Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần II: Truyện ký Bóng áo nâu

05/06/201112:01(Xem: 7024)
Phần II: Truyện ký Bóng áo nâu

BÓNG ÁO NÂU
TẬP SÁCH VỀ CUỘC ĐỜI THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THANH

Phần II: Truyện ký Bóng áo nâu
Đồng tác giả:

Thu Nguyệt - Đỗ Thiền Đăng - Thiện Bảo

Một khúc sông Tiền

Một là nguyện Phật thần thông
Chứng minh đệ từ thành công lâu dài

Hai là nguyện lạy Như Lai

Cầu cho già trẻ gái trai làm lành...

Miệng thì đọc theo ba nhưng mắt Bé cứ thỉnh thoảng lại phải nhìn theo con thằn lằn trên cột nhà. Thằn lằn đang rình một con kiến cánh. Con kiến kia nếu không biết bay đi thì thế nào cũng bị thằn lằn đớp, chú nghĩ trong bụng, thoáng thấy tội nghiệp con kiến nhưng cũng thấy thương con thằn lằn đang đói. Chú không thích nhìn thấy cảnh ấy một tí nào. Quay mặt đi chỗ khác, Bé cố gắng chú tâm đọc rõ ràng từng chữ theo ba.

Tối nào cũng vậy, hễ thấy ba vói tay lấy cái áo vải xe lữa nhuộm mực Tàu treo trên vách là chú chạy ào ra lu, múc gáo nước xối vội hai bàn chân, khum tay vốc ngụm nước úp lên mặt, quẹt quẹt vài cái lên má rồi chạy ù vào, vừa chạy vừa lấy tay áo lau mặt. Coi như sạch sẽ rồi, chú liền chắp tay đứng ngay ngắn đằng sau lưng ba. Ba thắp nhang và bắt đầu buổi tụng kinh tối. Những năm chiến tranh, câu cầu khấn cửa miệng người dân không phải là cầu tài cầu lộc, mà là “cầu cho tai qua nạn khỏi”. Do vậy, đêm nào ba cũng lễ lạy và đọc tụng 12 bài nguyện Quan Âm. Chú đọc theo ba không sai một chữ. Có những lúc mắt bận ngó nghiêng cái này cái kia, đôi khi chú lơ là, nhưng vẫn dõi theo và đọc đủ bài kinh như quán tính. Buổi sáng, bốn giờ ba đã thức tụng kinh. Chú nằm trong mùng, tai vẫn nghe và tiếng tụng kinh âm trầm ngấm vào giấc ngủ của chú, mỗi ngày mỗi ngày đều đều như vậy

Xóm Bà Tri nằm núp sau một cái cồn nhỏ quay mặt ra con sông Tiền rộng lớn. Người ta kêu bằng cồn Dưa Leo bởi trên đó trồng toàn dưa leo, mà hình như cái cồn này cũng có hình giống trái dưa leo nổi bập bềnh bên triền con sông cái lớn. Dọc con sông đầy ắp phù sa này có biết bao nhiêu là cồn, cù lao chìm, cù lao nổi... không sao kể xiết. Có cồn nổi giữa sông, có cồn nổi gần bờ, hình như con nước cũng như người nông dân Nam bộ đầy chất nghệ sĩ, phóng khoáng, vui đâu ghé đó, không tính toán so đo; bất cứ nơi nào, hễ mõi tay hay thích chí, rút cây sào cặm xuống thì nơi đó là bến. Cồn Dưa Leo nổi cách bờ chỉ khoảng hơn chục thước, vừa đủ tạo thêm một con sông nhỏ trước nhà. Nước thì cũng là nước của sông cái lớn, nhưng cách chảy và sóng của sông nhỏ thì hình như cũng hiền hòa và nhẹ nhàng hơn. Mỹ Xương là vùng đất khá tốt, thích hợp trồng cây ăn trái, nhưng chiến tranh giặc giã vào những năm này khá căng thẳng nên người dân không có điều kiện chăm sóc vườn tược hoa màu, đất đai làng xóm trở nên xơ xác, đa phần là người nghèo lam lũ, thất học. Con nít trong xóm lóc nhóc như bầu bí, đứa nào đứa nấy da tóc cháy nắng, ốm nhách ốm nhom. Trò chơi trẻ con bốn mùa chỉ quanh quẩn mấy trò bắn cu li bằng đạn đất, vỗ tu hú, táng u, rồi đánh trận giả bằng súng bẹ chuối, cây lùn. Các trò chơi đa số là của lũ nhóc con trai, các bé gái ở quê chưa kịp biết chơi đùa đã phải làm công việc nhà giúp mẹ, có được chơi chăng nữa cũng chỉ vài trò, mà thường thấy nhất là trò chơi nhà chòi, thì quanh quẩn cũng là nấu nướng, tắm em, quét nhà rửa chén...! Tuổi thơ chưa kịp qua, các em đã phải làm người lớn thu nhỏ. Người lớn thì vừa mần ăn vừa lo chạy giặc, sống được qua ngày là may rồi, ít ai biết mơ ước điều gì cao xa. Ước nguyện ương lai hầu như được đo và tính bằng từng mùa vụ. Dân miệt vườn còn đỡ, dân miệt ruộng càng chơn chất thiệt thà hơn, hầu như cả đời họ chẳng cần nghĩ đến điều gì xa hơn mảnh đất đồng làng mà họ có, chẳng cần nhìn thấy điều gì cao hơn cái nóc nhà họ ở (nếu như cái nóc nhà ấy không bị dột). Đa số người dân quê là vậy. Nếu tâm hồn được ví là hoa, thì tâm hồn những người dân quê giản đơn, bình dị như là hoa lúa.

