa là rửa chứ không phải là rửa cho xong với ý định là làm cho xong kẻo mệt, làm cho rồi bổn phận, để mà nghỉ, để mà tham thiền, thì việc làm ấy sẽ là hư công, vô ích, không nghĩa gì đối với thiền học. Rửa bát, quét lá trước sân, những việc ấy phải là thiền, là tu, là con đường thành Phật. Thành Phật không do sự lễ lạy, cúng vái ngồi “thiền”. Thiền là ăn, là thở, là nấu cơm, là gánh nước, là chùi cầu vệ sinh. Thiền là dọi ý thức minh mẫn vào mọi động tác thân khẩu ý, là làm cho rạng rỡ những chiếc lá khô, những viên sỏi nhỏ, những đống phân bón, những cành cũi mục… làm cho rạng rỡ tất cả mọi đường đi nẻo về của tâm, của ý. Cho nên Nguyên Hưng biết rằng nắm được cái kỹ thuật nấu cơm, rửa bát, quét sân và nhặt củi ấy thì mới mong xuống núi làm chàng dũng sĩ. Một chàng dũng sĩ như thế thì có thể cười đùa trước các vũ khí của cuộc đời như tiền bạc, danh vọng và quyền thế. Một chàng dũng sĩ như thế thì có thể ngồi trên những đợt sóng thành bại mà không bị đưa lên dìm xuống bởi những đợt sóng thành bại và một chàng dũng sĩ như thế ít ai biết là một chàng dũng sĩ.
Nguyên Hưng, dù sao mùa xuân cũng đã thấy thấp thoáng ở quê nhà. Dù cho quê nhà đang lâm vào tình trạng khốn khổ đau thương đi nữa thì mùa Xuân cũng nên trở về để trao cho Việt Nam khổ đau bức thông điệp hy vọng của sự sống mầu nhiệm, để tất cả chúng ta đặt niềm tin ở tương lai mà vững lòng đi tới. Tuyết đang rơi trước cửa sổ tôi, màu xanh còn vắng mặt. Nhưng thiều quang sẽ đến. Và hàng cây trụi lá khổ hạnh kia cũng như những bải cỏ chôn vùi dưới tuyết kia sẽ lấy lại được màu xanh mơn mởn của mùa Xuân thịnh vượng.
Hết chương 9
VIII
Hôm thứ bảy, nghĩa là sau đó hai hôm, tôi đi chùa lễ Phật cầu nguyện cho mẹ bởi vì hôm đó nhằm ngày rằm tháng chín âm lịch, ngày giỗ của mẹ. Tình cờ hôm đó tại chùa cũng có đại lễ kỷ niệm bảy mươi năm ngày Phật giáo du nhập Hợp Chủng Quốc. Lễ này tổ chức liên tiếp trong ba ngày và có nhiều đại biểu từ các tiểu bang đến dự. Ngôi chùa không to lớn gì, thành thử giảng đường nơi hành lễ cũng chỉ lớn bằng giảng đường chùa Ấn Quang. Vậy mà họ gọi là đó là Mỹ Quốc Phật Học Viện (American Buddhist Academy). Cái tên thì lớn, kỳ thực chùa chỉ có một số lớp dạy giáo lý và thực hành cho các cư sĩ, còn ngoài ra thì dạy pha trà, cắm hoa và đàm thoại Nhật ngữ. Chùa thuộc hệ phái Tịnh Độ Chân Tông và do hai vị trông nom: Hozen Seki vị trú trì. Và giáo sư Phillips giảng sư. Vị này trước là giáo sư ở đại học đường Delaware.
Để tôi nói sơ lược về Phật giáo bên này cho Nguyên Hưng nghe. Ở Hiệp Chủng Quốc có vào khoảng tám mươi ngàn người theo đạo Phật, trong đó phần lớn là người Nhật và người Trung Hoa hoặc đã trở thành công dân Mỹ, hoặc chưa. Trung tâm Phật giáo đặt tại 1710 đường Octario, Cựu Kim Sơn. Các “tăng sĩ” đều là tân tăng của phái Tịnh Độ Chân Tông, khoảng bảy mươi vị, hầu hết là người Nhật rải rác trong các tiểu bang, một số có mặt trong các đại học Mỹ để dạy về ngôn ngữ và văn chương Nhật Bản. Có năm mươi bốn ngôi chùa lớn nhỏ rải rác khắp toàn lãnh thổ. Ngôi chùa ở Nữu Ước so với các ngôi chùa ở Cựu Kim Sơn thì nhỏ bé hơn nhiều. Trong số những người về dự lễ, tôi gặp hai tu sĩ Nam Tông khoác áo vàng, đại đức Anuruddha và đại đức Vinita một người từ tiểu bang Connecticut, còn một người từ Massachusetts. Lễ dâng hương cử hành lúc ba giờ chiều. Vị đại sứ Tích Lan, ông Susantha de Fonseka, cũng có mặt để đọc diễn văn chúc mừng.
