- 1. Đại cương kinh Pháp Hoa
- 2. Nội dung 28 phẩm kinh Pháp Hoa
- 3. Đại thừa Diệu pháp Liên Hoa Kinh
- 4. Vị trí kinh Pháp Hoa theo cách phán giáo của Ngài Thiên Thai
- 5. Kinh Pháp Hoa giữa các kinh Đại Thừa
- 6. Hình tượng Hoa sen trong kinh Pháp Hoa
- 7. Nhất thừa đạo
- 8. Nhà Như Lai, Áo Như Lai, Tòa Như Lai
- 9. Kinh Pháp Hoa với lời thệ nguyện "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ"
- 10. Điều kiện đến với kinh Pháp Hoa
- 11. Bồ-tát Thường Bất Khinh
- 12. Nhĩ căn viên thông hay là pháp môn Quán Âm
- 13. Giải thích Phẩm Tựa
- 14. Phân tích Phẩm Phương tiện
HoàThượngThích Thiện Siêu
TuViệnKim Sơn ấn hành PL. 2542-1998
Tinhthầncủa Đại thừa giáo lấy Bồ-tát hạnh làm cao điểm.Trong Bồ-tát hạnh thì kinh Pháp Hoa là kinh tiêu biểu, là kinhđúc kết, tóm thâu tinh thần thuyết giáo của đức Phậttrong 45 năm ở cõi Ta-bà.
KinhPháp Hoa diễn tả một chân lý linh động qua các hạnh củacác vị Bồ-tát, Đức Phật nhìn tất cả chúng sanh đềucó Phật tánh cho nên tất cả các việc làm thiện dù là mộtviệc thiện rất nhỏ cũng đều đưa đến Phật quả, nhưkinh có câu:
"Nhượcnhơn tán loạn tâm,
Nhậpư tháp miếu trung,
Nhứtxưng Nam mô Phật,
Giaidĩ thành Phật đạo."
Nghĩalà:
"Hoặcngười tâm tán loạn,
Đivào trong tháp Phật,
Niệmmột lần Mô Phật,
Đềuđã thành Phật đạo."
Hoặc:"Nãi chí đồng tử hý, tụ sa vì Phật tháp, giai dĩ thànhPhật đạo." (Cho đến trẻ con chơi đùa, nhóm cát làm thápPhật đều đã thành Phật đạo).
Đólà những điều mà các thời giáo trước Ngài chưa nói, đợiđến khi nói kinh Pháp Hoa, đức Phật mới đề cập đến,bởi lẽ những việc thiện dù rất nhỏ cũng xuất phát từPháp tánh. Nếu như không có Phật tánh thì không thể có cácviệc thiện, dù là việc thiện đó trong tán loạn tâm, việcthiện đó cũng đưa đến kết quả thành Phật.
Nhữngnăm đầu tiên, đức Phật thuyết giáo với giáo lý căn bản,Ngài muốn đưa tất cả chúng sanh đến Phật quả, nhưng khôngthể đưa được-như trong kinh Hoa Nghiêm-nên thuyết ra Tam thừa.Trong khi Ngài thuyết Tam thừa, mỗi thừa đều có nhân riêng,quả riêng, hạnh riêng. Thanh Văn thì tu Thanh Văn thừa, DuyênGiác thì tu Duyên Giác thừa, Bồ-tát thì tu Bồ-tát thừa.Nhân của thừa nào thì chứng quả thừa ấy, mỗi thừa đềuriêng biệt không tương quan với nhau. Ngay như kinh Bát Nhã,Hoa Nghiêm đức Phật cũng thọ ký cho hàng đệ tử thành Phật.Nhưng Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Ngài chỉ thọ ký cho Bồ-tát; nhưvậy là Bồ-tát riêng, Thanh Văn riêng, Nhị thừa riêng, Tamthừa riêng. Đợi đến hội Pháp Hoa, Phật mới thọ ký chohàng Thanh Văn và đưa về Nhất thừa Phật quả. Đức Phậtdạy rằng, tất cả các pháp môn Ngài dạy từ trước nhưThanh Văn thừa, Duyên Giác thừa...đều là phương tiện đểđưa đến Nhất thừa (Phật quả). Phương tiện không có nghĩalà cái đó không có giá trị, mà giá trị đó chỉ trên bướcđường dẫn dắt để đưa đến Nhất thừa Phật quả, vàchính đó mới là mục đích cứu cánh, là tinh thần của kinh,hoài bảo của Phật vậy.