Bé lớn lên trong một căn nhà nhỏ, vách lá cột tràm, quay mặt ra con sông được tạo nên bởi cái cồn Dưa Leo bề ngang chưa đầy cây số ấy. Đầu sông người ta gọi là xép cù lao Quạ, cuối sông kêu bằng vàm Cả Sứt, những cái tên nghe thiệt là quen. Mỗi ngày, ba chú đi qua cồn làm rẫy, chú ở nhà quanh quẩn với mấy cục đạn cu li cứ vo mãi không tròn. Trong xóm chỉ có thằng Nghé là có biệt tài vo đạn cu li khéo nhứt. Những viên đạn được làm bằng đất đào tuốt ngoài vườn, cạnh mấy cái mương chứa nước. Đất gần sông là đất cồn bồi, phù sa pha cát nên làm đạn không có độ dẽo bền như đất sét. Thằng Nghé lại rất khỏe tay, nó vo vừa tròn vừa chặt, lúc phơi nắng lại siêng năng trở đều cẩn thận nên viên đạn rất tròn, bắn lăn chính xác và va chạm mạnh mấy cũng không bị bể. Bé là đứa được thằng Nghé vò giùm cho nhiều đạn nhứt vì chú rất hiền lành, chơi với bạn không ăn gian, lại hay nhường nhịn và bắn bi cũng... rất dở, bởi chú không hay bắn mạnh tay, do vậy, có vo giùm chú bao nhiêu đạn thì rồi cũng về lại túi thằng Nghé hết thôi.

Buổi chiều, Bé thường chơi quanh quẩn gần nhà, để ba đi cồn về, kêu một tiếng là chú nhảy tót xuống xuồng bơi qua sông rước ba. Những ngày hái dưa leo, má cùng qua cồn phụ ba thu hoạch, những lúc ấy Bé cũng được theo. Đứng trên cồn, nhìn ra con sông cái lớn rộng mênh mông, bên kia xa tít tắp là phố chợ Sa Đéc, ba nói bên đó có đường trải nhựa, buổi trưa nắng gắt nếu không có dép mà đi là nóng phỏng chân luôn. Đứng trên cồn, thỉnh thoảng nhìn thấy mấy chiếc tàu lớn chạy qua xa xa ngoài sông, Bé thích lắm. Tàu chạy qua lâu rồi mà sóng còn chưa vô tới bờ. Bé lượm mấy cục đất, chạy lấy đà, quay thẳng tay liệng hết ga ra sông. Chẳng bứt xa khỏi bờ được mấy, cục đất rơi không nghe tiếng chủm lớn như bên sông nhỏ trước nhà, bởi tiếng gió và tiếng sóng óc ách vổ bờ át mất. Vòng sóng của cục đất chìm xuống chưa kịp lan tỏa đã bị những con sóng khác xô trộn.

- Ê, Bé...Bé...