Tôi đi bộ một mình đến chùa và đi thật thong thả. Chùa chỉ cách nơi tôi ở có năm ô (bloc) ở vào số 331 đường Riverside Drive. Khi tôi đến thì gần đến giờ thuyết pháp. Khán giả chỉ chừng hai trăm người gồm nhiều quốc tịch trong đó đa số người Nhật. Bài giảng không gây nổi cảm hứng làm tôi thất vọng. Ở đất này mà giảng như thế thì không làm sao gieo được hạt giống đạo Phật trong quần chúng. Nguyên Hưng cũng biết, giáo lý Tịnh Độ Chân Tông cũng như tổ chức của Tịnh Độ Chân Tông không khác giáo lý Thệ Phản là mấy, cả hai đều chú trọng đến tha lực. Vậy thì món ăn đó không thể nào được gọi là mới lạ đối với người Anh và người Mỹ. Thêm nữa để diễn giải giáo lý Cơ đốc của họ, đã có biết bao viện thần học, bao nhiêu nhà truyền giáo xuất sắc; trong khi đó tổ chức Tịnh Độ Chân Tông ở đây thiếu cơ sở giáo dục và đào tạo bắt chước một cách thiếu thông minh nên không thể không chứng tỏ sự kém cỏi non nớt của mình. Thực ra dân Mỹ là một dân có tinh thần tự lập tự cường; trong gia đình cũng như ở ngoài xã hội, con người được đào luyện để có tinh thần tự lập ấy và để khỏi phải nương tựa và sống bám vào những kẻ khác. Như thế chắc chắn một giáo lý như giáo lý tự lực của Thiền Tông sẽ rất thích hợp với họ. Giáo lý Thiền Tông hoàn toàn căn cứ vào tự lực để xây đắp, phát triển và giác ngộ bản thân trong lúc giáo lý Cơ Đốc và Tịnh Độ tự nhận khả năng thiếu kém của con người và nhấn mạnh đến năng lực cứu độ của một thế lực bên ngoài. Cho nên Nguyên Hưng sẽ không lấy làm lạ khi thấy sự truyền bá của đạo Phật Tịnh Độ ở đây chưa gặt hái được những kết quả nào đáng kể. Chúng ta cũng không ngạc nhiên khi thấy tư tưởng Thiền được hâm mộ một cách nồng nhiệt ở đây. Giáo sư Suzuki đã gây được những tiếng vang lớn lao về thiền học ở đất nước này. Sống trong một xã hội quá hoạt động, quá náo nhiệt, và khi đã mệt mỏi vì những tính toán những suy luận hình thức, cố nhiên người ta khao khát một cái trầm tĩnh, tươi mát và tự tại như tinh thần Thiền học. Có sống ở đây Nguyên Hưng mới thực chứng được điều đó.
Để bù lại sự thiếu kém về nội dung giá trị tư tưởng, các nhà truyền giáo Tịnh Độ ở đây phải dùng đến những hình thái sinh hoạt văn hóa Nhật. Người Mỹ ưa món ăn Nhật, nghe đàn Koto, chứng kiến các cuộc pha trà, cắm hoa, vân vân. Thế cho nên sau thời thuyết pháp, có một buổi trình diễn đàn Koto. Mà buổi trình diễn đàn Koto độc chiếc ấy đã kéo lại thăng bằng cho buổi giảng. Ngồi hai bên tôi là những người Mỹ. Họ tỏ vẻ lơ đãng trong thời thuyết pháp như họ lại đã tỏ ra rất thích thú khi nghe đàn Koto.
Tôi cũng thích những bài đã được trình diễn hôm ấy lắm, Nguyên Hưng. Nhạc sĩ Kimioto Eto. Chàng còn trẻ, vào khoảng ba mươi tuổi, khuôn mặt hiền hậu và dễ thương. Trong chiếc Kimono màu đen, chàng bước chậm chạp lên diễn đài, theo tay dìu đỡ của một chàng thanh niên khác. Tôi nghĩ có lẽ vì mắt chàng không trông được rõ. Sau lời giới thiệu của đại đức Saki, chàng chậm rãi ngồi xuống, mỉm cười lặng lẽ, và không nói năng chi. Sao mà tôi yêu cái dáng điệu ấy quá. Chẳng bao giờ chàng nhìn xuống khán giả. Chàng chỉ để tầm mắt trên khoảng rộng của chiếc đàn phủ khăn trắng. Và nụ cười của chàng, nụ cười thật lạ kỳ, thật là lặng lẽ, thật là hàm xúc. Tôi không ngờ ở đất này mà có được một nụ cười như vậy.
Chàng nói là chàng sẽ đàn để cúng dường ngày kỷ niệm 70 năm Phật giáo du nhập Mỹ quốc, để dâng lòng thành lên đức Từ Bi. Con số bảy, chàng nói, nó rất quan trọng đối với chàng. Cha chàng mất đây bảy năm, và mẹ chàng cũng từ trần bảy tháng trước. Nay là lễ bảy mươi năm kỷ niệm Phật giáo du nhập. Và đôi mắt nhỏ lệ. Khuôn mặt trầm lặng, tràn đầy xúc cảm; một niềm cảm xúc lẫn lộn trong tín ngưỡng, thương nhớ và bâng khuâng. Chàng đàn, những bản tự do tay chàng sáng tác. Bản đầu tiên là bản tiếng hát hy vọng. Điệu nhạc tuy trầm buồn thao thức nhưng chứa đầy sức sống nhẫn nại, chứa đầy ý chí cố gắng đi tới. Bản thứ hai là bản Gió mùa thu ngát hương thương nhớ, và bản thứ ba. Tiếng nói tin tưởng của chàng đối với đạo Từ Bi. Mỗi bài được cách khoảng với bài khác bằng một thời gian lặng yên trong nụ cười trầm tĩnh. Xong bản thứ ba, chàng nói cho mọi người biết là hai mắt chàng mù và chàng không thấy gì hết. Mọi người xúc động; tôi cũng xúc động cả tâm hồn, bởi vì trước đây không ai nghĩ rằng chàng lại là một người mù.
Nước mắt tôi muốn trào ra; tôi đứng dậy ra về trước mọi người, bỏ nữa chừng cuộc trình diễn. Tôi thấy như vậy là quá đủ. Trên con đường Bờ Sông tôi đi thong thả từng bước một, lòng thấy bâng khuâng. Nụ cười của Kimioto vẫn còn nguyên vẹn, huyền diệu, trầm lặng. Nếu không biết khổ đau, không bao giờ người ta có thể có được một nụ cười như thế. Và tôi hiểu tại sao nụ cười đã làm cho tôi xúc động ngay từ khi tôi mới trông thấy chàng.
Đường Riverside Drive vắng vẻ. Đột nhiên tôi nhớ tới lời những người bạn dặn dò không nên đi một mình trong đêm khuya trên các con đường vắng đô thành. Nữu Ước có rất nhiều bọn bất lương như bất cứ thành phố nào trên thế giới. Nghĩ như thế, tôi định rẽ sang đường 108 để trở vào Broadway. Vừa rẽ sang đường 108 tôi bỗng thấy mặt trăng, tròn như khuôn mặt hoa sen đức Phật, hiện ra giữa mảnh trời do hai nhà hàng nhà cửa cao vút bên đường chừa lại. Thật là mầu nhiệm. Mặt trăng ở về phía trước mặt tôi, và cũng đi về phía tôi đi.
Mặt trăng Rằm tháng Chín. Chắc là mẹ tôi cũng đi theo tôi đến chùa khi trăng mới mọc.
