Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 23 - 25: Họa Hại Của Ái Dục

25/03/201101:36(Xem: 8835)
Chương 23 - 25: Họa Hại Của Ái Dục

KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG
HT Thích Phước Tịnh Giảng Giải

CHƯƠNG 23 - CHƯƠNG 24 - CHƯƠNG 25
HỌA HẠI CỦA ÁI DỤC

Thưa đại chúng,

Hôm nay chúng ta sẽ học vào chương hai mươi ba, hai mươi bốn và hai mươi lăm của Kinh Bốn Mươi Hai Chương. Ba chương nầy có chung chủ đề là Họa Hại Của Ái Dục. Chúng ta sẽ được học những lời Phật dạy rất hay và rất sâu sắc trong những chương nầy.

CHƯƠNG XXIII.

A. CHÁNH VĂN.

Phật ngôn: “Nhân hệ ư thê tử, xá trạch, thậm ư lao ngục. Lao ngục hữu tán thích chi kỳ. Thê tử vô viễn ly chi niệm. Tình ái ư sắc, khởi đạn khu trì. Tuy hữu hổ khẩu chi hoạn, tâm tồn cam phục. Đầu nê tự nịch, cố viết phàm phu. Thấu đắc thử môn, xuất trần La Hán.”

Đức Phật dạy: “Người bị vợ con nhà cửa ràng buộc còn hơn lao ngục. Lao ngục còn được kỳ hạn được phóng thích. Còn đối với vợ con không có ý tưởng xa rời. Khi đã ham mê sắc đẹp, đâu có sợ gì, cho dù tai họa nơi miệng cọp lòng vẫn cam chịu. Tự dìm mình đắm chìm, gọi là phàm phu. Nếu ai vượt thoát cửa nầy gọi là kẻ xuất trần La Hán.”

Tôi xin lưu ý, có những bài Kinh Đức Thế Tôn dạy rất là riêng tư chỉ dành cho giới tu sĩ. Tuy nhiên đại chúng có thể nhìn vào vấn đề nầy, để thấy Đức Thế Tôn đã rất cặn kẽ khi phân tích họa hại của ái dục trong đời sống nhân gian.

B. ĐẠI Ý.

Không có họa hại nào ở nhân gian lớn bằng họa hại của ái dục. Hãy quán chiếu sâu sắc để vượt thoát.

C. NỘI DUNG.

1. Sự mời gọi khó thoát.

Thưa đại chúng, điều đầu tiên nên ghi nhận là chúng ta đều có những định giá giống nhau về ái dục. Trong truyền thống tâm linh, truyền thống đạo đức đều đặt vấn đề ái sắc tức là tham đắm sắc dục lên hàng đầu, và tai họa nầy rất lớn không ai có thể phủ nhận được.

Chúng ta đam mê mọi thứ nhưng đam mê đó rất nhẹ, chỉ có đam mê sắc dục là đam mê nặng nhất của đời người. Kết cấu của mỗi hình hài chúng sinh đều được làm bằng ái dục. Rồi ra đời ta đi loanh quanh lại bị năng lượng ái dục từ bên trong sự sống thúc đẩy chúng ta tìm con đường ái dục để lao vào. Dĩ nhiên có những cuộc sống con người chưa từng nếm trải khổ lụy của ái dục đem đến, họ không quán chiếu nỗi bất hạnh rất rõ ràng. Cho nên chương Kinh nầy dạy: người ta có thể lao đầu vào trong ái dục mà không sợ sệt là gì, thấy móng vuốt cọp hung hãn giết người thì ta có thể sợ sệt trốn chạy nhưng ái dục là một loại thu hút rất ngọt ngào, sự mời gọi của nó rất êm ái nhẹ nhàng nên ta chìm đắm, cam tâm chui vào chịu chết mà không có khả năng khước từ. Cái chết ở lửa có thể tránh nhưng chết ở nước thì rất khó đề phòng. Đức Phật phân tích và dạy chúng ta rõ ràng như vậy.

Bản chất con người được làm từ ái dục. Hạt mầm ban đầu vào thai mẹ là ái dục, từ ái dục ta lớn lên và ta bị thúc đẩy từ bên trong để đến với ái dục. Khi giác ngộ ra được nỗi khổ của gia đình, của ái dục ràng buộc mình chúng ta bắt đầu xả ly rất khó. Bởi vì ngoài bổn phận đối với bao nhiêu người do ái dục kết thành quyến thuộc, ta còn niệm tham đắm ái dục tích chứa nhiều đời nên trong một sớm một chiều không thể loại trừ được. Do vậy khi bước vào tuổi mà sinh lực trong người tàn tạ ta mới xả bỏ, viễn ly thì muộn mất rồi. Nghiệp chúng ta gây ra một đời rất dầy, chỉ còn những năm tháng ngắn ngủi chúng ta không thể dùng khoảng thời gian ngắn ngủi ấy mà loại trừ được hạt giống ái dục nằm sâu bên trong.

Trả hình hài nầy về cho tứ đại, chúng ta loay hoay một vòng cũng đi trở lại con đường cũ nữa. Thần thức ta ghé vào ba cõi, sáu đường cũng bằng con đường của khởi ái dục, lớn lên trong đời ta cũng ruổi rong theo ái dục và chìm đắm từ đời nầy đến đời khác cũng trong ái dục cho đến ngàn vạn kiếp tử sinh chưa bao giờ có ý niệm viễn ly.

Và nền tảng căn bản nhất của con đường giác ngộ, giải thoát là chúng ta phải viễn ly ái dục.

Người viễn ly ái dục không chỉ có cắt được ái dục bên ngoài, cắt đứt đời sống gia đình thôi. Viễn ly đúng nghĩa là rời xa từ bên trong chiều sâu tâm thức. Tất cả những ái dục nhẹ hay sâu nặng, thô phù hay tinh vi nhất chúng ta đều loại trừ thì mới trở thành bậc phạm hạnh thanh khiết. Và người viễn ly được ái dục tự nhiên thiết lập được căn bản đạo đức, xứng đáng là mô phạm trong đời, trong chốn Già Lam và trở thành bậc đạo sư lỗi lạc. Cho nên những điều nầy chuyên biệt Phật dạy cho người phát tâm xuất gia.

Trong đoạn Kinh trên chúng ta thấy có chữ “Hệ” có nghĩa buộc vào, gắn chặt vào, và hai chủ đề chính là “thê tử và xá trạch” tức là chúng ta gắn chặt cuộc đời mình vào vợ con và nhà cửa, nó nặng nề còn hơn ngục tù giam nhốt đời sống con người. Đức Thế Tôn giải minh cho chúng ta thấy là ngục tù còn có thời gian được phóng thích, bị tù tội nặng nhất như chung thân khổ sai còn hy vọng có lúc được giảm án và thả ra ngoài; nhưng một khi tâm đã gắn chặt vào nhà cửa vợ con không có ngày phóng thích, thoát ra được.

Ví dụ có người biết ngày mai mình về bên kia thế giới, ấy vậy mà vẫn ghen, vẫn lo sợ, vẫn muốn người hôn phối chung thủy với mình không được đổi thay. Quả thật ái dục là gông cùm, xiềng xích nặng nề trói buộc đời sống chúng ta. Nên Đức Phật đã dùng từ lao ngục rất là chính xác.

