Dịch giả: Ni chúng Tự Viện Vĩnh Minh Lâm Đồng
Hiệu đính: Giáo sư Phạm Phú Thành & Đại Đức Thích Giải Hiền
Tưởng niệm Hoà thượng Quảng Khâm
(Xã luận của tuần san Từ Ân ngày 06/04/1986)
Đại lão Hoà thượng Quảng Khâm bậc Cao tăng của thời đại đã an từơng vãnh sanh vào ngày 13 tháng 2 năm nay (5 tháng Giêng nông lịch) tại chùa Diệu Thông – hương Lục Quy - huyện Cao Hùng, để lại nhiếu Xá Lợi được phân chia đem thờ tại ba ngôi chùa do Ngài sáng lập. Tuy rằng chúng ta không còn được thấy Tôn nhan Ngài nữa nhưng đức từ bi và trí tuệ của Ngài sẽ mãi mãi lưu lại trong tâm khảm của hàng ngàn hàng vạn người trong và ngoài nước. Ngài đã hoằng dương Diệu Pháp của Đức Thế Tôn, chỉ dẫn chúng sanh ra khỏi si mê; ngọn đèn truyền Pháp tiếp tục sáng và mãi mãi chiếu sáng không bao giờ tắt.
Hoà thượng trong đời mình không dùng văn chương cao siêu để giảng dạy, cũng không dùng lời hoa mỹ để cảm động lòng người, không vướng mắc vào danh lợi, không tạp nhiễm chuyện thế tục; một đời tu hành theo Phạm hạnh, không ngừng tham thiền niệm Phật, cho nên “ ba nghiệp thân khẩu ý của Ngài hoàn toàn thanh tịnh ”, bổn tâm trong sáng hàm chứa trí tuệ siệu việt, và thể hiện đức từ bi vô lượng. Thời trai tráng đã có vườn rừng dâng trái, mãnh hổ quy y, đạo hạnh của Ngài đạt tới chỗ mà chúng ta không thể nghĩ bàn !
Một người mà có thể hóa độ được hàng ngàn hàng vạn người, nếu ngừơi ấy sống ở trên đời thì đó là phước của xã hội .
Năm Dân Quốc thứ 57 (1968) đương kim Tổng Thống [ Tưởng Kinh Quốc. – Nd. ] - Khi ấy đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng – đến thăm chùa Thừa Thiên. Hoà thượng đàm đạo với Tổng Thống, Ngài nói: “ Mọi sức mạnh đều phát sinh từ trong “ Định ”, nhưng chỉ có ở trong “ Tĩnh ” mới có thể Định ”. Ngài còn nói : “ Người đang an định mà bảo có thể định được thì đó không phải là định. Phải ngay trong lúc phiền não mà định được thì đó mới gọi là định”. Tưởng Tổng Thống nhận rằng lời nói ấy vô cùng quan trọng, khi chúng ta giảng dạy tâm lý học và giáo dục chính trị đặc biệt cần phải nêu vấn đề này ra để giáo huấn cán bộ trong Quân đội Quốc gia. Ngày nay tình hình quốc tế biến chuyển một cách khôn lường, đất nứơc lâm vào hoàn cảnh rất đáng âu lo. Lời nói của Hoà thượng đáng được mọi người Công giáo [ gia đình họ Tưởng theo Công giáo. Nd ] và nhân dân trong nước cùng cảnh tỉnh. Mong rằng quốc dân do từ ý thức cộng đồng mà phát sinh định lực, có được trí tuệ vô biên ngõ hầu tạo nên sức sống cho xã hội và cục diện mới cho quốc gia.
Một bậc thầy về triết học của nước ta – giáo sư Phương Đông Mỹ, cả đời chuyên nghiên cứu triết học, thông suốt triết lý Đông Tây, nhưng cái mà ông tôn sùng nhất là cảnh giới Hoa Nghiêm của Phật Giáo. Ông cho rằng Phật học Đại thừa là lý luận cao nhất trong triết học. Trước khi qua đời ông hiểu ra rằng vào cửa Phật phải có thủ tục cần thiết, bèn nhờ bác sĩ và người nhà đưa đến chùa Thừa Thiên xin quy y Hoà thượng Quảng Khâm, được đặt pháp danh là Truyền Thánh và chính thức trở thành tín đồ Phật giáo. Quốc Phụ Tôn Trung Sơn nói: Phật học là mẹ của Triết học”, còn giáo sư Phương Đông Mỹ thì biết rõ và thực hành.
Trong đời mình, Hoà thượng hoá độ hàng ngàn hàng vạn người từ giới bình dân kém trí, đến hạng trí thức bác sỹ, chuyên gia. Nguồn lực chiêu cảm ấy chính là đức độ cao cả được tích lũy từ công phu tu đức tu tuệ hàng ngày của Ngài. Chẳng có gì làm ta ngạc nhiên khi thấy nhân sỹ trí thức trong xã hội đều tán dương Ngài là “Viên ngọc quý của Đất Nước”. Khi Ngài Quảng Khâm viên tịch, Tổng Thống lễ viếng với câu liễn đặc biệt “ĐẠI TỪ ĐẠI BI” ca tụng Ngài trọn đời cống hiến cho Tổ Quốc và Nhân Dân.
Hôm nay tất cả chúng ta cùng kính cẩn truy niệm đạo đức phong phạm của Hoà thượng, xin nguyện học theo tinh thần giáo hoá, vì người mà xả thân của Ngài, đồng thời phụng nhớ lời dạy “thành tâm niệm Phật” của Ngài; từ niệm Phật mà ngộ được triết lý cao siêu, phát huy sức mạnh đại trí, đại nhân, đại dũng của đạo Phật; kế thừa người trước khai ngộ người sau; làm hết sức mình vì sự tiến bộ và phồn vinh của xã hội, vì sự giàu mạnh và thống nhất của Quốc Gia, tiến tới xây dựng nền Hoà Bình vĩnh cửu cho thế giới .