Cái mặt trăng ấy đã chiếu sáng trên nóc chùa lúc tôi ngồi nghe thuyết pháp, đã chiếu sáng trên nóc chùa lúc tôi ngồi nghe trình diễn đàn Koto. Và mặt trăng ấy bây giờ cũng lại đi theo tôi về tận nhà. Sáu năm về trước, mẹ tôi mất vào ngày trăng tròn tháng chín… Trăng khuya bao giờ hiền hòa êm dịu và mầu nhiệm như tình mẹ. Trong suốt bốn năm trời tôi có cảm giác rất rõ rệt là tôi mất mẹ. Nhưng mà có một đêm tôi nằm mơ thấy mẹ, và từ lúc đó, cảm giác kia không còn nữa. Tôi thấy mẹ tôi chưa bao giờ mất cả, và những đau khổ xót xa trước kia chỉ là những ảo giác trong một giấc mộng. Tôi còn nhớ đó là một đêm tháng tư ở cao nguyên. Tôi nằm mơ thấy mẹ tôi, dung nhan không có gì biến đổi. Tôi nói chuyện với mẹ tôi rất tự nhiên, không có một mảy may cảm giác rằng tôi trong bốn năm, chịu đựng ý tưởng mất mẹ. Chắc Nguyên Hưng muốn hỏi tôi rằng trong bốn năm ấy tôi có lần nào nằm mơ không. Có, tôi nằm mơ thấy mẹ tôi vài lần, nhưng mà những lần thấy như thế không có tác dụng gì rõ rệt sau khi tôi tỉnh thức cả.
Lần này, khi tỉnh thức, tôi cảm thấy tâm hồn bình yên một cách kỳ lạ và tôi thấy một cách rất hiện thực rằng sự sinh diệt của mẹ tôi là một cái gì do tôi tạo ra mà không phải là một thực tại khách quan. Sự hiện thực của mẹ tôi không tùy thuộc vào sinh diệt; không phải nhờ sinh mà mẹ tôi có, không phải vì diệt mà mẹ tôi không có. Cái có với cái không là sáng tạo phẩm của nhận thức chủ quan và do có không hẳn là có và không không hẳn là không. Có là để đối với không, và không là để đối lại với có. Thực ra, đã có thì không thể nào là không, và từ không thì không thể nào sinh ra có. Tôi không muốn lý luận với Nguyên Hưng, tôi chỉ muốn nói với Nguyên Hưng, thế thôi. Bữa đó, tôi thức dậy vào lúc một giờ rưỡi khuya và thấy phép mầu hiển hiện. Niềm đau xót không còn nữa và tôi chứng thực rằng ý tưởng mất mẹ trong suốt bốn năm vừa qua chỉ là những ý tưởng. Thấy được mẹ trong giấc mơ ấy rồi tức là thấy mẹ tôi mãi mãi. Điều này tôi càng thấy rõ hơn khi tôi đi mở cửa đi ra vườn. Vườn đầy ánh trăng khuya dịu dàng và nhiệm mầu. Đó là sự có mặt của mẹ, nhớ thương, đó không là một sự tự an ủi mình. Tôi có thể thấy mẹ tôi bất cứ ở đâu và lúc nào tôi muốn.
Nguyên Hưng, hồi tháng tám trong lúc còn ở Medford, tôi có viết để làm quà cho những người trẻ tuổi quen biết ở nhà một đoản văn tôi là Bông Hồng Cài Áo. Ngồi ở trong nhà gỗ Pomona, tôi đã viết ra những dòng chữ giản dị kia trong lúc chim hót vang rừng. Khi tôi gửi nó đi rồi - tôi gởi cho Nhiên - tôi mới biết rằng những cảm nghĩ trong ấy phát sinh từ một cái nhìn khá mới lạ, cũng là cái nhìn mà tôi đã diễn tả trong lá thư viết cho thầy Thanh Từ. Ngày xưa nói về văn học Việt Nam, tôi cứ giảng đi giảng lại mãi câu thơ:
“mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
đình tiền tạc dạ nhất chi mai”.
của Mãn Giác Thiền Sư đời Lý, rất khâm phục ý tưởng của tác giả nhưng mà chưa bao giờ đón nhận được cái tâm tư của tác giả một cách đích thực. Thì ra trong lúc nhận thức cởi mở, trong lúc cái vỏ cứng nứt rạn, ta có thể trông thấy những điều thật là mầu nhiệm. Cũng như ta có thể thấy được sự hiện hữu của cành mai trong một đêm tăm tối và lạnh lẽo của mùa Đông.
Chúng ta sinh vào thời đại trong đó sự xung đột giữa các giá trị cũ và mới đang sắp đi đến chỗ kết thúc. Tuy vậy nó chưa kết thúc được, và dấu vết của sự xung đột còn hằn lên rõ ràng trong tâm hồn chúng ta. Những câu hỏi mới của triết học đã làm cho chúng ta bơ vơ thêm, lạc lõng thêm, thao thức thêm. Trong trạng thái rối bời của tâm trí, ý niệm về sự vô lý của hiện hữu xấu xa, con người xấu xa; con người muốn tốt cũng không thể nào tốt được, hiện hữu muốn đẹp cũng không thể nào đẹp được. Trong tình trạng đó lắm khi chúng ta còn có ảo tưởng rằng chúng ta có tự do, chúng ta còn là chúng ta. Nhưng hẳn Nguyên Hưng cũng đã từng biết rằng kinh nghiệm bản thân rằng chúng ta nhiều khi chỉ viết chính tả, mà kẻ đọc cho chúng ta viết vốn không phải là ta mà lại là những dấu vết được ghi trên chúng ta, hoặc nói một cách khác hơn là mệnh lệnh của nghiệp lực cộng đồng. Chúng ta đã không được là chúng ta thì, nếu chúng ta có tự do đi nữa, tự do đó cũng không phải là tự do của chúng ta. Có lúc chúng ta không còn “ham” tự do nữa, có lúc chúng ta sợ hãi tự do: đó là tại vì chúng ta không thực là chúng ta. Chúng ta bị bao phủ rất là nhiều lớp rong rêu và vôi gạch. Chúng ta cần đập vỡ tất cả để được giải thoát. Nhưng chúng ta sợ sự đập vỡ đó, bởi vì chúng ta cứ tưởng những lớp vôi gạch rong rêu đó mà vỡ thì chúng ta cũng vỡ luôn, mà những lớp vôi gạch rong rêu đó, than ôi, có phải là chúng ta đâu.