“Thê tử vô xả ly chi niệm.” Như tôi đã lưu ý quí vị ở đoạn trên, quan trọng là xả ly nằm sâu ở bên trong tâm thức chứ không phải ở bên ngoài hình thức. Có câu chuyện rất hay nói về điều nầy, tôi kể ra đây cống hiến cho đại chúng.

Có một ông quan đảnh lễ Ngài Phật Ấn xin tu. Phật Ấn bảo: “Ông bị ràng buộc vợ con làm sao tu được.” Ông quan trả lời: “Con đã hơn nửa đời làm quan, thê thiếp rất đông và con đường danh lợi, tình ái con đã đi ngang qua, con xem rất nhẹ không có gì bận lòng con cả.” Ngài chỉ mỉm cười, không nói. Đến sáng hôm sau Ngài Phật Ấn thấy ông quan thức sớm Ngài hỏi: “Nay sao ông thức sớm vậy?” “Thức sớm để tọa thiền, để đến chùa học Phật.” “Ông dậy sớm như thế, vợ ông ở nhà lấy trai rồi đó.” Vị quan nổi sân: “Ông nói thế không đúng.” Xong đùng đùng bỏ về.

Chuyện ở đây cho thấy ông quan dĩ nhiên giận thầy một phần nhưng quan trọng là đi về nhà xem sự việc có thật như vậy hay không. Cho nên thưa đại chúng câu Kinh “Thê tử vô xả ly chi niệm.” là vậy.

Có khi chúng ta cách ly đời sống gia đình, đời sống thế nhân nhưng điều quan trọng không phải ở chuyện cách nhau hình hài. Chúng ta có thể xa nhau cả nửa vòng trái đất nhưng tâm thức ta luyến ái, buộc ràng, vướng mắc là từ bên trong chứ không phải bên ngoài. Điều nầy mới đáng lưu ý, mới quan trọng.

“Tình ái ư sắc, khởi đoạn khu trì.”: tình cảm của ta ràng buộc với sắc dục không đơn giản tí nào cả, nó có tính chất thúc đẩy, nhận chìm do năng lực từ bên trong đẩy tới. “Tuy hữu hổ khẩu chi họa, tâm tồn cam phục.” Dù cho họa hại rớt vào miệng cọp, lòng vẫn cam chịu.” “Đầu nê tự nịch, cố viết phàm phu.” Do vì mình ném cuộc đời mình vào chỗ ô uế, bùn lầy tối tăm chìm đắm cho nên gọi đó là phàm phu.” “Thấu đắc thủ môn, xuất trần La Hán.” Chỉ cần thấu rõ được con đường khổ lụy của ái dục, vượt khỏi nó, xa lìa nó thì gọi là bậc xuất trần La Hán. Đây là những câu kinh Đức Phật răn nhắc đệ tử xuất gia của Ngài rất mạnh.

Chúng ta có những phần để đi vào chương hai mươi bốn.

2. Nỗi bất hạnh của đời sống gia đình.

Thưa quí vị, Phật pháp có nhiều tầng chứ không phải chỉ đơn giản có một. Giống như một tiệm chạp phô bán đủ thứ hàng hóa lỉnh kỉnh, cũng như một tiệm thuốc bán từ những thứ thuốc trị cảm đến nhiều loại thuốc trị bệnh nội tạng, bệnh nan y. Và còn có những loại thuốc trị dứt luôn tất cả mọi bệnh tật làm cho chúng ta trường sinh bất tử, đạt đến chỗ vô sinh bất diệt.

Đức Thế Tôn có những loại thuốc cho chúng ta nếm được hương vị của Pháp. Đó là những loại thuốc làm cho quí vị ở trong cuộc sống có sự an lạc, hạnh phúc. Truyền thông được với người mình thương, loại trừ bớt những kiến chấp của tâm thức làm cho đời sống chúng ta ngày càng có phẩm chất hơn. Ngài còn có loại thuốc uống vào loại trừ tất cả những loại bệnh, đưa quí vị thể nhập vào biển vô sinh chứng nhập Niết Bàn.

Ngày xưa tùy theo pháp hội mà Ngài vận dụng loại thuốc thích hợp để trị bệnh. Ví dụ như có pháp hội mà căn cơ thính chúng đã sâu dày, có duyên lành rất lớn, có yêu cầu cần thuốc uống vào để bất sinh, bất diệt thì Ngài cho loại thuốc ấy.

Từ cái nhìn bên ngoài, từ cảm nhận của tôi khi quan sát đời sống chung quanh làm tôi nhớ đến một kỷ niệm khó quên hồi nhỏ. Tôi có một bà cô rất đẹp, Bà Nội tôi gả cô cho một người đàn ông bên kia sông. Con sông nhỏ đối diện ngay nhà Bà Nội. Những đêm khi có chuyện không vui, tôi nghe tiếng khóc của cô từ bên sông lòng cũng thấy thương cảm, xót xa mặc dầu lúc ấy tôi còn nhỏ. Bà tôi thì mỗi lần nghe tiếng khóc, ra bờ sông ngồi nhiều tiếng đồng hồ lắng nghe con gái mình nỉ non, nhưng đâu có làm gì được. Có lẽ cũng chỉ ngồi đó mà lau nước mắt thôi. Chắc lòng Bà muốn người con rể nếu thấy không hạnh phúc với vợ thì trả con gái của Bà về lại với Bà. Thế nhưng, hai hôm sau tôi thấy vợ chồng cô dượng tôi bơi xuồng qua thăm, nói cười vui vẻ như không có gì xảy ra, dường như hạnh phúc lắm.

Từ chuyện nầy cho tôi thấy rằng trong đời sống gia đình có những bất hòa, gấu ó nhau chỉ là điều bình thường, nhưng điều gì làm cho người ta có thể làm hòa với nhau nhanh như vậy và vui vẻ, chịu đựng nhau, sống với nhau cả đời? Người ta có thể lấy lý do vì con cái, vì trách nhiệm gia đình, vì tiếng tăm... Nhưng chúng ta khi nhìn xa hơn, sâu hơn một cách trung thực thì chỉ là vấn đề ái dục nằm bên trong mà thôi. Cho nên khó cho người ta bỏ nhau, khó cắt đứt được dù có chửi nhau, đánh nhau bưu đầu, sứt trán rồi người ta cũng làm hòa với nhau cũng do vì ái dục nằm bên trong rất vi tế.

Thưa đại chúng, bản chất của người đàn ông khi đến với người khác phái phần nhiều là từ sự thúc đẩy của tình dục, và người nữ thì bị thúc đẩy của tình cảm. Hai điều nầy là cả một sự mâu thuẫn khi họ tìm đến nhau. Dường như thiên nhiên đã cài sẵn hai mầm bất hạnh vào trong cơ thể của nam và nữ từ thủa có loài người. Tự trong tâm thức đàn ông bản chất của họ là sắc dục, trong tâm thức đàn bà bản chất là tình cảm. Hệ quả của sắc dục là sự nhanh chóng tàn phai. Hệ quả của tình cảm là sự gắn bó, buộc ràng. Cho nên ngay đầu tiên sự kết hợp giữa hai con người vốn dĩ là bất hạnh, và sống với nhau lâu thì mức độ nhàm chán có mặt trước tiên từ nơi người đàn ông.

