Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 4

10/02/201109:15(Xem: 1711)
Phần 4

Tổ Đình Minh Đăng Quang
ĐẠO PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG TẬP I
Thiện Phúc

Tập 1 - Phần 4

76. TỘI VÀ PHƯỚC VỚI NGƯỜI PHẬT TỬ

Mọi sự an vui và đau khổ trên đời nầy đều do tội và phước mà sanh ra, vì thế muốn có được sự tu hành chân chính, trước hết chúng ta phải thấu hiểu thế nào là tội và thế nào là phước. Tội và phước là những hành động thiết thực trong cuộc sống nầy chứ không phải là chuyện ảo huyền.

Thế nào là tội?

Tội là hành động làm cho người khác đau khổ trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Người làm tội hiền hay dữ? Dĩ nhiên là người dữ người xấu. Tội có nhẹ có nặng, tội nhẹ là tội gây ra bởi việc làm không cố ý nghĩa là hành động do thân hoặc khẩu gây ra nhưng không được sự đồng tình của ý. Tội nặng là những hành động cố ý, nghĩa là do sự phối hợp của cả thân, khẩu và ý.

Tóm lại, tội phát xuất từ ba nghiệp thân, khẩu, và ý của chúng ta. Nơi thân: giết người, trộm cắp, tà dâm. Nơi miệng: nói dối, nói lưỡi đòn xóc, nói thêu dệt và nói hung ác. Nơi ý: tham, sân, si và tà kiến. Nếu có sự hợp tác chặt chẻ của ba nghiệp nầy là trọng tội.

Thế nào là phước?

Phước là những hành động đem lại sự an vui cho mình và cho người ở quá khứ, hiện tại và tương lai. Người biết làm phước thường là người có tâm hướng thiện. Làm phước có hai thứ: hữu lậu và vô lậu.

Thế nào là phước hữu lậu?

Làm cho mình và cho người an vui tương đối trong vòng sanh tử luân hồi là phước hữu lậu. Muốn thực hiện được phước dù là phước hữu lậu ta phải ứng dụng cả ba thứ thân, khẩu và ý.

Về thân, lúc nào ta cũng sẵn sàng làm hết sức mình để cứu mạng chúng sanh nhứt là con người. Bởi vì con người biết suy tưởng cho nên khi ta cứu mạng họ, họ sẽ an vui và biết ơn vô kể. Ấy là ta đang tập hạnh bố thí của Bồ tát. Sẳn sàng giúp người khi gặp cảnh khốn cùng. Những người đang lâm vào cảnh khốn khó, nếu được cứu giúp sẽ vui mừng vô hạn. Chúng ta muốn được an vui thì trước hết phải sẵn sàng mang sự an vui bủa khắp cho mọi người, đó cũng chính là nền tảng của phước đức. Đừng dại khờ ôm lấy những cái vô thường mà nuôi cái tâm bỏn xẻn của ta, hãy ban những gì ta có cho những người đang thiết tha cần nó. Hãy mượn của cải vô thường làm phương tiện an vui cho người và chính nguồn an vui ấy sẽ trở về với chúng ta một cách bền vững lâu dài. Hơn nữa, muốn được phước báo ta cần phải giữ gìn hạnh trung thành trinh bạch, không tà dâm. Người biết đạo lý không bao giờ dám xâm phạm đến danh giá và hạnh phúc của gia đình người khác. Hãy tự hỏi lòng ta xem có muốn gia đình ta được trinh bạch và danh giá hay không mà lại đi phá hoại sự trinh bạch và danh giá của gia đình khác. Làm được như vậy, sự an vui không những chỉ hạn hẹp trong gia đình mà sẽ lan tràn đến xã hội nữa.

Về khẩu, có bốn điều phải thực hành cho bằng được. Ấy là nói chân thật để đem lại niềm vui và tin tưởng cho người. Bất cứ trong trường hợp nào, chúng ta cũng luôn luôn cố gắng, nói lên những lẽ thật. Chơn thật là nguồn gốc của tin yêu và thương mến. Nói đúng lý để giúp mọi người nhận ra được lẽ chánh. Trong cuộc sống vốn dĩ đã phức tạp nầy, mọi người đã khó có nhận định đâu là chánh, đâu là tà. Cho nên ta cố gắng nói ra lời đúng lý hầu làm sáng tỏ mọi ngờ vực của người. Hãy nên luôn nhớ: "mặc người phi pháp, chúng ta vẫn giữ đúng pháp." Nói lời hòa thuận để đem lại tình đoàn kết cho mọi người. Tất cả việc làm phân ly chia rẽ đều tạo nên thống khổ cho con người. Là người tu theo Phật, chúng ta không thể làm thế, mà luôn luôn dùng lời hòa thuận để hàn gắn lại những rạn nứt. Thấy ở đâu có mầm rạn nứt, tan rã là chúng ta nỗ lực dùng lời hòa thuận làm chất keo hàn gắn lại. Cuối cùng là nói lời nhã nhặn để đem lại ôn hòa vui vẻ cho người. Mọi sự căm phẫn bực tức đều làm cho người đau khổ, trái lại sự nhã nhặn sẽ làm dịu đi mọi sự bực dọc của người. Người tu theo đạo Phật, nguyện trọn đời làm bớt khổ và ban vui cho người khác thì không lý do gì mà ta dùng lời lẽ thô ác.

Về ý, chúng ta phải tập từ bi, nhẫn nhục và chánh kiến. Cố gắng mang lại tình thương cho chúng sanh và tiêu diệt những tham lam độc ác. Nên nhớ rằng nổi khổ của chúng sanh là do lòng tham ác tạo nên, diệt hết tham ác tự nhiên khổ cũng không còn. Chúng ta nên tập nhẫn nhục để chịu đựng mọi cảnh ngang trái mà không sanh sân hận. Có nhẫn nhục được, chúng ta sẽ giữ được nhận định đứng đắn, từ nhận định đứng đắn ta sẽ có được sáng suốt, vui tươi và đi đúng hướng. Chính chánh kiến là đội binh tiên phong giúp ta tu phước, tuy vẫn là phước hữu lậu, vẫn còn sanh tử, song đi đến đâu cũng là hài lòng và mãn ý.

Thế nào là phước vô lậu?

Phước vô lậu là sự an vui tuyệt đối không giới hạn. Do thoát ly sanh tử nên an vui miên viễn. Tất cả những an vui sanh tử đều là tạm bợ, chỉ có tiêu diệt hết mầm sanh tử thì mới có an trụ vô sanh và an vui viên mãn. Muốn đạt được phước vô lậu chúng ta phải nhắm "vô sanh" làm mục đích và phải thấy cho được tướng giả sanh diệt để đừng bao giờ lầm kẹt vì nó.

Tại sao phải cần tránh tội làm phước?

Cuộc đời nầy vốn dĩ đã khổ đau lắm rồi, nếu không làm cho nó vui được thì thôi chứ đừng làm cho nó phải khổ đau thêm. Tránh gây đau khổ cho người cũng là tránh tạo nghiệp cho mình. Nên nhớ rằng bất cứ gì ta làm trong hiện tại cũng đều là nhân của cái quả ở vị lai. Nếu ta gieo nhân khổ thì làm sao hái quả vui cho được. Hãy tránh tối đa trong việc gieo nhân khổ và hãy luôn nhớ rằng "giọt nước tuy nhỏ nhưng cũng có thể làm tràn hồ." Thế nên, dù một tội nhỏ, tránh được ta cũng quyết tránh. Cợn cáu dù ít ta cũng nên gạn bỏ đi. Ngược lại, làm việc phước dù thật nhỏ, làm được, cũng quyết làm.

Hãy tâm niệm mang lại hạnh phúc cho người và lấy cái hạnh phúc, cái an lạc của người, làm cái hạnh phúc và an lạc của mình. Hạnh phúc và an lạc không phải dễ tìm, nhưng cũng không có khó. Chúng ở ngay trong ta, đừng nhìn cuộc đời tương phản nầy mà chán nản vì những kẻ buông lung phóng túng lại đôi khi được hưởng giàu sang phú quí, còn những ai cố giữ gìn lại chả được gì mà còn mất mát nữa là khác.

Ta hãy nhìn Đức Thế Tôn đã đầy đủ vô lượng phước đức, thế mà vẫn xỏ kim cho A na luật để mót phước, huống hồ gì chúng ta.

Tóm lại, tội phước chẳng những chuyện là thực tế, mà có khi còn là chuyện nhãn tiền nữa. Hãy tự mình tránh tội làm phước và tán thán những ai đang tránh tội làm phước, hoặc đang tiếp tay làm giảm thiểu đau khổ cho chúng sanh.



77. NGHIỆP BÁO VÀ PHƯỚC BÁO

Nghiệp báo tức là nghiệp quả báo ứng vì nghiệp nhơn ta gây thì nghiệp quả ta chịu. Nghiệp là hành động tạo tác theo thói quen của mỗi người. Nghiệp có thiện có ác, hể làm nghiệp thiện thì được phước báo còn làm nghiệp ác thì gặt ác báo. Nghiệp tạo nên từ thân khẩu ý, hể làm lành, nói lành, nghĩ lành thì tạo nên nghiệp lành. Ngược lại, làm dữ, nói dữ, nghĩ dữ thì tạo thành nghiệp dữ.

Khi tạo nghiệp, dù lành hay dữ, chúng sẽ rơi vào tàng thức của ta. Kẻ nhận lãnh cũng vậy, được ban vui hoặc làm khổ, tất cả những thứ ấy cũng rơi vào tàng thức của họ, hoặc biết ơn hoặc thù hằn... Khi nào đó, hai bên gặp nhau thì hạt giống ân oán ấy trổi dậy, khiến hai bên trao đổi thù đáp và cứ thế ân oán càng ngày càng lớn, nghĩa là ta sẽ mãi luân hồi sanh tử. Nếu mỗi ngày ta gieo vào tàng thức những hạt giống vui tươi, đến khi thân nầy sắp hoại diệt, những hình ảnh vui tươi ấy sẽ hiện đến với chúng ta, mời chúng ta đến cảnh vui tươi. Ngược lại, nếu mỗi ngày chúng ta gieo rắt đau khổ cho người, khi lâm chung, những hạt giống đau khổ ấy tạo cho ta những hình ảnh đau khổ và chính những hình ảnh đau khổ ấy sẽ cứ mãi đuổi bắt lấy chúng ta.

Làm sao hết nghiệp?

Nghiệp là do chúng ta gieo vào tàng thức, muốn hết nghiệp thì chính chúng ta phải loại hết những chủng tử nghiệp trong tàng thức ra. Khi kho tàng thức sạch hết những chủng tử thì sanh tử cũng dứt, tức là ta đã đạt được "Không Như Lai tàng" hoặc là kho "Như Lai trống."

Tóm lại, chỉ có chúng ta mới có khả năng không để cho những chủng tử nó tiếp tục dẫn dắt chúng ta mãi lẩn quẩn luân hồi sanh tử. Không một tha lực nào hoặc một quyền lực của thần linh nào có thể làm được điều đó.

Tại sao Bồ Tát sợ nhơn, chúng sanh sợ quả?

Thói thường hay nói: "ngừa bịnh hơn trị bịnh" vì biết ngừa bịnh thì cơ thể sẽ tráng kiện và không phải mất tiền trị bịnh. Trong đạo Phật, sợ nhơn khổ mà chẳng gây thì làm gì có quả khổ, chứ còn đợi đến quả khổ mới sợ thì đã muộn rồi, có khi đã chịu những đau đớn dằng vặc rồi. Cho nên người nào cũng nơm nớp sợ quả.

Bồ tát có nghĩa là hữu tình giác là một chúng sanh có giác ngộ và đang giáo hóa kẻ khác đi đến giác ngộ. Bởi là người giác ngộ nên thấy được nhơn đau khổ sẽ tạo thành quả khổ đau nên lúc nào cũng cẩn thận dè dặc trong lúc gây nhơn. Ngược lại, chúng sanh si mê, khi ưa thích thì cứ làm, đến hồi lãnh quả thì kinh hoàng hoảng hốt. Chỉ biết sợ quả khổ mà không chịu gieo nhơn lành.

Đã là Phật tử, chúng ta nên tu theo hạnh "Bồ tát sợ nhơn." Đừng tin ai khi họ nói tôi hút thuốc, tôi uống rượu mà không bao giờ ghiền. Tốt nhứt, ta đừng hút thuốc, đừng uống rượu thì ta lấy gì ghiền. Đó là cách ứng dụng thực tiển của câu "Bồ tát sợ nhơn" vào chính bản thân ta vậy. Còn ngoài xã hội, nếu không muốn nghèo đói, tật nguyền thì xin đừng hành hạ hoặc lường gạt kẻ khác đến nổi họ phải tật nguyền nghèo đói mà đâm ra thù hận chúng ta. Để rồi một ngày nào đó họ trả thù thì ta lại mang kiếp tàn phế và nghèo hèn. Trong gia đình cũng thế, hễ ta gieo nhơn nào thì gặt lấy quả nấy. Thí dụ như ta hiếu thảo với cha mẹ ta, thì con cái nó cũng hiếu thảo với ta. Bảo con cái siêng năng tinh tấn mà ta thì lười biếng thì làm gì có lẽ ấy.

Tóm lại, chúng ta hãy tập tu theo hạnh "Bồ tát" chứ đừng nhắm mắt làm càng đến khi gặp quả khổ mới kêu la, than khóc thì đã quá muộn. Phải sớm thức tỉnh, giác ngộ để tránh xa bến khổ. Biết sợ nhân, bản thân đã thức tỉnh; khuyên bảo người khác sợ nhân, quả thực đã giác tha. Thực hiện được như thế quả thực chúng ta đang chứng quả "Bồ Tát" không nhân, không quả của "Không Như Lai tàng" vậy.



78. PHẬT COI AI LÀ PHẬT TỬ? VÀ LÀM SAO CHO XỨNG LÀ PHẬT TỬ?

Đức Phật xem tất cả chúng sanh là con Phật, ngay cả những người từ bỏ Phật. Thí dụ về anh chàng "Cùng Tử" cho ta thấy rõ cái lòng đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả và thương xót chúng sanh muôn loài của Đức Phật. Đức Phật đã dạy: "Trên đời nầy chỉ có tình thương và sự tha thứ mới diệt được hận thù."

Chúng ta hãy tập cho bằng được bốn chữ "Từ Bi Hỉ Xả," hãy lấy từ bi mà rửa hận thù, phải hiểu kẻ thù thật sự của ta không phải là chúng sanh mà là tham dục và sân si. Như vậy mới xứng đáng là con Phật. Muốn theo dấu chân Phật, ta trước tiên phải làm đầy đủ bổn phận với chính ta, với gia đình ta và với mọi người. Với ta, ta phải tu tâm dưỡng tánh, trau dồi đức hạnh để cho thân tâm được an lạc, thanh tịnh trong hiện tại và giải thoát trong tương lai. Với gia đình, làm con phải hiếu, phải phụ giúp cha mẹ, phải luôn nghĩ đến ơn nghĩa sanh thành dưỡng dục, khi cha mẹ đau ốm phải hết lòng săn sóc thuốc men. Làm cha mẹ phải nuôi nấng dạy dỗ con cái, khuyên răn, nhắc nhở, định liệu gả cưới cho kịp lúc xuân thời cho con cái, phải cho con cái bàn tính chuyện nhà. Làm chồng không khắt khe với vợ từ cái chi tiêu đến ăn uống, phải tin cậy phó thác công việc cho vợ, không được sanh tâm tà vạy, sớm mận tối đào làm cho vợ ghen tương sầu não. Làm vợ phải kính yêu hoà thuận với chồng, phải quán xuyến nhà cửa, phải giữ gìn tiết hạnh, lúc chồng nóng giận không nên bừng mặt cãi lẫy làm mất hòa khí, phải biết cần kiệm trong mọi chi tiêu, và nhất là phải biết quí trọng cha mẹ chồng... Với mọi người, ta không nên tiết lộ chuyện của người khác, thấy ai làm quấy thì khuyên can, nhắc nhở nhau tránh dữ làm lành, nếu dư ăn dư để thì giúp đỡ kẻ thiếu hụt. Với thầy, phải kính mến như cha mẹ, vâng lời thầy dạy bảo, giúp thầy trong cơn tai biến. Nếu ta làm được những điều nầy thì quả ta xứng đáng làm con Phật, mà con Phật thì có quyền thừa hưởng gia tài của Phật, ấy là rốt ráo, giải thoát, và Niết bàn.

79. TẠI SAO GỌI ĐỨC NHƯ LAI LÀ VUA CỦA CÁC PHÁP?

Vua là người nắm quyền trong một nước. Gọi Phật là vua của các pháp có nghĩa là Phật làm chủ các pháp. Chính Ngài tự tại với các pháp, Ngài bày kiểu pháp nào cho thích hợp với loại chúng sanh nấy để mà khai thị cho chúng sanh. Ngài biết chỗ nào cần loại mưa gì, lớn, nhỏ, nặng hạt, nhẹ hạt... để cho vạn vật đều hưởng, đều thấm nhuần. Khi Ngài ban pháp vũ cho chúng sanh thì Ngài ban đồng đều, còn sự hấp thụ thì tùy khả năng, tùy trình độ của mỗi loài. Đức Thế Tôn còn vượt lên trên cái danh từ mà ta dùng để chỉ vua chúa; vì vua còn nổi giận khi thần dân hoặc triều đình phạm luật. Với Đức Phật, ai không nghe theo thì Ngài thương xót mà tiếp tục dạy dỗ.

80. TẠI SAO CHÚNG TA CẦN TU?

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta như những con lật đật vậy, chúng ta buông cái nầy bắt cái nọ... Chúng ta làm nô lệ cho các pháp, thương thương, ghét ghét, vui vui, buồn buồn. Mới phút trước thương rồi phút sau ghét đó, mới hôm trước vui đó hôm sau buồn đó, não đó; mới phút trước muốn tu đó rồi phút sau không muốn đi chùa.. Chúng ta cứ mãi dong ruổi theo những vọng niệm như một tên nô lệ, chúng sai chi ta làm đó. Hãy tự nhìn lại chính mình để thấy chúng ta đã quá nhiều lần lừa dối chính chúng ta, nhiều khi giận ai đó mà miệng vẫn cứ nói không; nhiều khi ghét ai đó mà mặt vẫn cứ làm bộ vui... Tại sao lại như vậy? Tại vì chúng ta không chịu nhìn lại chính chúng ta. Chúng ta phải nhìn cho rõ để thấy chỗ nào cần mở chỗ nào cần đóng. Hãy quan sát lại mình một cách chân thật để thấy những cái tham sân si của ta. Đừng sợ mà thấy rằng có khi ta là dạ xoa, cái can đảm ở đây là dám nhận ta là dạ xoa để mà chuyển hóa cái dạ xoa thành thánh thiện. Xin đừng nhìn người khác mà hãy nhìn lại chính mình, hãy thường thấy lỗi của ta mà không thường thấy lỗi của mgười.

Hãy tự soi để nếu thấy ta là bồ tát thì cười hoan hỉ, nhược bằng dạ xoa thì cũng cười mà tha thứ cho ta. Hãy xa lìa cái cống cao ngã mạn, hãy bỏ tất cả những tham sân si phiền não. Hãy can đảm làm theo lời Phật dạy: "Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng lấy mình." Hãy luôn nhớ thân nầy không vĩnh cửu, xuân đến thì tươi, đến thu thì khô héo. Hãy nhìn đời ung dung tự tại, không sợ hãi vì thịnh và suy như sương mai trên ngọn cỏ mà thôi.

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,

Vạn vật xuân vinh, thu hựu khô.

Nhâm vận thịnh suy vô bố úy,

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Thiền sư Vạn Hạnh đã ung dung tự tại đến như vậy đó trước khi ngài viên tịch.



81. TẠI SAO TA MUỐN TRẺ MÃI KHÔNG GIÀ?

Thói thường ai cũng muốn trẻ mãi chứ nào ai muốn già, chỉ nghỉ đến cái da thẳng má hồng chứ ai dám nghỉ đến da nhăn má hóp đâu bao giờ. Nhưng than ôi! luật tự nhiên nào ai chống chế cho được, một ngày da thẳng là một ngày ta chuẩn bị cho da nhăn, một ngày ta sống là một ngày ta đi gần đến nhà mồ.

Lúc nhỏ ta chỉ nghĩ đến sắc mà không nghĩ đến không, ta chỉ nghĩ đến trẻ trung hay huy hoàng chứ đâu nghĩ đến tàn phai chết chóc. Khi lớn lên ta thấy được rằng cuộc đời nầy là tạm bợ; đẹp đó rồi phai tàn đó, xấu xí đó; giàu đó rồi nghèo đó; sinh đó rồi diệt đó. Mà thấy để rồi thấy thì cũng chẳng đi đến đâu. Khi thấy rồi thì ta phải quyết tâm trì chí nguyện rằng trong một tương lai không xa, ta sẽ được đi trên con đường mà năm xưa Đức Từ Phụ đã đi.

Mùa xuân, thấy cây cỏ xanh tươi thì lòng ta cũng vui theo cảnh bên ngoài, nhưng đó chỉ là niềm vui tạm bợ, vì sao? vì hết xuân sang hạ, sang thu, đông thì sao? Cảnh vật đìu hiu, mà nhìn nó, nhìn cây trơ lá thì lòng ta cũng sẽ như những cành cây trụi kia chứ làm sao mà vui cho được. Khi ta khám phá ra cảnh thật của điện đôn hoàng là niềm vui chính trong tâm hồn ta, thì cho dù ngoại cảnh có là gì đi nữa thì ta vẫn là ta. Không khởi gận, không khởi buồn, không khởi ưu, ấy là gì nếu không phải là "Vô não vô ưu chân cực lạc." chứ là gì?

Hãy nhìn đóa hồng rơi lã tả trên cành thì ta mới thấy giữa cái búp, cái nỡ, cái tàn và cái rơi chỉ là luật tự nhiên mà thôi. Biết như vậy để chi? Không để ta chán đời yếm thế, không để ta than vản cuộc sống phù du. Mà để ta biết trân trọng những gì ta đang có, già cũng được mà trẻ cũng được. Ta trân trọng sự nở của bông hồng giống như ta trân trọng tuổi trẻ của ta, mà ta cũng trân trọng sự tàn hoại của bông hồng giống như trân trọng cái tuổi già của ta vậy. Có được như vậy trong tư tưởng, thì ngoài đời chúng ta cũng sẽ biết thế nào là kính già yêu trẻ. Hãy yêu thương những cụ già, hình ảnh của những cánh hồng rơi, mà cũng chính là hình ảnh của chúng ta vậy.



82. CHÚNG TA CHO NGƯỜI KHÁC NHỮNG CÁI TA THÍCH HAY NHỮNG CÁI HỌ THÍCH?

Trong cuộc sống hằng ngày, dù tham lam bỏn xẻn đến đâu, chúng ta cũng đã từng cho người khác một cái gì đó. Hoặc giả chúng ta đã trân trọng cho những người thân ta. Tuy nhiên, rất nhiều khi ta thấy họ nhận một cách rụt rè, hoặc có khi còn phản ứng lại nữa là khác. Tại sao vậy? Tại vì thường thì chúng ta cho họ những gì ta muốn cho. Có chắc gì những gì ta muốn cho là những thứ mà họ thích muốn đâu?

Là Phật tử, hãy tập theo hạnh lắng nghe của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, để thấy người khác muốn gì, cần gì và cho họ đúng cái mà họ cần họ muốn.

Cũng có lắm khi ta cho với tâm địa không mấy hoan hỉ, cho mà dằn vật, cho mà quạu quọ thì ai mà dám thọ nhận cái của ta cho.



83. THẾ NÀO LÀ CHÂN GIẢI THOÁT?

Đức Phật dạy rằng pháp của Phật như nước Cam Lồ giúp chúng sanh gột sạch những phiền não và đi đến giải thoát thực sự. Giải thoát thực sự là thế nào? Người mới biết tu khi gặp quá nhiều phiền não của thế tục, chỉ mong nghe được tiếng chuông chùa, nghe được kinh là cảm thấy như được giải thoát rồi. Tuy nhiên đấy chỉ là bước đầu của sự giải thoát mà thôi, còn phải bước nhiều bước nữa để được thực sự đi đến giải thoát. Khái niệm giải thoát của người biết tu là làm sao cho thoát khỏi vô minh sân hận để đi đến rốt ráo, không còn sanh tử luân hồi nữa. Còn cao hơn một chút nữa, giải thoát là tâm ta tự tại, an nhiên thanh tịnh nghĩa là chơn tâm thường trụ, một sắc trần chẳng nhiểm, một niệm lòng chẳng khởi. Với tất cả các chỗ, các pháp lòng ta không nhiểm trước, tức là nghiệp lành nghiệp dữ gì cũng rốt ráo cả. Như vậy có phải là khi ta thực sự giải thoát thì dù ở trong mọi hoàn cảnh khó khăn, khổ sở, tâm ta không hề sợ hãi, chẳng có lòng yêu, lòng ghét, lòng buồn, lòng vui... Như thế có phải là muôn duyên đều dứt, mà muôn duyên đều dứt thì chơn tâm thường trụ thanh tịnh, vắng lặng tự nhiên hiện bày.

Tóm lại, ta thấy khái niệm về giải thoát nó biến thiên ở mỗi người, ý muốn nói là ta biết ta là điểm vô cùng quan trọng trong đạo Phật. Hãy tự biết ta, còn chuyện dại, chuyện khôn, chuyện thương, chuyện ghét của thế gian ta không thể chìu nổi hết đâu. Hãy biết ta và hãy dửng dưng trước những thị phi, ấy không là Niết Bàn chứ là gì?



84. THẾ NÀO LÀ CÁI "KHÔNG" TRONG ĐẠO PHẬT?

Giáo lý của đạo Phật có một nguyên tắc căn bản, do Đức Phật Thích Ca chứng ngộ, đó là đạo lý duyên sinh chi phối vũ trụ và nhân sinh.