Ngày tôi khám phá ra cái điều mà tôi nói đó, tôi bổng thấy tôi nhìn tất cả mọi vật với một cặp mắt khác lạ. Trước hết, tôi nhìn vào tôi, và tôi thấy thân thể tôi quả là một cái gì mầu nhiệm. Tôi chưa bao giờ nhìn tôi như thế. Tôi thấy không có lý do gì mà ta lại có thể nhìn thân thể ta, một trong năm phần của hợp thể ngũ uẩn, với một cặp mắt coi thường. Chúng ta có khuynh hướng coi thường những gì nằm trong tầm tay của chúng ta. Chúng ta đánh giá chúng một cách quá hạ và lắm khi vì u mê chúng ta nguyền rủa sự tồn tại của chúng. Như đôi mắt của tôi đây chẳng hạn. Vì tôi có đôi mắt, và vì tôi cho đó là một sự thực hiển nhiên - mà hiển nhiên sao được, làm gì mà hiển nhiên được một cách dễ dàng thế - cho nên tôi không chú trọng tới chúng, không cần hỏi han chúng, không nhận được thông điệp của chúng và do đó tôi mất chúng. Có cũng như không. Chỉ khi nào người ta bị mù đột ngột, người ta mới cảm nhận được sự hiện hữu trước kia của đôi mắt; nhưng cảm nhận như thế thì muộn quá rồi. Một người mù được sáng mới biết thế nào là sự hiện diện quý giá của một đôi mắt; người đó có thể sống sung sướng ngay trên trái đất, sung sướng hơn cả trên thiên đường. Thế giới đầy màu sắc này, cùng với đôi mắt kia là những gì thật mầu nhiệm, là những gì có thể hiến dâng cho chúng ta những sung sướng ngây ngất. Từ lúc đó chẳng khi nào nhìn mây trắng trời xanh mà tôi lại không nhìn với nụ cười. Thế giới đột nhiên giầu có hẳn lên và tươi sáng hẳn lên. Người mù mới sáng có thể tìm thấy thiên đường, nhưng hắn sẽ làm quen với thiên đường trong một thời gian ngắn, rồi vẫn coi thường thiên đường, cho thiên đường là cái gì hiển nhiên. Và vì vậy, hắn sẽ mất thiên đường trong vài ba tuần lễ, nhiều lắm trong vòng ba tháng. Trong khi đó một con mắt tâm linh của Nguyên Hưng sẽ không bao giờ làm mất thế giới pháp thân.
Hồi nhỏ chúng ta được dạy rằng những đau khổ lớn của con người là sinh, lão, bệnh, tử, là ước mong mà không được thành tựu, là hợp nhau mà không được chung nhau, là khắc nhau mà vẫn vẫn phải gần nhau. Nhưng mà Nguyên Hưng ơi, những đau khổ đích thực của con người không nằm trong sinh, lão, bệnh, tử, không nằm trong trường hợp ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc. Nó nằm ở trong cái cách chúng ta nhìn thực tại. Quả là như vậy đó, Nguyên Hưng. Sinh lão bệnh tử, sự chia cách, sự kết hợp vẫn có những mầu nhiệm của chúng, vẫn là những đặc tính quý giá của hiện hữu. Điều quan trọng nhất là làm như thế nào ngồi yên lành trên những đợt sóng hiện tượng đó với một nụ cười của bản thể không sinh không diệt.
Tôi nhớ trong kinh Bảo Tích có một đoạn như sau đây. Phật nói: Có một người nhặt cục đất ném vào con chó. Con chó đau quá, tức giận chạy theo cục đất để cắn trả thù. Con chó không biết rằng kẻ thù không phải là cục đất mà là người ném cục dất. Cũng như vậy, những kẻ khờ dại nghĩ rằng mầu sắc, âm thanh, hương vị v.v… là nguyên do khổ đau và kết luận rằng muốn hết khổ đau thì phải tiêu diệt hoặc lánh xa sắc, thanh, hương, vị, xúc… Kỳ thực đau khổ không nằm trong sắc, thanh, hương,vị xúc. Đau khổ nằm nơi cách nhìn và sử dụng của chúng ta đối sắc, thanh hương vị xúc. Vấn đề là như thế. Chúng ta khổ đau không phải vì thực tại chất chứa khổ đau, mâu thuẫn và vô lý mà vì chúng ta đã nhìn thực tại qua những lớp màn nhận thức đen tối mang nặng tư kiến tư dục của chúng ta để thấy thực tại chất chứa khổ đau, mâu thuẫn và vô lý. Có lần đi xa quê nhà hằng năm phải nói tiếng ngoại quốc cả ngày tôi bổng thấy nhớ những giọng nói quen thuộc quá chừng. Lắm khi tôi ao ước được nghe những giọng nói quen thuộc ấy đến nỗi tôi nghĩ rằng vài ba phút thôi cũng đủ làm cho tôi sung sướng suốt ngày. Mà kỳ lạ thực, Nguyên Hưng, tự nhiên - sao lại tự nhiên - một buổi sáng chuông điện thoại reo và tôi được nghe tiếng của Phượng từ bên nhà gọi sang. Câu chuyện tuy ngắn ngủi và chỉ gồm có một số câu hỏi về công việc nhưng tôi cũng thấy quý giá và do đó cũng sung sướng đến mấy ngày. Từ đó mỗi khi nói chuyện với một người thân là tôi để hết tâm ý vào câu chuyện và ngthe thấy cả tiết điệu của giọng nói. Tôi phân biệt được giọng nói và cả những lo âu những cảm động những thao thức vân vân… chứa đựng trong giọng nói. Đó thật cũng là một điều mầu nhiệm. Dễ gì mà nghe được như thế, hiểu được như thế và cảm nhận được như thế. Tuy vậy trong chúng ta ai cũng có điều kiện để nghe, để hiểu để cảm nhận. Tôi không bao giờ còn thái độ khinh suất và lơ là với bất cứ một hiện tượng nào xẩy ra đến trước giác quan của tôi. Một cái lá rơi vào phòng hay một tiếng kêu của em bé chơi đùa dưới bãi cỏ non cũng là một sứ giả của hữu thể. Tôi nhìn ngắm, lắng nghe tiếp nhận thông điệp của hữu thể đó do chúng mang đến. Sự xa cách người thân yêu, sự thất vọng sự chạm trán với những gì ta không ưa thích cũng trở nên mầu nhiệm và tràn đầy tính cách xây dựng. Nhờ những thứ đó mà tôi mới được là tôi. Nguyên Hưng mới được là Nguyên Hưng và nụ cười kia mới có thể là một nụ cười. Dưới ánh sáng của cái nhìn ấy, thấy những yếu đuối những dại dột của con người cũng có những khía cạnh mầu nhiệm của chúng. Có những bông hoa khi nở rồi thì không bao giờ còn héo tàn nữa. Nhìn dưới ánh sáng ấy thì sinh diệt nào có khác chi niết bàn. Vì vậy có một đêm trong giờ tư duy tôi bỗng muốn la lên rằng: sự nghiệp của các đức Phật đã được hoàn tất tự những bao giờ, và sở dĩ nó đã hoàn tất cũng vì nó chưa bao giờ thực sự khởi đầu cả.