Cả đám con nít trong xóm cũng được ba má cho qua cồn tiếp bẻ dưa leo, việc chưa xong chúng đã bỏ chạy đi chơi. Thằng Dứt có chiếc tàu làm bằng miếng ván mỏng cắt hình tam giác dài, sau đuôi cặp hai chiếc đũa, quấn ngang là một sợi dây cao su. Một cái chong chóng cắt bằng thiếc, đục lỗ xỏ qua sợi dây cao su. Xoay thật nhiều vòng cái chong chóng và sợi dây rồi thả xuống nước, sợi dây cao su đàn hồi quay trở ngược lại, nhả cái chong chóng thành chân vịt đạp nước, đẩy miếng ván về phía trước. Trò này chơi ở trong mương trong rạch thì tàu chạy rất ngon, có khi được ba bốn sãi tay mới ngừng. Ra sông lớn thì thua, sóng dập mấy cái là chiếc tàu quay như chú vịt con bị lươn rút! Cả đám thất vọng quay qua bày trò kết bè chuối. Bè được làm rất công phu, cũng có mui như những chiếc tàu Pháp hay chạy trên sông, có cả người lái nặn bằng đất, đầu đội cái nón khoét bằng chóp trái dưa leo phần có cái cuống cong cong; chân không giày dép nhưng tướng tá lại giống như thầy giáo trên trường. Trên bè có cả mấy con mèo chó, trâu bò... và lu đựng gạo nữa. Kết xong chiếc bè thả xuống, nước chảy mạnh làm bè trôi rất nhanh. Cả đám tiếc, sợ bè trôi mất, lại lấy sào vớt vô. Chiếc bè chuối cứ cặp theo cồn mà trôi líu quíu cách bờ không đầy hai thước. Thấy vậy Bé nói:

- Thôi, mình đừng tiếc nữa, cứ đẩy cho nó trôi tuốt ra ngoài xa kia đi. Cho nó đi qua bên chợ Sa Đéc luôn đi.

Cả đám chưa đứa nào biết chợ Sa Đéc, nghĩ đến việc chiếc bè của mình trôi được qua tới chợ Sa Đéc thì khoái quá, bèn hè nhau lượm đất thi đua liệng xua chiếc bè ra xa. Chiếc bè chuối trôi xa dần xa dần cho đến khi chỉ còn là một chấm nhỏ xíu nhấp nhô trên sóng. Bé đứng nhìn theo mút mắt. Với trí óc của một cậu bé mười tuổi, chú không biết trong mình đã manh nha có sẵn ý thức mong muốn sự giải thoát, chú chỉ thấy thinh thích khi nhìn chiếc bè trôi tự do giữa muôn ngàn con sóng lúc to lúc nhỏ... Những con sóng không bao giờ ngớt dao động, lao chao...

An cư kiết hạ

nguồn sinh lực của tăng già

An cư kiết hạ là một thông lệ từ lâu của các đạo sĩ Ấn Độ khi tăng đoàn Phật giáo hãy còn chưa xuất hiện. Thời tiết Ấn Độ có vẻ khác hơn Việt Nam hay Trung Quốc cũng như các quốc gia khác: Từ tháng một đến tháng tư là mùa xuân, từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa đông. Ấn Độ không có mùa thu. Một năm chia làm ba mùa rõ rệt như thế, nên các đạo sĩ qui định vào những tháng mưa gió nên an trú một nơi nhất định để bảo tồn sức khoẻ và tăng cường đạo lực. Giáo đoàn Phật giáo hợp thức hoá thông lệ này bắt đầu từ Lục quần Tỳ kheo (sáu thầy tỳ kheo chuyên gia khai duyên cho Phật chế giới). Suốt mấy tháng mùa mưa, nhóm sáu thầy tỳ kheo này lang thang du hoá khắp nơi không kể gì mưa gió, đạp dẫm lên hoa cỏ mùa màng mới đâm chồi hay những loài côn trùng vừa sanh nở. Cư sĩ chê trách hàng sa môn Thích tử thật quá đáng, các đạo sĩ khác vẫn có những tháng sống cố định, ngay đến loài cầm thú vẫn có mùa trú ẩn của nó, còn các vị hành đạo này thì luông tuồng không biết nghỉ chân vào mùa nào cả. Lúc ấy, đức Phật ở tại nước Xá Vệ, trong thành Cấp Cô Độc, biết được sự việc xảy ra liền ban hành quyết định cấm túc an cư cho toàn thể tăng đoàn trong các tháng đầu mùa mưa, tức từ mồng một trăng tròn của tháng A-sa-đà đến hết trăng tròn của tháng A-thấp-phược-đê-xà (Theo ngài Huyền Trang là nhằm 16 tháng 5 của Trung Quốc, sau vì muốn lấy ngày rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự tứ nên chọn ngày An cư là 16 tháng 4). Phật giáo Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc này nhưng thời gian có khác một chút. Nghĩa là thời tiết Việt Nam tuy thể hiện rõ rệt chỉ có hai mùa nắng và mùa mưa, nhưng vẫn qui định theo bốn mùa như Trung Quốc: xuân, hạ, thu, đông. Như vậy thời điểm để tu sĩ Phật giáo Việt Nam an cư là bắt đầu từ ngày rằm tháng 4 đến rằm tháng 7 (mùa hạ), đó gọi là tiền an cư. Hậu an cư là dành cho trường hợp đặc biệt, có duyên sự khẩn thiết thì có thể bắt đầu an cư từ 17 - 4 cho đến 17 - 5, và kết thúc dĩ nhiên cũng phải đủ 90 ngày như tiền an cư (cùng làm lễ Tự tứ, nhưng phải ở lại cho đủ số ngày). Riêng hệ phái Nguyên Thuỷ chọn thời điểm kiết hạ vào ngày rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9. Tuỳ theo quốc độ, địa phương mà có những mùa an cư không hoàn toàn giống nhau, ở Việt Nam, một vài nơi còn có thêm kiết đông bắt đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 là dựa theo tinh thần của Luật Bồ Tát.