Chính vì vạn sự, vạn vật trong vũ trụ đều là duyên sinh duyên diệt, đều biến hóa vô thường, cho nên tất cả mọi hiện tượng đều là hư huyển, tạm bợ, không, giả. Vạn vật từ lớn đến nhỏ đều không trường cửu, không có bản chất thật và cái đó đạo Phật gọi là "duyên sinh tính không." Và cũng chính chỗ nầy mà nhiều người đã hiểu lầm cái nghĩa "không môn" trong đạo Phật và cho rằng Không Môn là không có gì hết.

Thực ra "duyên sinh tính không" nghĩa là không có thực thể. Thí dụ như một chiếc xe hơi do một số nhơn duyên nào đó tạo thành chẳng hạn như sắt, người thợ mỏ, thợ luyện kim, kỷ sư cơ khí, kỹ sư phát họa mô hình, thợ lắp ráp... nếu một trong những nhơn duyên trên không tồn tại thì không có chiếc xe, ấy là "duyên sinh tính không."

Thói thường có mấy ai quán được cái "không" của sự vật đâu. Khi thấy sự vật đẹp thì ta vẫn thích, yêu rồi sanh lòng muốn có muốn lấy để rồi một ngày nào đó sự vật ấy tiêu tan, tức là về với dạng không, thì ta buồn ta khổ. Chính vì thế mà các ngài A La Hán đã quán sự vật với tánh "không" ngay từ đầu, nghĩa là nhìn sự vật một cách tự nhiên chứ không chạy theo cái đẹp, không thích, không yêu, không muốn có, không muốn lấy thì làm gì có buồn khổ phiền não tức là giải thoát. Đây chính là diệu lý của cái "không" trong đạo Phật.

85. MƯỜI TÂM KIM CANG CỦA MỘT NGƯỜI PHẬT TỬ?

Kim cang là loại bảo châu vô cùng kiên cố, nó có thể phá vỡ những vật khác nhưng không vật nào khác có thể phá hủy được nó. Như vậy tâm kim cang là tâm mà phiền não và đau khổ không thể nào xuyên phá được, ngược lại nó có khả năng diệt trừ tất cả những đau khổ và phiền não để đi đến giải thoát. Người Phật tử chân chánh nào cũng cần có đủ mười tâm kim cang trước khi nói đến chuyện giải thoát.

Thứ nhất là Liểu giác pháp tánh, tức hiểu biết một cách rốt ráo về các pháp. Pháp đây là chỉ cho muôn sự chứ không phải nói về giáo pháp mà thôi. Thực tánh của các pháp là vắng lặng, thường hành, không biến dịch... nghĩa là thực tánh của các pháp là không. Tại sao gọi là không? Một đóa hoa chẳng hạn, do nhiều nhơn duyên kết hợp lại như đất nước, lửa, gió, người trồng bông, thời tiết... Duyên thuận thì có hoa, mà duyên hết thì hoa sẽ không có, hoa sẽ không là hoa mà sẽ là cái gì "không" ấy. Tại sao gọi là vô thường? Vì trong từng phút, từng sát na, chính cái hoa nó đang khô héo, chết dần. Cái trục trặc lớn nhất làm cho chúng ta khó liểu giác pháp tánh là ta cứ tưởng cái thấy phàm phu của ta là đúng, chứ chúng ta đâu có ngờ những gì ta thấy và hiểu, rất nhiều khi, nó không giống sự thật những gì đang xãy ra. Muốn liểu giác pháp tánh, chúng ta phải có một cái nhìn giống như cái nhìn của chư Phật, nghĩa là phải nhìn "như thị."

Thứ nhì là Hóa độ chúng sanh có nghiã là giúp chuyển hóa chúng sanh từ phiền não và đau khổ sang giải thoát. Tuy nhiên muốn hóa độ chúng sanh thì trước hết ta phải giác liểu các pháp cái đã. Thí dụ như ta muốn vớt người đang chết đuối thì trước hết ta phải biết bơi, vì nếu ta không biết bơi thì ta chẳng những không cứu được họ mà chính ta cũng bị chết chìm theo họ.

Thứ ba là Trang nghiêm thế nhân tức là tịnh độ hoá nhân gian bằng cách mỗi người trong chúng ta hãy tu tập, hãy thiền cho tâm thanh tịnh. Mỗi người trong chúng ta đang mỗi ngày gây ra không biết bao nhiêu là phiền não đau khổ cho người khác mà còn cho ngay cả chính mình. Nhiều khi việc gì xãy ra, chúng ta không cần hỏi cho ra lẽ mà chỉ đơn phương phán xét và kết quả là phiền não đau khổ cho người và cho mình. Như vậy muốn trang nghiêm thế nhân, chúng ta phải làm sao? Chúng ta hãy dứt bỏ những phiền não ra vì chính những phiền não nầy nó làm cho ta cứ u-u minh-minh, không biết phân biệt được đâu là điều hay lẽ phải và không biết được cội nguồn của đau khổ. Ai có thể trang nghiêm thế nhân? Chính chúng ta đã góp phần mang lại những phiền não thì cũng chính chúng ta mới có thể mang lại thanh tịnh và trang nghiêm cho thế giới nầy.

Thứ tư là Thiện căn hồi hướng là hãy làm đúng như những gì Phật dạy là hãy hồi hướng tất cả những thiện căn đến cho tất cả chúng sanh chứ không nhận riêng cho mình. Ngược lại chính mình phát nguyện chịu nhận hết những đau khổ thế cho chúng sanh giống như ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát đã nguyện sẽ không thành Phật khi còn một chúng sanh bị đọa địa ngục, và ngài A Nan cũng nguyện sẽ không nhập Niết Bàn khi hãy còn dù chỉ một chúng sanh đau khổ.

Thứ năm là phụng sự đạo sư. Đạo sư ở đây chỉ tất cả những tăng ni hành trì Phật pháp. Chính vì có những vị nầy thì Phật pháp mới được kế tục và lưu truyền. Tuy nhiên, nói cho rộng ra là tất cả các pháp là đạo sư của chúng ta, vì chúng đều cho chúng ta những bài học, những kinh nghiệm để sống và để giải thoát. Thí dụ như ta nhìn một cái hoa đang nở ta biết nhìn nó như một đạo sư chỉ cho ta thấy cái sanh cái diệt, để chi? Để nếu chúng ta sớm biết tu tập, chúng ta sẽ đi đến chỗ không sanh không diệt. Cũng chính chiếc hoa ấy nó chỉ cho chúng ta thấy lúc nào các duyên hợp lại thì có hoa, một khi các nhơn duyên ấy tan rã thì cái hoa ấy cũng tan rã theo. Cũng cái hoa ấy nó cho chúng ta thấy cái vô thường của vạn vật, từ hoa nở, hoa tăng trưởng đến hoa tàn, hoa héo, hoặc đến không còn cánh hoa, nghĩa là nó chỉ cho thấy cái sanh, lão, bệnh tử... như vậy cái hoa ấy không là đạo sư chứ là gì?

Thứ sáu là thật chứng các pháp, nghĩa là chúng ta chẳng những nên biết các pháp mà còn phải thật chứng bằng cách tu, giác ngộ và hiểu biết các pháp theo đúng như chư Phật đã biết.

Thứ bảy là quãng hành nhẫn nhục. Hãy nhẫn những gì dễ nhẫn nhục mà cũng phải nhẫn nhục ngay cả những gì khó nhẫn, có như thế ta mới mong tiến gần đến giải thoát được. Nói về nhẫn ta có sanh nhẫn, pháp nhẫn, vô sanh pháp nhẫn. Sanh nhẫn là nhẫn trước sự nhục mạ của người khác, hoặc sự cao gác của kẻ khác. Thí dụ như ai đó lợi dụng lòng tốt của ta, ta không nói tức là nhẫn. Pháp nhẫn là nhẫn nhục chịu đựng với những pháp bên ngoài. Thí dụ như nóng, lạnh, mưa gió bão bùng... Trời nóng nực mà ta không than trời trách đất ấy là nhẫn. Còn vô sinh pháp nhẫn là nhẫn nhục cho cả những cái từ bên ngoài và bên trong ta. Điều tiên quyết là ta cũng phải có cho được chữ nhẫn, nghĩa là có cho được cái tâm Từ Bi Hỉ Xả của Đức Phật.

Thứ tám là Trường thời tu hành tức là tu hành trường kỳ chứ không mỗi tháng một hai ngày hoặc mỗi năm vài ba tháng. Tu là phải tu hết kiếp nầy đến kiếp sau và trong trong từng sát na. Dù cho bị nghịch cảnh thì hãy xem đó là những trợ duyên, những yếu tố giúp cho ta tu tập tinh tấn hơn. Hãy biết rằng các pháp là vô thường và không có lý do gì mà ta lại ôm ấp những cái vô thường ấy. Ở đời đừng mong không gặp những chướng duyên, vì nếu chỉ là thuận duyên thì không gọi là thế giới ta bà. Có điều là khi gặp những chướng duyên, những phiền não mà tâm ta vẫn thanh tịnh, ấy là giải thoát. Tóm lại, ta phải luôn luôn tinh tấn tu tập để có được cho mình cái tự tại, từ đó ta mới có thể chuyển hóa những thói hư tật xấu thành đức tính tốt trong cuộc sống hằng ngày. Hãy tu và hãy sống trong thức tỉnh ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào.

Thứ chín là tự hạnh mãn túc, nghĩa là mình tự tu cho mình cho đến khi nào được mãn túc, được rốt táo, chứ không tu một năm nghỉ ba năm thì biết đến chừng nào mới tự hạnh mãn túc.

Cuối cùng là Lân tha nguyện mãn nghĩa là sau khi ta đã được mãn túc rồi thì ta cũng giúp cho người khác tu và được tốt, được mãn túc như ta.

Tóm lại, Phật tử mà thiếu một trong mười cái tâm kim cang, quả là một thiếu thốn lớn cho sự giác ngộ. Một khi đã có đủ mười tâm kim cang rồi thì ấy là cảnh giới thanh tịnh mầu nhiệm, ấy là giải thoát, chẳng những cho mình mà còn cho người nữa.



86. LÀM THẾ NÀO CHO THẾ GIAN NẦY BỚT KHỔ?

Cái khổ là cái gốc của thế giới ta bà nầy, nghĩa là nếu không khổ thì có đâu sinh tử luân hồi, mà không sinh tử luân hồi thì cõi ta bà nầy tự nhiên bị diệt. Nhận chân được cõi ta bà là đau khổ nhưng những người con Phật vẫn sẵn sàng lăn mình vào lòng đời, với những tai ách sẵn chờ. Tuy thấy đời là đau khổ, nhưng ta vẫn hãnh diện đã được sinh ra làm người vì con người có suy tưởng, có quả cảm, có trí tuệ nên dễ tiến tu hơn bất cứ sinh vật nào khác. Tuy nhiên, muốn cho cái niềm hãnh diện của ta có nghĩa lý thì ta phải biết cách làm sao cho thế gian nầy bớt khổ. Phải làm sao? Bỏ trốn cái khổ có được không? Làm sao trốn đây? Cái khổ nó ở đâu thì còn trốn được chứ nó ở ngay trong ta thì làm sao trốn. Như vậy thì không có chuyện trốn rồi, phải đương đầu với nó, phải biết nó ẩn tàng nơi nào, mà tìm phương diệt trừ nó. Làm sao diệt nó đây? Phật đã dạy hãy nhìn thẳng vào sự thật và nói thẳng sự thật. Một khi đã biết có nó rồi thì chúng ta hãy cười mà tự bảo rằng: "Tôi biết anh hay chị mạnh lắm, anh hay chị có khả năng dẫn con người đi vòng vòng trong đường sinh tử, nhưng anh chị không dẫn được tôi đâu." Nói như thế ấy với lòng quả cảm và trí tuệ thì ta đã một chút đến gần Phật rồi vậy.

Đức Thế Tôn đã nói Ngài muốn cho tất cả chúng sanh đều có những nụ cười trên môi vì có cười ta mới có thanh thản tự tại được. Chúng ta hãy cười cho mình, hãy cười với nhau, hãy nhìn các thiền sư mỗi khi gặp nhau là cười ha hả. Khi cười được thì bao nhiêu hầm hố, tường vách đều tan đi, đề khỏa lấp hết. Hơn nữa, lúc cười ta còn mang lại cho tha nhân một sự thoải mái, thanh thản và vì thế mà bao nhiêu nghi ngờ, sợ hãi trong họ tan biến đi hết.

Có những cái đẹp, cái sung sướng thoải mái trong cuộc sống hàng ngày mà chúng ta quên đi, thí dụ như hơi th· của chúng ta. Trước những căng thẳng, những gay go trong cuộc sống thường nhật, chúng ta hãy dừng lại và quán niệm hơi th· của ta để cho ta có đủ thanh tịnh mà vượt qua những cam go đó. Một lần mà ta dừng lại để quán niệm là ta có đủ lục độ: Trì giới, bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, trí tuệ và thiền định. Đó là những thứ làm cho ta và thế giới quanh ta bớt khổ.

Hãy tập những hạnh làm cho đời đẹp hơn, chẳng hạn như hãy tập nghe. Thường thì mình ưa nói mà không ưa nghe, bây giờ hãy thử tập nghe để thấy, chỉ cần lắng nghe thôi là ta đã làm vơi bớt nổi khổ đau cho người khác rồi. Nghe để mà thương, để mà thông cảm với người khác hơn, nghe để tạo điều kiện cho người khác chuyển hóa. Hãy tập nghe những gì đã nói, đang nói, sẽ nói và luôn cả những gì không nói. Chẳng hạn như đột nhiên con cái đổi tánh, bê tha trụy lạc; chúng không nói ra nhưng ta phải biết lắng nghe để biết có cái gì trục trặc đó.

Hãy nhìn cái nhìn của đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, nhìn mà không phán xét không phản ứng. Nhìn cho sâu để hiểu chơn lý của sự vật. Hãy nhìn từ trong vị trí của tha nhân chứ đừng nhìn từ vị trí của ta. Có như vậy ta mới thấu rõ được ngọn ngành, có như thế ta mới không gieo thêm cái khổ cho người khác.

Nói về làm, hãy làm theo hạnh của ngài Bồ Tát Phổ Hiền, hãy thực hiện niềm vui cho mọi người, từng cử chỉ, từng lời nói đều có thể mang lại sự cảm thông những đau khổ của người. Ta đã sống quá nhiều với bức rứt, xin đừng mang lại thêm bức rứt nữa. Buổi sáng hãy mang lại cho người một nụ cười và buổi chiều một niềm vui nào đó. Niềm vui và tình thương mà ta cho ra thì không bao giờ tận mà chỉ có thêm lên, biết đâu người nhận được tình thương và niềm vui từ ta, có thể mang đi ban cho nhiều người và cứ thế mà niềm vui sẽ lan đi khắp.

Tóm lại, chỉ cần tập nghe, hiểu và mang niềm vui cho mọi người là chúng ta có thể làm vơi khổ cho thế gian nầy.



87. CHÚNG TA CÓ THỂ ĐOÁN BIẾT LÀ CHÚNG TA SẼ ĐI VỀ ĐÂU KHÔNG?

Nếu nhìn theo góc độ một đời người để thấy sự báo ứng thiện ác, có khi ta không hiểu tận tường mà đâm ra nghi ngờ về việc có nên làm lành làm thiện hay không. Kỳ thực, luật nhơn quả tác động qua ba đời, mà ta thì chỉ thấy có hiện tại rồi đi đến kết luận là bất công thì quả là kết luận hàm hồ. Thí dụ như có người sống lành sống thiện lại bị khổ; không những không gặp điều may mắn mà còn gặp toàn là tai ương. Trong khi có người tham lam hối lộ, làm trái luật pháp, nhưng vẫn sống tự do, được cả phúc lẫn thọ. Tại sao vậy? Việc thọ báo lần lượt diễn ra theo thứ tự, biết đâu trong đời quá khứ ta đã làm nên những ác nghiệp nên nay phải trả, còn chuyện ta làm lành bây giờ là để cho đời kế tiếp. Đời nầy vị tất những khổ vui là do những nghiệp nhân của đời nầy. Đức Phật đã dạy rằng hơn nửa phần chuyện xãy ra trong đời nầy là do quả báo của nghiệp nhân ở đời trước. Vậy thì những nợ cũ hãy trả và đừng vay thêm nợ mới như thế ta sẽ được gì ở đời sau? (nếu chưa được rốt ráo mà phải tái sanh). Ta sẽ được cái nợ cũ trả hết, không có nợ mới, có thơ thới lắm không?

Hãy quán sát những việc làm hằng ngày của ta thì ta biết lúc ta rời khỏi cõi ta bà này ta sẽ đi về đâu. Đức Thế Tôn chỉ cây chuối đang bị gió Bấc thổi rạp về hướng nam mà hỏi ngài A Nan rằng khi cây chuối chết nó sẽ ngã về đâu? Ngài A Nan liền bạch Phật là cây chuối lúc chết sẽ ngã về phương nam. Đức Phật bèn dạy rằng chúng sanh cũng vậy. Cứ quán sát thân khẩu nghiệp của ta ngay lúc nầy thì chúng ta biết ngay chúng ta sẽ đi về đâu lúc lâm chung.



88. TẠI SAO GỌI ĐỨC PHẬT LÀ ĐẠO SƯ?

Đức Phật đã từng nói đạo Phật là đạo của những người có cái "dũng." Tại sao vậy? Tại vì chính chúng ta phải tự đi con đường đến chỗ rốt ráo Niết Bàn chứ Phật không thể đi dùm ta được. Đức Phật tuy thấu rõ mọi nguyên lý của thế gian nầy, nhưng Ngài không thể thay đổi trạng thái vốn có của nó. Tuy nhiên Ngài biết đường để chỉ dạy chúng ta, Ngài biết cách hướng dẫn chúng ta ra ngoài bể khổ, nên mới gọi Ngài là đạo sư. Thí dụ như đức Phật biết tại sao bị nắng hạn, nhưng Ngài không làm cách nào để đổi cái hạn của nắng được; tuy nhiên, Ngài biết làm cách nào để vượt qua cái nắng hạn, Ngài biết làm sao để trử nước phòng khi nắng hạn mà dùng. Ngài sẵn sàng chỉ dạy cho chúng ta những cái mà Ngài biết. Ai tinh tấn nghe theo lời Ngài chỉ dạy thì đi đến nơi đến chốn, ai mệt mỏi dừng chân dọc đường thì không đến được, thậm chí biết đường mà không đi thì sẽ chẳng bao giờ đến.

Đức Thế Tôn đã bỏ hết cung vàng điện ngọc để tìm ra con đường giải thoát cho chúng sanh. Chẳng những tìm được đường mà Ngài còn chỉ cho chúng ta làm sao để đi đến đó. Còn đi đến hay không đến là tùy ở chúng ta. Cho dù chúng ta có mệt mỏi mà dừng lại hay bỏ cuộc thì Phật cũng không bỏ chúng ta đâu vì Ngài coi tất cả chúng sanh là con Ngài, ngay cả những người lìa bỏ Ngài.

Như thế mới thấy đức Phật chẳng những là một bậc đạo sư cho trời và người, mà Ngài còn là một nhà giáo dục vĩ đại. Ngài không thể làm dùm ai, nhưng Ngài chỉ tường tận cách làm. Ngài không chuộc tội thay cho chúng sanh, nhưng Ngài dạy cho chúng sanh cách tự chuộc tội cho mình.



89. ĐẠO PHẬT VÀ PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ

Phật lúc còn tại thế hay răn dạy hàng Tỳ kheo rằng sắc đẹp đàn bà là đáng sợ; nữ sắc là ma, là rắn độc. Chính ra, bản tâm của Phật không phải là trọng nam khinh nữ, bởi sắc dục thuộc cả hai giới tính nam và nữ. Đối với nam giới nữ sắc là đáng chán bỏ, thì đối với nữ giới, lúc nào nam sắc cũng là đáng chán bỏ.

Ta thấy trong lịch sử cận đại với những phong trào giải phóng phụ nữ đòi quyền bình đẳng cho nữ giới. Tuy nhiên, hãy nhìn về hai mươi lăm thế kỷ về trước nàng Long Nữ mới có tám tuổi đã thành Phật. Như vậy cũng đủ cho chúng ta thấy là đạo Phật là đạo đã đi tiên phong trong vấn đề nam nữ bình quyền.



90. TẠI SAO PHẢI SÁM HỐI VÀ AI SÁM HỐI CHO TA?

Chúng sanh từ vô thỉ đã tạo không biết bao nhiêu là nghiệp chướng bởi lầm mê. Những ai tu hành theo Phật pháp mà không sám hối nghiệp chướng, chẳng khác nào người đi đường đạp lên chông gai không chịu dừng lại nhổ gai ra mà cứ tiếp tục đi. Như vậy muốn không bị đau chân thì làm sao cho được.

Chúng ta phải nghĩ rằng trong những đời quá khứ từ vô thỉ kiếp, do tham lam, giận tức, si mê mà ta đã phát ra ý nghĩ, hành động và lời nói gây ra các nghiệp ác, không thể nào tính lường cho được. nếu các nghiệp ác nầy có hình tướng thì cả vũ trụ nầy cũng chứa không hết. Chúng ta cứ bình tâm mà suy nghĩ và tự hỏi lại xem coi ta có từng trộm cướp, sát sanh, tà dâm không? khẩu nghiệp đã từng nói dối, nói thêu dệt, nói hung ác, và nói lưỡi hai chiều không? Tâm ý ta có tham, giận, si mê không? Nếu ta nói có thì ta nên sám hối để cho thân tâm ta được thanh tịnh.

Như trên đã nói, tâm ta nhơ nhớp, thì cũng tự tâm ta thanh tịnh lại chứ không ai có thể làm cho ta thanh tịnh được cả. "Tội tùng tâm khởi do tâm sám," nghĩa là tội do tâm mà khởi ra thì cũng chính từ tâm mà sám hối. Chúng ta chưa phải là Thánh, ai lại không có tội lỗi; tuy nhiên, chỉ sợ là ta gây ra nghiệp mà không biết hổ thẹn, không dốc lòng sám hối đó thôi. Có biết sám hối thì ta mới biết lỗi mà tránh những điều ác và từ từ thanh tịnh và Niết bàn sẽ không xa.

Tóm lại, sám hối là thấy rõ lỗi cũ, ngăn ngừa lỗi sau. Sám hối hàm nghĩa ăn năn, hối hận, vì những lỗi lầm trong quá khứ, bất luận là lâu mau và bây giờ cho đến về sau, mình nguyện là không tái phạm. Nếu biết lỗi cũ là bậy, bây giờ mình xin chuộc lỗi, mà sau nầy vẫn còn làm lại, thì không phải là sám hối.



91. PHẬT GIÁO CÓ CHỦ TRƯƠNG KHỔ HẠNH, BI QUAN, VÀ CHỈ DÀNH CHO NHỮNG AI CHÁN ĐỜI KHÔNG?

Khổ hạnh là dùng phương pháp tự làm khổ mình. Phật giáo không chủ trương khổ hạnh, nhưng Phật giáo chủ trương diệt dục. Diệt dục nghĩa là không ham muốn, vì ham muốn sẽ đưa ta vào trầm luân khổ ải. Mục đích của Phật giáo là giải thoát khỏi sinh tử. Có sống có chết là phàm phu. Không sống không chết là giải thoát. Trong pháp thế gian, có sống có chết cho nên vui ít khổ nhiều và biến động vô thường. Người lặn hụp trong đó giống như trẻ nhỏ liếm mật trên mũi dao.

Chỉ có những ai có đủ cái "bi, trí, dũng" của nhà Phật mới có đủ khả năng theo đuổi con đường giải thoát của đạo Phật, vì sao? Vì đạo Phật là lội ngược dòng đời, nghĩa là bơi ngược dòng khổ ải trầm luân. Phật giáo chủ trương giữa thế gian đầy hận thù tranh chấp hãy sống trong bao la, vị tha và thương yêu. Bao nhiêu đó cũng đủ cho chúng ta thấy đạo Phật là đạo của những người lạc quan, yêu mình, yêu người và yêu đời. Vì lúc nào cũng chủ trương tìm chân hạnh phúc cho mình và cho đời.



92. THẾ NÀO LÀ NHÌN "NHỊ BIÊN"?

Thói thường, ta hay nhìn chủ quan nghĩa là nhìn theo cách mình suy nghỉ. Cái nhìn nầy gọi là "nhị biên" có nghĩa là thiên lệch, không đúng sự thực. Chính cái nhìn nhị biên nầy đã gây cho ta không biết bao nhiêu là tranh chấp, tị hiềm và đau khổ. Có chắc gì cái ta nhìn và cái ta suy nghĩ nó đúng đâu? Tệ hại hơn nữa, cái nhìn nhị biên của ta nhiều khi đã không đúng mà còn trái ngược với chơn lý của sự việc.

Là Phật tử chơn chính, chúng ta phải tinh tấn tu tập để bỏ đi cái nhìn nhị biên mà từ từ được cái nhìn của Phật. Cái nhìn của Phật là cái nhìn "như thị," không thiên lệch, thấy sao nói vậy. Thí dụ lúc thấy quả núi thì nói quả núi, con sông thì nói con sông; chứ không thiên lệch nào là núi đẹp, sông êm đềm để rồi chạy theo cảnh mà sanh phiền não.

Hơn nữa cái nhìn "như thị" của Phật còn là nghĩ sao nói vậy. Lúc giận nói giận, lúc thương nói thương, lúc vọng động nói vọng động. Có như thế ta mới nhìn thấy những lỗi lầm của ta mà biết chừa biết sửa.

Hãy tập nhìn như thị về mọi phương diện, từ cái đi, nằm, đứng, ngồi, ăn uống... Có như thế ta mới chủ định được ta khi làm bất cứ gì, có như thế ta mới ta mới không bị những vọng niệm nó dẫn dắt ta phiêu lưu dong ruổi. Thí dụ như trong lúc ta thở, ta biết lúc nào ta thở ra, lúc nào ta hít vào; trong lúc đi ta chú tâm từ lúc giở chân lên, đưa chân tới và để chân xuống. Như vậy là ta đã sống thực với chính ta từng giờ, từng phút, từng sát na.