Nguyên Hưng, nhìn lại lịch sử nhân loại và nhìn lại quá khứ của chúng ta, Nguyên Hưng sẽ phải công nhận rằng quả tình Nguyên Hưng không thể phân biệt được cái gì là thực sự may và cái gì thực sự rủi, cái gì thực sự tốt và cái gì thực sự xấu. Chắc Nguyên Hưng còn nhớ câu chuyện người trại chủ mất ngựa. Mất ngựa có hẳn đó là rủi ro không, điều đó chỉ có một cái nhìn bao quát thời gian và không gian mới trả lời được. Bất cứ sự thành công nào cũng kéo theo sự bất lợi của nó và bất cứ sự thất bại nào cũng đóng góp được vào cái ánh sáng trí tuệ hoặc cái thành công của tương lai. Ta có thể nói rằng cái kia vừa may lại vừa rủi, vừa tốt lại vừa xấu, và như thế có khác chi nói rằng không thực sự có may, rủi, tốt, xấu mà chỉ có nhận thức ngắn và hẹp của con người tạo nên tốt xấu. Tất cả đều là những phân biệt biến kế của nhận thức. Nguyên Hưng, người ta nói rằng không thể nào thành lập được một nền luân lý nếu không thiết lập được tiêu chuẩn thiện ác. Nhưng mà mây bay hoa nở, gió thoảng, nước trôi có cần đến luân lý đâu, có cần đến tiêu chuẩn thiện ác đâu. Thế mà nhiều kẻ lại khen ngợi họ là những bậc thánh, những nhà đại luân lý, nhiều kẻ lại nhìn vào họ, xét nghiệm hành động ngôn ngữ và tư tưởng họ để cố thiết lập ra một nền đạo đức luân lý có cơ sở tiêu chuẩn thiện ác đàng hoàng, và gán cái nền luân lý tìm ra ấy cho họ. Họ chỉ mỉm cười. Nếu nói rằng chính họ, họ không biết thế nào là thiện là ác, thì chắc là không ai không nghĩ rằng họ nói đùa. Chỉ có người điên mới nói thực một câu như vậy. Cho nên người điên nào cũng khó tìm ra một tri kỷ để trao tâm ấn của mình. Một nhà thi hào là gì? Đó là một người không biết gì hết về kỹ thuật vần điệu. Chỉ khi nào anh không phải là thi hào, anh mới biết thế nào là vần điệu mà thôi.
Thế thì, Nguyên Hưng, thứ cam lộ mỗi ngày mà họ uống có thể được bọn phàm nhân xem là độc dược. Mà nói cho ra lẽ, thì độc dược bao giờ cũng là độc dược đối với ai. Đối với người đã nhìn thấy sự vật, thì nhận thức đồng thời là hành động; đâu có thể nói rằng ta phải thiết lập triết lý hành động trên cơ bản triết lý nhận thức, khi chúng ta còn là tù nhân của ý niệm ngôn từ thì chúng ta mới vướng vào sự phân biệt nhận thức và hành động mới có cái hăng hái trẻ con để bàn luận về triết học hành động. Đối với kẻ đã nhìn thấy thì không có sự nhận thức chân lý cũng như không có phương châm hành động. Không có sự chứng đắc và không có đối tượng của chứng đắc. Tâm Kinh đã chẳng nói thế là gì. Và bởi vì đã là sự sống chân thực, đã là gió thoảng, là mây bay, là nước trôi, là hoa nở, kẻ kia cần gì phương châm hành động. Khi người ta bay thì người ta không cần biết đến những luật lệ những dấu hiệu đi đường của xe cộ, dù là xe lớn hay xe nhỏ. Ngôn ngữ kẻ kia sẽ là ngôn ngữ của mây, của gió, của hoa, của nước. Anh đừng đến đặt cho họ những câu hỏi vớ vẫn về triết học. Họ sẽ trả lời anh bằng một câu thơ, hoặc giả họ sẽ hỏi anh xem anh ăn cơm chưa, đã rửa bát chưa. Nếu anh bị bó chặt trong câu hỏi họ sẽ chỉ ra núi rừng:
“Bất tín, chỉ khán bát cửu nguyệt.
Phân phân hoàng diệp mãn sơn xuyên!”
Phải rồi. Không tin, hãy ngắm mùa thu đến; tơi bời lá rụng ngập sơn xuyên. Còn nếu anh cứng đầu thì họ có thể lấy gậy đánh anh cho anh chừa đi cái thói quen đem kính khái niệm đi soi chân lý. Nguyên Hưng ơi, ở Phương Bối chúng ta mà có được một thi sĩ như thế thì núi rừng đã đẹp lại càng thêm đẹp, phải không.
Trong kinh Phật, từ ngữ trang nghiêm được dùng theo nghĩa làm cho đẹp và Bồ-tát trang nghiêm Phật độ có nghĩa là sự hiện hữu của các vị Bồ-tát làm cho đất Phật đẹp đẽ hẳn lên. Tôi nhớ có lần vua Huệ Tông nhà Lý nghe danh Hiện Quang thiền sư, cho người lên núi mời ngài về cung. Người từ chối, trả lời rằng nội các vị Thiền sư tài đức hiện đang phục vụ ở thủ đô cũng đã là trang nghiêm đến điện các rồi. Sự có mặt của người đạt đạo quả có thể làm đẹp cuộc đời bằng chính đạo đức vô hành của họ. Mà đạo đức vô hành thì làm gì có tiêu chuẩn, có phương châm hả Nguyên Hưng.