ĐứcPhật Thích Ca đản sanh tại vườn Lâm-tỳ-ni, thành Đạonơi cội Bồ đề và trải qua 45 năm giáo hóa rồi thị tịchtại rừng Sa-la song thọ. Đức Phật đó là đức Phật hóathân. Vì muốn đem giáo pháp huyền vi dạy cho chúng sanh chonên Phật mới thị hiện ra đời. Hóa thân thị hiện đólà phương tiện, mà những gì Ngài đạy trước hội PhápHoa cũng là phương tiện. Chỉ có Pháp thân và pháp Nhất thừaPhật dạy trong hội Pháp Hoa mới là chân thật. Chính điềuđó ngày hôm nay trong hội Pháp Hoa đức Phật mới diễn nóirõ ràng.
Theongài Thiên Thai Trí Giả, kinh Pháp Hoa chia ra làm hai phần:
1.Khai quyền hiển thật
2.Khai cận hiển viễn
Đólà hai phần chính trong kinh Pháp Hoa.
Nóitóm lại, vì hai ý nghĩa đó nên kinh Pháp Hoa là kinh tiêu biểu,kinh đúc kết giáo lý của Phật trong 45 năm thuyết pháp độsanh.
Vàcũng theo ngài Thiên Thai Trí Giả, Ngài chia giáo lý của Phậtra làm Năm thời:
1.Hoa Nghiêm: Cũng gọi là thời "Nhật xuất tiên chiếu cao sơn"
2.A Hàm: Cũng gọi là thời "Nhật thăng thứ chiếu hắc sơn"
3.Phương Đẳng: Cũng gọi là thời "Nhật thăng chuyển chiếucao nguyên"
4.Bát Nhã: Cũng gọi là thời "Nhật thăng phổ chiếu đại địa"
5.Pháp Hoa Niết Bàn: Cũng gọi là thời "Nhật một hoàn chiếucao sơn".
Nói"Nhật xuất tiên chiếu...", "Nhật một hoàn chiếu..." đólà ví giáo pháp Phật như mặt trời. Giáo pháp Phật khi nóira lần đầu tiên ví như mặt trời mới mọc. Giáo pháp Phậtnói đầu tiên đó là kinh Hoa Nghiêm. Phật nói kinh Hoa Nghiêmví như đỉnh núi cao, chỉ có hàng thượng căn thượng tríBồ-tát, đại Bồ-tát mới thấu hiểu, còn tất cả như câmnhư điếc, cho nên đức Phật phương tiện nói Tam thừa nhưA Hàm. Thời này ví như ánh mặt trời chuyển chiếu xuốngnúi thấp - Hắc Sơn - hàng hạ căn mới lãnh hội được.
Đếnthời thứ ba là thời Phương Đẳng. Phương Đẳng có 2 nghĩa:
1.Chỉ riêng cho thời giáo thứ ba này như các kinh: Lăng Nghiêm,Lăng Già, Tư Ích, Duy Ma... trừ hai thời trước là thời HoaNghiêm, A Hàm và hai thời sau là thời Bát Nhã, Pháp Hoa NiếtBàn.
2.Bao trùm cả bốn thời giáo trừ thời A Hàm.
ThờiA Hàm phá ngã nhưng còn pháp chấp, qua thời Phương Đẳngtrừ hết cả ngã và pháp chấp. Đến thời Bát Nhã đi vềtinh thần cao nhất phá trừ luôn cả hữu sở đắc (vô ngãkhả đắc, vô pháp khả đắc) như "Nhật thăng phổ chiếuĐại địa" (Mặt trời cao khắp chiếu mặt đất).
Tuynhiên, còn có điểm mà thời Bát Nhã chưa nói đến đó làchưa thật sự thọ ký cho tất cả chúng sanh đều thành Phật,mặc dù về lý cũng đã có nói "Tất cả chúng sanh đều cóPhật tánh, tất cả chúng sanh đều thành Phật". Đến thờiPháp Hoa, đức Phật mới đưa tất cả về Nhất thừa Phậtquả. Bởi cho dù Thanh Văn, Duyên Giác... và tất cả các việcthiện, dù là việc thiện nhỏ như nhóm cát làm tháp Phật,không phân biệt hữu sở đắc, vô sở đắc... cũng đềuđưa đến Phật quả. Cho nên thời Pháp Hoa bao hàm hết tinhthần chân lý, và hoài bảo của Phật ra đời thuyết phápđộ sanh, nên gọi là "Nhật một hoàn chiếu cao sơn".