93. TẠI SAO ĐỨC PHẬT DÙNG THÍ DỤ ÔNG TRƯỞNG GIẢ DẨN DỤ CÁC CON RA KHỎI CĂN NHÀ LỬA?

Chúng ta đang sống trong cái cảnh Ta bà ác trược với đầy những tham sân si. Chính những ngọn lửa ấy đang đốt cháy chúng ta. Phật vì thương xót mà dẫn dụ cho ta ra khỏi cái căn nhà đầy lửa ấy để tu học theo Phật mà được giải thoát.

Cái nhà lửa chính là thế gian nầy, là cái thân tứ đại nầy nó lúc nào cũng như muốn sập, chưa biết lúc nào ấy thôi. Cõi nước tạm bợ cũng như thân nầy tạm bợ, có khi tự mình tan rã, có khi do nhơn duyên mà tan rã. Không có gì là chắc chắn cả, thấy người thân ta hôm nay, ta có chắc là sẽ còn thấy được họ ngày mai hay không? Chưa chắc. Vậy thì hôm nay ta hãy cười vui với họ đi.

Cái lửa của thế gian chỉ làm ta nóng bỏng chút đỉnh ở kiếp nầy, chứ lửa lục, lửa tham sân si chúng có thể đốt ta đời đời kiếp kiếp. Phật đã bảo cho chúng ta biết người tu nên biết sợ đóm lửa dù nhỏ vì dù nhỏ cách mấy đóm lửa ấy cũng có thể làm cháy rừng. Lửa dục, lửa tham sân si nên trừ diệt mỗi ngày, mỗi phút, mỗi sát na thì mới mong thấy được con đường giải thoát.



94. CHỮ "HỈ" TRONG ĐẠO PHẬT NGHĨA LÀ GÌ?

Chữ Hỉ trong đạo Phật cũng có nghĩa là vui. Vui nó gồm cả cái vui của thế tục và cái vui của đạo. Tuy nhiên, cái vui của đạo nó vượt hẳn lên trên cái vui của thế tục. Thế tục thường lấy truyền hình, rạp hát, hoặc nghe nhạc để làm vui... Những cách giải trí nầy không có gì sai trái cả, nhưng ta nên hiểu rằng hết truyền hình, rạp hát, nghe nhạc thì đến cái gì? Có phải mình cũng lại trở về với ta và bốn bức tường nữa để cho cái buồn nó tiếp tục hành hạ ta không? Như vậy niềm vui lấy từ ngoại cảnh là không bền chặt mà chỉ là tạm bợ.

Ngược lại, trong đạo Phật có pháp Hỉ, tuy nó không rộn rịp bồn chồn như cái vui của thế tục, tuy nó thầm thầm nhưng nó bất biến, không thay đổi, không thăng trầm. Thí dụ như nắng ấm là nắng ấm, gió mát là gió mát, biển khơi là biển khơi, trời cao là trời cao... Cái gì đáng nhìn là nhìn, nhìn nhưng không chạy theo ấy là vui trong đạo. Có lẽ chúng ta nên đặt lại những niềm vui trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Nhà cửa, xe cộ, tiện nghi chúng đã thực sự cho ta những niềm vui chưa? Có thể có lúc chúng tạm mang đến cho chúng ta vui, nhưng phần nhiều thì chúng ta khổ với chúng nhiều hơn vì nào là nợ nần bủa vây rồi có một lại muốn hai... Nếu chúng ta không biết đủ, không biết lượng sức thì chúng ta sẽ chả bao giờ có niềm vui thật sự.



95. TẠI SAO CHÚNG TA HAY TRÁCH NGƯỜI KHÁC?

Trong cuộc sống nầy, dù muốn dù không, thì mọi người chúng ta đều phải tiếp xúc với thế giới bên ngoài, như thế đương nhiên là có những mắc vướng. Trong đạo Phật, những mắc vướng nầy gọi là trùng trùng duyên khởi. Nếu ta khéo thì những mắc vướng ấy không là vướng mắc, mà nếu như ta không khéo thì ta sẽ tạo thêm nhiều mắc vướng nữa. Thí dụ điển hình là khi ta đối thoại với người nào khác, ta có nhìn xem họ hiểu ta theo ý nào, ý của họ hay ý của ta? Ấy là vướng mắc. Ngoại trừ Đức Phật ra chắc không ai có thể hiểu được tường tận cái ý của người khác đâu. Tuy nhiên, chúng ta có thể làm cho bớt đi vướng mắc bằng cách là hãy đối thoại với chính ta trước. Để chi? Để hiểu được niềm đau và nổi khổ của chính mình, để xem mình có những băn khoăn trằn trọc nào. Hãy đối thoại với chính mình để hiểu được mình vì có hiểu được mình mới tha thứ cho mình được. Hãy lắng nghe và hiểu xem chúng ta đã nghe được những gì, hãy nhìn và nhìn bằng cái nhìn trí huệ để hiểu rằng niềm đau nổi khổ của chúng ta cũng là niềm đau nỗi khổ của người, hiểu để mình không trách họ.

Chúng ta thường hay trách người lắm, nhưng trách người rồi ai trách ta đây?

Nếu chúng ta thấy được cái đau cái khổ của người thì thú thật chúng ta sẽ không đủ can đảm trách cứ họ đâu. Vã lại, có đôi khi bình tâm suy nghĩ lại thì cái đau cái khổ của người cũng chính là cái đau cái khổ của mình.

Hãy tập nhìn cái nhìn trí huệ, không biên kiến, để biết được cái đến tự nhiên của những vướng mắc, của những trùng trùng duyên khởi, để không trách người mà cũng không trách mình. Không trách tức là không tạo khổ một là cho mình, hai là cho người. Nhìn, nghe và hiểu suông thôi cũng chưa đủ, mà ta phải có một sức mạnh nào đó để chuyển hóa chúng thành những hành động cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Có như thế ta mới an nhiên tự tại, không trách ai, mà cũng không trách ta. Có như thế ta mới lấy cái khổ của người làm cái khổ của mình và lấy cái vui của người làm cái vui của mình. Có như thế ta mới không muốn tạo khổ cho ai, nghĩa là không tạo nghiệp, nghĩa là rốt ráo là Niết Bàn vậy.



96. TU THẾ NÀO MỚI THÀNH PHẬT?

Trong kinh Pháp Hoa, có lần ngài Trí Tích đã hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi là tu bao lâu mới thành Phật? Ngài Văn Thù Sư Lợi đã trả lời rằng nàng Long Nữ tu trong một tích tắc sát na là đã thành Phật. Ngài Trí Tích đã nghi ngờ về sự tu thành Phật nhanh như thế, làm gì trong một tích tắc sát na mà thành Phật, làm gì có thể nhanh đến thế? Đấy chính là cái trở ngại lớn của chúng ta. Trí Tích là sự tích lũy kiến thức, mà càng tích lũy nhiều kiến thức chừng nào thì sự phân vân nghi ngại càng nhiều và từ đó gây thêm khó khăn cho vấn đề tu học càng nhiều.

Hãy bỏ cái nhìn nhị biên và cái hiểu nhị biên phàm phu đi để hiểu biết rằng nam hay nữ, già hay trẻ, giỏi hay dở, kiến thức hay không kiến thức, nhơn thiên hay súc sanh, nếu dám bỏ những tham, sân, si đi thì nhứt thiết chúng sanh đều có thể thành Phật.

Tại sao lại là tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời? Ngộ là biết được những nguyên tắc đứng đắn để chuyển hoá những thói hư tật xấu thành những điều thiện lẽ lành, nói theo Phật pháp là rốt ráo, là giác ngộ. Ngộ thì có thể trong một sát na, trong một tích tắc, nhưng từ ngộ đến đắc đạo nó tùy ở từng người, ai tinh tấn thì mau, nhược bằng không tinh tấn thì có khi ngộ cả đời vẫn chưa đắc đạo. Thí dụ như ta biết tham, sân, si là bậy ấy là ta đã ngộ; tuy nhiên, làm sao cho đừng tham sân si ấy là tu, mà có đôi khi tu cả kiếp vẫn không bỏ được tham sân si. Ấy chính là tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời vậy.

Tu trước ngộ sau hay ngộ trước tu sau?

Có người ngộ trước rồi mới tu sau như Đức Thích Ca, ngài đã thấy rõ những đau khổ phiền não của thế giới ta bà nầy mà quyết chí cắt ái ly gia mà đi tu cho thành đạo. Tuy nhiên đa số chúng ta đều tu trước rồi mới ngộ sau. Thí dụ như vì nhân duyên nào đó đưa ta tới chùa, bước vô bước ra năm lần bảy lượt mới tu được, rồi từ từ ta mới thấy được làm thế nào để giải thoát.

Thế nào là tinh thần tu học?

Tinh thần tu học cũng không nằm ra ngoài cái việc ban vui và làm bớt khổ cho người, nói sở trường chứ không nói về sở đoản của người. Ta có thể thấy cả sở trường lẫn sở đoản của người, nhưng biết để mà học hỏi chứ không để móng tâm thị phi, nói ra nói vào mà gây ra phiền não. Thành thật mà nói, biết chuyện mình không đã mệt rồi chứ rảnh đâu mà đi nói chuyện người. Nên thẳng thắn nói với người chứ đừng nói với ai về người.

Không nên sinh tâm gạn hỏi người khác để mà bắt bí. Phật pháp thì rộng sâu vô lượng, chúng ta chỉ là một giọt nước của đại dương, làm sao mà ta hiểu hết được. Nếu có biết thì nên cùng nhau chia xẻ như vậy là có phước hơn, chứ đừng ỷ mình học rộng hiểu xa mà khinh khi người khác. Đừng chê ai mà nên khiêm tốn, hãy nghỉ rằng cái dốt của tăng ni, nếu có, là cái dốt thánh thiện, là cái quê mùa chơn chất đáng quí.

Tinh thần tu học còn giúp ta tránh không sanh tâm tật đố, không khinh mắng người cầu đạo, giải thích cho người cầu đạo không còn nghi ngờ về Phật pháp và không bởn cợt lý luận để khoe cái học thức của mình, Những người cầu đạo là vì họ chưa biết đạo, họ cần biết đạo nên mới cầu, nếu ta không giúp được họ thì hãy để cho người khác giúp, chứ mắc mớ chi mà ta đi mắng họ. Nếu như ai mắng quở ta thì mặc họ, ấy là cái nghiệp của họ chứ ta đừng vì thế mà không lui tới chùa, họ là họ còn Phật là Phật. Ta đi học Phật chứ ta đâu có học họ đâu mà phải giận. Nếu vì lẽ ấy mà ta không tới chùa, tức là ta giận Phật, mà nói cho đúng lẽ ra ấy là ta giận chính ta.

Tóm lại, tinh thần tu học là tự mình đặt mình vào chỗ thấp nhứt . Chính cái chỗ thấp nhứt lại là chỗ yên ổn nhất vì cái chỗ đó có ai tranh với ta đâu. Hãy luôn giữ cho mình cái tinh thần tu học nầy thì rốt ráo, giải thoát và Niết Bàn sẽ không ở đâu xa vời, mà ở đây, ở ngay trong thân tâm ta, và ở ngay trong đời nầy.



97. CÁI "TA" VÀ VIỆC HỌC PHẬT

Khi làm việc Phật xin đừng nghỉ đến cái "ta" vì làm việc Phật mà còn nghỉ đến cái "ta" là còn chấp, còn khen còn chê, như vậy làm sao mà yên ổn cho được? Làm việc Phật, dù không nói thì cũng là lợi cho ta chứ lợi cho ai đâu mà phải nói ra cho người nầy người kia biết, hoặc khen với chê. Nhớ rằng khi tu, ai chê ta mà chê đúng, xin hãy lạy họ mà tôn là thầy; còn nếu ai chê ta không đúng, xin cũng chấp tay xá họ và cảm ơn, vì họ là những bậc tri thức thiện hữu tạo duyên cho ta tu, cho ta xét lại chính mình. Hơn nữa, đã tu rồi thì còn chấp làm chi những lời chê khen cho thêm phiền não, hãy nói thẳng với nhau, chứ đừng hồ đồ buộc tội ai khi ta không biết chắc sự việc đã xãy ra. Xin đừng vội kết án mà hãy tập nghe, tập thấy và tập hiểu như thị, không nhị biên.

Tóm lại, khi làm việc Phật xin bỏ cái "ta" đi, nếu cái "ta" mà còn, ta chẳng những không làm tốt được việc Phật mà còn mang những phiền não vào nơi thanh tịnh của nhà chùa.

98. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC TU HỌC PHẬT

Việc học Phật nó quan trọng như hơi thở của chúng ta vậy. Bình thường ta không thấy hơi thở nó quan trọng với ta như thế nào, nhưng đến khi bị trở ngại hoặc sắp mất nó vĩnh viễn ta mới thấy được tầm quan trọng của nó. Thử nghĩ xem có thể nào ta ngưng thở được năm phút không? Thưa không. Phật pháp đối với chúng ta cũng vậy, bình thường ta không thấy nó quan trọng nhưng đến lúc bịnh hoạn, phiền não và đau khổ ta mới nghĩ đến chùa, đến Phật. Tại sao vậy? Thói thường ta ưa quen, hoặc nói cho đúng ra là ta hay bội tín với chính chúng ta. Thí dụ như lúc vượt biên bị sóng gió và hải tặc rình chờ thì ta cầu trời khẩn Phật, thế mà khi đến được bến bờ yên lành thì ta lại quên mất tiêu những gì mà ta đã cầu đã khẩn trên biển. Ngược lại, ta mãi mê vùi đầu vào những cuộc vui, cho đến khi có trục trặc gì đó thì ta mới nghĩ đến chùa đến Phật. Như thế có muộn lắm không? Xin thưa không muộn; tuy nhiên, nhiều khi ta không còn có đủ thì giờ nữa. Vậy ta phải làm sao? Bắt đầu từ bây giờ ta hãy tu đi, mà tu mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi sát na, chứ không phải mỗi tuần, hoặc mỗi tháng một lần.



99. THẾ NÀO LÀ HOẰNG TRÌ CHÁNH PHÁP?

Hoằng trì kinh không có nghĩa là ta cầm cuốn kinh mà đọc mà tụng suốt ngày suốt đêm, ngược lại hoằng trì có nghĩa là thực hành và giữ đúng những gì mà ta đã học được ở trong kinh. Gặp người đói thì cho ăn, gặp người đau khổ thì ta lắng tai nghe để rồi khuyên lơn, để rồi an ủi, và ban cho họ niềm vui... Đó là hoằng trì chánh pháp. Hoằng trì còn có nghĩa là mình sống với kinh. Đọc tụng mà không thực hành, không sống với kinh thì cũng như không. Đọc tụng kinh mà thấy kẻ nghèo chẳng những không giúp đỡ mà còn khinh rẻ thì chừng nào mới rốt ráo, chừng nào mới giải thoát?

Đọc tụng kinh và sống với kinh để biết mình hiện nay chưa giải thoát, chưa rốt ráo, vẫn còn đau khổ, nhưng tin rằng ta có thể đứng dậy được, vượt qua được những đau khổ. Đọc tụng và hành trì kinh để thấy tuy rằng ta sống trong cõi ta bà, thương nhớ xa lìa là khổ, mong cầu không được là khổ, giận ghét mà luôn gặp mặt nhau là khổ... Nhưng ta luôn có khả năng vượt qua để giải thoát.

Đọc tụng và trì kinh để mà học theo hạnh nguyện của các vị Bồ tát, cho dù đời ác trược, thiện lành thì ít mà tham dục thì nhiều, nhưng ta luôn nguyện hành trì kinh để được giải thoát và giáo hóa cho chúng sanh cũng được giải thoát. Đọc tụng và hành trì kinh để mang lại niềm vui và sự tin tưởng cho chúng sanh trong cõi nầy chứ không đợi ở cõi nào khác. Đọc tụng và hành trì kinh để đừng nhắm mắt khoanh tay mà bỏ đi những người đau khổ. Ngược lại, chúng ta sẽ làm đúng những gì Phật dạy: "Hãy ban vui và chia xẻ nỗi khổ với kẻ khác, hãy đem đến cho họ sự yêu thương, niềm tin và sự sống." Thấy một em bé đi lang thang vất vưởng, tại sao ta không đến bên em ân cần han hỏi coi em cần gì, và coi ta có thể giúp đỡ được gì cho em? Làm được như vậy là ta đang sống với kinh, sống với Phật và tự ta, ta biến cõi ta bà ác trược nầy thành ra cõi tịnh độ vậy.

Để biết thêm về chánh pháp, ta nên tìm hiểu chánh pháp là gì? Chánh pháp là những pháp giúp ta diệt hết những tham, sân, si. Nên nhớ có tham sân si là chúng sanh, không tham sân si là Phật. Vậy chánh pháp là những gì giúp ta tu giải thoát và thành Phật.

Thực hành đúng theo chánh pháp là sao?

Trước hết ta phải học hỏi cho tường tận đó là những pháp gì và thực hành y như lời Phật dạy. Tu thân, khẩu và ý để diệt đi những tham sân si. Nhưng làm sao diệt tham sân si? Nếu tham sân si khởi lên thì làm cho chúng lắng dịu xuống, nếu chúng chưa khởi, thì ta phải áp dụng những gì Đức Phật đã dạy để không cho chúng khởi.

Tại sao ta phải thực hành chánh pháp?

Nếu ta không thực hành chánh pháp thì tham sân si sẽ nỗi lên mãi để rồi gây ra những phiền não và dẫn ta trong biển luân hồi sanh tử. Thường thì phàm phu chạy dong chạy ruổi theo những dục vọng, những sân si... Nhưng một khi đã quyết chí tu thì chúng ta sẽ tâm niệm đi tìm sự thật, chỉ có sự thật mới giúp ta không phiền não và đau khổ.

Hãy niệm "tác quán" để biết rằng giận thì khổ và ngược lại không giận là không khổ, là giải thoát. Hãy nhìn những người ta giận bằng tình thương và bằng tấm lòng từ bi thì chẳng những người khác được lợi lạc mà chính bản thân ta cũng được lợi lạc nữa.

Tóm lại, muốn diệt tham sân si và muốn có sự giải thoát rốt ráo, con đường duy nhất cho chúng ta lựa chọn là tìm về chánh pháp và thực hành đúng như những gì mà Phật đã dạy. Nói cách khác là ta hãy đi tìm "sự thật" dưới ngọn đuốc từ bi của Đức Phật.



100. TU CÁCH NÀO CHO ĐƯỢC ĐỊNH? TU THIỀN HAY TU TỊNH ĐỘ?

Tu cách nào cũng được định, miễn ta nhiếp tâm tu là được định, chứ không nhứt thiết phải tu theo thiền hay tu theo tịnh độ. Tuy nhiên, thiền giúp chúng ta biết chúng ta đang làm gì, thấy gì và nghĩ gì... tức là chúng ta được yên ổn phần nào mặc dù chỉ yên ổn trong động nhưng cũng làm cho chúng ta thấy cuộc sống của chúng ta có phẩm chất hơn và có ý nghĩa hơn.

Tại sao chúng ta phải định? và định cho ai?

Cuộc sống hàng ngày của chúng ta tùy thuộc rất nhiều · môi trường chung quanh, và chịu hoặc bị ảnh hư·ng từ nếp sống gia đình đến xã hội. Nếu chúng ta quay cuồng trong đó, thì tâm chúng ta vốn dĩ đã động, sẽ động hơn. Nếu chúng ta không quay cuồng trong đó, thì ta sẽ bị nó đào thải. Vậy chúng ta phải làm sao? Câu trả lời duy nhất là hãy đạt cho được sự thanh tịnh trong cái động đó, mà muốn được như vậy, chúng ta phải làm gì? Muốn được như vậy, chúng ta hãy đem thiền vào cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Thiền là gì?

Thiền là sống với chánh niệm, thế thôi. Thiền là biết rõ ràng ta đang làm gì và đuổi đi những ý nghĩ đến mà không ăn nhập gì đến việc ta làm. Nếu nói tu thiền mà tâm không chánh niệm, còn vọng động, không biết mình đang làm gì, ấy không phải là tu thiền, có thể tu ma cũng không chừng. Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã khẳng định : "Bao giờ không có ngộ, bấy giờ không có thiền."

Như vậy lúc thiền, không cần rườm rà thêm thắt, chỉ cần yên lặng trong tâm là đủ. Tuy nhiên, tâm ta nó chuyền như vượn chuyền cây thì làm sao mà ngồi yên cho được? Nếu tâm không yên lặng được thì hãy cho nó làm một cái gì đó để nó đừng chạy lung tung. Chẳng hạn như kêu nó kiểm soát hơi thở, hít vào thở ra, hoặc đếm số từ một đến mười rồi lại tiếp tục lộn ngược từ mười đến một, cứ thế mà làm, thì nó có chạy đi đâu được? Thế thì thiền đã dẹp tan những "vọng tưởng," cái bịnh chung của chúng sanh.

Vậy thì ta kiếm ai làm thầy dạy thiền cho ta?

Hãy đến tìm các sư, các thầy cô xuất gia để nhờ chỉ cách thiền. Tuy nhiên, ông thầy quan trọng nhứt chính là tâm ta, nếu ta nhận ra được tâm chân thật của chính mình thì sự tu hành không sớm thì chầy cũng sẽ thành Phật. Tại sao vậy? Vì cái tâm chân thật ấy chính là Phật tánh, mà khi thấy được nó tức là thấy được Phật nhơn, là biết được Phật nhơn, vậy thì Phật quả là chuyện không xa. Luôn nhớ lời dặn của tổ Bồ Đề Đạt Ma: "Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ chơn tâm, kiến tánh thành Phật." nghĩa là Thiền không có văn tự, truyền ngoài giáo lý. Nói vậy chứ đâu có ngoài, vì nếu ngoài thì đã là tà ma ngoại đạo rồi còn gì. Thiền chỉ cho ta thấy đạo qua mọi phương tiện, đừng mắc kẹt phương tiện mà sẽ không thấy được đạo. Kinh điển như tấm bản đồ vẽ dấu chân và hướng đi của con voi, nếu ta nương theo đó mà tìm đến voi thì cũng không khác với có ai đó dắt ta đi lại đến tận chỗ con voi.

Tâm ta đầy dẫy những niệm, vọng niệm cũng có mà chánh niệm cũng có. Chúng khởi lên rối bời, mà chúng ta lại lầm chấp chúng là cái tâm của ta, cho nên có khi nào ta thấy tâm ta an đâu. Bởi tâm không an, nên ta mới tìm cách làm cho nó an. Vấn đề ở đây là ta có tâm thật hay không? Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã nói: "Hãy nhìn thẳng lại nó, thử xem nó có thật không cái đã, rồi hãy cầu an cho nó. Nếu nó không thật, hãy để tự nó nó tan biến ấy là an, là định." Chỗ niệm không khởi là "vô niệm" hay là "không tâm." Bởi thấu triệt được cái "không" nầy mà Lục tổ Huệ Năng đã bước vào cửa nầy bằng bài kệ:

Bồ Đề bổn vô thọ

Minh cảnh diệc phi đài

Bản lai vô nhất vật

Hà xứ nhạ trần ai?

Bồ đề vốn không cội, gương sáng cũng không đài, xưa nay không một vật, chỗ nào dính trần ai? Tuy nhiên bước được vào và ngộ đạo là hai chuyện khác nhau. Muốn ngộ đạo thì phải biết mình có tánh giác nghĩa là phải biết tánh ấy vốn thanh tịnh, không sanh, không diệt, tự nó nó đầy đủ, tự nó không dao động... Mà đã từ muôn ức kiếp, chúng ta quên bẳng nó, rồi đi lang thang khắp nẻo luân hồi, tạo nghiệp ngập trời, thọ vô tận khổ. Hãy đi theo con đường mà Đức Phật đã đi, đi như người thức tỉnh, nhớ tới đường về quê, không còn lê bước lang thang. Đó là hình ảnh giác ngộ đi đến giải thoát của đạo Phật.

Phương pháp tọa thiền?

Tại sao lại tọa thiền? Nói cho đúng ra đi, đứng, nằm, ngồi đều thiền được cả. Tuy nhiên tọa thiền vẫn được dùng hơn vì đức Phật cũng đã tọa thiền mà thành đạo và sau khi thành đạo rồi, ngài vẫn tiếp tục tọa thiền. Vì tọa thiền chẳng những giúp ta điều hòa khí huyết trong thân thể mà còn giúp cho tâm ta được thanh tịnh nữa.

Trước khi ngồi thiền, đi đứng nằm ngồi đều thong thả nhẹ nhàng, buông xả để tâm không bực tức, phiền não. Muốn tọa thiền, trước nhất phải có tọa cụ tức là gối để ngồi, bề cao chừng một tất, đường kính chừng hai tất. Nếu không có tọa cụ, có thể xếp mền làm tư lại mà ngồi, khi ngồi chỉ để phân nửa hoặc một phần ba bàn tọa lên gối cho cơ thể ngã về trước một chút, đường xương sống cho thật thẳng. Ngồi chỗ thoáng, không lộng gió mà cũng không bít bùng. Ánh sáng vừa đủ, sáng quá thì bị phân tâm, mà tối quá thì dễ buồn ngủ.

Lúc ngồi nên để cho xương cùng ở ngay giữa tọa cụ vì cả thân người sẽ tì lên đó. Nghiêng qua nghiêng lại cho yên chỗ mới bắt đầu kéo chân ngồi. Có thể ngồi bán già, chân trái để lên đùi trái, tùy sự thuận tiện của mình. Nếu ngồi kiết già, chân trái kéo lên đùi mặt, chân mặt kéo lên đùi trái, kéo sát vào thân. Thế ngồi đã xong, giờ lấy bàn tay phải để lên bàn tay trái, hoặc ngược lại. Hai ngón cái vừa đụng nhau ngay chiều của rún. Chuyển động thân vài lần trước khi vào thiền. Ngồi nên để lưng thẳng vừa phải, đừng cố gắng gồng, đầu hơi cúi một chút, ngó dưới ngay trước chừng một thước tây. Mắt mở một phần ba, gương mặt bình thản, nếu có một nụ cười tự nhiên càng tốt. Hít vào và thở ra dài nhưng không gấp. Hít vào tâm tỉnh lặng, thở ra miệng mỉm cười, tưởng chừng như tất cả phiền não bịnh hoạn theo hơi thở ra ngoài hết. Ba hơi đầu cả mũi lẫn miệng hít vào thở ra, nhưng sau đó chỉ hít thở bằng mũi đều đều, nhẹ và dài. Lúc thiền ta có thể đếm hơi thở, hít vào, thở ra, hít vào, thở ra; hoặc hít vào tâm tỉnh lặng, thở ra miệng mỉm cười, hoặc hít vào một hai ba, thở ra bốn năm sáu; hít vào bảy tám chín và cứ tiếp tục mãi. Nếu có vọng niệm nào chạy đến, ta cương quyết không theo, mà không theo thì nó sẽ qua đi. Cứ như thế, lâu dần sẽ thành thói quen và tu được thanh tịnh lúc nào không hay. Ngồi khoảng nửa giờ hoặc hai mươi phút thì ta có thể xả thiền.