Bây giờ là mấy giờ, Nguyên Hưng biết không? Còn mười lăm phút nữa là nửa đêm. Lễ Giáng Sinh sắp đến rồi. Nghĩ cũng thật là một điều mầu nhiệm. Tôi thức trong cái giờ linh thiêng này, ngồi đây viết cho Nguyên Hưng. Những ý tưởng của tôi trào lên và tôi cảm thấy dễ chịu khi trút chúng bớt xuống đầu ngòi bút. Tôi vừa nói cho em nghe về nguồn linh cảm đã khiến cho tôi biết nhìn, biết nghe thế giới hiện tượng một cách cẩn thận. Có những giây phút chỉ xảy đến một lần hoặc vài lần trong đời, xảy đến như sự xuất hiện của một vị sứ giả của chân như, một thông điệp của thực tại, và nếu ta vô tâm, ta sẽ để cho chúng đi qua và không bao giờ trở lại. Bí quyết của Thiền tông chắc hẳn là ở chỗ khám phá được đường đi nẻo về của những giây phút như thế và sửa soạn, cống hiến cơ hội cho chúng trở lại. Và cuối cùng, làm cho ánh sáng rạng rỡ của nó tỏa chiếu rạng rỡ trong một chuyến trở về, không từ đâu tới mà cũng sẽ không đi về đâu. Để tôi đọc cho Nguyên Hưng nghe bài thơ sau đây của Quách Thoại nóivề sự hiện diện của bông hoa thược dược:
“đứng yên ngoài hàng dậu
em mỉm nụ nhiệm mầu
lặng nhìn em kinh ngạc:
vừa thoáng nghe em hát
lời ca em thiên thâu
ta sụp lạy, cúi đầu…”
Nguyên Hưng có nghe gì không? Tôi thấy rất rõ là giây phút đã xuất hiện bức màn đã hé, dù trong giây lát, và thi sĩ đã thấy. Bông hoa thược dược đứng ngoài hàng dậu kia, có lẽ vì “hiển nhiên” quá, nên không ai thực sự trông thấy. Khi tâm linh ta nghe được tiếng hát bất diệt của nó và nhìn thấy nụ cười nhiệm mầu của nó thì nó không còn là một bông hoa thược dược tầm thường nữa. Nó là sứ giả, nó là thông điệp, nó là pháp thân. Tôi nhớ có lần Trụ Vũ ca ngợi:
“cánh hoa là tứ đại
mà tỏa hương tinh thần
mắt em là tứ đại
mà rạng ngời yêu thương”
Tôi tưởng Trụ Vũ không ca ngợi mà thốt ra những lời biểu lộ một sự ngạc nhiên. Giây phút cũng đã tới, ánh sáng lòe lên rồi lại tắt. Nhưng trong một đời người mà có được một lần thấy, nào có phải là ít ỏi gì đâu. Đã thấy được một lần thì có thể thấy mãi. Vấn đề là ở chỗ ta có tha thiết không, có thành khẩn không, có cẩn trọng không, thế thôi. Trong thế hệ những người trể tuổi đang bị giam giữ vào ngục tù của chán nản, của sự vô lý và sự tự khinh, ta thấy không biết bao nhiều người nhận thức thực tại như một cái gì nhầy nhụa và thân thể tâm hồn mình như một vũng bùn tanh hôi. Thảm thương biết bao. Sự giải thoát, như thế, chỉ có thể đi tìm nơi hủy diệt. Tứ diệu đế nên áp dụng trong mục đích tìm ra và tiêu diệt nguyên nhân của nhận thức đen tối ấy thì là một điều quý hóa. Còn nếu, vì muối giải thích biện hộ cho sự thực thứ nhất bằng cách phải bôi lem bức tranh thực tại, gán cho thực tại tính cách khổ tự nó không có gì đó là bắt đầu một cuộc vu khống to lớn. Thực tại không khổ không lạc, chỉ có qua nhận thức ta nó mới là khổ hay lạc mà thôi. Nói như thế, Nguyên Hưng ơi không phải là nói rằng những trận động đất, những con vi trùng, những trận chiến tranh, những hiện tượng sinh lão bệnh tử… là không có thực. Chúng có thực chứ, cũng như muôn ngàn hiện tượng khác. Nhưng tự thân của chúng không phải là sự đau khổ. Và con người có thể giảm thiểu sự hiện hữu của chúng đến một giới hạn nào đó. Còn tiêu diệt chúng hoàn toàn, đó là điều không thể thực hiện. Cũng như muốn có trắng mà không có đen, có dài mà không có ngắn, có sinh mà không có tử, có một mà không có nhiều. Tính cách biến kế của nhận thức tạo tác ra thế giới khổ đau, những như người thợ vẽ vẽ ra hình ma quỹ và khiếp sợ chính những bức hình của mình. Những bức hình ấy, Nguyên Hưng ơi, nào phải là ảo ảnh: nó là những bức hình có thực.