Người đàn bà khi nắm được người mình thương càng về sau thì nhu yếu thủy chung càng bền chặt. Xem người chồng như một chiếc phao nên họ phải giữ cho chắc. Một kẻ thì muốn quay đi, một người thì muốn níu cứng lại, cho nên nhìn sâu vào mỗi đời sống gia đình sẽ thấy nỗi bất hạnh đã có sẵn bên trong.

Thưa quí vị, con người sinh ra trên cõi đời nầy, niềm thôi thúc cuối cùng là muốn vươn lên đến niềm phúc lạc tuyệt vời. Nói theo ngôn ngữ đạo lý thì ta từ vùng Niết Bàn, từ vùng trời hạnh phúc bị đẩy vào trần gian đau khổ nầy, nên chúng ta luôn có nhu cầu đi tìm hạnh phúc, tìm lại nơi đầu nguồn sự sống, từ nơi ta đã ra đi. Và hương vị ái dục cho con người ta niềm vui mà ta ngỡ là hạnh phúc. Một hạnh phúc ngắn ngủi, phù du. Nó đem đến sự thỏa mãn cho con người chỉ phút giây nhưng nó lấy đi, tàn phá năng lượng con người gấp bội.

Vì khát vọng muôn đời của con người là hạnh phúc, yên bình nên đến với đời sống gia đình cho dù cố công xây dựng, học nghệ thuật gìn giữ, thương yêu hay thay đổi người thương bao nhiêu lần họ cũng chưa bao giờ thấy có hạnh phúc trọn vẹn. Bất hạnh nầy tiếp đến bất hạnh khác. Không phải là người ta không thông minh để không biết nỗi bất hạnh đó, nhưng người ta không tìm được con đường nào khác nên vẫn cam tâm, tình nguyện lao người vào, dìm mình trong ngũ dục thế thôi.

Thưa, ngành tâm lý học cận đại đã nghiên cứu rất đúng khi họ gọi thiên đường của con người là bào thai mẹ. Người ta gọi bào thai mẹ là thiên đường vì đứa bé nằm trong bào thai được bảo vệ một cách toàn vẹn. Có người thở dùm, ăn dùm, lo lắng dùm để bé không bị nóng, không bị lạnh gì cả.

Khi ra khỏi lòng mẹ là đứa bé đã rời thiên đường của mình để bước vào vùng trời mà nó chưa biết như thế nào. Có niềm vui, nỗi khổ nào đang chờ nó ở bên ngoài, nó không hề biết. Khi bị cắt cuống rốn là nó bắt đầu thở hơi thở đầu tiên, là nó bắt đầu đánh mất vĩnh viễn thiên đường. Và ngành tâm lý họ nói mơ ước của con người là được trở lại thiên đường lúc chưa sinh. Sự suy lý của họ khá giỏi tuy nhiên với người tu Phật thì thiên đường không phải ở đó vì nó rất cạn cợt chỉ trong một đời người; mà thiên đường nằm ở dòng sinh mạng, từ nguồn cội Niết Bàn của tâm thức. Từ tâm thức chưa khởi một niệm vô minh, nơi đó chính là thiên đường.

Thưa quí vị, tại sao con người cam tâm lao mình vào cõi nhọc nhằn, khổ đau như vậy? Thưa, đầu tiên do vì năng lực tự hữu bên trong của chúng ta, mà những loài có tình thức thường hay có khuynh hướng thúc đẩy tìm đến người khác phái. Từ đó tạo thành dòng chảy nối dài, cuốn con người vào nhịp vận hành với sức mạnh khó cưỡng lại của nó là vòng luân hồi bất tận. Sở dĩ chúng ta tình nguyện trôi theo dòng chảy nầy là vì trên thế gian nầy không có sinh vật nào cô đơn bằng con người. Có những lúc chúng ta cảm nghiệm được là tuy có có bạn bè, người thân chung quanh nhưng trong tận cùng mình vẫn là người rất cô đơn. Sống với người mình thương nhưng có khi “Đồng sàng dị mộng”, mỗi người mang một tâm trạng khác nhau.

Gốc gác cô đơn là do vì con người có tri thức. Tri thức đẩy con người đến chỗ nhận biết con người vốn là kẻ độc hành trên cuộc đời nầy. Đến một mình rồi ra đi cũng một mình, và trong cõi mênh mông vô cùng không có gì dễ sợ bằng sự trống trải của kiếp người. Điều nầy được thể hiện rõ trong đời sống hiện tại. Khi mà tâm thức chúng ta có nhiều lo âu, tính toán, bận tâm thì chúng ta cảm thấy đời sống đầy năng lượng. Khi mà tâm không có gì để lo nghĩ, suy tư, trống trải chúng ta rất là sợ. Chúng ta vội vàng tìm một cái gì đó lấp cho đầy lòng mình. Cho nên thật tội nghiệp cho con người là cần có người bên cạnh mình, cần có người chia xẻ dù đôi khi đó là gánh nặng, là nỗi khổ, là của nợ của nhau.

Hơn nữa, đạo đức, luân lý của xã hội ràng buộc, đè nặng tâm thức con người.

Có những vùng văn hóa bị quy định bởi tôn giáo, như văn hóa của một quốc gia cùng niềm tin tôn giáo quy định thành luân lý của xã hội Tây phương. Và Đông phương ví dụ như Trung Hoa cũng thế; xã hội hình thành từ nền đạo đức Khổng giáo và Phật giáo. Chẳng hạn, một trong những tội bất hiếu, tội bất hiếu lớn nhất là con trai không lập gia đình, đạo đức Khổng giáo dạy như thế, trong khi Phật giáo với truyền thống ly dục thì ngược lại những điều Khổng giáo đã dạy. Và chúng ta thấy tôn giáo thường tạo thành mâu thuẫn trong tâm thức con người, từ đó nó là một phần làm nên sự bất hạnh trong đời sống chúng ta.

Chúng ta lưu ý là có những vùng văn hóa đẩy con người ta vào hố hầm hưởng thụ dục lạc, trong khi có những tôn giáo lại dạy con người khước từ dục lạc. Hai điều nầy đều thuộc về biên kiến hay thiên kiến như Đức Phật đã nói. Chúng ta có đi vào hưởng thụ hay đố kỵ, tiêu diệt hay nắm giữ nó chúng ta cũng không siêu việt lên trên họa hại của ái dục.

Hai con đường nầy dù có muốn hay không muốn chúng ta cũng không cắt được nỗi bất hạnh hay họa hại của ái dục, vì tự thân trong mỗi sinh mạng đã sẵn mầm mâu thuẫn tạo thành nỗi bất hạnh, và tự tâm thức chúng ta rất cô đơn nên chúng ta cam tâm đi vào con đường nầy để tìm chút tựa nương.

Và đóng góp thêm cho nỗi bất hạnh của kiếp người là do nền đạo đức xã hội của từng vùng văn hóa, do những quy định của tôn giáo khác nhau đã tạo thành nỗi ám ảnh rất lớn trên tâm thức con người.