Khi xả thiền, dùng hai lòng bàn tay chà xát vào nhau rồi đem úp vào hai mắt và hai tai, ba bốn lần tùy ý. Từ từ duỗi hai chân ra, xoa bóp cho máu chạy toàn thân và cho đỡ tê, xong rồi xoa bóp từ đầu đến chân. Nên nhớ làm từ từ và làm nhẹ nhàng, êm ái, ngồi tịnh khoảng vài ba phút, bắt đầu đứng dậy. Nếu ngồi một mình trước bàn Phật thì xá Phật, nếu ngồi với thiền hữu thì đứng dậy xá thiền hữu, xá Phật rồi bắt đầu đi kinh hành hoặc thiền hành. Đi độ năm, mười phút cho thẳng chân. Bước thẳng chân mà tâm không động, tâm vẫn biết có vọng niệm mà không theo, cho nó qua đi. Khi đi ta vẫn tưởng hoa sen nở trên từng bước chân ta qua.

Ngọa thiền như thế nào?

Khi nằm thiền, chúng ta phải hết sức cẩn trọng, từ từ nằm xuống chứ đừng ngã vật ra một cách mạnh bạo, đừng quăng mình xuống vì như thế chẳng khác nào ta đang bạo động với chính thân thể ta, mà bạo động với chính ta là tự phản bội mình. Hãy đừng phản bội ta, vì chính nhờ cái thân nầy ta mới có cơ hội tu. Khi nằm nên nằm ngữa, không gối, hai tay và hai chân duỗi thẳng song song với thân. Toàn thân áp sát vào mặt phẳng càng sát càng tốt. Đoạn từ từ lắng xuống như một viên đá, hoặc một chiếc lá rơi, tất cả cơ thịt đều mềm mại chứ không gồng, không kênh. Nằm với tư thế nầy từ năm đến mười phút, tập hít sâu vào và thở ra cho hết khoảng ba hơi, sau đó thở bình thường và tập trung vào bụng. Như thế là ta đang nghỉ ngơi hoàn toàn.

Khi thiền mà nước miếng cứ tuôn ra là sao?

Bình thường thì nước miếng vẫn tuôn ra ấy chứ nhưng ta không để ý, vì nước miếng phải tuôn để giữ độ ẩm cho miệng. Đến khi ta ngồi thiền thì tâm ta thanh tịnh hơn và ta biết chắc là có nước miếng tuôn ra vì lúc ấy ta nhận biết hết những sự việc xãy ra quanh ta. Nếu trường hợp nước miếng tuôn ra, ta cứ nuốt như bình thường. Chẳng những với nước miếng mà với bất cứ gì xãy ra lúc ngồi thiền đều không nên sợ. Thí dụ như nghe thân nặng nề như có vật gì đè lên, hoặc nhẹ nhàng như muốn bay bỗng, hoặc như có những con li ti bò trên mặt, hoặc có gì xúc chạm rợn người. Tất cả chúng là hư giả, không có thật nên không sợ. Có như vậy ta mới đạt đến an nhiên tự tại được.

Tóm lại, tu thiền là muốn cho dù sanh dù tử vẫn tự tại, khi sống cũng như khi chết, mình làm chủ lấy mình cả thể xác lẫn tâm hồn. Mà mục đích trước mắt của thiền là mở mang trí tuệ của con người và cùng làm cho sáng tâm tánh. Mọi người đều biết tu thiền thì chẳng những đến lúc chết được tự tại mà ngay bây giờ cảnh giải thoát, niết bàn ở tại đây.

Ngồi thiền mà tâm cứ rối loạn là sao?

Đâu phải đợi đến lúc ngồi thiền, tâm ta mới rối loạn, mà tâm ta nó loạn tự kiếp nào, nó như con vượn chuyền cây, lúc nào cũng động. Biết nó động để mà không chạy theo nó, niệm khởi ta cho nó qua. Biết rằng vọng tâm phức tạp, dao động và không thực, ta không theo nó. Biết rằng chân tâm là tâm chân thực, không động và thường còn.

101. MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM MÀ CHÚNG TA CẦN NHỚ TRONG CUỘC SỐNG HÀNG NGÀY.

1. Khi nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bịnh hoạn, tại sao vậy? Có ai trong chúng ta thích bịnh đâu? Chắc chắn là không; tuy nhiên, cái bịnh nó đến với chúng ta không hẹn trước. Chúng ta từ lúc lọt lòng mẹ, đã không kiểm soát được. Có ai muốn mình sẽ sanh ra làm con trai hay con gái mà được đâu, có ai muốn mình sanh ra con nhà giàu được đâu. Như vậy, ta đã thấy cái trục trặc của ta chưa? Cái trục trặc của ta là muốn lái những định luật tự nhiên theo ta, làm sao được? Chính Đức Thế Tôn, Ngài đã nhìn thấu suốt hết những định luật nầy, thế nhưng Ngài cũng không làm sao thay đổi được chúng, Ngài chỉ dạy cho chúng ta làm sao để thoát ra chứ Ngài không phá được những định luật nầy. Đức Phật đã dạy liền với cái thân nầy là những định luật tự nhiên chẳng hạn như sanh, lão, bịnh tử... chúng ta không ai chế ngự được chúng, chỉ còn cách tu để được giải thoát thôi.

Vậy thì xin hãy giữ gìn thân thể nầy, tuy nhiên, nếu bịnh nó tới thì ta nên chấp nhận nó với một thái độ tự tại. Hãy cười mà chấp nhận và tìm phương chửa trị bởi vì nếu ta khóc thì bịnh vẫn là bịnh thôi mà có khi nó còn trở nặng hơn, hoặc giả có khi ta làm cho cả nhà đều mang trong tâm cái bịnh của ta. Thí dụ như ta nhức đầu mà ta khóc lóc rên rỉ thì thứ nhất ta càng nhức đầu thêm, thứ nhì những cái rên rỉ ấy là những cái nhức đầu cho những người quanh ta. Trời thì có nắng có mưa, người có khi mạnh khoẻ có lúc ốm đau. Người biết tu xem cái bịnh hoạn như là sứ giả của Như Lai, nó nhắc ta nên sớm tu để được giải thoát chứ chẳng lẽ ta cứ mãi trục trặc thế nầy sao? Hãy chấp nhận nếu cái bịnh nó tới, không rên rỉ, không khóc lóc, không sầu thảm, và không làm khổ cho những người quanh ta. Ai cũng có bịnh cả, mỗi người mỗi khác; đừng tưởng cái đau của mình là lớn nhứt thế gian nầy. Đau khổ là chuyện thường tình, cái đau khổ nhứt của ta là không chấp nhận cái khổ đau.

2. Ở đời đừng cầu không hoạn nạn bởi vì nếu không hoạn nạn thì đâu gọi là đời. Trong cuộc sống hằng ngày, có ai trong chúng ta lại đi cầu cho hoạn nạn đâu, chắc hẳn là không. Thường thì ta cầu cho được sự an lành; tuy nhiên, sống trong cõi ta bà nầy mà muốn được an lành trăm phần trăm thì chắc là không có được vì nếu như vậy thì đâu có khổ, mà không có khổ tức là không phải cõi ta bà.

Ở đời, có những cái nó xãy ra ngoài tầm tay của ta. Có ai biết được là chiều nay không động đất? Có ai biết được ngày mai sẽ ra sao? Chắc là không. Vậy thì trong cuộc sống của mình, xin hãy quí những gì mà ta đang có. Sống giờ nào quí giờ đó bởi vì nếu không khéo thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ thực sự sống cho mình. Chúng ta cứ tưởng cuộc đời mình nó lâu nó dài, chuyện gì cũng gát lại để thủng thỉnh hẳn làm, hoặc giả để mai mốt hãy làm. Xin thưa, không có chuyện gì có thể để đến ngày mai cả vì có chắc là ngày mai chúng ta còn hơi thở không? Không chắc đâu vì hoạn nạn nó đến với ta bất ngờ lắm.

Hãy tập cho được cái hạnh nghe và thấy để biết rằng cái hoạn nạn của mình chỉ là một giọt nước nhỏ trong những biển khổ mà thôi. Tóm lại, trong cuộc sống hàng ngày chúng ta không cầu hoạn nạn đến, khi nó đến xin hãy chấp nhận, đừng than oán, đừng trách cứ ai. Cứ nghĩ rằng có nhiều khi hoạn nạn chính là những kích thích tố của cuộc sống chúng ta vậy.

3. Khi cứu xét tâm tính thì đừng cầu không gút mắc vì nếu không gút mắc thì sự học sẽ không thấu đáo. "Ví phỏng đường đời bằng phẳng mãi, anh hùng hào kiệt có hơn ai?" Khi ta nghĩ đến ta, ta thường đánh giá ta cao quá, có khi người ta chưa nói ra thì mình đã nhẩy bổ vào miệng người ta mà nói rằng tôi hiểu, tôi hiểu. Có khi chúng ta chả hiểu gì đâu, nhưng vì cái chấp ngã mà ta nói ta hiểu ta hiểu... Do tâm địa của chúng ta nó như thế đó, nó gút mắc, nó đủ thứ hết. Tâm địa của chúng ta giống như bợn cáu trong ống cống, muốn cạo sạch ra không phải là một ngày một bữa đâu. Vì thế đừng vội vàng muốn rằng hôm nay đi tu, rồi ngày mai thành Phật. Chuyện tu học xin chúng ta cứ đi tới và thành thật với chính mình, cố gắng làm chủ được mình, khi vấp té ta gượng dậy tiếp tục đi. Khi phạm lỗi, hãy tha thứ cho mình chứ đừng tiếp tục sống với những bức rức của lỗi lầm trong quá khứ.

4. Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng vì ma chướng không có thì chí nguyện không kiên cường. Có nhiều người nói sao hồi chưa tu thì không có gì mà sau khi phát tâm tu niệm thì đủ thứ chuyện dấy lên? Chuyện đó xãy ra ở nhiều trường hợp; tuy nhiên, đối với người biết tu thì coi chuyện đó là chuyện thường. Hãy coi những ma chướng ấy như là những oan trái của nhiều đời trước, mà đời nầy ta phải trả cho xong để được thảnh thơi và đi đến giải thoát. Thực tình mà nói, nếu không có ma chướng thì làm sao ta biết được đạo hạnh của ta dày hay mỏng. Có lắm khi ma nó không ở đâu xa cả, mà nó trong lòng ta, cái ma bên trong ta nó khó gấp trăm ngàn lần cái ma bên ngoài, vì quân giặc từ bên ngoài để đánh vào thì ta còn thấy để mà đỡ, chứ giặc từ bên trong đánh ta thì ta không biết đường đâu mà đối phó.

Ma mà ta cho là ma thì nó là ma, nhưng nếu ta an nhiên tự tại thì ma có thể là những thiện hữu tri thức giúp ta trên bước đường tu học, hoặc giả chúng là những thử thách làm tăng phẩm chất cho việc tu học của ta. Thí dụ như hồi nào đến giờ ta mê cải lương mà không có gánh hát nào đến, đột nhiên đến hôm đi thọ bát quan trai thì gánh hát về. Vậy thì gánh cải lương hay thọ bát quan trai? Đó là dịp tốt để thử thách lòng ta đó.

Tóm lại, trong việc tu học dĩ nhiên ta không cầu ma đến, nhưng nếu nó có đến ta hãy tự nói rằng: "tôi biết anh, chị muốn thử thách tôi đó, nhưng không sao, chó sủa mặc chó lữ hành cứ an nhiên tự tại mà đi tiếp."

5. Việc làm đừng mong dễ thành vì dễ thành thì lòng sanh ra kiêu ngạo, mà kiêu ngạo là dấu hiệu của cái ngã chấp. Ta nên luôn nhớ rằng đạo Phật là đạo phá chấp để được an nhiên tự tại. Nếu sự đời có trái với ý ta thì ấy cũng là dịp may cho ta học hỏi, dịp may cho ta tu tập. Mặt đất có lồi lỏm, núi sông... thì sự đời có dễ có khó, có thành có bại. Thành bại, khó dễ không là vấn đề, vấn đề là ta có chịu buông cái chấp ta ra hay không, vì hễ còn chấp là còn khổ đau. Làm việc gì mà mình cũng mong cho dễ thành, nhở có cái khó thành thì ôm lòng đau khổ.

6. Giao tiếp đừng cầu lợi cho mình vì lợi là nguồn gốc của ngã sở. Đâu có ai khùng điên gì mà không nghĩ tới cái lợi cho mình; tuy nhiên, hãy phân biệt cho kỹ cái lợi vật chất và cái lợi tinh thần. Thói thường, làm gì ta cũng cầu cho có lợi, nhưng nếu cái lợi là động cơ chính yếu cho hành động thì không nên. Nên nhớ rằng cái lợi về vật chất thì có đó rồi mất đó. Chúng ta lừa lọc, tròng tréo, một chỉ còn chín phân, cân non, đong thiếu, đầu cơ tích trữ để được lợi, nhưng ta giữ nó được bao lâu? Không bao lâu thì chúng ta cũng xuôi tay với hai bàn tay trắng, mà không chừng đôi vai ta sẽ nặng hoằng thêm với những tội lỗi của kiếp nầy.

Xin hãy phát tâm nghĩ đến chuyện nhơn nghĩa đạo đức hơn là cái lợi vật chất vì nhân nghĩa thường còn mà vật chất thì mất. Hơn thế nữa lợi lộc vật chất còn là nguyên nhân của những tranh chấp và phiền não.

7. Với người thì đừng mong tất cả thuận theo ý của mình. Tại sao vậy? Cái tật lớn của chúng ta là làm bất cứ việc gì từ nhỏ đến lớn đều cố chấp cho rằng ý của mình là trung tâm của vũ trụ. Bắt mọi người phải làm theo dù cho ta có quyền hay không có quyền. Nếu ta có quyền thì ta áp đặt và bắt buộc người khác phải theo ta, nhược bằng ta không có quyền thì cũng làm cách nầy hay cách nọ cho người khác làm theo ta. Ta hay trách người khác độc tài mà không chịu nhìn lại cái độc tài của mình. Lúc nào mình cũng muốn người khác làm theo ý mình, không độc tài chứ là gì? Hãy tỉnh tâm mà nghe lời Phật dạy để biết rằng cõi chúng ta đang ở có hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Ý Đức Thế Tôn muốn nói gì? Ngài muốn cho chúng sanh thấy rằng ta chỉ là giọt nước nhỏ của những đại dương mà thôi, trong muôn vạn giọt nước khác. Sự lựa chọn của chúng ta nó cũng như thế ấy. Xin đừng cho rằng ý của ta là trung tâm vũ trụ, là hạng nhất và đừng bắt ai phải lựa chọn theo ý muốn của ta.

8. Thi ân thì đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ơn với mưu đồ. Thường thì ta làm việc gì cũng có chương trình, có kế hoạch; tuy nhiên, khi làm việc thiện thì xin đừng nghĩ đến đền đáp ân nghĩa. Xin làm rồi quên chứ đừng làm rồi nhớ vì làm rồi quên đó là cái nhân của Phật mà làm rồi nhớ chính là cái nhơn của sanh tử luân hồi, của phiền não và nghiệp báo sau nầy. Làm việc thiện rồi quên, ấy chính là ta đang thực hành chữ "Xả" đúng nghĩa của nó.

Thói thường khi thi ân thì người nhận phải cảm ơn người thí, nhưng ngược lại trong đạo Phật người thi ân phải cám ơn người nhận bởi vì nhờ cái người nhận đó mà ta mới có cơ hội được làm việc bố thí, có họ ta mới vun bồi được ruộng phước của ta. Tương tự, khi ta cúng dường tam bảo, tự nó nó là phước báo chứ không cần phải có thầy nầy chứng, thầy kia kiến mới là phước báo.

9. Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động. Một khi ta làm việc gì vì lợi mà làm, thì chắc chắn ta phải bằng mọi cách thâu đạt cho được lợi mới nghe. Với ý định thâu lợi có khi ta bất chấp thủ đoạn, có khi ta mù quáng si mê vì lợi. Vậy thì trong cuộc sống nầy, ta cứ lo làm ăn và tạo ra của cải vật chất bằng cách lương thiện, bằng mồ hôi nước mắt của ta chứ đừng bằng những phương tiện bất chánh, đừng bằng cách tròng tréo. Vì như vậy là làm nô lệ cho si mê.

10. Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân quả chưa xả. Thế nào là oan ức? Oan ức là việc ta không làm mà người khác cứ tưởng ta làm. Đâu phải tự nhiên mà có oan ức, oan ức cũng như những thị phi ở đời cũng như những nghiệp hoặc của đời nầy, hoặc của đời trước, mà ta phải trả. Thói thường hể bị oan thì thanh minh, nhưng thanh minh qua lại nữa mà chi cho thêm vướng mắc. Hãy để cho qua cái gì đã qua, hãy coi như ta đang trả những nợ nần của đời trước . Mà trả thì phải trả cho xong, chứ còn kèo nài chừa lại làm gì?

Tại sao ta có thể tạo ra oan ức?

Cái trục trặc của chúng ta là không chịu nhìn cho sâu, nhìn cho kỹ, mà đi đến kết luận một cách hàm hồ, bừa bãi, không có lý luận vững chắc để rồi tạo ra oan ức. Nếu tất cả chúng ta chịu tu thì không có kẻ nghi oan mà cũng không có người bị oan.

Hãy nhìn cái oan tình của mình bằng đôi mắt từ bi như là nợ phải trả cho xong, hãy nhìn người nghi oan ta cũng với lòng từ bi hỉ xả. Nếu ta nhìn oan cừu bằng oan cừu thì oan oan tương báo, ngược lại nếu ta lấy tình thương để rửa hận thù thì oán cừu tan biến.

Hãy nhìn những oan ức mà cười và đồng thời xin đừng tạo ra oan ức cho người khác. Trên đời nầy vốn dĩ đã có những vô duyên oan cừu ( nghĩa là nhiều khi cái mình nghĩ không đúng nhưng mình vẫn vội vàng kết luận để tao ra oán cừu ), xin đừng tạo ra những cố ý oan cừu nữa. hãy sống theo lục hòa của đạo Phật thì chẳng những vô duyên mà cố ý oan cừu cũng đều tan biến. Hãy phát nguyện đừng làm ác, mà làm thiện, mà mang đến niềm vui cho mọi người bằng cách không cho oan cừu trói buộc mình. Hãy ráng mà nhìn trung đạo và nghe viên thông để góp được một phần nhỏ tạo ra niềm vui, niềm an lạc và thanh tịnh cho cuộc đời nầy.



102. NIỀM TIN LUÂN HỒI TRONG ĐẠO PHẬT

Đức Phật đã dạy hãy nhìn cây chuối ngã theo chiều gió thì biết rằng lúc chết chuối sẽ nằm về hướng nào. Con người cũng vậy, chúng ta cũng biết lúc lâm chung ta sẽ đi về đâu bằng cách nhìn vào những gì ta đang làm ở kiếp nầy. Có người bảo rằng làm gì có tái sanh, làm gì có phước báo, làm gì có luân hồi. Thậm chí có một số người bảo rằng nhà Phật nói luân hồi là để ru ngủ con người trong mê tín. Như vậy thực sự luân hồi là mê tín hay chánh tín? Trước hết chúng ta phải biết rằng thuyết luân hồi là một thuyết rất quan trọng trong đạo Phật, nếu nói luân hồi là mê tín thì đạo Phật cũng là mê tín. Luân hồi bao gồm nhơn quả và nghiệp báo, luân hồi là xoay vần, cứ đảo lên lộn xuống mãi trong một khuôn khổ cố định; tuy nhiên từ trạng thái nầy sang trạng thái khác; từ hình tướng nầy sang hình tướng khác. Khi nói đến luân hồi là ta muốn nói vạn vật luân hồi chứ không riêng gì con người. Thí dụ quả đất quay xung quanh mặt trời và có ngày nó trở về cái vị trí cũ của nó; nó tự xoay quanh nó để có bên tối bên sáng và cứ thế xoay vần mãi. Mọi vật từ thực vật đến sinh vật đều nẩy mầm, đẻ trứng... lớn lên và bị hoại diệt và rồi tiếp tục mãi không ngừng. Lấy thau nước đầy đem ra nắng một ngày, nước sẽ vơi đi phân nữa. Số nước ấy đi đâu? mất chăng? Xin thưa, nước không đi đâu, không mất đâu, chẳng qua nước biến từ thể lỏng qua thể hơi, nước đi từ trạng thái nầy qua trạng thái khác chứ có mất đi đâu. Con người cũng vậy, phần vật chất do đất, nước, lửa, gió mà duyên hợp lại; đến một lúc nào đó (khoảng bảy tám chục năm ), hết duyên thì những phần ấy cũng bị hoại diệt đi. Tóm lại, tứ đại tụ họp quân bình nhau là con người sống khoẻ mạnh, nếu thiếu quân bình là ốm đau, nếu chúng phân tán là tử vong. Con người từ lúc sanh ra đến lúc chết, phần vật chất đâu có mất đi đâu, chúng chỉ thay đổi trạng thái. Nếu ai nói mất là người ấy đã nhìn với con mắt không khoa học. Thực tế là chúng đã "biến thiên mà bất diệt." Phần tinh thần của con người cũng vậy luôn luôn thay đổi bất thường, không bao giờ đứng yên một vị trí. Những thứ buồn vui, thương ghét, giận hờn, tham, sân si, thị, phi... đến và đi qua trong ta từng sát na. Có khi chúng ta ác độc như ma vương. Nhiều lúc ta vui vẻ yêu thương, nhưng lắm lúc ta bực bội thù địch. Tóm lại, từ vật chất đến tinh thần của ta "biến thiên mà bất diệt." Cứ tụ lại rồi tan đi, tan đi rồi tụ lại... không phải là luân hồi chứ là gì.

Mọi sự tụ tán đều do duyên mà khiến cho hình tướng đổi thay. Thí dụ, duyên nóng khiến nước bốc hơi, duyên lạnh khiến nước đông thành khối. Riêng đối với sự luân hồi của con người, duyên quyết định là nghiệp. Nghiệp là động cơ chính trong cuộc luân hồi của chúng ta, nghĩa là hết nghiệp là hết luân hồi. Phật giáo cho rằng tất cả chúng sanh, trừ những bậc đã giải thoát như A la Hán hoặc Bồ tát, đều ở trong vòng sinh tử. Phạm vi luân hồi bao gồm sáu cõi: Trời, Người, A Tu La, Súc sanh, Ngạ quỷ và Điạ ngục. Phật giáo còn tin rằng khi lâm chung mà có tâm ác như tham lam, giận dữ... thì khó tránh được tái sanh vào cõi ác.

Khi đã hiểu rõ về luật luân hồi của nhà Phật là chánh tín không thể nghĩ bàn thì chúng ta thấy rằng chính ta có đủ thẩm quyền quyết định đời mình ở hiện tại và vị lai. Chính chúng ta là người phán quyết bản án tốt hay xấu trong đời sống mai sau của mình. Đừng cầu khẩn van xin bất cứ một năng lực nào ngoài chúng ta. Nghiệp và chúng ta chính là một, nếu chúng ta khôn khéo tạo nghiệp lành thì cuộc đời kế tiếp của chúng ta là cái gì chúng ta biết. Đức Phật đã thị hiện ra nơi đời để chỉ cho chúng ta, nếu khổ được thoát khỏi khổ, nếu phiền não được thoát khỏi phiền não. Nói cho rõ ra, đức Phật chỉ cho chúng ta thấy cái vòng luân hồi sanh tử, rồi Ngài lại chỉ cho chúng ta tu cách làm sao cho thoát khỏi cái vòng ấy. Giống như những khoa học gia biết rõ được sức hút của quả đất rồi sau đó chế ra phi thuyền có khả năng vọt ra ngoài sức hút ấy để bay vào vũ trụ.

Tóm lại, chúng ta biết được lý của luân hồi, lẽ công bằng của con người... tự nhiên mọi mê tín và ỷ lại trong ta đều tiêu tan. Do biết ta là người quyết định cho thân phận của mình, ta biết ta phải làm gì để không chuốc lấy phiền não và không gây đau khổ cho kẻ khác. Có như thế, cho dù chưa được giải thoát, chúng ta cũng sáng suốt và an ổn ngay trong đời sống này. Mọi tương lai đều nằm trong tay chúng ta, hãy sớm thức tỉnh để chọn lấy cho mình một tương lai theo sở thích của mình.



103. NGŨ GIỚI

Ngũ giới được đức Phật đặt ra để giúp cho người Phật tử tại gia giữ gìn giới luật và tiến bước trên đường tu học. Nho giáo có tam cương ngũ thường thì Phật giáo có tam qui ngũ giới. Chính đức Phật đã căn dặn tất cả đệ tử rằng sau khi Ngài nhập diệt rồi thì tất cả các người tu hành phải coi giới luật như là thầy bởi vì năm giới nầy không những giúp ta tiến mạnh trên đường giải thoát mà chúng còn đem lại an vui hạnh phúc trong gia đình và hòa bình trật tự cho xã hội nữa.