Nguyên Hưng, đêm mùng hai tháng mười tiếp sau đó là một đêm tôi cần ghi nhớ. Nguyên Hưng cứ tưởng tượng một trời đầy sao sáng, không trăng; nhưng ngôi sao nào cũng sáng cũng đẹp cũng lấp lánh, cũng to như đôi mắt của trẻ con, trên một nền trời không gợn mây. Cố nhiên khung trời đó chỉ là khung trời nội tâm. Vì hôm ấy ở thành phố tôi ở mưa gió về đầy trời. Các cửa phòng đều đóng kín. Suốt một đêm tôi không ngủ, vì có muốn đi ngủ thì “cũng không thể nào ngủ được”. Đầu hôm tôi thức để đọc Bonhoeffer, và giai đoạn chót của đời chàng đã giúp tôi làm bừng tỉnh dậy cái bầu trời đầy sao sáng sẵn có trong tâm linh mỗi người. Tôi bỗng thấy sung sướng lạ kỳ và có cảm nghĩ rõ rệt rằng tôi có thể chịu đựng nổi. Viết đến đây tôi còn thấy tâm hồn rạt rào những cảm xúc mới lạ, và có lẽ Nguyên Hưng cũng đang chia xẻ những cảm xúc ấy với tôi. Bonhoeffer chỉ là một giọt nước cuối cùng làm tách nước tràn đầy, một nhân duyên cuối cùng, một làn gió nhẹ thổi tới cho trái cây chín muồi rụng xuống. Được sống trọn một đêm như thế thì ta không nên than trách chi hết nữa về cuộc đời. Những đêm như thế đẹp lắm Nguyên Hưng; lòng ta ngập tràn thương yêu. Can đảm và nghị lực dâng tràn, ta thấy óc và tim ta là những đóa hoa; những cảm xúc, những rung động, những đau khổ của chúng ta đều hiện hữu một cách rất mầu nhiệm, tuy ta biết rằng hình hài ta vẫn là hình hài của chính ta. Nguyên Hưng chớ cho rằng đó là một trạng thái tôn giáo, đạo đức hay thánh thiện của tâm hồn, khơi động do một nguồn cảm thông hay một ân huệ thiêng liêng nào. Trạng thái tâm linh ấy hoàn toàn nhân bản. Tôi biết, ngay trong giờ phút đó, không có thần thánh, không có giác ngộ ngoài tim tôi, phổi tôi, những hạch tiết tuyến, những tế bào của cơ thể tôi. Sự sống đã mầu nhiệm mà khổ đau cũng mầu nhiệm. Cuộc đời sẽ xấu xí sẽ đen tối và sẽ không thể có, nếu không có khổ đau. Trong cuộc đời không có thường có ngã nhưng cũng không có vô thường vô ngã. Không có sự chết nếu quả thực ta thấy được sự sống. Chỉ nên nói sự sống, và đừng bao giờ dại đột nói Sự sống miên viễn; mệnh đề sự sống miên viễn cũng như ý niệm trường sinh bất tử tự nó là một sự mâu thuẫn, một sự dốt nát, một sự tham lam. Tham lam chỉ là dốt nát; và tham lam dốt nát đánh mất chính sự sống.
Suốt một tháng, tôi tiếp tục tư duy và quán tưởng hình dung các vị Bồ-tát trong Kinh Pháp Hoa và Bát Nhã. Chân dung các vị ấy đẹp lắm, hèn gì các vị ấy không “trang nghiêm” được cho đất Phật. Mà cần gì là đất Phật. Cứ nói đến trái đất của chúng ta đây, sự có mặt của các vị Bồ-tát như thế cũng đủ làm cho đất chúng ta trở thành đất Phật? Cây nêu mà dân Việt dựng lên để ăn tết cũng phản chiếu ước muốn của dân ta rằng đất này là đất Phật, có phải không Nguyên Hưng.
Có khi tôi thấy các vị Bồ-tát trong hình dáng nghèo nàn và lem luốc nhưng khỏe mạnh của họ. Như Trì Địa như Thường Bất Khinh. Một người thì chuyên môn đi nối lại những cây cầu gãy và đắp lại những con đường hư làm gián đoạn giao thông và liên lạc. (Thế giới chúng ta hôm nay có biết bao niều cây cầu đã gãy đổ và bao nhiêu nẻo giao thông bị cắt đứt, hả Nguyên Hưng? Và thế giới chúng ta hôm nay đã có được bao nhiêu Trì Địa, đem tâm lực và thân lực mình để nối lại những nhịp cầu thông cảm và hiểu biết giữa con người với con người, giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa nền văn hóa này với nền văn hóa khác?) Người thứ hai thì đi đâu cũng nói vào tai mọi người rằng: ông có đủ khả năng tiến tới, vậy hãy tin ở sức mình, đừng nên có mặc cảm bất lực, đừng nên thụ động. “Tôi không dám khinh ngài, ngài sẽ thành Phật”. Bức thông điệp của bình đẳng, của tinh thần tự tín tự lực ấy nếu không do những con người kiên nhẫn như Thường Bất Khinh mang đi thì biết do ai? Nguyên Hưng cứ nghĩ đến những người dân quê ở xứ ta và những người dân quê ở các nước chậm tiến khác. Ai nói cho họ biết rằng họ tin nơi sức lực của chính họ để tạo một tương lai cho chính họ, một tương lai mà họ có quyền nắm lấy như bất cứ ai? Thế giới của chúng ta đang cần có thêm nhiều vị Bồ-tát như thế, luôn luôn trên các nẻo đường về, gieo rắc niềm tin, sự tự lực tự cường cho nhân loại. Còn Bồ-tát Quan Thế Âm nữa, mà sau này được gọi là Quán Tự Tại. Chân dung của người là chân dung của sự cảm thông và của sự tìm tới với khổ đau không ngần ngại không e sợ bất cứ một trở ngại nào. Nghe tiếng kêu đau thương của cuộc đời và tìm tới bằng mọi cách. Tìm tới trong bất cứ một hình dáng nào thích hợp. Nguyên Hưng, một vị tăng sĩ, một nhà chính trị, một nhà tư bản, một nhà cư sĩ, một người đàn bà, một em bé, một thiên thần, một con ác quỷ… hình dáng nào thích hợp thì dùng hình dáng ấy. “Ưng dĩ trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phu nữ thân đắc độ giả, tức hiện trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà la môn, phụ nữ thân nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ đồng nam đồng nữ thân đắc độ giả, tức hiện đồng nam đồng nữ thân nhi vị thuyết pháp. Ưng dĩ thiên, long, dọa xoa, càn thát bà, atula, khẩn na la, ma hầu la già, nhân phi nhân đẳng thân đắc độ giả tức giai hiện chi nhi vị thuyết pháp”. Nguyên Hưng có nghe không? Thế giới chúng ta ngày nay phải được cứu nguy bằng mọi mặt bằng mọi hình thức mọi hình thức mọi phương tiện theo tinh thần đại bi tự tại của Quan Thế Âm, phải được xây dựng bằng thái độ dấn thân của tinh thần Thường Bất Khinh, Trì Địa. Lại còn hình dung của Địa Tạng nữa; hình dung của một con người muốn có mặt nơi chốn nhiều đau khổ nhất của cuộc đời. Chừng nào địa ngục còn chưa trống không thì chừng ấy tôi còn phải ở lại địa ngục. Dấn thân mà với tinh thần như thế thì mới thực là dấn thân, có phải không Nguyên Hưng. Tôi tưởng ở đâu có những con người như thế là ở đấy đất phải nở hoa, dù cho ở địa ngục. Dù cho ở bất cứ địa ngục nào.