Vì sao lại phát sinnh thêm kiết đông thay vì chỉ có kiết hạ? Có phải an cư là thời gian để tăng già tích luỹ nguốn sinh lực hay không?

Hàng xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo bao giờ cũng tâm niệm hai nhiệm vụ cần phải sớm thành tựu: thượng cầu Phật đạo và hạ hóa chúng sanh. Song lộ trình tiến đến quả vị Phật hay Thánh quả thật gian truân cách trở, không phải là vấn đề một sớm một chiều hay một kiếp. Vì vậy việc tự lợi là một nhu cầu cần thiết cho bất cứ một hành giả nào còn vương mang pháp hữu lậu, chưa có phần dự vào dòng Thánh. Nếu như thời gian dành cho việc đi lại bên ngoài quá nhiều, mà căn bản phiền não vẫn còn sâu kín bên trong thì kết quả hoàn toàn sai với tinh thần hóa độ của đức Phật. Người bị trói tất nhiên không bao giờ cởi trói được cho người khác. Người có thật nhiều hạnh phúc, vượt lên trên những khổ đau triền phược mới có thể đưa người ra khỏi dòng tục bến mê. Hóa độ thì xem như chia phần, bớt đi. Mặc dù một ngọn đèn có thể thắp sáng hàng trăm nghìn ngọn đèn khác. Song một khi ngọn đèn ra trước gió, thì sự an nguy cũng giống như một người hành đạo chưa liễu đạo mà phải đương đầu với ngũ dục trần lao. Thế mới biết, an cư là thời gian quý báu để người tu hành có điều kiện nhìn lại chính mình, soi thấu bệnh tật phiền não hoặc mới huân tập hoặc lâu đời mà đoạn trừ, trị liệu. Ngoài ra việc tránh ngộ sát côn trùng hay không ảnh hưởng mùa màng của người thế tục cũng là một duyên cớ để trưởng dưỡng lòng từ bi. Song lý do trước mới là tinh thần chính yếu của việc cấm túc an cư.

Bộ Luật Tư Trì Ký định nghĩa: Lập tâm một chỗ gọi là Kiết; bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh gọi là An. Như vậy dù kiết hạ hay kiết đông an cư thì mục đích chính vẫn là thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức. Tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào không quan tâm đến việc tu tập thiền định để bồi dưỡng trí tuệ thì thật không xứng đáng là bậc mô phạm tỉnh thức. Sự khắc khe này cũng chỉ vì đức Phật muốn bảo hộ sức sống của tăng-già bằng việc triển khai năng lực tu tập của mỗi cá nhân. Nếu ai trong hàng xuất gia đệ tử Phật không tôn kính vâng giữ lời huấn thị của đức Phật, xem an cư là một điều bó buộc, một phương tiện nhỏ nhặt thì quả thật người ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà gây ảnh hưởng không tốt cho tăng đoàn. Cũng như bác nông phu mỗi năm phải làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng thì bác sẽ bị nghèo nàn đói thiếu. Hàng Bí Sô nếu không có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn lẫn nhau thì làm sao có điều kiện để tạo thành năng lực hoà hợp và kiểm chứng giá trị thanh tịnh? Kết thúc khoá an cư là Tự Tứ, một hình thức tối quan trọng để tổng kết quá trình tu tập tiến triển hay lui sụt của từng cá nhân qua ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi phạm vi giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa đại chúng để bổ khuyết sửa chữa.