Xã hội văn minh ngày nay đã hướng về ngũ giới của đạo Phật và coi đó như là những điều tiên quyết cho hạnh phúc gia đình và xây dựng đời sống đúng theo ý nghĩa của văn minh nhơn loại. Nếu chúng ta thiếu những căn bản đạo đức nầy, cho dù chúng ta có nói đạo đức cao siêu đến đâu cũng chỉ là giả dối. Đức Phật đã vì thương xót chúng sanh mà đặt ra những giới trên, nếu chúng sanh nào chịu nghe và làm theo, ắt hẳn là đời sống sẽ an lành và hạnh phúc. Nhược bằng chúng ta không giữ giới, nghĩa là con đường ngay thẳng không đi mà lại đi con đường cong queo, là chúng ta tự chuốc lấy nguy hiểm cho chính ta. Đức Phật không trừng phạt ta mà chính tòa án của nhân quả sẽ xử ta, làm ác thì quả xấu còn làm thiện thì quả tốt là chuyện đương nhiên không thể nghĩ bàn.

Bây giờ chúng ta hãy bàn sơ qua về năm giới và sự lợi lạc của chúng ta trong đời sống hằng ngày một khi ta biết trân trọng chúng. Trước hết là không sát sanh, nghĩa là không được giết hại mạng sống của chúng sanh kể cả các loại động vật. Vì sao? Ta có quí trọng mạng sống của ta không? Có chứ. Tương tợ, các loài khác cũng vậy, đều quyết lòng vảo vệ sinh mạng của mình. Là Phật tử, hãy lấy lòng mình mà suy lòng người, chớ giết, chớ bảo giết và chớ tùy hỉ trong việc giết hại. Ngoài ra, không sát sanh còn nuôi dưỡng lòng từ bi nơi ta bởi vì đan tâm giết hại sinh mạng là lòng độc ác phát triển và giết chết tâm từ bi nơi ta. Con vật đang sống mà ta lại nhẫn tâm giết chết nó để mà ăn thịt, để mà bồi dưỡng cái thân ta thì cho dù nói tu cho đến muôn triệu a tăng kỳ kiếp đi nữa thì nghiệp báo luân hồi vẫn còn đầy. Cuối cùng không sát sanh là tránh được nhân quả báo ứng và oán thù. Khi ta giết một người hay một vật thì trước khi chết, sự oán hận của họ tràn đầy, khó lòng dập tắt được. Họ sẽ ôm mối hận thù nầy và chờ gặp dịp là báo thù, hoặc con cháu thân thích họ sẽ báo thù. Như vậy càng tạo nghiệp sát, càng lao mình vào đau khổ và sẽ mãi xoay vần trong luân hồi sanh tử không có ngày ra khỏi.

Giới thứ nhì trong ngũ giới là không trộm cắp. Của cải tài sản của ta, ta không muốn ai động đến; thì của cải và tài sản của người, ta cũng không được giựt lấy hay lén lấy. Trộm cướp có nhiều hình thức: ỷ mạnh giựt ngang của người là ăn cướp; cậy quyền ỷ thế làm tiền kẻ yếu, bắt chẹt người trong lúc túng thiếu để cho vay lãi nặng, cầm bán với giá rẻ mạt, tích trử đầu cơ để bán giá chợ đen đều là ăn cướp. Dùng mưu mẹo rình rập lấy của người, chín phân mà nói một chỉ, cân non, đong thiếu, trốn xâu, lậu thuế, được của người mà không tìm cách trả lại đều là ăn trộm. Phật đã dạy rằng chúng ta không ai có quyền hư·ng những đặc ân bất chánh lấy trộm hoặc cướp từ kẻ khác vì như vậy là không công bằng. Hơn nữa, trộm cướp là chỉ nghĩ đến lợi của mình, quên nỗi đau khổ của người. Người đời thường nói: "Tiền tài là huyết mạch." Như vậy cướp đoạt của người, tức là cướp đoạt xương máu của người, có khác chi là sát sanh đâu. Cuối cùng, cho dù kẻ trộm cướp có thoát được lưới pháp luật, họ vẫn bị tòa án nhơn quả nghiệp báo hành hạ họ. Trộm cướp của người sẽ bị người trộm cướp lại và cứ lẩn quẩn thù hằn không dứt. Chúng ta hãy ngẫm nghĩ bài kệ dưới đây của vua Trần Thái Tông:

Tạc bích xuyên tường bất ý hưu,

Thiên ban bách kế, khổ vinh cầu;

Kim sanh câu đắc tha nhơn vật,

Bất giác chung thiên thọ mã ngưu.

Khoét vách đào tường chí những đâu, ngàn mưu trăm kế luống tham cầu, của người cho dẫu đời nay được, đời khác luôn luôn kiếp ngựa trâu. Xin hãy đừng gian tham của người để ít nhất đời sau được hưởng phước báo giàu sang, con cháu nhiều đời cũng nhờ âm chất mà được vinh hiển. Xin hãy đừng gian tham để mọi người đều được sự an ổn.

Giới thứ ba trong ngũ giới là không tà dâm. Tà dâm tức là sự dâm dục, phi lễ, phi phép. Ta không muốn ai làm chuyện tà bậy với vợ chồng mình, thì mình cũng tuyệt đối không phạm đến sự trinh bạch của kẻ khác. Tà dâm là hành động làm khổ đau cho gia đình người và gia đình mình. Do một chút ham muốn tà bậy của mình, khiến nhiều người đau khổ liên lụy, quả là thiếu lòng nhơn. Xin hãy không tà dâm để hạnh phúc của mọi người không bị ai xâm phạm. Xin hãy không tà dâm để gia đình được yên vui, xã hội không thù hiềm giết chém lẫn nhau. Tóm lại, nếu mọi người đều không tà dâm thì cõi ta bà ô trược, đau khổ nầy sẽ biến thành thế giới thanh tịnh an vui.

Giới thứ tư trong ngũ giới là không được nói dối. Nói dối là nói những gì sai trái với sự thật để mưu cầu lợi mình, hoặc hại người. Sửa trái làm mặt, đổi phải thành quấy, khiến người mang họa, ấy là nói dối. Điều nghe nói không nghe, điều không nghe nói nghe; trước mặt khen, sau lưng chê, hoặc giả lúc ưa thì dịu ngọt, lúc chán thì đanh đá đều là nói dối. Có ít nói ra nhiều, khiến cho người nghe nỗi sân; nói trau chuốt để lấy lòng người... là nói thêu dệt. Tóm lại, những lời nói không đúng nghĩa chân thật, thêm bớt, bóng bẩy làm cho người nghe phải loạn tâm, phiền não, đều gọi là nói thêu dệt. Đến chỗ nầy thì nói hùa theo bên nầy còn đến chỗ kia thì nó hùa theo bên kia để cho họ kình chống nhau, ấy là nói lưỡi hai chiều độc ác. Cuối cùng, lời nói thô tục, cộc cằn, sỉ vã làm cho người nghe buồn rầu đau khổ và sợ hãi, ấy là lời nói hung ác. Xin hãy tôn trọng sự thật để ít nhất tìm được sự an lạc cho mình vì tôn trọng sự thật không gây ra thù oán. Tôn trọng sự thật còn nuôi dưỡng lòng từ bi nơi ta và còn làm cho mọi người tin tư·ng lẫn nhau. Dù ta biết rằng nói dối là một tai hại cho mình và cho người, có lúc trong vài trường hợp chúng ta phải vì lòng từ bi mà nói dối để cứu người hay vật, thì chúng ta cũng phải làm.

Giới cuối cùng trong ngũ giới là không uống rượu. Đạo Phật chủ trương giác ngộ, muốn được giác ngộ trước hết phải điềm đạm tỉnh sáng. Khi uống rượu vào thì ruột gan nóng bức, tâm trí quay cuồng, mất hết bình tỉnh không còn sáng suốt, thì làm sao mà giác ngộ cho được. Uống rượu chẳng những làm mất hết trí khôn mà còn gây bịnh hoạn cho thân thể và di hại cho con cái về sau nầy nữa. Dưới đây là một thí dụ điển hình về sự độc hại của rượu: Một anh tiều phu nghèo, ngày ngày vào rừng đốn củi đổi gạo nuôi cha mẹ. Một hôm có một hung thần hiện đến đòi giết anh ta. Anh ta kinh sợ, khóc lóc xin tha mạng. Hung thần đồng ý tha mạng anh ta nếu anh ta chịu một trong ba điều kiện sau: hoặc là giết cha, hoặc đánh mẹ, hoặc uống lít rượu để trên bàn nhà anh ta. Sau một lúc suy nghĩ, anh xin được uống hết lít rượu.

Ác thần nghe xong, có vẻ hài lòng rồi biến mất.

Trưa hôm ấy, anh tiều phu về nhà, thấy chai rượu mà cha anh mua để đãi khách, anh ta vội vàng chụp lấy mà nốc cạn. Cha anh thấy đứa con hỗn láo, bèn lấy gậy nện cho anh một trận. Ma men vừa thấm, anh ta không còn biết phải trái, giựt gậy đánh lại cha một cái chết tốt. Bà mẹ thấy vậy chạy đến vừa ôm con vừa la làng. Anh ta chưa hả cơn giận, đánh mẹ túi bụi. Làng xóm chạy lại bắt anh đem giam vì tội giết cha, đánh mẹ. Tỉnh lại, anh mới biết uống rượu là tội nặng nhứt trong ba điều mà lão ác thần đã bắt anh làm.

Tóm lại, rượu làm tán gia bại sản, sự nghiệp chẳng thành, thân thể bịnh hoạn, tâm trí tán loạn, sân hận, ưa cãi lẫy, trí huệ kém dần, khổ não, phước đức tiêu mòn, tăng trưởng lòng giết hại và cuối cùng lúc chết phải đọa vào địa ngục.

Là Phật tử phải giữ gìn năm giới để tạo sự an lành cho bản thân. Không sát sanh, bản thân ta không bị người giết, hoặc tù tội vì giết người, cũng không có thù hận về nợ máu với nhau. Không trộm cướp, bản thân ta không mắc tù tội, đi đâu ở đâu cũng không sợ bị người theo dõi, thân tâm an lạc. Không tà dâm, bản thân không lao tổn. Cuộc sống gia đình và xã hội đều hạnh phúc, mọi người đều tin tưởng lẫn nhau và nhìn nhau bằng nụ cười. Không nói dối, bản thân ta không gây thù kết oán vì ta không nói hại ai. Không uống rượu, thân tâm ta luôn được an ổn và trật tự xã hội luôn được duy trì.

Tóm lại, nếu ta giữ được năm giới thì gia đình hạnh phúc, trên thuận dưới hòa. Nếu mọi người đều giữ năm giới thì xã hội sẽ chan hòa thương cảm và an lạc. Loài người đừng vì tham lam, mà chém giết nhau, đừng vì lợi lạc riêng tư mà nói dối, đừng vì một chút dục lạc mà tà dâm hoặc rượu chè be bét thì cõi Ta Bà nầy sẽ tự nhiên biến thành Tịnh Độ vậy.



104. THẾ NÀO LÀ BỐ THÍ?

Bố thí là ban phát những gì mà ta nghĩ là có lợi cho kẻ khác. Bố thí không nhứt thiết phải cho tiền tài vật chất, mang đến cho người khác sự an lành cũng là bố thí. Bố là rộng, thí là ban cho. Bố thí là ban cho một cách rộng rãi. Thói thường chúng ta hay thí mà không có bố, có nghĩa là chúng ta cho mà không cho rộng. Chúng ta cho mà vẫn còn giữ lại ở trong lòng nhiều thứ. Chính những cái mà chúng ta ôm lại trong lòng ấy làm cho chúng ta khốn khổ trong cuộc sống. Chúng ta hãy thử tìm hiểu tại sao chúng ta không dám cho hết, tại sao cho mà vẫn còn ôm lại? Tại vì lòng tham trong ta nó còn mạnh quá. Muốn đạt được phần nào lời Phật dạy hãy tập sống trong tinh thần "Từ bi hỉ xả" của nhà Phật. Hãy xả bỏ, đừng ôm chặt lấy những gì ta có. Tất cả rồi sẽ thay đổi, tất cả rồi sẽ biến mất. Nếu chúng ta ôm chặt, một khi chúng thay đổi hoặc biến mất thì chúng ta sẽ đau khổ.

Ngoài ra, bố thí còn là một pháp tu thuộc hạnh Bồ Tát trong lục độ: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ. Bố thí là đem pháp lành hay đồ vật ban cho kẻ khác để trừ được lòng tham. Một khi lòng tham đã dứt thì tánh tốt mới có cơ thể hiện. Bố thí trong đạo Phật có hai khía cạnh: cho pháp và đồ vật. Bố thí thể hiện dưới nhiều hình thức: bố thí vật chất như tiền bạc, thuốc men, cơm áo cho người nghèo khó; hoặc bố thí tinh thần như dùng lời lẽ êm nhẹ để khuyên răn người khác tu theo pháp lành để giúp họ được giải thoát sự khổ đau. Thói thường chúng ta hay cho những gì mà chúng ta thích, chứ ít khi nào chúng ta chịu khó tìm hiểu xem người khác thích cái gì. Cho như vậy chưa chắc là ta đã mang lại niềm vui cho người mà thậm chí còn làm cho người khổ nữa là khác. Cái quan trọng không phải là vật cho, mà cái quan trọng là tâm hồn của cả người cho lẫn người nhận.

Về pháp thí, giảng kinh và in kinh không nhứt thiết là pháp thí. Pháp thí là mang lại niềm vui cho người khác. Tuy nhiên, trước khi mang đến niềm vui cho người, chúng ta hãy nghỉ đến việc mang lại niềm vui cho mình và gia đình mình trước đã, vì có như vậy thì khi mang đến niềm vui cho người khác mới là chân tình. Bố thí thực sự là không mong kẻ nhận đền ơn trả nghĩa mà phải tự nghĩ rằng đó là bổn phận phải làm.

Cuối cùng là vô uý thí tức là ban cho người cái không sợ hãi. Pháp thí này thoạt nghe thì tưởng như là không quan trọng. Nhưng suy đi nghĩ lại thì vô úy thí thật là thâm thúy. Hãy nghĩ lại mà xem, có phải trong cuộc đời chúng ta, cái sợ đã chiếm quá nửa cuộc đời rồi còn gì. Khi nhỏ thì sợ bị la rầy; lớn lên thì sợ thiếu ăn thiếu mặc; đến già thì sợ bịnh hoạn, sợ chết. Chỉ toàn là sợ. Đó là chưa kể thời buổi tham quan ô lại làm cho sưu cao thuế nặng, dân tình đói khổ. Đời sống đã khổ, lại càng khổ thêm vì sợ. Chính vì vậy mà làm cho người hết sợ tức là đã góp phần vào sự thanh tịnh của họ. Một người thanh tịnh ta có thể có một gia đình thanh tịnh; nhiều người thanh tịnh sẽ có nhiều gia đình thanh tịnh. Như vậy chính vô úy thí đã góp phần không nhỏ trong việc đưa ta đến bờ giác ngộ.



105. PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG

Phật giáo không phải là một tôn giáo căn cứ trên tín ngưỡng mù quáng. Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng vững chắc trên giới, định, tuệ. Phật giáo ngày càng được thế giới kính nể vì Phật giáo tôn trọng tối đa quyền tự do suy luận của mọi người nhằm đạt được kiến thức sâu rộng hơn và cùng lúc phủ nhận đức tin mù quáng.

Rất nhiều người, trong đó có Phật tử, hiểu lầm rằng đi chùa lễ phật, dâng cúng hoa quả dưới chân đấng Từ Phụ, thắp vài nén nhang hay đốt hương trầm là tất cả những gì bao hàm trong Phật giáo. Có thể họ yên trí vững lòng rằng như thế là đã làm tròn phận sự của người Phật tử. Thậm chí còn có người lấy lý do bận việc này việc nọ mà không tu được nên nhờ quý thầy tu dùm. Những người này có biết đâu rằng họ đang là đệ tử của đạo Phật chết.

Trên thực tế, đạo Phật không phải như vậy. Đúng theo lời dạy của Đức Bổn Sư, khi Ngài ban truyền giáo pháp cao thượng, Ngài chỉ muốn nhìn thấy một xã hội thật sự bình đẳng, văn minh và có nền văn hóa cao đẹp, một xã hội thanh bình an lạc của những người luôn luôn sáng suốt, nỗ lực thành đạt Niết Bàn và chấm dứt mọi hình thức đau khổ ở trần gian.

Đức Phật không cho rằng những hình thức có tính cách tín ngưỡng như dâng hoa, thắp hương là không tốt. Tuy nhiên, đúng theo lời dạy của Ngài, ta không nên mãn nguyện với những việc tầm thường như vậy, cũng không nên tưởng tượng rằng bấy nhiêu đó đủ là cho ta xứng đáng được gọi là Phật tử. Đức Từ Phụ, dù không nói ra nhưng chúng ta cũng dư biết Ngài lúc nào cũng muốn những đứa con thân yêu của Ngài hãy nhìn Ngài, nhìn thẳng vào mắt Ngài, nhìn để thấy lòng từ bi vô lượng của Ngài để mà bắt chước sống như Ngài và được giải thoát như Ngài.

Không may, vài người trong Phật tử chúng ta đã vô tình hay cố ý lãng quên những nguyên tắc căn bản của di sản tinh thần vĩ đại mà chúng đang thừa hưởng . Nên nhớ rằng Đức Thế Tôn không bao giờ muốn chúng ta rơi vào con đường mù quáng với những nghi thức lễ bái cứng nhắc, mà Ngài chỉ muốn chúng ta hãy nhìn Ngài và bắt chước như Ngài. Chúng ta hãy nhìn Ngài với tất cả sự tôn kính dành cho một tôn sư đã vạch ra và soi sáng con đường dẫn chúng ta đến bến bờ giải thoát, hoặc ít nhất dẫn chúng ta đến một cuộc sống toàn thiện và gương mẫu.



106. QUAN NIỆM VỀ PHẬT TÁNH TRONG ĐẠO PHẬT

Đức Phật không cất giữ những bí quyết thành Phật cho riêng Ngài, mà trái lại Ngài đem truyền bá những kiến thức uyên thâm mà Ngài có được cho mọi người. Ngài luôn khẳng định cho chúng ta biết rằng bên trong mỗi người chúng ta đều có Phật tánh. Tuy nhiên, nếu chúng ta không vun quén đắp bồi cái Phật tánh ấy thì dạ xoa tánh sẽ lấn lướt Phật tánh và cơ hội thành Phật của chúng ta chỉ là chuyện hão huyền. Ai có thể trao dồi Phật tánh cho ta? Có phải quý thầy hay không? Xin thưa không, quý thầy cũng chỉ là những bậc chơn tu nối gót Đức Thế Tôn, soi đường dẫn lối cho chúng ta mà thôi. Có thầy nào mà hứa hẹn sẽ đem bất cứ ai trong chúng ta lên giải thoát, nếu ta là tín đồ của thầy ấy thì quả thật là giả dối. Hoặc giả có ai bảo hãy xưng tụng danh hiệu ta đi (chẳng hạn như niệm Nam Mô Thích Hám Danh Sư), thì các ngươi sẽ lập tức được ngộ, ấy là láo, ấy là hoang đường, bởi vì chính đức Từ Phụ đã cả quyết không ai có thể đem người khác lên Niết Bàn hay đọa họ xuống địa ngục được, ngay cả Đức Phật cũng không làm được chuyện đó. Chỉ có chính chúng ta mới quyết định được việc lên thiên đàng hay xuống địa ngục. Chính chúng ta tạo cho chúng ta những nghiệp thiện hay nghiệp ác. Người khác chỉ có thể giúp bằng cách hướng dẫn, chỉ cho chúng ta biết con đường nào nên đi và con đường nào nên tránh. Bởi thế, bất luận ai, nếu gia công chuyên cần tiến tu đều có thể thành Phật bởi vì Đạo Quả Phật không phải là độc quyền của một người hay một chúng sanh nào. Bạn có thể thành Phật. Tôi cũng có thể thành Phật. Chư Phật vẫn luôn luôn khuyến khích những ai có tâm nguyện trở thành Phật, hãy cố gắng tu tập để trở thành Phật như các Ngài.

Phật tánh là một chủng tử - Chủng tử Phật. Muốn cho chủng tử Phật nở thành cội cây to lớn vững mạnh, cành lá sum sê và trổ sanh Phật Quả. Cũng như bất cứ giống cây nào khác, nó cần Phải được thận trọng chăm sóc, bón phân tưới nước hằng ngày với những công đức, những thiện nghiệp cần phải tạo trong kiếp sống hiện tiền và những kiếp vị lai. Rồi sẽ có một ngày trong tương lai, ta sẽ vẽ vang thành công. Tuy nhiên, không phải dễ thành Phật. Không phải chủng tử Phật nào cũng có thể thành Quả Phật được. Vì lẽ con người mãi sống trong đêm tối của vô minh, không hiểu biết điều phải lẽ quấy, không phân biệt chánh tà. Họ vùng vẫy, chiến đấu trong vũng bùn lầy tội lỗi của trần gian. Họ nghĩ rằng một vài khoảnh khắc phù du mà họ có thể thọ hưởng dục lạc trong đời là thường còn, mặc dầu thật sự nó là vô thường, là tạm bợ, vì sự không ngừng biến chuyển của vũ trụ.

Muốn phát triển chủng tử Phật, con đường duy nhất là phải xé tan đi bức màn vô minh mê muội ấy. Phải nhận thức rằng con người đang đắm chìm trong những thú vui ngắn ngủi, tự mình vướng víu, càng ngày càng quấn quít, lún sâu trong những mù quáng ấy.

Con đường do Đức Phật vạch ra và soi sáng quả thật là toàn thiện; tuy nhiên, không thể chỉ một vài bước mà ta có thể từ đồng bằng mà vọt lên tận đỉnh núi cao, mà phải nhiều bước và cũng phải vượt qua những khó khăn trở ngại trong từng bước. Cũng thế ấy, muốn thành tựu Đạo Quả Niết Bàn chúng ta phải gia công trì chí bước bừng bước một, hết bước này đến bước khác, cho đến khi thâu đạt được mục tiêu cứu cánh.



107. VÔ NGÃ TRONG ĐẠO PHẬT

Vô là không, ngã là ta. Vô ngã là không có ta. Chúng ta đều có cái tâm thường trụ bất biến và bao trùm vũ trụ. Cái tâm ấy đồng với bản thể của vũ trụ, nên có tánh Bất nhị. Đó là cái Tâm đại bình đẳng của nhà Phật, còn gọi Tâm Bát Nhã hay Phật tánh. Ta không phải ta. Tuy nhiên, thói thường chúng ta hay chấp ngã, chấp có cái "ta." Tại sao vậy? Vì tưởng lầm là ta khác với người, vì bị vô minh che lấp, vì phân chia nội ngoại. Chính cái tâm "chấp ngã" nầy đã tạo ra sự mê loạn và thế nhân mới bị đau khổ luân hồi bất tận.

Vô ngã là gì? Những cái mà chúng ta thường gọi là nhà của ta, vợ của ta, con của ta, tên của ta... Nhà Phật cho là giả tưởng, là không có thật. Chính nó là nguồn gốc của các thứ mê lầm, đau khổ. Cho nên diệt khổ là diệt cái nhận thức mê lầm ấy.

Hãy nhìn ta lúc hai tuổi xem có giống lúc năm tuổi không? Rồi hãy nhìn ta lúc năm tuổi xem có giống lúc mười tuổi chăng? Rồi lúc ta mười tuổi sẽ hoàn toàn khác lúc ta hai mươi tuổi. Bấy nhiêu đó cũng đủ cho ta thấy sự vô thường của chính ta. Khi biết rõ điều nầy ta sẽ không thất vọng hoặc xúc động trước những thay đổi ấy. Ngược lại nếu chúng ta cố cô đọng và không chấp nhận những thay đổi ấy thì chúng ta sẽ khổ và sẽ thất vọng. Cái trục trặc của chúng ta là cố phủ nhận những cái thay đổi vô thường.

Chúng ta không tự làm chủ mình mà chỉ toàn là bị ngoại cảnh bên ngoài lôi kéo. Chỉ cần một lời khen có thể làm cho chúng ta an lành, một tiếng chê có thể làm cho chúng ta tư·ng rằng đời là một chuổi dài đau khổ,

Tại sao chúng ta sợ người mà không sợ chính chúng ta? Tại vì thường thì chúng ta quá quen với chính chúng ta, quá dễ dàng với chính chúng ta. Hãy tập sợ lấy chính mình, có như vậy ta mới có thể chấp nhận cái xấu, biết để chuyển cái xấu thành cái tốt.

Tóm lại, khi ta thấy cái "Ta" mà ta đang mê đang chấp ấy là không có thực, khi ta nhận thức được rõ ràng cái "vô ngã" là ta đang tỉnh ngộ và đang đi đến Chân Tánh hay giải thoát.

108. SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA VÔ THƯỜNG, KHẾ LÝ VÀ KHẾ CƠ TRONG CUỘC SỐNG HÀNG NGÀY.

Người Phật tử nên biết về tam pháp ấn, vô thường, khổ và vô ngã. Vô thường là gì? Vô thường là sự đổi thay của mọi sự vật trong từng sát na. Cái chân lý vô thường là một thứ chân lý hiển nhiên hằng ngày, hằng giờ, hằng phút... xảy ra trước mắt ta. Tất cả mọi sự vật trên đời đều lưu chuyển chứ không bất di bất dịch. Không có gì là thường trụ bất biến cả. Không phải sinh mạng ta đợi đến lúc chấm dứt mới gọi là chết, mà kỳ thật, trong từng sát na, từng giây, từng phút, ta đã từng sống và cũng đã từng chết. Phải chăng sống cũng là đang chết. Sự sống chết liên tục bất tận trong chu kỳ của một vòng tròn.

Thật vậy, đã có sinh phải có tử, có thành thì có hoại, bất cứ một hiện tượng nào trên cõi đời nầy đều phải trải qua "sanh, trụ, hoại, diệt" hay là "Thành, trụ, hoại và không." Lúc nào cũng phải nảy sinh ra, rồi phát triển, rồi biến đổi và cuối cùng là tan biến. Đó chính là luật vô thường. Tuy nhiên, trong thuyết nhà Phật, "chết để mà sống; sống để mà chết" có nghĩa là cái chết không có nghĩa là chấm dứt. Chết chỉ là các tế bào trong thân thể bị hoại đi để mà đổi mới. Thật ra, ta có vô lượng thân chứ đâu chỉ một; vô lượng thân nối tiếp nhau không chỗ hở. Thân trước làm nhân cho thân sau, thân sau là quả của thân trước và cũng là nhân của thân sau nữa, và cứ liên miên bất tận như thế.