Trong đời sống nhân gian, dường như chưa có một lạc thú nào có sức mời gọi con người bằng lạc thú ái dục cho con người tình nguyện nhắm mắt lao vào. Không có sức cuốn hút nào mãnh liệt bằng con đường dục lạc làm con người đam mê để chịu đựng nỗi lao ngục bất hạnh lớn như vậy. Chính con người dù nam hay nữ, thường hay tự mình tạo ra lao ngục trong tâm thức mình. Chúng ta tự tạo ra địa ngục cho chính mình và tạo ra lao ngục, đọa đày cho người khác.

Thưa, lao ngục của những người nam là người khác phái của mình, và lao ngục của người nữ là người nam. Đây là sức hút tự nhiên và có sức mạnh khó chống đỡ. “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai” như Từ Hải cũng phải lụy vì giọt nước mắt ngắn dài của nàng Kiều. Thế nên người ta hay ví von rằng tình cảm nam nữ hoặc tình yêu đôi lứa “nhìn xa đẹp như viên kim cương, nhưng đến gần là những giọt nước mắt.”

Bởi vì khi chưa thuộc vào nhau ta đem hết tất cả những điều dễ thương, những cái đẹp nhất phô bày hiến tặng cho người kia để chinh phục. Nhưng khi đã là sở hữu của nhau thì không cần che dấu, giữ gìn và cũng không còn cần thiết nữa mà từ từ ta để lộ ra những gì đã từng bất mãn, khó chịu, cay đắng được che đậy, cất giữ từ lâu. Rồi cả hai đều có cảm tưởng bị lừa dối, đó là một phần của sự bất hạnh và là lao ngục thực sự của chúng ta. Đi loanh quanh vào ngõ cụt nầy chắc chắn chúng ta đang đưa cuộc đời vào lao ngục ái dục, và cái giá mà chúng ta phải trả là cả một đời người chứ không phải chỉ vài ba năm ngắn ngủi mà thôi.

Thưa quí vị, có những người trong cuộc sống gia đình, tâm thức họ lại viễn ly ái dục. Nhưng có những người trẻ, tuổi còn thanh xuân chưa nếm được hương vị cay, mặn của đời sống gia đình họ bị ràng buộc vào ái dục.

Ngoài xã hội, ví dụ có những cuốn tiểu thuyết viết về vấn đề tình dục khi đọc vào làm cho người ta chán, sợ, ghê tởm. Nhưng có những cuốn sách người ta không viết về lãnh vực tình dục, ái dục, nhưng khi đọc lại kích thích tâm thức người ta hướng về nẻo ái dục.

Do vậy sâu xa nhất, nền tảng nhất của vấn đề họa hại ái dục không phải nằm từ bên ngoài mà nằm trong tâm thức chúng ta; ái dục phát sinh từ tâm thức và những ràng buộc, nhận chìm con người của nó không phải từ bên ngoài mà chính từ tâm thức của chúng ta. Và cái giá phải trả một đời của sự lao ngục phát sinh từ đây. Xin quí vị nhớ cho như vậy.

3. Khoảng cách giữa phàm phu và thánh nhân.

Trong đời sống nhân gian, nhiều lúc nhìn một người chúng ta tưởng như cuộc sống người đó đang bị chìm đắm trong ái dục, nhưng nào ai biết tâm thức họ chán sợ ái dục nhân gian rất đậm.

Nếu tâm thức chúng ta xả ly được năm món dục thì ta có thể vận dụng tất cả điều kiện để hành đạo không khó. Tuy sống trong nhân gian, chìm trong lòng nhân thế nhưng vẫn xả ly được ái dục, trường hợp đó ta gọi họ là những bậc Thánh trong đời. Ở trong đời nhưng vẫn viễn ly nhân gian. Cho nên khoảng cách giữa phàm phu và Thánh nhân không thể được định giá trị bằng những biểu hiện trong đời sống bình thường; ông đó là thầy tu, ông đó là người ở ngoài đời... Thưa, điều nầy phải được tiếp cận sâu sắc và nhìn từ đời sống bên trong.

Sâu hơn một tầng nữa là do cách ta nhìn cuộc đời. Khi tâm thức chúng ta trang bị phẩm chất đạo đức rất cao thì chúng ta có thể đi vào trong cuộc đời, vận dụng tất cả những điều kiện trong nhân gian mà làm đạo. Nếu tâm thức chúng ta mà lòng yêu thương rộng lớn, chúng ta đi vào bất cứ lãnh vực nào cũng giúp người được như nghệ thuật, giáo dục, văn hóa... mà không phải chỉ cứu độ người bằng con đường bố thí tiền của cho người. Từ điều kiện bên trong giàu có nầy, chúng ta có thể đi vào đời, và tự nhiên sẽ nhìn cuộc đời khác với phàm phu. Phàm phu và Thánh nhân được định nghĩa trong cái nhìn về cuộc đời, về quan niệm trong cuộc sống. Nội tâm các vị mà vô dục, phạm hạnh tràn đầy thì dù chúng ta ở giữa nhân gian, bao quanh ngàn vạn cuốn hút của dục lạc chúng ta vẫn là người thanh khiết.

Tôi xin nhắc lại một điều: hình thức và nội dung rất gần nhau. Hình thức là những gì biểu hiện từ nội dung. Cho nên chúng ta chưa đạt được tâm cực kỳ thanh tịnh của bậc Thánh, thì chúng ta đừng bao giờ nghĩ chúng ta có thể đi vào chốn ô uế của trần gian và nói chúng ta vô nhiễm. Hãy thành thật với chính mình, khi thấy tâm mình đã viễn ly thực sự, khi ấy chúng ta mới có khả năng đi vào đời tự hào làm Bồ Tát độ sinh. Nếu không, không có gì đẹp hơn, tuyệt vời hơn bằng một đời sống viễn ly từ bên ngoài cho đến bên trong.

Có một vị Thiền sư, đồ chúng rất là đông. Đời sống của ông biểu hiện ra bên ngoài là gặp gì ăn nấy. Gặp thịt ăn thịt, gặp cá ăn cá, gặp rượu uống rượu... Đệ tử thấy thầy tự tại quá, họ đua nhau bắt chước. Một hôm ông dẫn đồ chúng đến một bãi thiêu xác, lượm những thịt còn sót lại sau khi thiêu đem về trộn vào cơm. Xong ông bới từng chén mời tất cả ăn cùng ông. Đồ chúng chưa ăn mà thấy ông làm là đã ụa mửa bỏ chạy, nhưng ông ngồi ăn rất ngon lành giống như ăn thượng vị. Sau khi ăn xong, ông gọi đồ chúng lại bảo: “Nè, các ông nên biết là ta đã năm trăm đời làm tăng, nghiêm tu phạm hạnh, hiện thân trong cõi trần, đi vào chốn bùn lầy để độ sinh nên ta mới làm được điều nầy. Còn các ông, nếu chưa đủ năm trăm đời tu phạm hạnh như ta chớ có bắt chước, đọa địa ngục như tên bắn.”