Một lần, sau mùa an cư các thầy tỳ kheo lần lượt về vấn an đức Phật và trình bày công phu tu tập của mình. Đức Phật hỏi:

- Vừa qua các ông có được an lạc không?

- Thưa an lạc lắm ạ!

- Thế trong ba tháng ấy các ông tu tập pháp gì?

Các thầy tỳ kheo vui vẻ trả lời:

- Bạch Thế Tôn, chúng con thực hành pháp tịnh khẩu, tự mỗi người giữ im lặng tuyệt đối.

- Đức Phật quở trách:

- Các ông thật vô trí, được sống chung sao không chịu trao đổi hay nhắc nhở nhau tu tập mà lại thực hiện pháp câm như thế, vậy an cư được lợi ích gì chứ? Các ông phải luôn sinh hoạt trong niệm đoàn kết, trên dưới thuận hoà, cùng thống nhất ý kiến, cùng bàn bạc trao đổi và học hỏi lẫn nhau, lẽ nào không thấy được giá trị của thấy, nghe và nghi làm tiêu chuẩn để thanh lọc mỗi người. Các ông đã bỏ phí một mùa an cư. Các ông đã hành động phi pháp.

Năng lực của đại chúng quả thật như biển (Đức chúng như hải) sẽ nâng đỡ những con thuyền lành tốt, khôn khéo chiều theo từng đợt sóng, và sẽ đào thải tất cả những con thuyền hư thủng ra khỏi lòng đại dương. Tăng đoàn muốn hòa hợp theo đúng bản chất của nó như nước với sữa thì buộc mỗi cá nhân phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính mình. Ngày nay, những người trí thức ở phương Tây luôn tranh thủ cho mình một khoảng thời gian một tháng hay nhiều hơn trong năm để tu nghiệp, tức là bồi dưỡng thêm nghề nghiệp. Người tu sĩ Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp lẽ nào không đầu tư vào công phu thiền định. Không có thời gian để cùng nhau nhắc nhở giới luật. Tứ niệm xứ, Tứ thánh chủng… Một mình một cõi du hóa lơ lỏng trong nhân gian thì rất khó cho việc thành tựu tuệ giác, hóa độ viên mãn.

Cũng như những giáo hội khác, ngày nay ở Việt Nam không còn giống như thời Phật ở Ấn Độ là hàng xuất gia không phải mỗi người du hóa một phương, mang theo ba y một bình bát và ngủ dưới gốc cây, nhưng lối sống theo từng tông phái, chùa riêng, tổ đình riêng, thầy riêng đệ tử riêng thì cũng xem như rời rạc, chưa đoàn kết hoà hợp. Vì lẽ chưa dung hoà đó mà Kiết hạ an cư đã trở thành qui luật rất cần thiết để làm phương thuốc hồi sinh, làm sống lại tình Linh Sơn cốt nhục mà lắm lúc vì những nguyên do gì đó, vì bệnh nghiệp cá biệt nào đó đã làm cho anh em cùng nhà phải bút chiến, khẩu chiến phân tranh cao hạ, làm cho sư tử phải trọng thương chỉ vì loài trùng ăn gặm trong thân sư tử. Hơn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay nhắm vào tinh thần thống nhất về tổ chức (thống nhất ý chí và hành động) thì Kiết hạ an cư là một phương tiện thuận lợi cho giáo hội xây dựng tăng đoàn đoàn kết hòa hợp và thống nhất mọi mặt theo phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - chủ nghĩa xã hội”.

Rõ ràng, ba tháng an cư, cửu tuần tu học đích thực là nguồn năng lực quí báu làm nóng lại và bền vững hơn tinh thần thanh tịnh hòa hợp của tăng-già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày ngày giới luật nghiêm minh, đêm đêm toạ thiền niệm Phật, trên dưới hoà hợp, tu tập trong niệm đoàn kết an hoà.

Mùa An Cư - PL 2544

Thích Chơn Thanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com