Hãy chấp nhận và dùng cái khái niệm vô thường ấy để tu trong cuộc sống ta, để làm cho cuộc sống của ta bớt đau khổ, để có những nhân tốt và những quả lành cho những cái thân nối tiếp của ta.

Đời là vui hay khổ? Muốn vui thì có vui, muốn khổ thì đầy dẫy khổ đau. Cái vui thoáng qua rồi hết, cái khổ rồi cũng qua đi. Tất cả những gì khởi niệm trong ta đều đến rồi đi. Người ta sở dĩ đau khổ, là vì đã nhận thức sai lầm rằng: sự thật luôn luôn thường trụ bất biến và cái sống của ta sẽ không bao giờ hết. Bởi vậy, chúng ta mới bám víu vào những ảo giác, mong kéo dài những thỏa mãn của dục vọng. Hoặc thậm chí cho rằng chết là hết, nên tìm đủ mọi cách để tận hưởng cuộc đời đầy truy hoan, sa đọa và tạo mãi luân hồi nghiệp báo để rồi đời đời bị trầm luân trong bể khổ. Làm như vậy, chẳng những ta tạo khổ cho chính thân ta mà còn gây ra bực bội và đau khổ cho những người quanh ta nữa.

Khi chúng ta nhìn thấy được cái vô thường thì những cái mong cầu của ta cũng đổi thay và từ đó sự đau khổ cũng vơi đi. Hãy vui với cái gì ta có cho dù chúng chỉ là tương đối. Lúc nào ta cũng nên nhớ rằng vô thường vẫn luôn hiện diện, cả vui lẫn khổ rồi cũng sẽ qua đi. Hãy chuyển những niềm vui ấy vào cuộc sống thực của ta và hãy chuyển những đau khổ thành những kinh nghiệm sống. Chấp nhận cái khổ đau để biến chúng thành trung tính rồi từ trung tính biến thành niềm vui.

Hãy nhìn cái vô thường trong cuộc sống vợ chồng. Cái đầm thắm của hôm nay vẫn là cái đầm thắm của ngày mai nhưng hình thái có khác nhau. Khi ta biết và ý thức được luật vô thường thì tương quan của chúng ta sẽ thích ứng với những đổi thay. Nhưng thích ứng theo mức độ nào? Thích ứng không có nghĩa là tự làm tê liệt tâm hồn ta. Thí dụ như hai người lúc mới thương nhau, có thể ta dẹp qua một bên tất cả để chìu chuộng lẫn nhau, như vậy không phải là thích ứng, mà là trốn chạy chính ta để đón bắt cái khác. Thích ứng là biết rõ ràng cái điều mà ta sẽ hội nhập vào, chứ không có nghĩa là mù quáng hội nhập.

Hãy biết khế cơ, nghĩa là tùy căn cơ hoàn cảnh mà thay đổi cho thích ứng. Có như thế ta mới biết là ta đang đứng ở đâu, có như thế ta mới tránh được những đổ vỡ. Biết được tùy căn cơ hoàn cảnh mà thay đổi cho thích ứng là tu đấy.

Ngoài ra, chúng ta phải biết khế lý trong cuộc sống đạo. Như vậy khế lý là gì? Ta phải biết tu để làm gì và phải biết nói lên cái tâm tư sâu kín trong ta, hãy cố gắng hiểu mình. Mà chỉ có tu ta mới hiểu được ta. Đức Phật Thích Ca lúc ngồi dưới Bồ Đề đạo tràng, Ngài đã hiểu được ai? Ngài đã hiểu được con người trọn vẹn của Ngài và sau đó Ngài đã giác ngộ.



109. Ý NGHĨA CỦA TIẾNG CHUÔNG

Tiếng chuông ngoài việc đánh lên để làm lấn át mọi sự xen tạp ngoài đời vào tâm trí người đọc kinh trong giờ phút yên tỉnh trang nghiêm trước bàn thờ Phật. Chuông còn làm cho ta tỉnh thức và không mê muội:

Văn chung thinh

Phiền não khinh

Trí huệ trưởng

Bồ Đề sinh

Nguyện thành Phật

Độ chúng sinh

Khi nghe tiếng chuông, chúng ta hãy để cho những phiền não trôi qua đi và thay vào bằng sự tỉnh lặng. Từ đó trí huệ được tăng trưởng và Bồ Đề Tâm phát sinh để đưa chúng ta đến chỗ giải thoát và cứu độ chúng sanh. Tiếng chuông giúp ta lắng lòng để cho những phiền não trôi qua đi và nhường bước cho sự tăng trưởng của trí huệ, Bồ Đề Tâm, thành Phật và cứu độ chúng sanh.

Như thế ta thấy tu Phật là ứng dụng tất cả mọi thứ, ngay cả tiếng chuông, vào cuộc sống hàng ngày của mình. Gỡ sạch mọi phiền não kiến chấp đang trói buộc tâm tư chúng ta, đem lại sự an lạc ngay trong hiện tại và mãi mãi.

110. QUY Y TAM BẢO

Tam Bảo là ba ngôi báu mà chúng ta không thể nào tìm ra trong đời sống vật chất, song chỉ có thể tìm thấy được trong nhà Phật mà thôi. Ấy là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Tại sao lại gọi là Tam Bảo? Gọi là Tam Bảo vì cả ba đều rất hiếm thấy trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Người Phật tử tại gia, một khi đã quy y Tam Bảo tức là đã quyết chí tu học để lánh dữ làm lành. Quy y Tam Bảo là đặt mình trên một con đường đi đến tận cùng.

Tại sao gọi là Phật bảo?

Phật là chỉ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, do trước kia Ngài đã tu hành giác ngộ thành Phật. Ngài đã thoát khỏi sinh tử luân hồi, đem chỗ giác ngộ ấy dạy lại cho chúng sanh cùng thoát ra khỏi sanh tử. Đó là điều cao cả nên gọi là bảo. Từ một kẻ phàm phu như chúng ta tu hành cho thành Phật thật là chuyện ít có. Thế nên trong kinh thường nói chuyện Phật ra đời khó gặp, giống như loài hoa Ưu Đàm một ngàn năm mới trổ một lần. Bởi ít có, khó gặp nên mới gọi là bảo.

Thế nào là Pháp bảo?

Pháp của Phật dạy là chơn lý, dù trải qua thời gian bao lâu chơn lý ấy vẫn rạng ngời như hòn ngọc báu. Những kẻ đang lạc lối trong đem đen, bất thần gặp được ngọn đuốc, vui mừng quí trọng thế nào, người học đạo gặp được chánh pháp cũng như thế. Pháp trong đạo Phật là tất cả những gì giúp ta tu, không hạn hẹp ở đâu. Tại sao gọi là tám vạn bốn ngàn pháp môn? Tất cả sự việc ở trên đời nầy đều có công dụng như pháp giúp ta tu. Giả sử như khi ta nghe tiếng chuông mà lòng ta tỉnh lặng; tiếng chuông ấy là pháp. Thấy được cái bất tịnh của thân ta qua việc tiểu tiện giúp ta tu được, ấy là pháp. Mới lúc còn trong ta thì xinh thì đẹp, mà liền theo đó đã hôi đã thúi, chính chúng ta cũng không dám nhìn. Nhìn một bà lão, ta thấy cái già, cái bịnh và cái khổ, ấy là pháp nó dạy ta cái cái vô thường, cái biến chuyển không ngừng.

Thế nào gọi là Tăng bảo?

Tăng là cộng đồng tu học, là một nhóm tu sĩ học theo Phật. Sống chung nhau đúng theo tinh thần lục hoà. Ấy là bảo vì là việc hiếm có trên thế gian. Thói thường người ta sống đua đòi giành giật hơn thua với nhau, chứ ít khi thế gian chịu sống hoà thuận với nhau. Lục hòa là: thân hòa chung ở, miệng hòa không tranh cãi, ý hòa đồng vui, giới luật cùng giữ, hiểu biết cũng san xẻ, lợi hoà cùng chia đồng. Sáu điều nầy là tinh thần của Tăng. Nếu khoát áo nhà tu mà không có lục hòa thì không gọi là Tăng. Lục hòa thật là một điều qúy báo ở thế gian vậy. Vả lại, trên sự tu hành, các thầy tự mình đã vơi cạn phiền não, còn dạy bảo kẻ khác dẹp bỏ phiền não. Chính những vị ấy đã được phần nào an ổn thanh tịnh, Bởi lẽ ấy gọi các ngài là Tăng Bảo. Tuy nhiên, phải "Tương tức tương nhập" nghĩa là Phật tử tu thì qúy thầy cũng tu, còn ngược lại nếu Phật tử không tu thì thầy cũng không tu.

Tóm lại, quy y Tam Bảo là trở về nương tựa với Phật, Pháp và Tăng. Nương tựa để chi? Để ngưng không chạy theo dục lạc và tiếp tục tạo nghiệp đau khổ nữa. Tam Bảo là chỗ cứu cánh để cho chúng ta được an lạc. Đây là sự hồi tâm tỉnh giác phát nguyện trở về của chúng ta. Nó là bước đầu cho công cuộc tìm đến giác ngộ, chẳng những cho mình mà còn có thể cho gia đình mình và chúng sanh nữa.



111. PHẬT TỬ TẠI GIA

Người Phật tử tại gia, thiện nam tử hay thiện nữ nhơn, là những người đã quy y Tam Bảo và thọ năm giới cấm. Người Phật tử tại gia luôn ý thức rằng kiếp sống làm người là quan trọng cho việc tiến tu vì có thân nầy ta mới có cơ hội tu và luôn nhớ rằng sanh ra làm người đã là khó, mà gặp được Phật pháp lại càng khó. Vậy thì khi nghe thấy được Phật pháp nhiệm mầu xin hãy thọ trì để thấy được chơn nghĩa của các Đức Như Lai: "Phật pháp cao siêu rất nhiệm mầu; Trăm ngàn ức kiếp dễ tìm đâu; Con nay nghe thấy cùng thọ trì; Nguyện hiểu Như Lai nghĩa thiệt sâu."

Người Phật tử tại gia cũng hiểu rằng kiếp sống hiện tiền là kết quả của nghiệp lành mà họ đã tạo ra trong quá khứ và những hành động hiện tại sẽ mang lại hậu quả tương xứng trong kiếp vị lai: "Do nghiệp thế gian vận chuyển; do nghiệp con người bị ràng buộc vào vòng luân hồi."

Do đấy, một khi đã vững lòng tin và tự đặt mình dưới sự che chở của Tam Bảo, người Phật tử tại gia tìm đến, về nương và quy y Tam Bảo. Đức Thế Tôn là sự hướng dẫn lý tưởng. Giáo pháp là chiếc bè giúp ta vượt đại dương đau khổ của vòng luân hồi. Tăng già là ruộng phước để ta gieo trồng công đức. Khi có niềm tin như vậy, người Phật tử tại gia sẽ có cuộc sống thanh tịnh và chân chính hơn.

Người Phật tử tại gia luôn thận trọng tránh xa những nghiệp bất thiện của thân, khẩu và ý. Họ tránh xa sát sanh, trộm cắp và tà dâm. Họ rất cẩn trọng trong lời nói: không nói giả dối, không nói lời đâm thọc làm cho đầu nầy bất hòa với đầu kia, không nói lời thô lỗ cộc cằn và không nói lời nhảm nhí vô ích. Người Phật tử tại gia luôn nhớ rằng quả báo của những hành động bất thiện chắc chắn sẽ đem lại đau khổ cho chính họ.

Người Phật tử tại gia biết rằng nếu sát sanh họ phải chịu hậu quả yểu mạng, bệnh hoạn và chịu cảnh chia ly với người thân. Nên người Phật tử tại gia luôn tâm niệm là sẽ cố tránh cố ý sát sanh. Người Phật tử tại gia hiểu rằng hậu quả của trộm cắp sẽ là sự thiếu thốn, nghèo khổ. Họ không tà dâm, vì làm như vậy họ sẽ có nhiều người thù nghịch. Họ không nói dối vì hậu quả của sự nói dối là sẽ không ai tín nhiệm họ nữa. Họ không tham lam những gì thuộc về người khác vì như vậy sẽ đưa họ đến chỗ "dục bất đạt sinh não" nghĩa là tham muốn mà không được rồi sanh phiền não. Họ cũng không nuôi dưỡng hận thù vì lòng hận thù sẽ biến họ thành nham hiểm và dễ ghét. Họ sẽ cố dứt bỏ tà kiến, vì tà kiến là đầu dây mối nhợ của những cuộc xung đột.

Người Phật tử có tâm đạo nhiệt thành sẽ luôn thực hành thiện nghiệp: bố thí, trì giới, tham thiền, kính trọng bậc khả kính, công đức phục vụ và hồi hướng phước báo. Họ cũng tinh tấn nghe những lời thuyết giảng Phật pháp và luôn luôn cũng cố chánh kiến để đem lại hạnh phúc hiện tại và giải thoát trong tương lai.

Người Phật tử tại gia nên nhìn thấy rằng đời là vô thường, khổ, và vô ngã. Họ luôn cố gắng quán xét rằng thế gian nầy biến đổi không ngừng nghỉ và chúng ta chỉ kiểm soát được rất ít những việc xãy ra; hoặc giả không kiểm soát được gì cả.

Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của con người, người Phật tử luôn ban rải cái tâm từ bi đến tất cả chúng sanh. Họ tránh xa những tham ái, sân hận, si mê và cố gắng hành trì những khoan hồng đại độ, từ bi, vô úy. Nói như thế không có nghĩa là họ phải tránh xa những công việc ngoài đời vì nếu ai cũng tránh xa đời thì đâu có đời để mà có đạo. Đức Thế Tôn đã từng dạy rằng những ưu bà tắc (Phật tử tại gia nam) và ưu bà di (Phật tử tại gia nữ) phải cố gắng chăm sóc mùa màng, tăng gia sản nghiệp, sanh sản con cái. Tuy nhiên, họ phải luôn chân chánh và không được làm di hại đến ai.

Giáo lý của Đức Thế Tôn dạy ta phải hiếu với cha mẹ, thảo với anh chị em và đối xử tốt với bạn bè thân thuộc và mọi người. Học trò phải tôn kính thầy, chồng vợ phải tôn kính lẫn nhau để tạo hạnh phúc gia đình.

Cuối cùng người Phật tử tại gia phải luôn nhớ tinh thần lục hòa của nhà Phật: cùng nhắc nhở nhau tu, cùng nhắc nhau gìn giữ giới luật, luôn ôn nhu hòa nhã với nhau, cùng biện giải trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau và chia xẻ quan niệm và sự hiểu biết cho nhau, cùng nhau kết hợp mọi dị biệt để tạo nên sự hoà hợp, và cuối cùng nếu là xuất gia thì nên chia đều vật chất của cải, còn tại gia thì nên luôn hành trì bố thí.

112. QUÁN

Quán chẳng những là một trong những phương pháp chận đứng vọng tâm, mà quán còn làm tăng sức khoẻ của ta trong đời sống hàng ngày. Muốn cho sự nhận định được sáng suốt, muốn cho lòng ta đừng đuổi theo ngũ dục mà vướng phải phiền não đau khổ, cách duy nhất để chận đứng vọng tâm là quán.

Quán tưởng những hào quang của chư Phật vào thân tâm của ta, từ đó tạo cho ta những trong sáng. Ngồi thẳng lưng, tay để thế nào cũng được. Sau đó quán thấy ánh sáng tràn ngập vào các phần thân thể của ta. Rồi sau đó quán thấy hình ảnh của các đức Phật; hoặc quán thấy những người thân; hoặc bằng hữu. Hít vào và thở ra một cách an vui.

Tóm lại, bất luận làm việc gì, sự định tĩnh của tâm trí là yếu tố chính để thành công. Trong công việc tu hành, sự định tĩnh tâm trí lại càng quan trọng hơn. Người tu hành mà tâm trí tán loạn, tư tưởng thiếu tập trung, thì cho dù có khổ công cách mấy cũng sẽ không có kết quả. Quán là gì? Quán là dùng trí huệ quán sát, phân tách hay suy nghiệm để tìm ra sự thật. Có năm phép quán để chặn đứng vọng tâm: Quán Sổ tức để đối trị sự tán loạn của tâm trí, Quán Bất định để đối trị lòng tham sắc dục, Quán Từ bi để đối trị lòng sân hận, Quán Nhân duyên để đối trị lòng si mê, và Quán Giới phân biệt để đối trị chấp ngã.

Quán Sổ tức đứng đầu trong các quán vì nó giúp ta có một tâm trí định tĩnh không tán loạn. Quán Sổ tức là đếm hơi thở. Quán là tập trung tư tưởng để quán sát, phân tích hay suy nghiệm. Quán Sổ tức là tập trung tâm trí để đếm hơi thở ra vào của mình với mục đích là ngăn chận sự vọng tâm. Cuộc đời của chúng ta ví như một đấu trường, ta cứ mãi ganh đua. Làm chủ được thể xác đã là khó, mà muốn làm chủ tinh thần lại càng khó hơn. Tâm ta bị muôn việc ở đời chi phối, khi buồn, khi vui, khi mừng, khi giận, khi thương, khi ghét, không bao giờ định tĩnh. Phật đã dạy muốn cho tâm mình hết tán loạn, thì phải tu theo phép quán Sổ tức. Ngồi kiết già hay bán già, lưng thẳng, cổ thẳng, đầu hơi ngã tới, hai mắt chỉ mở một phần ba hoặc một phần tư, hai tay để trên hai đầu gối hoặc hai bàn tay để trên hai chân, bàn tay mặt trên trái hay trái trên mặt, hai đầu ngón cái chạm nhau. Bắt đầu thở ra hít vào chín hơi thật dài, sau đó cho hơi thở điều hòa. Khi hít vào, nên tưởng: "Những nhẹ nhàng trong sáng của vũ trụ đều theo hơi thởở thấm vào và bủa khắp thân tâm." Khi thở ra, nên tưởng: "Những phiền não, tham, sân si và các chất nhơ bẩn trong người đều bị hơi thở tống ra."

Tóm lại quán Sổ tức chẳng những giúp ta định tâm, mà còn làm cho thân thể khoẻ mạnh, tinh thần yên tịnh thơ thới, trí huệ sáng suốt, học hành mau nhớ, phán đoán công việc mau lẹ và phân minh.

Quán bất tịnh tức là quán sát một cách tỉ mỉ để thấy rằng thân nầy không trong sạch từ lúc bắt đầu thành hình cho đến khi nó bị hủy hoại. Nghĩa là thân nầy bất tịnh từ khi còn là thai nhi, rồi sanh ra, rồi nhơ nhớp của sự bài tiết, rồi bịnh, rồi chết... Đức Thế Tôn đã dạy rằng thân chỉ là sự kết hợp của tứ đại, cái gì cũng nhơ nhớp. Quả thật thân người từ lúc đầu thai cho đến khi bị vùi lại xuống đất, chả có tí gì là thơm sạch. Tuy nhiên, phải biết lợi dụng cái thân bất tịnh, vô thường này mà tìm ra cái "tịnh" và cái "thường." Đức Phật cũng dạy rằng chỉ có phép quán Bất tịnh mới là phương thuốc đúng chữa trị lòng tham lam quý trọng thân mình và say mê sắc dục. Hãy sáng suốt nhìn cho thấu rõ bên trong chứ đừng hời hợt nhìn bề ngoài. Hãy thành thật, đừng thiên vị; thấy thơm nói thơm, thấy thúi thì nói thúi; và hãy kiên nhẫn bền tâm, trì chí; đừng thấy khó mà nản lòng; đừng thấy đường dài mà lùi bước.

Quán Từ bi dùng để diệt lòng sân. Quán Từ bi là tập trung tâm trí để quán sát về Từ và về Bi. Nghĩa là ban vui cho tất cả chúng samh và diệt trừ nỗi khổ cho tất cả mọi loài. Từ bi là một lòng thương rộng lớn vô biên, nó xui khiến người ta vận dụng tất cả khả năng, tâm tư, phương tiện để làm cho mọi người, mọi vật thoát khổ được vui.

Tóm lại, Từ bi là một phương thuốc trị tâm sân hận, Sân hận là đầu mối của tội lỗi. Trừ được nó tức là trừ được tội lỗi. Chừng đó ai cũng được thương và được giúp đỡ.

Quán nhân duyên là tập trung tư tưởng để quán sát về mười hai nhân duyên sanh ra loài hữu tình: Vô-minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, và Lão tử: Quán để thấy cái vô minh tức là cái không tỏ ngộ chân tâm là cái đầu giây mối nhợ của cái vòng luân hồi sanh tử. Vì vô minh làm cho phiền não nổi lên, làm cho thân, khẩu, ý, tạo nghiệp tức là Hành. Rồi lúc chết đi, các nghiệp dẫn dắt Thức hay là thần thức đi lãnh thọ quả báo hoặc khổ hoặc vui ở đời sau. Nghĩa là đầu thai tạo hình: danh sắc là thân thể và tinh thần. Khi đã có thân thể rồi thì phải có sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý là chỗ để cho sáu trần nhập vào sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp nên gọi là lục nhập. Một khi đã có mắt thì sẽ nhìn thấy sắc, có tai sẽ nghe âm thinh, có mũi tiếp xúc với hương, lưỡi nếm vị, thân tiếp xúc bên ngoài, và ý tiếp xúc với pháp trần ấy là xúc. Khi đã tiếp xúc rồi thì sẽ lãnh thọ những vui, buồn, sướng, khổ... Khi đã lãnh thọ cảnh vui, cảnh sướng thì sanh lòng tham ái, muốn làm sao cho được. Khi gặp cảnh khổ thì sanh tâm sân hận... Đây chính là động cơ thúc đẩy thân, khẩu, ý tạo nghiệp. Vì lòng tham mà muốn Thủ, muốn giữ lấy, muốn có. "Ái, thủ, hữu" làm nhân hiện tại tạo ra các nghiệp, cho nên qua đời sau, phải sanh ra đời để thọ quả báo. Rồi khổ, rồi già, rồi chết. Chính mười hai nhân duyên nầy liên quan mật thiết và tạo nên vòng luân hồi sanh tử. Quán để thấy nếu không có vô minh thì không có luân hồi sanh tử. Quán để trở lại với bản thể chân tâm vì khi đã ngộ được chân tâm rồi thì sanh tử luân hồi đều hết.

Quán Giới phân biệt là tập trung tư tưởng, vận dụng trí huệ để quan sát, nhận định từng phần, từng phạm vi và công năng của từng thứ từ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đến sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp có liên quan gì đến nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức. Quán để thấy sự giả dối của sáu căn, sáu trần, và sáu thức. Quán để thấy rõ rằng nếu không có căn thì không có thức, thì con người không phải là con người, không có sáng tạo, xây dựng và tiến hóa, và thế giới là thế giới mù mịt không có ý nghĩa. Quán để thấy nếu không có ngoại cảnh (trần) thì con người không có môi trường để hoạt động. Quán để thấy rằng "thức" nó tác động vào "căn" và "trần" cuộc sống thêm tiến bộ, sung túc và thịnh vượng. Quán để thấy rằng cái "ngã" thuần nhất và bất biến ấy nó không nằm ở sáu căn, sáu trần, và sáu thức. Tại sao vậy? Tại vì cái "ngã" là thuần nhất bất biến mà sáu căn, sáu trần và sáu thức đều là không thật.

Tóm lại quán Giới phân biệt để thấy rằng sáu căn, sáu trần và sáu thức đều không có thật. Nghĩa là không có cái "thật ngã" ở trên cõi đời nàỵ Mà nếu không có cái "thật ngã" thì tại sao ta lại hoài công chấp nó. Một khi ngã chấp không còn, thì ngã ái, ngã mạn cũng không biết nương tựa vào đâu để tồn tại. Nói cách khác, phiền não, ác nghiệp, khổ đau cũng sẽ bị diệt. An vui tự tại tức thời hiện ra.

A tự quán xuất phát từ kinh Chuẩn Đề của Mật Tông. Người Tây Tạng phát âm là "Om". A tự quán là một trong những phương pháp quán cho những khổ đau buồn bực trôi qua. Đây là phép quán rất phổ thông, nhứt là đại chúng đồng tu trong thiền viện. Ngồi nhắm mắt lại cho tâm tĩnh lặng rồi đại chúng đồng phát âm liên tục chữ "A" thành như một âm vang liên tục giống như dòng nước chảy, đồng thời phải tưởng tượng như ta đang moi móc hết những đau khổ tận đáy lòng cho chúng trồi hết lên mặt nước, rồi để cho chúng trôi đi. Đừng suy nghĩ viển vong, quá khứ chỉ đem lại cho chúng ta những khổ đau và tương lai chỉ làm cho chúng ta thêm ưu tư. Hãy sống thực với hiện tại. Tự A quán rất hữu hiệu nhờ ở đức chúng như hải, nghĩa là đức của đại chúng nó bao la như biển cả vậy.

113. CHIẾC THUYỀN BÁT NHÃ ĐƯA NGƯỜI TỪ BỜ MÊ ĐẾN BẾN GIÁC.

Trong cuộc sống hàng ngày, làm gì cũng phải có phương tiện. Muốn qua sông phải có đò. Trong cuộc tu hành cũng vậy, muốn được đến bến bờ giác ngộ phải nhờ thuyền Bát nhã. Vậy thuyền Bát nhã là gì? Thuyền Bát nhã ở đây chính là sáu pháp Ba la mật. Lục độ hay sáu pháp độ được người qua khỏi bể sanh tử mà các vị Bồ Tát đã chọn làm pháp môn tu tập.