Tôi muốn kể cho đại chúng nghe chuyện nầy để nói một điều quan trọng là khoảng cách giữa phàm phu và Thánh nhân gần vô cùng. Hình hài ta giống nhau, đời sống bên ngoài ta có thể giống nhau nhưng Thánh hay phàm được đánh giá từ bên trong tâm thức; mà bên trong tâm thức gột rửa một đời chắc gì đã sạch được.

Nếu ta là Bồ Tát thì ta có khả năng nhận diện ta là Bồ Tát, mình là phàm phu thì cũng nhận diện mình chính là phàm phu. Chúng ta mỗi người hãy nhìn tâm thức mình còn đắm nhiễm thì phải cẩn trọng với chính mình; từ hình thức cho đến nội dung.

Thưa, không có may mắn nào, phước lành nào sánh bằng cuộc đời của một tu sĩ. Cả một đời trong nhân gian không phải bận rộn cái ăn, cái mặc, không phải lo toan đối phó với mọi chuyện. Chúng ta có trọn vẹn điều kiện, trọn vẹn thì giờ để tu, để học, để nâng đời sống tâm thức mình lên, thế mà chúng ta không thể làm được một điều là hứa với lòng mình trong một đời nầy giải quyết chuyện tử sinh thì rất là uổng.

Cho nên người xưa họ tu rất là quyết liệt. Tu thế nào để cuối cuộc đời chỉ vào hình hài mình nói như các vị đệ tử Đức Thế Tôn ngày xưa đã nói: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc đáng làm đã làm, ta không còn trở lại cõi nhân gian thọ nhận hình hài nầy nữa.” Mong rằng đại chúng tư duy bài học nầy thật sâu sắc.

Thưa đại chúng, hôm nay chúng ta học tiếp vào các chương còn lại.

Hai chương hai mươi bốn và hai mươi lăm nầy có cùng chủ đề và một đại ý như chương hai mươi ba mà chúng ta đã học.

A. CHÁNH VĂN.

CHƯƠNG XXIV.

Phật ngôn: “Ái dục mạc thậm ư sắc, sắc chi vi dục, kỳ đại vô ngoại. Lại hữu nhất hỷ. Nhược sử nhị đồng, phổ thiên chi nhân, vô năng vi Đạo giả hỷ.”

Đức Phật dạy: “Trong các thứ ái dục không có gì lớn và mạnh bằng sắc dục. Sự tham muốn sắc dục không có gì có thể sánh bằng. Cũng may chỉ có một thứ ấy mà thôi. Nếu có cái thứ hai bằng nó thì trong thiên hạ không có ai có thể tu được. “

CHƯƠNG XXV.

Phật ngôn: “Ái dục chi nhân, do như chấp cự, nghịch phong nhi hành, tất hữu thiêu thủ chi hoạn”

Đức Phật dạy: “Người ham mê ái dục như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tất sẽ bị họa cháy tay.”

Chúng ta có ba vấn đề chia xẻ trong hai chương nầy: Sức mạnh của ái dục, họa hại từ ái dục gây nên, cách nhận diện và chuyển hóa ái dục.

B. NỘI DUNG,

1. Sức mạnh của ái dục.

Như chúng ta đều biết tâm thức người Đông phương rất kín đáo, tình cảm của họ cũng thường khép kín. Từ tâm thức ấy, vấn đề ái dục không bao giờ được nhắc đến và họ cũng rất dè dặt khi nói đến vấn đề nầy. Điển hình là cho đến bây giờ trong giáo dục các trường lớp cũng chưa dạy một cách công khai cho thanh thiếu niên hiểu rõ những biến chuyển sinh lý của cơ thể.

Trong khi Tây phương điều nầy quá bình thường thì trong các tôn giáo phương Đông người ta rất kiêng kỵ. Nhất là trong truyền thống đạo Phật thì đặc biệt không được nói đến. Vị thầy nào giảng pháp mà đụng đến vấn đề tâm sinh lý con người là bị xì xào, đàm tiếu, thị phi. Đó là một thiệt thòi cho đạo Phật khi đặt chân vào vùng đất nầy.

Dĩ nhiên, sinh tâm lý của con người có những bước chuyển biến rất quan trọng ở tuổi mới lớn khi năng lượng tính dục bên trong phát triển. Nếu chúng được lèo lái, được học hỏi cặn kẽ thì chúng ta có thể, nếu ở đời làm một bậc phụ huynh giỏi dạy con em, nếu trong đạo thì chúng ta làm một vị thầy dạy đệ tử vượt qua những khó khăn, chuyển biến khó lường của tâm sinh lý.

Nếu tự thân chúng ta chưa hiểu biết, chưa nhận diện và chuyển hóa được sẽ dễ trở thành một người thất thố, vụng về. Và từ sự mù mờ, không được giáo dục lành mạnh đó ta gây hệ quả tất nhiên cho bao người chung quanh qua cách hành xử, nói năng, làm cho thế hệ cháu con ta ức chế sự phát triển của sinh tâm lý tự nhiên. Điều nầy rất dễ đưa chúng dấn thân vào con đường sa đọa, băng hoại cho tự thân, gia đình và xã hội nghiêm trọng.

Từ tâm thức khép kín của văn hóa Đông phương cùng những tôn giáo phát sinh từ Đông phương cho nên các thầy không dám đọc, hiểu hay giảng giải một cách trong sáng, khoa học vấn đề tâm sinh lý cho đệ tử hay tín đồ. Và đây là điều thiệt thòi vô cùng cho sự mở mang kiến thức của chúng ta. Chẳng hạn như môn luật học là một môn học thực tiễn trong đạo Phật nhưng trong truyền thống luật học vẫn còn bị cấm chỉ và hạn chế nhiều mặt. Họa hoằn lắm chỉ có vài nhà học giả đọc vào văn bản luật để làm cuộc đối chiếu viết sách, thuyết trình ở phạm vi nhỏ cho vui. Trong khi luật tạng của Đạo Phật có thể cống hiến được lợi ích cụ thể về nhiều lĩnh vực như: Lịch sử phát triển dân số, tâm lý và hoàn cảnh con người quá khứ, đạo đức xã hội, Đạo Phật với vấn đề bảo vệ sinh môi...

Tôi chỉ xin gợi một ít để quí vị thấy vấn đề của chúng ta không đơn giản nằm trong phạm vi nhà chùa. Các vị mà giỏi về sinh tâm lý học bao nhiêu khi tu tập giỏi thì sẽ trở thành vị thầy lỗi lạc bấy nhiêu. Và như tôi vừa chia xẻ, dốt nát ở thế gian đưa đến sự băng hoại, tàn phá cả một truyền thống đạo đức của ông cha gầy dựng trong mấy trăm năm. Còn sự dốt nát trong đạo cũng đem đến tai họa lớn không kém.

Đặc nét cấm kỵ, sợ hãi, tránh nói đến ái dục của văn hóa Đông phương và tác dụng thuận của nó chúng ta không cần nói đến, nhưng thường điều gì mà cấm đoán, che đậy, dấu diếm càng kích thích, càng gợi lên tánh tò mò đến cao độ.