Nguyên Hưng, tiếp tục đi tìm hình dung các vị Bồ-tát, lắm lúc tôi thấy họ trong những chiếc áo thật đẹp, ngọc minh châu sáng ngời trên đầu, trên tay và trên cổ. Nguyên Hưng hãy nghĩ đến Vô Tận Ý xem. Các vị tăng sĩ thì không bao giờ được miêu tả bằng những hình dáng như vậy. Chắc chắn là hình dáng đó tượng trưng cho sự trang nghiêm tịnh độ. Sự có mặt của họ làm dẹp cho cuộc đời. Áo của các vị Bồ-tát đẹp như những chiếc áo trẻ em ngày Tết. Tôi nghĩ đến một ngày hội đầu xuân. Không ai nhìn thấy khổ đau của con người rõ bằng các vị. Nhưng cũng không ai giữ được nụ cười tươi không bao giờ héo như các vị. Tôi nghe họ nói: chúng tôi không có mặt để khóc than; chúng tôi có mặt để làm đẹp cho cuộc đời. Cám ơn, cám ơn các vị. Cám ơn các bạn. chúng tôi sẽ mặc những chiếc áo đẹp nhất mà chúng tôi có thể cùng với các bạn tô điểm cho cuộc đời. Các vị sẽ sung sướng lần đầu được những người sùng bái các vị gọi các vị là bạn. Các bạn sẽ không còn bị xa cách và bị hiểu lầm do những người quá sùng kính các bạn nữa. Chúng tôi thấy sự có mặt của các bạn rồi. Chúng tôi đến đây, và chúng tôi không có một mảy may tự hào, một mảy may kiêu ngạo, phạm thượng. Chúng tôi chỉ đến với tình thương, với sự hiểu biết. Chúng tôi đã thoát khỏi chiếc vỏ cứng đã từng giam hãm chúng tôi. Này con chim hoàng oanh, cổ họng ngươi tuy bé nhỏ nhưng ngươi hãy hát lên sáng nay, để ca ngợi tính cách mầu nhiệm của thực hữu. Chuỗi ngọc mà Vô Tận Ý vừa trao tặng cho Quan Thế Âm thì long lanh, sáng ngời, trong suốt; tràng nhạc của người cũng sẽ long lanh, sáng ngời trong suốt như thế. Để cho nắng mai tuôn chảy trên các sườn đồi như những dòng thủy tinh và để cho tất cả các bông hoa lớn nhỏ trên cánh đồng cỏ xanh đều cùng nở một lượt đón chào sự tỉnh thức mầu nhiệm.
Nguyên Hưng, tôi đã nói đến cái đêm mầu nhiệm trong đó óc tim tôi nở như những đóa hoa, và tôi tìm thấy các vị Bồ-tát không như những thần linh xa cách con người mà là những người bạn quý mà ta có thể gặp ngay trong cuộc sống này. Tình cờ mà những điều tôi thấy phù hợp với những điều trong bài “nguyện sinh” mà chúng ta thường đọc hàng ngày: Hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh, bất thối Bồ-tát vi bạn lữ. Tim ta và óc ta một khi đã nở thành những đóa hoa thì những đóa hoa này sẽ không bao giờ héo cũng như những đóa sen nở ở Tịnh Độ. Sen nở thì thấy được ánh sáng và tìm được bạn đường.
Nguyên Hưng, hôm qua viết cho Nguyên Hưng, đến đúng nửa đêm Giáng sinh thì tôi ngừng lại. Tôi mặc áo thật ấm, mở cửa ra ngoài và đi đến Campus Center. Tuyết vẫn lặng lẽ rơi. Đến Campus Center tôi gặp anh Ralph Nelson đang ngồi bó gối xem TV một mình trong gian phòng rộng thênh thang. Tôi đến ngồi cạnh Ralph và theo dõi chương trình đặc biệt đêm Giáng sinh. Tôi nghĩ có lẽ Ralph buồn lắm, và cô đơn lắm trông một đêm như đêm nay. Ralph quê ở tận miền Nam, xa quá không về nhà được trong dịp lễ Giáng sinh này. Ralph đã lái xe hơi từ hôm qua, về miền tây Pennsylvania, để thăm một người bạn. Và trên đường về Princeton hôm nay, Ralph bị kẹt tuyết và suýt phải ngủ giữa đường. Ngủ giữa đường thì nguy hiểm lắm, dù là ngủ trong xe, dù là quay kín các cửa xe lên. Bởi vì trời rét lắm không thể chịu nổi. May mắn Ralph vượt khỏi chướng ngại và trở về Campus lúc mười một giờ. Tôi hỏi: “Anh cảm thấy buồn không, trong đêm Giáng sinh này, khi mọi người đều en famille? “Tôi sống lẽ loi cũng quen rồi, Ralph đáp, thành ra không buồn lắm”. Tuy vậy khi ngó anh ta, tôi biết anh ta đang buồn. May mắn lúc đó, máy truyền hình bắt đầu trình bày một phim trào lộng nên tôi thấy trên miệng Ralph một nụ cười. Một giờ rưỡi khuya chúng tôi đi Campus center. Thì ra tuyết vẫn tiếp tục rơi. Tuyết lên cao tới gần đầu gối. Tôi phải lội về Brown Hall từ giả Ralph, rồi vào phòng lau chân thay bít tất, hơ chân vào lò sưởi.
Năm ngoái tôi đi chơi suốt một ngày Giáng sinh bằng xe hơi ở vùng quê và đã chứng kiến được không khí thân mật của các gia đinh vào ngày lễ ấy. Thật không khác gì ngày tết bên ta. Trẻ con và người lớn ai cũng có quà, và có rất nhiều quà. Tôi bị một em nhỏ hỏi: “Ông theo đạo Phật hả? Vậy ở xứ ông, người theo đạo Phật như ông có ăn lễ Giáng sinh không?” Tôi trả lời: “Có chứ, bên xứ tôi người Phật tử ăn lễ giáng sinh vào ngày rằm tháng tư và họ gọi ngày Giáng sinh là ngày Phật đản.” Tôi nghĩ đến những chú bé con như thế ở trại Cherroskees và ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng.
Hết chương 8