Bố thí Ba la mật là ban cho kẻ khác miềm an lạc. Không nhứt thiết là tài vật mới gọi là cho, mà có thể là lời khuyên, cử chỉ để an ủi người khốn khổ. Đem những lời quý báu của Đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo, giúp người khác cải tà qui chánh ấy là pháp thí. Dùng lời lẽ giúp cho người khác không sợ hoặc hết sợ ấy là vô úy thí. Hy sinh thân mạng mình để cứu kẻ khác, ấy là nội tài thí. Dùng tiền bạc, thức ăn, quần áo... để cứu giúp người là ngoại tài thí.

Tóm lại giá trị công đức của bố thí không chỉ riêng cho người nhận, mà lẫn cả người cho nữa. Nó vừa độ người mà vừa độ mình. Nó vừa giúp đưa mình và người từ bờ mê đến bến giác, từ phàm phu đến quả vị Bồ Tát.

Pháp Ba la mật thứ nhì là Trì giới. Bất luận một đoàn thể, một tổ chức nào trong xã hội, muốn có qui củ để phát triển đều phải có kỷ luật giới điều. Kỷ luật do những người lãnh đạo đặt ra, vì thế lãnh đạo càng sáng suốt thì kỷ luật do họ đặt ra càng nghiêm minh. Tương tợ, Đức Thế Tôn đã đặt ra những giới luật có một giá trị quí báu và bổ ích vô cùng cho những ai muốn theo dấu chân của Ngài đến bến bờ giải thoát. Chính Đức Thế Tôn thường nhắn nhủ các đệ tử: "Gặp thời không có Phật, hãy lấy giới luật làm thầy."

Tóm lại, tu mà không học là tu mù; học mà không tu chỉ là người gom chữ. Khi đã mang danh Phật tử, đã thọ giới mà không giữ giới, thì chẳng khác gì đem giới luật của Phật ra mà phỉ báng và làm trò cười cho thiên hạ.

Ba la mật thứ ba là Tinh tấn. Tinh tấn là động lực mạnh mẽ đưa đến thành công trong mọi việc, đời cũng như đạo. Tinh tấn làm cho các điều ác đừng sinh; tinh tấn làm cho các điều thiện mau phát sinh. Tinh tấn tiến tới không thụt lùi khi đã bắt tay vào việc, cho dù việc ấy có khó khăn đến đâu. Tinh tấn một cách chân thành chứ không lăng xăng tinh tấn khi có người, nhưng khi không có ai thì lại giải đãi. Tinh tấn chính là xăng làm chạy chiếc xe; đường dù gần, dù dễ đi cách mấy mà chiếc xe không có xăng, xe vẫn nằm ì một chỗ. Đối với Phật tử, tinh tấn lại càng quan trọng hơn vì công việc tu hành, đi từ bờ mê đến bến giác, đường dài muôn trùng khó khăn, nếu không có được đức tinh tấn thì chúng ta chỉ quanh quẩn mãi trong luân hồi sanh tử.

Ba la mật thứ tư là Nhẫn nhục. Nhẫn nhục là liều thuốc quý để diệt trừ sân hận, phải nhẫn cả thân, khẩu lẫn ý. Phật tử phải luôn nên nhớ rằng: "Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai" tức là một niệm lòng sân hận nỗi lên, thì trăm ngàn nghiệp chướng đều mở ra. Một đốm lửa sân hận có thể đốt tan muôn mẫu công đức. Hãy nhịn, hãy chịu đựng những cảnh trái tai gai mắt cho dù tự ái chúng ta có bị tổn thương. Người vì sân hận mà đánh ta; ta không nên đánh lại hoặc không phàn nàn ấy là thân nhẫn. Người vì sân hận mà chửi rủa ta; miệng ta không thốt lại những lời độc ác ấy là khẩu nhẫn. Trong tâm ta không bao giờ có ý căm hờn hay oán ghét ấy là ý nhẫn. Hãy thành thật mà nhẫn nhục chớ đừng nhẫn nhục vì quyền lợi hoặc nhẫn nhục để mong cầu khen thưởng.

Tóm lại, có nhẫn nhục thì gia đình sum họp, bằng hữu thương mến, thầy trò trung tín..., không nhẫn nhục thì gia đình ly tán, bạn hữu chia lìa, tớ thầy đoạn tuyệt. Ấy là chưa nói đến những người mong cầu được giải thoát mà thiếu đức nhẫn nhục, thì ô hô chừng nào mới được giải thoát.

Pháp Ba la mật thứ năm là Thiền định. Thiền định phát sinh trí huệ, có trí huệ sáng suốt thì con đường tu hành giải thoát sẽ rộng mở thênh thang. Dùng con mắt quan sát và suy tư trong yên tịnh. Lòng lắng đọng để gạn lọc mọi phiền não ra khỏi nội tâm. Hãy dùng tâm thể vắng lặng để thẩm sát các vấn đề đạo pháp. Tóm lại, thiền định là tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất không cho tán loạn, để cho tâm thể được vắng lặng hầu quán sát và suy nghiệm chân lý. Thiền định chẳng những giúp ta có trí huệ mà còn giải trừ được phiền não.

Ba la mật cuối cùng là Trí huệ. Trong đạo Phật, hai tiếng "vô minh" là đầu dây mối nhợ của đau khổ và sanh tử luân hồi. Si mê là gốc của tội lỗi và ngược lại trí huệ là căn bản của muôn hạnh lành. Là Phật tử, đâu có ai muốn đau khổ, sanh tử luân hồi, hoặc gây ra tội lỗi. Vậy tất nhiên chúng ta phải tu huệ. Huệ có nghĩa là Bát nhã. Trí là thể tánh sáng suốt. Trí huệ là thể tánh sáng suốt có khả năng soi sáng sự vật một cách thấu đáo. Có nhiều cách tu huệ: Văn, Tư, Tu, và Giới, Định, Huệ. Nghe rồi thì phải suy nghĩ, suy nghĩ rồi sau đó mới chứng được sự thật. Giới, Định, Huệ tương quan mật thiết với nhau: Do trì giới mà thân tâm không loạn động. Do thân tâm không loạn động mà trí được Định. Khi trí đã định thì Huệ tự nhiên phát.

Tóm lại, nếu chúng ta đơn thuần so sánh sáu pháp Ba la mật với chiếc thuyền Bát nhã đưa ta từ bờ mê sang bến giác thì: Bố thí là thức ăn, nhẫn nhục là nước uống, tinh tấn là động cơ, trì giới là bánh lái, thiền định là la bàn chỉ hướng và trí huệ là đèn soi đường. Nếu thiếu một trong những thứ ấy, con thuyền sẽ không bao giờ đi đến bến bờ được.



114. HAI MƯƠI ĐIỀU KHÓ LÀM TRONG CUỘC SỐNG HÀNG NGÀY

1. Nghèo nàn muốn phát tâm bố thí là điều khó. Vì nghèo quá, tự lo cho mình không xong làm sao mà bố thí. Tuy nhiên, nghèo mà phát tâm bố thí quả là quí báu vô cùng.

2. Giàu sang mà chịu học đạo là điều khó. Vì kẻ giàu thường mê với tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ, nên sự học đạo là chuyện khó.

3. Vô tâm trong mọi việc là điều khó. Trước những việc mắt thấy tai nghe mà vô tâm không suy luận, không xét đoán, không nghĩ tới là điều khó.

4. Hy sinh tánh mạng là việc khó. Trên đời nầy có hai cái chết khác nhau: một là chết vì dục vọng, ái tình, ấy là chết ngu; hai là chết mà làm cho gia đình và thiên hạ an lạc ấy là đại nhân.

5. Nhịn sắc dục là chuyện khó. Thấy sắc không ham là người trí, ham là kẻ ngu. Người ham sắc dục như con thiêu thân chết cháy trong ánh đèn.

6. Thấy của không mong cầu ấy là khó. Nếu ta không mong cầu thì không phiền não.

7. Bị người sỉ nhục không sân hận là khó. Hãy xem lời nói như gió thoảng mây bay, như nước chảy qua cầu, không có thực. Kẻ trí bị nhục không chấp nên được giải thoát an vui.

8. Không cậy quyền ỷ thế là khó. Có quyền thế mà không cậy, luôn tha thứ cho thuộc hạ ấy là bậc đại nhân khó tìm.

9. Học rộng nghiên cứu nhiều là khó. Thói thường hay giải đãi; ai mà chịu khó học hỏi tìm tòi quả là hiếm.

10. Dẹp bỏ lòng ngã mạn cống cao là khó. Cậy mình khinh người là chuyện của phường tiểu nhân. Một lòng khiêm tốn là chuyện khó làm, nhưng nó lại là đức tánh phải có của một người Phật tử.

11. Không khinh người sơ cơ là điều khó. Người dù sơ cơ vẫn có thể là một vị Phật tương lai.

12. Có tâm bình đẳng là việc khó. Mà chính cái không bình đẳng ấy đã tạo ra không biết bao nhiêu là cuộc tang thương.

13. Không dèm chê chuyện phải trái là khó. Thấy việc phải, việc trái, không gièm chê là người đức, hay chê gièm là kẻ hèn ngu tiểu nhơn.

14. Gặp thiện tri thức là việc khó. Ở đời nầy mà gặp được chân thiện tri thức, có thực tu, thực chứng thì quả là khó.

15. Mong cầu học đạo là điều khó. Thường thì ta hay vùi đầu vào các cuộc vui hơn là mong cầu học đạo.

16. Biết tìm cách hóa độ người là khó. Dù dễ dù khó vẫn tìm cách giúp đỡ cho người khác cùng tu là bậc đại nhân.

17. Thấy cảnh, dù thuận dù nghịch, dù vui dù buồn, mà không động tâm là khó, sự vật của thế gian là giả dối, không thật không nên vì thế mà động tâm. Động tâm là phiền não, không động là an lạc.

18. Tìm cách làm lợi mình mà lợi cả người là khó.

19. Sinh ra đời mà gặp Phật tại thế là khó. Cái khó nầy nó giống như con rùa mù gặp được bọng cây nổi trên biển vậy. Tuy nhiên, không gặp được Phật mà về chịu nương với Tam Bảo thì có khác chi là gặp Phật đâu.

20. Được thấu hiểu và tin giáo lý Phật là khó. Hiểu tin rồi đem thực hành lại càng khó hơn.

115. CUỘC SỐNG THỨC TỈNH VÀ NIỀM AN VUI RỘNG LỚN

Những ai luôn chạy tìm những gì đâu đâu mà quên đi những giây phút hiện tại thì chỉ chuốc lấy đau khổ mà thôi. Tại sao chúng ta không bằng lòng với hiện tại, bằng lòng với những gì mà chúng ta đang có? Trong cuộc sống nầy có cái gì tồn tại lâu dài đâu. Con người cũng như chư pháp, tự đến rồi tự đi, đừng quyến luyến, đừng cố tình đi ngược lại tự nhiên mà thêm khổ. Hãy đón nhận những gì đến với ta một cách an nhiên tự tại. Vì sợ hãi sẽ đeo đẳng chúng ta nếu chúng ta tìm, cách trốn tránh đau khổ, thất vọng chán chường sẽ đến với chúng ta nếu chúng ta thích đón nhận sung sướng và hạnh phúc.

Trường đời buộc chúng ta luôn hướng ngoại với đầy những cảm giác đau khổ trong tâm và đầy những ganh tị, thèm khát, sân hận, cô đơn, thất vọng và bất mãn. Làm sao bây giờ? Muốn có cuộc sống thức tỉnh và niềm an vui rộng lớn, chúng ta phải định tĩnh, soi rọi phần nội tâm từ lâu bị lãng quên của chúng ta để thấy được những sai lầm trong cuộc sống. Định tĩnh bằng cách nào? Thiền. Thiền giúp ta định tĩnh, từ định tĩnh ta sẽ có trí huệ. Trí huệ giúp ta thấy được những gì đang xãy ra, giúp ta hiểu được ta đang nghĩ, đang cảm giác gì. Thiền còn giúp ta quán sát một cách thật chính xác về ta và những gì ta đã gặt hái được. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về những cảm xúc do ta tạo nên; ngoài ta ra, không ai có thể làm cho ta âu sầu hay lo lắng. Thiền giúp ta thấy rõ những điều nên làm, những điều giúp ích chẳng những cho ta mà còn cho những người quanh ta nữa. Thiền còn giúp ta kềm chế không làm những gì không đem lại sự lợi ích. Thiền tập cho ta tỉnh thức trước mọi việc mà tâm ta đang chú ý đến. Thiền giúp cho ta thấy không có ai suy nghĩ mà chỉ có sự suy nghĩ; không có ai đi đứng mà chỉ có sự đi đứng; không có ai thấy mà chỉ có sự thấy. Hiểu như vậy thì tự nhiên cuối cùng gánh nặng lớn lao sẽ tan biến.

Hãy dành một ít thì giờ mỗi ngày, ngồi ở nơi yên tỉnh, hãy nghĩ đến những tai hại do lòng căm thù, sự tức giận và nỗi phẩn uất gây nên. Hãy nghĩ xem lòng tự ái đã đem đến cho ta những lợi lạc hay chỉ là những tị hiềm ganh ghét. Sau khi đã quán sát những thứ ấy, ta nên tự nhắc đi nhắc lại tư tưởng từ ái sau: "Mong cho con thoát khỏi mọi phiền toái từ tức giận, sợ hãi, căng thẳng, lo âu đến căm thù; mong cho con và chúng sanh luôn an vui và hạnh phúc." hoặc: "Mong cho con và chúng sanh luôn sống trong tình thương và tránh khỏi mọi giao động lo âu."

Nếu chúng ta tập thiền tỉnh thức mỗi ngày thì làm gì sân hận phát khởi, làm gì có ác cảm khởi dậy trong tâm ta vì chính sự tỉnh thức sẽ giúp ta loại bỏ những thứ quỷ quái ấy không chút luyến tiếc.

Thiền định không đòi hỏi sự cố gắng quá mức hay vội vã hấp tấp mà là sự nghỉ ngơi thoải mái, lúc nào trên môi cũng có sẵn nụ cười. Đức Thế Tôn là một bậc toàn giác, nhưng những hoạt động của Ngài rất đơn giản. Khi đi, Ngài đi; khi nói, Ngài nói, chỉ có vậy. Ngài không suy nghĩ trong khi đang nghe; Ngài không để tâm dong ruổi trong khi đi; không nhìn láo liên... Những điều nầy khó. nhưng Ngài làm được nên Ngài được giải thoát.

Tóm lại, sống thức tỉnh là phương tiện duy nhất giúp chúng ta giải thoát khỏi những phiền lụy của cuộc đời, mà muốn có sự tỉnh thức thì chỉ có con đường duy nhất mà Phật đã dạy là Thiền. Thiền liên tục là giải thoát và để có được thiền liên tục chúng ta phải nổ lực từng sát na, từng phút, từng giờ, từng ngày, từng năm.

116. AI CÓ PHẬT TÁNH?

Phật tánh là gì? Phật tánh là tánh chân thật không bao giờ thay đổi, chơn như thật tánh, rộng lớn như vũ trụ bao la, trong sáng tinh sạch, hiện có mặt, mãi mãi có mặt, và mỗi người đều có thể chứng được. Phật tánh không có bắt đầu mà cũng không có chấm dứt và chính từ tánh chân thật nầy nó khởi lên ý muốn biểu lộ thành đời sống cụ thể trong thân thể con người.

Phật tánh được biết rõ trong con người qua Thể, Tướng và Dụng. Thể là tánh trong sáng, rộng lớn và trong sạch của Phật tánh. Tướng là điều cụ thể mà chúng ta có thể quan sát và biết rõ nơi mỗi người, đó là lòng thương yêu trong lành và rộng lớn. Tướng còn là sự hiểu biết, sự thông minh sâu thẳm kỳ diệu, sự an lạc sâu thẳm kỳ diệu. Dụng là sử biểu lộ của Phật tánh qua những việc làm thiện lành trong đời sống hàng ngày.

Phật dạy mọi loài đều có Phật tính nhưng mức độ phát triển tâm linh nơi loài vật và cây cỏ quá thấp nên không biết mình có Phật tính và không sống được với tình yêu thương, cũng như không biểu lộ Phật tánh thành những hành vi tốt trong cuộc sống hàng ngày. Do đó, thế giới của loài vật là tàn bạo, là mạnh được yếu thua. Con người, những động vật cao cấp, cũng không thoát ra khỏi sự tàn bạo và mạnh được yếu thua ấy. Tuy nhiên, nhờ có lý trí nên con người có thể dùng lý trí mà lần mò trở về với cái Phật tánh kỳ diệu của mình để được an vui toàn thiện.

Tuy nhiên, khi chúng ta ở trong một cơ thể giới hạn, tâm lý và ngoại cảnh làm cho mê mờ, không biết mình có Phật tánh, nên không biết cách biểu lộ sự tốt đẹp trong đời sống. Chính vì thế mà Đức Phật ra đời để chỉ dạy cho chúng ta thực hành cách chấm dứt mê mờ khổ hãi, quay về với Phật tánh để được sống trong hạnh phúc và giải thoát. Ngài đã dạy bảo cho ta biết về Phật tánh, chỉ rõ cho chúng ta biết cách nhận ra Phật tánh đó, làm sao kinh nghiện được Phật tánh một cách cụ thể và làm sao sống an vui tràn đầy trong Phật tánh đó nghĩa là Ngài hiện ra nơi đời để khai, thị, ngộ và nhập Phật tri kiến cho chúng sanh.

Tóm lại, lời xác quyết của Đức Thế Tôn: "Ta là Phật đã thành và chúng sanh là Phật sẽ thành." đã nói lên rất rõ ràng cái Phật tánh ở mỗi người của chúng ta. Vậy thì có muốn sống đời giác ngộ, sống với chơn tâm hay Phật tánh của mình hay không là tùy thuộc ở chúng ta.

117. HÃY HỌC THEO MƯỜI HAI LỜI NGUYỆN CỦA ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

1. Nam mô hiệu Viên Thông, danh Tự Tại, Quán Âm Như Lai quảng phát hoằng thệ nguyện. Hãy tu học cho được hiểu biết đầy đủ và thong dong tự tại hoàn toàn như ngài Quán Âm Như Lai để đem phép tu hành mà khuyên độ khắp chúng sanh.

2. Nam mô nhứt niệm tâm vô quái ngại, Quán Âm Như Lai thường cư Tứ Hải nguyện. Ở trong một niệm tâm được tự tại vô ngại và nguyện đến bất cứ nơi nào có chúng sanh đau khổ để cứu độ.

3. Nam mô trú Ta Bà U Minh giới Quán Âm Như Lai tầm thanh cứu khổ. Nguyện như Ngài Quán Âm Như Lai là luôn · cõi Ta Bà U Minh để cứu độ bất cứ ai kêu cứu.

4. Nam mô hàng tà ma, trừ yêu quái Quán Âm Như Lai năng trừ nguy hiểm nguyện. Hãy nguyện như Đức Quán Âm, trừ khử tà ma yêu quái và luôn cứu người gặp nguy nan.

5. Nam mô thanh tịnh bình thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai cam lộ sái tâm nguyện. Hãy nguyện như ngài, luôn lấy sự dịu dàng và ngọt mát như nhành dương liễu nhúng vào nước cam lộ trong bình thanh tịnh để giúp rưới tắt lửa dục của chúng sanh.

6. Nam mô Đại Từ Bi năng hỉ xả, Quán Âm Như Lai thường hành bình đẳng nguyện. Hãy tập như Đức Quán Âm, luôn thương xót và tha thứ cho mọi người. Hãy tập như ngài, không phân biệt kẻ lành người dữ, kẻ oán người thân, tất cả đều như nhau.

7. Nam mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quán Âm Như Lai thệ diệt tam đồ nguyện. Hãy tập như Đức Quán Âm, đêm ngày đi khắp đó đây để cứu giúp chúng sanh ra khỏi các sự tổn hại và độ chúng sanh ra khỏi ba đường ác: địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh.

8. Nam mô vọng Nam nham cầu lễ bái, Quán Âm Như Lai, già tỏa giải thoát nguyện. Hãy hết lòng tin tưởng và sống một đời thanh tịnh. Hãy tu tập như đấng Quán Âm Như Lai, thì cho dù có bị gông cùm xiềng xích cũng được giải thoát.

9. Nam mô tạo pháp thuyền du khổ hãi, Quán Âm Như Lai độ tận chúng sanh nguyện. Hãy tập như Đức Quán Âm, dùng phép tu hành để làm chiếc thuyền và dùng chiếc thuyền nầy đi cùng trong bốn bể để độ chúng sanh đau khổ.

10. Nam mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quán Âm Như Lai tiếp dẫn Tây Phương. Nguyện làm theo như Đức Quán Âm, giúp tất cả mọi người tu hành như ngài chỉ dẫn để khi rời bỏ xác thân nầy thì sẽ có phướng dài đi trước, tàng lọng quí theo sau để rước về Tây Phương cực lạc.

11. Nam mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quán Âm Như Lai Di Đà thọ ký nguyện. Ngài Quán Âm cho biết ở cảnh giới của Đức Vô Lượng Thọ tức Đức Phật A Di Đà, về sau ngài sẽ thay thế Đức Phật A Di Đà. Vậy thì chúng sanh nào nguyện tu như ngài cũng sẽ được thọ ký như vậy.

12. Nam mô đoan nghiêm thân vô tỉ tái, Quán Âm Như Lai quả tu thập nhị nguyện. Hãy tập như ngài Quán Âm vì ngài đã khẳng định là có được thân hình nghiêm trang không ai so sánh được ấy là do kết quả của tu tập theo mười hai lời nguyện lớn nầy.

Nam mô Đại Từ Đại Bi, cứu khổ, cứu nạn, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.

118. ĐỨC PHẬT VÀ PHẬT PHÁP

Lúc Đức Phật ra đời thì trên thế giới đã có rất nhiều tôn giáo khác, riêng tại Ấn Độ có trên 62 tôn giáo khác nhau. Tại sao Ngài lại phải sáng lập thêm một tôn giáo nữa? Thuở ngài ra đời thì xã hội Ấn Độ vô cùng bất công. Ngài đã thấy rằng mặc dù xưng là tôn giáo, nhưng giai cấp tầng thứ của xã hội vẫn còn đó. Ai có thể thông hiểu được những giáo điển Bà La Môn? Chỉ có những giáo sĩ và giai cấp quí tộc, còn những ai nghèo khổ thì đời nầy sang kiếp khác vẫn vậy. Ai sanh ra quí tộc thì quí tộc từ đời nầy đến kiếp khác; ai cùng đinh thì cùng đinh từ đời cha ông đến cháu chắc. Thật còn gì bất công hơn thế ấy.

Có phải chăng những giáo pháp của Ngài là một cuộc cách mạng vào thời bấy giờ? Có thể nói như vậy. Chỉ riêng việc Ngài dám từ bỏ cung vàng điện ngọc cũng đủ nói lên ý nghĩa của cuộc cách mạng mà Ngài đã làm nhằm giúp giải thoát cho chúng sanh. Ngài đã khuyên răn mọi người nên tránh xa tất cả những hành động tội lỗi, trau dồi cuộc sống bằng những hành động tốt, thanh lọc tâm trí khỏi những ý nghĩ bất tịnh. Ngài chủ trương chỉ có mình mới có thể đưa mình lên thiên đàng hoặc đọa địa ngục, đau khổ hoặc an lạc giải thoát, chứ không phải thần linh hay sức mạnh vô hình nào cả. Ngài chủ trương không có đấng thiêng liêng nào có thể trừng phạt mình, mà chỉ có chính mình trừng phạt mình bởi luật nhơn quả luân hồi thế thôi.

Thật sự mà nói trước khi có đạo Phật, người ta chưa hiểu về luân hồi nhơn quả, con người rất cần có một cái gì đó làm dịu bớt sự sợ hãi trong nội tâm, nghi ngờ, lo lắng, bực dọc, bâng khuân và dục vọng. Họ cần có sự tin tưởng vào cái gì đó, tha lực bên ngoài, để được an ủi. Nếu mà không có một đấng thiêng liêng, họ sẽ tạo ra một, để tiếp tục có cuộc sống gọi là tương đối yên ổn trong tâm hồn. Tội nghiệp thay, làm như vậy thì chúng ta nào có khác chi là những trẻ sơ sinh đâu, khát sữa mà cứ ngậm mãi núm vú cao su, đã hao hơi tổn tướng mà có đi đến đâu đâu. Họ cho rằng Thượng Đế tạo ra tất cả mọi người. Thượng Đế chịu trách nhiệm tất cả mọi việc. Thượng Đế ban thưởng, trừng phạt và tha thứ những tội lỗi của chúng ta từ lúc sống đến lúc chết và ngay cả sau khi chết. Thượng đế cho ta lên thiên đường nếu ta vâng phục Thượng đế; tuy nhiên, nếu ta không vâng phục thì Thượng đế sẽ bắt ta xuống địa ngục. Họ dùng cách thức cầu nguyện, lễ bái để xin được tha thứ các tội lỗi mà họ đã phạm. Thật là hoang đường. Đức Phật không bao giờ chấp nhận cách hành đạo như thế ấy.

Ngược lại, Đức Thế Tôn đã hiện ra nơi đời, Ngài đã nhìn thấu hết những khổ đau của sanh, già, bịnh, chết. Ngài đã nhứt tâm từ bỏ cung vàng điện ngọc để mà ra đi và tìm cho được cái nguyên nhân gây ra đau khổ. Ngài đã khó công nghĩ ngợi làm sao cho chúng sanh thoát được cảnh cấu xé lẫn nhau, cảnh cá lớn nuốt cá bé, và cảnh mạnh được yếu thua. Ngài cho rằng những mâu thuẫn nầy là căn cơ cội nguồn của những bất hạnh và là nguồn gốc của khổ đau.