Tôi kể một ví dụ nhỏ; vào khoảng thế kỷ mười tám các nước Tây phương như nước Anh y phục của quí bà là váy dài phủ kín đến chân. Quí bà nào đi ngoài đường bất chợt một làn gió làm chiếc váy lắc lay hở đôi chân thì hầu như toàn bộ đàn ông đều háo hức dồn mắt vào chiêm ngưỡng đôi chân đó.

Chính văn hóa Đông phương đã tạo thành bản chất có khuynh hướng loại trừ, chối bỏ ái dục. Và càng phủ nhận, loại trừ ái dục càng làm người ta thèm khát, thôi thúc người ta tìm đến nhau và tính chất của ái dục muôn đời là một loại keo gắn người ta lại với nhau.

– Mức độ nặng nhẹ của sự chìm đắm từ ái dục.

Tôi xin lập lại, dục chỉ là phần thô thuộc về hình hài vật lý, tuy có sự thôi thúc của năng lượng dục trong tự thân nhưng phù du nhất, đưa người ta đến sự nhàm chán, nhờm gớm nhanh nhất.

Ái có gốc rất là sâu, nó nằm ở cảm thọ, ở phần tâm lý nhiều hơn, nó tinh tế hơn nên phần nầy nhận chìm và gây khổ lụy cho con người đáng sợ nhất. Nếu trên đường tu chúng ta không chuyển hóa và nhận diện nó được, trái lại chúng ta chỉ biết sợ sệt, trốn chạy hoặc đàn áp trấn ngự để loại trừ tức là ta sẽ làm tâm ái nhiễm nầy trốn qua một dạng khác của tâm lý thì khó tịnh hóa được nó vô cùng. Những gì càng tinh tế thì càng làm người ta lậm sâu vào nặng nề hơn mà không biết. Ví dụ như dục là mức độ thô nên người ta thỏa mãn rất nhanh và chán cũng rất nhanh. Nhưng ái ở mức độ tinh tế hơn, mịn hơn. Nó không phải là sự đam mê của sắc chất, hình hài mà từ cảm thọ, tâm thức nên mức độ tàn phá, hủy diệt con người của nó lớn vô cùng. Điều nầy rất rõ; trong xã hội có những người họ kết hợp với nhau qua sắc đẹp, họ bỏ nhau rất dễ. Nhưng nếu gần nhau vì nết, vì cảm tài nhau thì họ bỏ nhau rất khó. Bởi cùng một cung bậc tâm hồn, cảm thông với nhau qua nhiều cấp độ tinh tế nên đến khi quay lưng lại thì nỗi khổ lớn gấp ngàn lần, nó dìm chết con người.

Thế nên càng đi vào chiều sâu của ái thì mức độ tàn phá của nó càng nặng. Và nếu có sự kết hợp lẫn của ái và dục hẳn sẽ làm thành dòng chảy luân hồi triền miên trong nhiều kiếp. Ngay hiện đời nó là hạt mầm kéo con người đi vào cõi tử sinh ngút ngàn không cơ hội vượt thoát. Đây là những vấn đề rất vi tế, chúng ta sẽ có cơ hội gặp lại trong những chương Kinh kế tiếp.

– Sức mạnh xưa nay của ái dục thường được nhận biết một là biểu hiện, hai là thầm lặng hay tiềm phục. Dĩ nhiên ở mặt biểu hiện nầy, nó mang đến cho người ta nhiều điều tích cực, như lòng hy sinh, khuynh hướng làm cho con người ta thăng hoa đời sống. Nó cũng đóng góp hạnh phúc trong cuộc sống đời thường. Đó là lãnh vực tích cực của nó. Nhưng ở đây, tôi muốn nói đến lãnh vực tiêu cực, lãnh vực tàn phá của nó trong đời sống con người. Ví dụ như đời sống của các vị cư sĩ Phật tử, quí vị thử chiêm nghiệm lại cuộc sống của mình từ quá khứ cho đến bây giờ thì thấy rất rõ. Nó biểu hiện trong đời sống của ta qua sự ghen hờn, trách cứ, buộc tội, lo sợ bất an... là những tâm hành tiêu cực từ sức mạnh của ái dục biểu hiện ra bên ngoài.

Quí vị cư sĩ nữ thử nhìn lại mình xem có phải như thế không? Khi còn con gái mình không ghen, tới thời trung niên hơi ghen một tí, càng già thì càng ghen nhiều hơn. Tuổi già đến với phái nữ nhanh hơn, vì sanh con, lo cho con cái nên sức khỏe và nhan sắc chóng tàn. Khi nhan sắc trên con đường đi xuống thì nỗi sợ có mặt, và từ đó nỗi bất hạnh đã được cài sẵn có điều kiện phát tác. Ta cảm thấy khổ đau, nỗi khổ càng lớn hơn khi mỗi ngày ta càng già đi. Đây là những điều thường xuyên có mặt trong xã hội loài người. Những tâm hành tiêu cực như bất an, giận hờn, ghen tương, buộc tội, hằn hộc, chì chiết... là những biểu hiện sự có mặt của ái dục nằm đằng sau, và sức mạnh của nó đè nặng lên tâm thức ta.

Loại tiềm phục khó nhận diện hơn đó là năng lượng ngầm chỉ đạo tâm thức. Nếu chúng ta cảm thấy bất an, hơi hờn hờn, hầm hầm nóng, hoặc ganh tị, hay mặc cảm... quí vị nên để ý, đó là loại năng lượng có gốc rễ từ ái dục nằm trong tâm thức ta gây nên. Và điều nầy không những chỉ ở trong đời sống nhân gian mà đôi khi nó cũng có mặt trong đời sống đạo.

Dĩ nhiên, chúng ta rời đời sống bên ngoài đến với đạo để tu, về mặt thô cạn thì chúng ta đã cắt đứt được sinh hoạt ái dục của nhân gian, nhưng nói như thế không có nghĩa là năng lượng tiềm phục của ái dục không còn, đã bị triệt tiêu. Thưa không, nó ẩn qua một dạng khác mà chúng ta khó nhận biết. Ví dụ khi về già, tâm sinh lý ta cạn nguồn, một phần do ảnh hưởng sức mạnh đạo đức tôn giáo đè nặng lên tâm thức cho nên trong thế giới người tu khi về già tâm tính ta trở chứng rất khó chịu. Thế giới của quí thầy khó chịu cách khác, thế giới của quí cô khó chịu cách khác.

Nếu quí vị có dịp đọc vào những cuốn sách nói về những nữ tu của các tôn giáo khác như Ki Tô; các sơ già độ sáu mươi, bảy mươi tuổi thể hiện sự khó khăn, cay nghiệt, khắc khổ qua ánh nhìn, cách nói năng, cách hành xử. Đó là loại năng lượng ái dục tiềm phục bên trong bị chuyển dạng mà chúng ta không nhận diện được. Điều nầy có mặt đa phần trong các nữ tu viện không riêng của tôn giáo nào từ quá khứ cho đến hiện tại.

Và nếu không khéo chuyển hóa nó lúc mới vào tu, lúc Bồ Đề tâm còn nguyên sơ thì càng về lâu, về già đời sống người tu càng héo hắt, càng thể hiện sự cay độc và nhẹ hơn là sự khó chịu, gay gắt rất lạ kỳ.