Khi"Nhật xuất tiên chiếu cao sơn" cũng chiếu trên mọi căn cơ.Khi "Nhật một hoàn chiếu..." cũng chiếu trên mọi căn cơ.Như vậy nên biết, thời Hoa Nghiêm và thời Pháp Hoa NiếtBàn đều cũng là một chân lý tối thượng y như nhau, nhưngtrong thời Hoa Nghiêm đức Phật nói thẳng chân lý tối thượngmà chưa có phương tiện. Khi nói thẳng như vậy chúng sanhkhông hiểu, đức Phật mới phương tiện nói Tam thừa, sauđó Ngài nói lại chân lý tối thượng để đưa tất cảphương tiện trở về giáo lý tuyệt đối. Như vậy chân lýđược nói trong Hoa Nghiêm và chân lý được nói trong PhápHoa Niết Bàn là một, nhưng Hoa Nghiêm thì nói thẳng, trựcchỉ chơn tâm, còn Pháp Hoa thì phải trải qua các thời phươngtiện dắt dẫn, đến lúc thấy căn cơ và trình độ củachúng sanh đã thuần thục, đức Phật mới nói Pháp Hoa, đólà giáo lý cao tột, đưa chúng sanh về Nhất thừa Phật quả.
Trênđây là theo lối phán giáo của ngài Thiên Thai, ngài là tổcủa Thiên Thai tông và đã chú thích kinh Pháp Hoa và dùng kinhnày lập tông. Sự chú thích ấy cũng ảnh hưởng đến ngàiNhật Liên. Ngài Nhật Liên cũng căn cứ vào phần chú thíchđó mà lập ra tông Nhật Liên ở Nhật Bản.
Vàcũng nên biết, trong lịch sử đã có ba tông phái đặt kinhnày cao nhất: 1) Thiên Thai tông, 2) Nhật Liên tông. Cả 2 tôngnày đều lấy kinh Pháp Hoa làm căn bản và 3) Tam Luận tông,Tổ sư là ngài Cát Tạng, cũng đặt kinh Pháp Hoa vào vị trícao nhất. Theo ngài Cát Tạng, ngài chia giáo pháp ra làm ba phápluân:
1.Căn bản Pháp luân, thời Hoa Nghiêm.
2.Chi mạt Pháp Luân, thời A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã.
3.Nhiếp mạt quy bản Pháp luân, thời Pháp Hoa, Niết Bàn
ThờiHoa Nghiêm, theo ngài Cát Tạng gọi là căn bản pháp luân. Thờigiáo này đức Phật nói ra mà chúng sanh không ngộ đượcnên Ngài phương tiện nói ba thừa. Những thời này là phươngtiện của căn bản nên gọi là Chi mạt pháp luân. Mặc dùBát Nhã là kinh rất cao nhưng Bát Nhã cũng chưa quy tất cảchúng sanh đều thành Phật, nên Bát Nhã cũng còn là Chi mạtpháp luân. Đến thời Pháp Hoa, Niết Bàn gọi là "Nhiếp mạtquy bản..." - trở về gốc - đưa phương tiện về cứu cánh,đưa ngọn về gốc.
Chữ"chuyển pháp luân": Dharma Cakka Pavatana.
Chuyển- Pavatana: Chuyển động, xây dựng, củng cố.
Pháp- Dharma: Trí tuệ, chân lý.
Luân- Cakka: Bánh xe, vương quốc.
Donhững định nghĩa trên mà có người dịch là: Củng cố vươngquốc trí tuệ, xây dựng vương quốc trí tuệ, vương quốcchân lý chuyển bánh xe pháp.
Chữ"Luân" là bánh xe, có nghĩa là lăn chuyển, lăn chuyển từtâm người này đến tâm người khác, giáo pháp từ chỗ chứngngộ của Phật, Ngài truyền đến người khác, cũng như bánhxe lăn từ chỗ này đến chỗ khác vậy.
Lạichữ "Luân" cũng có nghĩa là dần ép, lăn đến đâu ép đếnđó, những gì dơ bẩn, gồ ghề đều được dằn ép. Giáopháp Phật đến tâm chúng sanh thì tâm tham, sân, si, phiềnnão, tà kiến, cũng bị dằn ép. Đó là ý nghĩa của chữChuyển Pháp Luân.
Lạichuyển luân vương có xa luân bảo là biểu hiện chính, đểđi đến với muôn dân, đem lại sự an bình thịnh vượng,còn Như Lai Pháp Vương thì có Pháp luân để đi đến vớichúng sanh, đem lại an lạc giải thoát.
Tómlại ngài Cát Tạng - Tổ sư của Tam luận tông - chia giáopháp Phật ra làm 3 pháp luân, mặc dù Tam Luận tông chú trọngvề Bát Nhã, thiên về nghĩa chân không, nhưng ngài đã đểkinh Pháp Hoa trong địa vị Nhiếp mạt qui bản. Thế cho biếtvị trí Pháp Hoa trong kinh điển Đại thừa là một vị trírất cao, vị trí kết thúc biểu lộ bản hoài ra đời thuyếtpháp của Phật, cốt đưa tất cả chúng sanh về Nhất thừaPhật quả.