2. Họa hại từ ái dục.

Trong đời sống nhân gian nếu chúng ta có nền giáo dục tốt, một đời sống tâm linh phát triển một cách bình thường tự nhiên chúng ta sẽ đi vào hướng đạo đức. Đạo đức ở đây được đánh giá từ nền tảng đầu tiên là điều tiết hợp lý vấn đề tình dục, từ đó đưa đến sự thành công cho con người trong nhiều lãnh vực. Thành công trong học tập giao tế, thành công trong công trình sáng tạo, thành công trong thủ đắc danh lợi... Điều quan trọng là chúng ta có khôn ngoan, thông minh để biết lèo lái năng lượng dục nầy, đầu tư đời sống theo chiều hướng tích cực hay không mà thôi.

Con người ta mà năng lượng dục khô cạn thì đó là điềm triệu báo hiệu không thể kéo dài đời sống quá mười bốn, mười lăm năm sau. Có nghĩa là chấm dứt thời kỳ sống của họ vào mười bốn, mười lăm năm kế tiếp. Cho nên hướng chảy của năng lượng dục rất là quan trọng, chúng ta hãy khéo giáo dục con em như thế nào cũng là khéo giáo dục mình nữa. Nếu chúng ta biết thiết lập một nền tảng căn bản có đạo đức trong sinh hoạt đời sống gia đình thì niềm vui, hạnh phúc của mình chính là niềm vui, hạnh phúc của người chung quanh. Chúng ta đóng góp sự khôn ngoan, thông minh của mình bằng những công trình sáng tạo có ích lợi thuộc mọi lãnh vực cho xã hội do năng lượng dục thúc đẩy theo chiều hướng tích cực. Và dĩ nhiên đời sống tuy bình thường nhưng đầy phúc lạc của thân và tâm.

Bước vào ngưỡng cửa Già Lam nhìn thử thì trong tất cả những tổn thương, đổ vỡ trên con đường tu tập của các bậc thầy phần lớn từ con đường ái dục tác hại.

Chúng ta hãy nhìn vào các vị Thầy lớn, có những vị rất tài ba, khéo giỏi nhưng vẫn có một chút ít thị phi về con đường tình cảm, con đường ái dục. Dường như không có điều gì gây chú ý, xôn xao dư luận bằng vấn đề ái dục. Người ta dùng nó như là khí cụ để đánh phá người tu rất dễ. Đó chỉ là mặt tiêu cực do những phá hoại bên ngoài tác động vào đạo Phật, nhưng điều quan trọng là do chính những người con Phật bên trong phá hoại. Tại sao như vậy?

Thưa, đối với cộng đồng Phật tử Việt Nam họ được nhuộm đậm truyền thống văn hóa Đông phương nên nhìn các vị Thầy dưới cái nhìn rất khắc khe, và cố chấp; dù cho có đạo hạnh thế nào vẫn có chuyện thị phi. Nhất là vấn đề ái dục rất phức tạp từ trong nước cho đến hải ngoại.

Ta có thể nhìn vấn đề bằng hai cách để thấy tại sao có những điều tiêu cực xẩy ra.

Thứ nhất do tâm thức của người Đông phương qui định. Ví dụ khi chúng ta đến với một thầy để học những điều thầy chỉ dạy, hay nói một cách khác là hóa thân của vị thầy ban tặng cho ta thể hiện qua những bài pháp, cách thực hành... chúng ta không tiếp nhận, mà chỉ tò mò để ý đến chuyện riêng tư, đời sống của ông thầy. (nhìn ai nhiều, cười với ai, hay nói chuyện với ai, liên hệ với người ra làm sao...) nên từ tâm thức rất Đông phương nầy phát sinh ra vấn đề dị nghị: Ông thầy nói chuyện với ai mà nhìn nhiều một chút là nói ông thương người đó, cười với một ai đó hai ba lần là có chuyện để xì xào, bàn tán rồi... Cho nên vấn đề thị phi nằm về phía Phật tử, tâm thức họ từ ái dục nên sinh ra chất ganh tị, thị phi rất nặng đã làm tổn thương đến truyền thống đạo Phật có mặt ở nơi nầy.

Ngoài giới Phật tử, chúng ta còn có thế giới nhà chùa các thầy với nhau nữa. Ghen ghét nhau, vu khống nhau, bôi lọ nhau, chia rẽ nhau... và không có gì bôi xấu nhau dễ dàng, hiệu quả bằng đem ái dục ra dựng cớ để hạ nhau.

Và điều thứ hai nằm ở chỗ rất vi tế. Do vì sự phức tạp thị phi đã có mặt ngay bên trong tâm thức của người tu chúng ta, trong sự hành đạo rất vụng về do tâm thức ái nhiễm của các thầy. Và đôi khi đã làm thành vấn đề thị phi cho Phật tử bàn tán, xôn xao. Chắc hẳn không phải tự nhiên mà Phật tử vu khống. Phần lớn là như vậy.

Một vấn đề không kém quan trọng là để có chùa, tự viện, trung tâm tu học... đôi khi các vị thầy phải đem hết khả năng, thông minh của mình cư xử với Phật tử theo cách thế nào đó để có tịnh tài, mà thông thường tịnh tài nằm trong túi quí bà. Và vì nhu cầu xây dựng tự viện, quý thầy đôi khi tạo ra sự hiểu lầm cho Phật tử nên nhiều chuyện phức tạp xảy ra, gây nên nhiều đổ vỡ, tai tiếng làm tổn thương đời sống của người xuất gia, cho chùa, cho tự viện.

Thưa quí vị, tôi chia xẻ điều nầy để chúng ta cùng biết trên con đường làm đạo nếu lậu nghiệp chưa sạch hẳn như các vị A La Hán thì tối thiểu phải sạch nghiệp ái dục. Và ái dục nằm bên trong tâm thức chúng ta, điều nầy nếu không có công phu quán chiếu, hành trì, không khéo nhận diện thì những hạt giống ô uế dễ hiện khởi. Khi tâm thức còn ái nhiễm thì chất ái nầy lớn mạnh được biểu hiện ra bên ngoài trong mỗi cử chỉ, trong hành động, trong ánh mắt nhìn đầy đam mê thèm khát thì người ta nhận biết ngay, và trên con đường làm đạo sớm muộn gì cũng đổ vỡ mà thôi. Đổ vỡ bởi thị phi, bị đánh giá, bị tổn thương.

Cho nên trong đời sống xuất gia, họa hại ái dục nặng nề nhất, ghê gớm nhất. Ở cấp độ cạn ái dục cản trở đường tu, cản trở cho công trình chúng ta làm đạo. Ở cấp độ sâu ái dục lôi chúng ta đi vào cõi tử sinh. Thế nên, chúng ta sạch nghiệp ái dục là chứng quả A La Hán. Chỉ có vậy thôi.

3. Nhận diện và chuyển hóa ái dục.

Thưa đại chúng, chúng ta hãy thành thật với chính mình để thấy rằng những chướng nạn căn bản đầu tiên của người tu là ái dục, và từ sự nhận chân ấy giúp mình cẩn trọng hơn. Chúng ta chưa phải là Thánh, nên người thông minh nhất muốn thành công trên đường tu là hãy biết mình. “Biết mình biết người trăm trận trăm thắng.” Câu cách ngôn nầy áp dụng vào lãnh vực chiến thuật, quân sự nhưng dùng nó vào trong lãnh vực tu tập sẽ giúp người tu chúng ta thành công trong đời sống tu hành.

Ví dụ như năng lực tu tập của chúng ta còn yếu, tâm thức còn nhiều ái nhiễm thì ta hãy nhận diện được điều nầy trong tâm mình và khi nhận diện được ta yếu, năng lượng ái nhiễm còn nhiều thì chúng ta hãy tránh tình trạng tạo môi trường thuận lợi để tâm ái nhiễm phát triển. Người tu thông minh nhất là như thế. Chúng ta càng trung thực với mình bao nhiêu thì càng có cơ hội phát triển, vươn lên bấy nhiêu. Nếu chưa phải là anh hùng thì mình đừng nghĩ là mình anh hùng. Đó là điều “cận nhân tình” nhất để chúng ta có thể nhận diện hầu chuyển hóa. Nếu không thành thật với chính mình thì không có cơ hội để chuyển hóa.

Khi chọn đời sống xuất gia làm lý tưởng cho đời mình ta phải biết một điều là tâm thức con người không phải luôn giữ được mức độ quân bình mà nó luôn giao động. Để chuẩn bị đi trọn vẹn đời tu, chúng ta phải tạo cho mình rất nhiều con đường thực tập để trang bị cho đời sống tự tu và làm đạo. Nếu chỉ thực tập đơn điệu như đóng cửa thất lại ngồi tu thôi; điều nầy nhiều người đã làm nhưng không bền. Nếu các vị chỉ biết tu thiền thì không cân bằng thân tâm; hoặc đi hoài, học hoài, ngồi hoài, nằm hoài... cũng đều không cân bằng thân tâm. Vì vậy, mức độ trung hòa là mức độ khéo điều tiết của những con người thông minh để thành công.

Người tu chúng ta nên biết tự nuôi dưỡng bằng cách chọn cho mình một ngày làm việc thật quân bình. Tọa thiền, đọc sách, học thêm, chấp tác, đi bộ... làm thế nào để thấy tất cả những điều đó làm cho mình hạnh phúc. Chúng ta phải khéo tạo ra những điều làm giàu có và thăng hoa đời sống tu của chính ta. Nếu thông minh thì tự mình có thể sắp xếp, làm chủ thì giờ của mình và chúng ta sẽ làm được một việc tuyệt vời là học được trong mọi lúc. Giỏi hơn nữa là có thể thiền tập được trong mọi lúc. Ví dụ như giờ họp, giờ tiếp xúc Phật tử là giờ chúng ta học được nhiều nhất. Chúng ta có thể ngồi đó để nghe, học cách nghe, cách nói của người. Cách những người bạn của mình chia xẻ, trình bày, cách họ hướng dẫn chủ đề đàm thoại, bàn thảo.

“Tam nhân hành tất hữu ngã sư”: nếu có ba người cùng đi trên đường với mình, tất hẳn sẽ có một người làm thầy mình. Chúng ta có thể vận dụng tất cả thì giờ trong ngày để nuôi dưỡng mình qua sự thực tập bằng cách luôn thay đổi những sinh hoạt để không nhàm chán, để không phung phí vào những chuyện không đâu.

Tự thân chúng ta phải có năng lượng giàu có để học hỏi, hiểu biết nội điển Phật pháp sâu dày, phải công phu thực tập để định lực và tuệ giác bật sáng. Khi các vị đầu tư trọn vẹn năng lượng của thân tâm cho niềm đam mê tu học và phát triển Bồ Đề tâm, thành tựu Thánh hạnh như vậy dĩ nhiên năng lượng đời sống sẽ tuôn chảy về hướng tích cực và thăng hoa. Đây là con đường chuyển hóa tích cực nhất đối với năng lượng dục ái tự hữu của con người.

Phương pháp hành đạo trong tương lai không phải đơn giản như chúng ta nghĩ là chỉ dùng ngôn ngữ thuần Phật pháp là có thể làm được việc. Có thể có những loại sữa uống rất ngon, nhưng nếu chúng ta đưa nguyên chất người ta không uống nổi. Giống như vậy, Phật pháp dù có tuyệt vời nhưng nếu chúng ta bê nguyên mảng trao cho người ta bằng tư tưởng, bằng ngôn ngữ, lý thuyết đậm màu sắc tôn giáo chắc chắn tâm thức người Tây phương chưa thể chấp nhận được. Người ta sẽ rất ngán, như sữa đặc quá ngọt. Chúng ta phải pha rất lỗng để hợp với khẩu vị ở nơi đây.

Thưa quí vị, chúng ta mang đạo Phật tặng cho người Tây phương nhưng không hiểu biết gì về văn hóa đất nước người, về đời sống xã hội, tâm lý cùng nhu cầu tình cảm... cũng không giỏi về tâm lý học Phật giáo (Duy thức học) thì chắc chắn những điều chúng ta chia xẻ không đến được tâm thức người Tây phương; không đưa vào thực tế cho họ thực tập được, không ứng dụng được, không chấp nhận được thì cũng vô ích mà thôi.

Vì thế nhu cầu học tập rất cần cho quí vị. Yêu cầu của nó là quí vị phải đi vào nội điển Phật học, đi vào hầu hết mọi lãnh vực trong xã hội và phải hiểu biết thâm sâu: tâm lý học, nhân chủng học, lịch sử, khoa học hiện đại... cùng những thành tựu mới nhất của nó.

Để hoằng pháp, chúng ta phải hơn người một cái đầu. Tuệ giác phát sinh từ công phu thiền định, tu tập vững chãi, cùng với trình độ tri thức học thuật sâu dày chúng ta mới mong truyền đạt Phật pháp đến với người. Ta không thể đứng còn rất thấp mà ngẩng đầu nhìn lên dạy cho bất cứ ai. Điều nầy là chân lý của mọi nền văn hóa, không loại trừ lãnh vực nào cả.

Truyền dạy cho người Việt nhất là người trẻ hôm nay tại đây hay bất cứ nơi nào; ngôn ngữ chúng ta xử dụng phải mỗi ngày mỗi mới, cách trình bày sáng sủa mới mong đưa được Phật pháp vào tâm thức họ.

Thưa quí vị, thực tập và hoằng pháp luôn liên hệ với sự học của quí vị. Một lần nữa, tôi xin lập lại chúng ta hãy chuyển hóa nguồn năng lượng đam mê tự hữu đi về hướng tích cực hầu làm thăng hoa đời sống của chính chúng ta. Nếu thông minh thì một ngày dù rất bận rộn chúng ta vẫn vận dụng được nó để làm giàu cho chính mình. Nếu không thì cho dù quí vị có một hình hài khỏe mạnh, tràn đầy năng lượng sống động, và chiều dài thong dong của tuổi thọ mấy trăm năm quí vị cũng không biết xử dụng. Đôi lúc tệ hại hơn nữa là ta đầu tư những điều kiện tuyệt vời đang có để tàn phá và nhận chìm đời sống chúng ta. Tất cả tùy nơi sự thông minh biết thương yêu, trân quí đời sống của chính các vị.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com