Đức Phật không hứa hẹn ban thưởng hạnh phúc hoặc giải thoát cho bất cứ ai nhận là tín đồ của Ngài. Với Ngài, tu hành không là sự trả giá mà là con đường sống cao thượng để đạt đến giác ngộ và giải thoát. Đức Thế Tôn không muốn tín đồ của Ngài tin tưởng mù quáng. Ngài chỉ rõ cho chúng sanh con đường của đạo Phật là con đường cao thượng cho đời sống mà nơi đó nhân đạo, bình đẳng và an lạc chiếm vị trí tối yếu. Cừu hận, ác cảm, chỉ trích và công phẩn không bao giờ có trong đạo Phật. Ngài đã để lại cho chúng sanh rất nhiều giáo pháp; tuy nhiên, hai câu để đời mà nói lên tính cách bình đẳng của ngài là: "Khi nào máu chúng sanh còn đỏ và nước mắt chúng sanh còn mặn thì không một chúng sanh nào hơn chúng sanh nào" và câu thứ nhì là: "Ta là Phật đã thành và chúng sanh là Phật sẽ thành." đủ cho chúng ta thấy ai cũng có cơ hội như Ngài nếu chịu tu hành đến chỗ rốt ráo.



119. NGHIỆP

Nghiệp có nghĩa là hành động. Nghĩ một cách đơn giản hễ người hành động xấu thì người ấy không thể nào tránh được hậu quả xấu. Tại sao vậy? Những người không dám tin ở mình thì nghĩ rằng hễ họ làm tốt thì được trời Phật thưởng, mà làm xấu thì bị Trời phạt. Đức Thế Tôn không chấp nhận niềm tin như vậy. Ngài nói không một ai hay một sức mạnh nào có khả năng nắm giữ việc điều động thi hành những tác dụng của nghiệp. Chính nghiệp tự nó phát xuất ra kết quả như một tác động của luật nhân quả. Ngài cả quyết rằng hễ gió thổi về phương Nam thì cây phải ngã về phương Nam. Không ai có thể cầu xin hay lạy lục một đấng thiêng liêng nào để làm cho cây ngã về phương Bắc được; tuy nhiên, nếu khéo léo và khôn ngoan ta có thể chống đỡ cho cây không ngã. Tương tự, không một đấng nào có thể làm vô hiệu hóa tác dụng của nghiệp bằng sự tha tội nếu tín đồ đến sùng bái, cầu nguyện và xưng tội. Đức Phật dạy chúng ta thực hiện sự cứu rỗi của chúng ta bằng chính sự cố gắng của ta. Ngoài chúng ta ra, không ai có thể làm công việc ấy cho chúng ta được, ngay cả Đức Phật. Ngài dạy rõ ràng là Ngài chỉ có thể chỉ dẫn con đường phải đi và phải làm chứ Ngài không đi thế hoặc làm thế được.

Đức Phật đã dạy nếu chúng ta phạm phải một nghiệp xấu, chúng ta không nên hoảng sợ hay chán nản, mà phải cố gắng điều chỉnh lại cho đúng. Việc trước tiên là phải rèn luyện thêm nhiều nghiệp tốt: Tỉ như lỡ tay bỏ muối hơi nhiều vào canh thì phải thêm nước vào cho muối loãng đi chứ không ai bỏ thêm muối vào cho canh mặn thêm, hoặc giả đem đổ nồi canh đi bao giờ. Điều quan trọng để tránh phạm các nghiệp xấu là ta phải giảm thiểu những tư tưởng tội lỗi, ích kỷ, ganh tị, hiềm khích, oán ghét, nóng giận, ghen ghét, thù hận và ác ý.

Đức Phật không dạy là phải cầu nguyện và sùng bái Ngài để được Ngài tha thứ cho các tội lỗi của chúng ta, mà tất cả tùy thuộc hoàn toàn nơi chúng ta. Không một đấng thiêng liêng nào hay chúng sanh nào có thể làm ô nhiễm hay thanh tịnh trong tư tưởng của chúng ta cả. Phật cũng không làm được những điều ấy; tuy nhiên, Ngài có thể chỉ cách giúp cho chúng ta tạo được thanh tịnh. Đức Phật đã dạy cho chúng ta cái cần thiết cho hạnh phúc của chúng sanh, không phải là lý thuyết suông mà phải là sự hiểu biết bản chất của vũ trụ, vạn vật và tác động của nó theo luật nhơn quả. Chúng ta gặt được kết quả nơi cái gì chúng ta đang làm. Cứu rỗi hay giải thoát là việc của cá nhân, giống như con người phải ăn uống, tiêu hóa và ngủ nghỉ cho chính mình vậy.

Tóm lại, Đức Phật đã dạy đau khổ hay sung sướng do chính mình tạo nên. Người con Phật luôn chịu trách nhiệm hành động của chính mình, hiểu rõ những yếu điểm của chính mình, tự gắng sức để vượt qua những phiền não đau khổ và đạt được sự an lạc và hạnh phúc vĩnh cửu.

120. ĐẠO PHẬT TRONG GIA ĐÌNH VÀ NGOÀI XÃ HỘI

Một số người không am tường về đạo Phật thường cho rằng Phật Giáo là bi quan yếm thế, chỉ dành cho những ai chán đời muốn đi tu. Họ cho rằng Phật Giáo muốn đào thoát hay rút lui khỏi cuộc sống thực tại, ẩn náu trong chùa hay hang động, hoặc trong rừng sâu và sống một cuộc đời biệt lập với xã hội bên ngoài. Đó chỉ là họ không hiểu về đạo Phật mà thôi. Hãy nhìn vào tấm gương làm việc tích cực của Đức Phật, Ngài đã làm việc tích cực cả đời. Mỗi đêm Ngài chỉ ngủ có trên hai tiếng đồng hồ, tất cả thì giờ còn lại là làm việc. Ngài đi bộ dọc ngang khắp Ấn Độ để nói chuyện và dạy bảo chúng sanh. Và bây giờ hãy nhìn quí thầy và quí sư cô thì sẽ sự tích cực của Phật Giáo.

Có phải tu theo đạo Phật là phải hoàn toàn lìa bỏ gia đình không? Thưa Đức Phật đã từng dạy ai có đủ duyên thì xuất gia, còn ai chưa đủ duyên thì tại gia vẫn tu được. Không phải lúc nào Ngài cũng chỉ nói đến Niết Bàn với tất cả mọi người mà Ngài gặp đâu. Ngài nói về đời sống của họ tùy theo mức độ hiểu biết của họ. Giáo pháp của Ngài thích hợp cho mọi tầng lớp, nó bình dị hoặc thâm cao tùy trình độ. Nhưng mục tiêu tối hậu vẫn là từ từ tiến đến giác ngộ và giải thoát khỏi khổ đau. Ngài đã vạch cho chúng sanh thấy rõ là sự tiến bộ vật chất chỉ có thể đưa con người đến những hành tinh xa thẳm, nhưng sẽ không bao giờ mang lại thanh tịnh cho loài người. Con người phải tu tập theo những giáo pháp mà Ngài đã chỉ dạy để tự thanh tịnh hóa. Hơn nữa, Đức Phật công nhận gia đình là một đơn vị của xã hội và quốc gia. Mọi người trong gia đình đều có thể tu tập và đạt được mục đích tối thượng là giải thoát hoặc là về với cảnh trời sau này.

Đức Phật đã từng dạy những quy tắc luân lý đơn giản giữa người nầy với người khác, giữa những người trong gia đình và xã hội. Ngài đã đề ra mười điều răn dạy ta phải kính trọng và chu toàn bổn phận trách nhiệm với cha mẹ, con cái, chồng vợ, những người thân trong gia đình, những bậc già cả, những người đã chết... nhằm có một cuộc sống hòa hợp và không tội lỗi trong xã hội. Qua những lời giảng của Ngài, ta thấy đạo Phật do Ngài sáng lập thật là sinh động và gắn liền với gia đình và xã hội. Chính Ngài đã dạy rằng nghèo khổ tuy không phải là tội ác và vô luân, nhưng nó chính là nguyên nhân đưa đến tội ác và vô luân. Ngài đã dạy cho ta giá trị của cải và sự quan trọng của sự phát triển kinh tế cho đời sống hạnh phúc. Theo Ngài thì những tội ác như cướp bóc do nghèo khổ mà ra thì không thể nào ngăn chặn được bằng hình phạt, mà phải tạo an ninh kinh tế bằng công ăn việc làm, từ đó con người sẽ vui sống thoải mái, không mắc nợ và không tội lỗi.

Tóm lại, Đức Phật đã chỉ cho chúng ta sự gần gủi giữa đạo Phật, gia đình, và xã hội. Ngài chỉ cho chúng ta những điều phải chứ không mê tín mù quáng. Ngài vạch ra cái gì là phải, cái gì là trái, cái gì tốt và cái gì không tốt... Theo Ngài thì nếu chúng ta sống trong phẩm hạnh và có lòng từ bi tức là ta đã chứng được thiên đường rồi vậy. Ngược lại nếu chúng ta để cho cuộc sống chúng ta kéo lê trong chuỗi dài đau đớn về thể xác và tinh thần là chúng ta đang ở địa ngục đấy.



121. TẠI SAO PHẬT TỬ NÊN TỤNG KINH?

Tụng kinh là cách thực hành thiết yếu để được thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. Người tụng kinh là muốn thấu rõ chân lý của Phật để mà tu hành. Kinh là những lời nói của Phật lúc còn tại thế, được ngài A Nan trùng tuyên lại sau khi Phật nhập Niết Bàn. Tụng kinh là đọc đi đọc lại những lời đức Phật đã dạy trong các kinh điển, những lơì ấy hợp với chân lý và căn cơ của chúng sanh.

Tại sao chúng ta phải đọc đi đọc lại những lời Phật dạy? Thường thì ta hay tụng kinh trước bàn thờ Phật; tuy nhiên, không bắt buộc luôn luôn như vậy. Ta có thể tụng kinh bất cứ ở đâu, trong phòng khách, phòng ngủ, ngoài vườn hoặc ngoài công viên, vì Phật đâu có cần nghe lại những gì Ngài đã dạy, mà Ngài chỉ muốn chúng ta nghe những gì Ngài đã dạy, mà phải nghe một cách nghiêm trang. Tụng kinh nói một cách dễ hiểu là đọc với giọng trầm bỗng âm thanh vi diệu để đi sâu vào lòng ta và lòng người và xoa diệu mọi phiền toái lo âu. Chúng ta đang sống trong cảnh ồn ào náo nhiệt, lòng tham muốn không bao giờ ngừng nghỉ, ngay cả trong giấc ngủ vẫn còn những chiêm bao mừng, giận, thương, ghét. Trong khung cảnh não loạn ấy, nếu chúng ta biết hướng tâm về để nghe những lời vàng ngọc của Đức Phật thì còn gì quý hơn. Những lời quý báu cao siêu ấy chúng ta nghe qua một hai lần, khó mà thông suốt được. Do đó, chúng ta phải đọc đi đọc lại nhiều lần, cho đến khi nghĩa lý thâm diệu được ghi sâu vào tâm não của chúng ta.

Hơn nữa, tụng kinh còn giúp cho ba nghiệp thân, khẩu và ý được thanh tịnh hơn vì lúc chú tâm tụng kinh thì ta đâu có nói gì với ai, đâu có nghĩ điều gì ác quấy mà chỉ nghĩ đến những lời vàng ngọc của Phật và thân đâu có làm việc gì khác ngoài việc ngồi tụng kinh. Mà Phật đã dạy rằng: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng tây phương." có nghĩa là ba nghiệp mà trong sạch thì cõi Phật rất gần với ta.

Chúng ta nên tụng kinh nào? Các kinh Phật, kinh nào tụng cũng đều được lợi ích bởi vì kinh nào cũng có công dụng thù thắng là phá trừ tối tăm, khai thông tâm trí sáng suốt cho chúng sanh. Tuy nhiên, vì trình độ mỗi người có khác, nên ta cần lựa những bộ kinh nào thích hợp với sở cầu của ta mà tụng chứ không nên khen kinh nầy chê kinh kia mà tâm ta thêm vướng mắc.

Thường mỗi ngày ta nên tụng hai thời kinh: sáng nên tụng Lăng Nghiêm, Đại bi, Thập chú hoặc Phổ môn. Chiều nên tụng kinh Di Đà để cầu về cõi thanh tịnh. Nếu cầu an thì tụng kinh Dược Sư hoặc Phổ môn, cầu siêu thì tụng Địa Tạng, Di Đà hoặc Vu Lan Bồn. Nếu muốn cầu quả Bồ Đề thì nên tụng kinh Pháp Hoa. Tuy nhiên, về mặt giáo lý và công đức thì không luận bộ kinh nào, nếu nhất tâm trì tụng thì kết quả sẽ mỹ mãn chẳng những cho mình mà cho người nữa.
Phật tử ơi, xin đừng trì trệ, thời gian không bao giờ chờ đợi ai, lẽ vô thường luôn chi phối cuộc đời ta, nay còn mai mất. Thời gian rơi rụng theo những bước ta đi, một phút ta sống là một phút ta đi gần đến cái chết, sự sống mỏng manh trên cõi Ta Bà. Hãy dừng lại và cầm cho được bất cứ quyển kinh nào, miễn sao cho hợp với trình độ của ta, hãy đọc tụng cho đến khi kinh tụng thâm nhập và trí huệ như biển thì bờ giải thoát cũng sẽ cạnh kề.



122. NIẾT BÀN Ở ĐÂU?

Chúng ta, những Phật tử thuần thành, thường nghĩ về chốn Niết Bàn hay giải thoát vĩnh cửu phía bên kia cuộc sống. Dĩ nhiên, niềm tin như vậy sẽ giúp ta luôn hướng thiện và sống trong niềm hy vọng tốt lành. Tuy nhiên, đừng quên rằng chúng ta đang sống và mong có hạnh phúc ngay trong cuộc đời nầy. Chúng ta biết chắc chắn là đời sống này là có thật dù ta muốn nó hay không muốn. Có ai trong chúng ta chịu đánh đổi đời sống nầy để lấy những thứ bên kia cuộc sống đâu. Mỗi người chúng ta đều mong mình đi cho đến tận cuối giai đoạn sống của đời mình, và mong muốn mình được an vui mãi mãi. Muốn được như vậy thì ta hãy sống trọn vẹn, sống đúng theo nghĩa sống từ nấu ăn, mua sắm, lái xe, yêu thương chồng vợ, con cái, làm việc, bạn bè, đi chùa, niệm Phật, tụng kinh, ngồi thiền. Sống với đạo đức chân thật, đạo hạnh chân thật, giác ngộ chân thật, từ bi chân thật, bác ái chân thật. Đừng sống vô hồn, khô cạn, tính toán, bỏn xẻn, cân nhắc, lạnh lùng; lúc nào cũng nghĩ đến danh thơm tiếng tốt, tiền tài và vật chất.

Hãy sống trong tỉnh thức, không dính mắc vào điều gì và cũng không cố đè nén hay lãng quên điều gì cả. Mọi điều, đến rồi đi, đi rồi đến như những đám mây xuất hiện rồi tự tan biến. Bầu trời bao la, không vẩn mây ấy chính là cái tâm rỗng lặng của ta, ấy chính là con người chân thật của ta, chính là Niết Bàn trong đời nầy của ta. Ngồi thở và nhận biết mỗi hơi thở ấy là hạnh phúc. Giấc ngủ an vui, nằm thẳng người, buông xả các bắp thịt toàn thân, hơi thở thoải mái, tự nhiên ấy là hạnh phúc. Hãy buông xả tâm hồn, hãy để cho quá khứ là quá khứ, đừng khơi động chúng dậy, đừng để quá khứ khống chế ta, mà cũng đừng để tương lai quấy rầy ta. Hãy sống với hiện tại tươi mát và an ổn, ấy là hạnh phúc.

Tóm lại, không cần phải đợi phải chờ cái vĩnh cửu của bên kia cuộc sống. Hãy dang tay ra đón lấy Niết Bàn của hiện tại, hãy sống với hiện tại, hãy tặng cho chính ta chén nước tươi mát tuyệt vời của hạnh phúc đầu nguồn.



123. NHỮNG LỜI HAY TRONG LẼ ĐẠO

Dưới đây là những lời hay trong lẽ đạo mà Thiện Phúc đã ghi lại được trong lúc đàm đạo với những đạo hữu Thiện Đức, Minh Hạnh, Minh Tuấn và Minh Bình. Thiện Phúc xin được chia sẽ cùng các đạo hữu khác để chúng ta cùng được hưởng sự lợi lạc. Trước hết Thiện Phúc xin chân thành cảm tạ những đạo hữu đã cho Thiện Phúc có được cơ hội học hỏi và tăng trưởng trí huệ.

*Học đạo tâm cứng như sắt.

Lòng ta vững như bàn thạch.

Chụp ngay Vô Thượng Bồ Đề.

Tất cả thị phi chẳng màng.

Từ vô lượng kiếp chưa từng ngộ.

*Sanh cũng như thế,

Tử cũng như thế.

Có pháp, không pháp.

Có tâm, không tâm.

Có quan hệ gì?

*Tin là mẹ công đức.

Nghi là cha ác đức.

Tin nuôi dưỡng pháp thiện.

Nghi nuôi dưỡng ác tâm.

Tin tăng trưởng trí huệ.

Nghi nuôi dưỡng vô minh.

Tin thọ quả Như Lai.

Nghi xoay vần địa ngục.

Tin Niết Bàn Vô Thượng.

Nghi địa ngục không xa.

*Xin hãy thấy chúng ta đang sống như thế nào, chứ đừng bao giờ nên thấy những người khác đang sống như thế nào. Xin hãy thấy ta đang tu thế nào, chứ đừng nên tìm hiểu mấy thầy tu thế nào.

*Xin hãy vui với cái sức khỏe mà ta đang có, chứ đừng đợi đến lúc ươn yếu rồi mới ao ứơc cho ta có sức khỏe. Nếu ta đợi đến lúc có thời giờ mới tu, thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ tu.

*Xin đừng tìm hạnh phúc cho mình bằng cách làm xáo trộn hạnh phúc của người khác. Hãy sống trong tinh thần lục hòa của đạo Phật.

*Xin hãy vui sống với hiện tại, vì quá khứ đã không còn, mà tương lai thì chưa tới.

*Lo âu là mẹ của tuổi già.

*Sợ sệt và lo âu là hai kẻ thù tệ hại nhứt của con người.

*Không có cái gì trường tồn vĩnh cửu, không có cái gì tồn tại vững bền trên thế gian nầy cả. Tất cả đều chịu chung cái số phận vô thường, và cái Ngã của chúng ta chỉ là trí tưởng tượng mê dại mà thôi.

*Luôn giữ được nụ cười trầm tỉnh thì quả là tốt hơn thần dược.

*Xin hãy luôn nhớ rằng chia ly xa biệt là điều không thể tránh được trong cuộc đời nầy. Xin hãy về nương nơi Tam Bảo để không thấy rằng thương yêu xa lìa là khổ.

*Mỗi người trong chúng ta đều có khả năng kiểm soát tâm của mình. Chỉ có điều là mình có chịu kiểm soát nó hay không thôi.

*Xin hãy cố gắng làm được một điều gì cho người khác một cách vô vụ lợi.

*Khi làm vui lòng người khác, bạn có biết rằng bạn đang có một khuôn mặt tươi tỉnh và rạng rỡ lắm không? Đó là khuôn mặt của một vị Bồ Tát đấy.

*Xin hãy sống chân chánh bằng những công đức, phẩm hạnh và tâm từ bủa rộng, là ta chẳng những mang lại hạnh phúc cho ta, mà còn mang lại hạnh phúc cho tha nhân nữa.

*Đức quảng đại khoan dung chỉ phát sanh do sự hiểu biết. Thiếu kinh nghiệm và hiểu biết sẽ đưa ta đến chỗ khắt khe và kém khoan hồng.

*Phật dạy tất cả những bất hạnh của con người đều phát sinh ra từ những sự ham muốn lầm lạc, từ những thú vui, từ những quyền lực và từ cái muốn kéo dài thân tứ đại giả tạm của ta.

*Vì ham muốn mà con người sanh ra vị kỷ, chỉ nghỉ đến riêng mình mà không màng đến những gì xãy ra cho người khác.

*Ham muốn có thể đưa con người đến những tinh cầu xa xôi, nhưng cũng chính ham muốn nó đưa chúng ta đến những lo âu và bất toại nguyện.

*Chúng ta sẽ chẳng bao giờ thọ hưởng thỏa thích những thú vui, mà ngược lại chính thú vui nó chế ngự, khắc phục, và bắt chúng ta làm nô lệ cho chúng.

*Vì mãi mê rượt bắt những thú vui và ham muốn mà chúng ta cứ mãi đắm chìm trong bể khổ.

*Xin hãy quên đi những phiền não của hôm qua và xin hãy để những phiền não của hôm nay chìm vào quá khứ, thì tương lai của chúng ta ắt ít đi phiền não.

*Xin hãy đừng quá lo âu, vì cho dầu phiền não như thế nào, lo âu phiền muộn ra sao đi nữa, mọi việc rồi sẽ qua đi, thời gian sẽ hàn gắn những vết thương.

*Xin hãy để những bực dọc của gia đình lại ở nhà trước khi đến sở làm, và xin hãy bỏ lại ở sở những bực dọc của sở trước khi chúng ta đi về nhà; thì chẳng những bạn và gia đình bạn, mà những người quanh chúng ta cũng sẽ được thoải mái.

*Trước khi muốn đổ lỗi cho ai xin hãy cố tìm ra lỗi của mình đã.

*Tiền có thể mua được rất nhiều của cải vật chất, nhưng nó không mua được sự yên ổn và thanh tịnh trong tâm hồn.

*Xin hãy xử dụng tài sản mà ta tạo ra cho sự an lành và thoải mái cho mình và xin hãy bố thí cho người, chứ xin đừng đem cất giấu rồi lại khao khát tìm thêm nữa.

*Nếu chúng ta chỉ bám víu vào những tài sản sự nghiệp mà ta đã tạo ra mà không cần nghỉ đến ai, thì đến một ngày kia ta sẽ ra đi với đôi bàn tay trắng và với một tâm hồn đầy lo âu sợ sệt vì những tài sản mà ta đã bỏ lại.

*Của phi nghĩa thì đương nhiên chúng ta sẽ không bao giờ thọ hưởng được. Ngay cả những tài sản mà ta đã tạo ra bằng chính mồ hôi và nước mắt ta cũng chẳng bao giờ thọ hưởng được nếu ta sống bỏn xẻn và keo kiệt.

*Tài sản sự nghiệp sẽ ở lại khi ta ra đi. Thân bằng quyến thuộc cũng chỉ đưa ta ra đến mộ huyệt là cùng. Chỉ có những thiện nghiệp và ác nghiệp sẽ cùng đi với ta qua bên kia nấm mồ và kiếp luân hồi.

*Tiền của làm ta lo âu, hạnh phúc giả tạm là những ảo ảnh lững lờ; chúng như những hạt nước mưa lấp lánh qua ánh mặt trời. Ta cứ mãi lo bắt lấy chúng mà không bao giờ ta nắm được. Chỉ có từ bi hỉ xả mới mang lại thanh tịnh cho ta mà thôi.

*Đức Phật dạy: Chúng sanh cứ hãy mưu tìm an lạc và hạnh phúc, miễn là không đụng chạm đến quyền lợi của bất cứ ai.

*Xin hãy thi ân và hãy cho ra những niềm vui mà đừng bao giờ nghĩ đến sự bạc bẽo của người khác. Xin hãy xem lòng bạc bẽo của con người như loài cỏ dại.

*Đức Phật dạy: Không có kẻ thù nào có thể gây tác hại cho ta nhiều bằng chính những tư tưởng tham ái, sân hận, tị hiềm và ganh ghét ở trong ta.

*Con người mà không biết điều chỉnh và kiểm soát tâm mình, thì không khác gì một khối thịt biết đi.

*Một cái tâm vô trật tự chẳng những tác hại cho chủ nó mà còn cho nhiều người khác nữa.

*Xin hãy đủ mạnh và can đảm đương đầu với sợ sệt. Xin hãy hùng dũng và bất khuất trước những thất bại. Xin hãy khiêm tốn và dịu dàng khi đắc thắng.

*Xin hãy can đảm bỏ đi những hủ tục, giữ những mỹ tục và đừng bao giờ chê bai tập tục của người khác.

*Mỗi người trong chúng ta hãy tự hỏi xem chúng ta đã làm gì được cho ta, gia đình và người khác; chứ đừng hỏi người khác đã làm được gì cho ta.

*Xin hãy lấy nụ cười để đáp lại những phê bình và chế diễu chua cay.

*Xin đừng bắt người phải làm theo ý mình, mà hãy tự hỏi xem mình có làm được theo ý người hay không?

*Muốn có được cuộc sống an tỉnh và tâm hồn thanh thản, xin hãy biết tiết chế tham vọng.

*Sửa đổi một người bằng cách công kích và khiển trách trước công chúng là chỉ tạo thêm kẻ thù mà thôi.

*Nếu ta ôn tồn nhắc nhở người với lòng thành thật muốn cải thiện, thì chẳng những người nghe ta mà người còn muốn làm bạn với ta nữa.

*Khi phát biểu ý kiến, xin đừng bao giờ dùng đến những danh từ có thể làm chạm đến tự ái của kẻ khác.

*Xin hãy diển đạt tư tưởng của ta một cách nhã nhặn và lễ độ.

*Nổi giận khi người khác nêu ra lỗi mình là hàm hồ, vì biết đâu mình sẽ có một người bạn tốt, hoặc một người thầy trên đường đời.

*Nổi nóng, la lối hay rầy rà người khác để che lấp đi những sai sót của mình là trưởng dưỡng sân si.

*Phát lộ những bí ẩn thầm kín của người khác là biểu lộ sự hèn hạ và đáng bị khinh rẽ. Xin hãy nói với người, chứ đừng bao giờ nói với ai về người khác.

*Quyết định một vấn đề gì khi ta đang bực bội, bị khiêu khích và sân si là chỉ mang lại cho ta những nuối tiếc về sau nầy mà thôi.

*Xin hãy tập khoan dung, vì khoan dung chẳng những giúp ta thông cảm những phiền não của người khác mà còn giúp ta tránh được những lời chỉ trích có tính cách vạch lá tìm sâu nữa.

*Sự lỗi lầm và yếu kém mà ta thấy ở kẻ khác rất có thể là những lỗi lầm và yếu kém của chính ta.

*Sân hận di hại chẳng những cho ta mà còn cho người khác nữa. Sân hận dẫn dắt ta vào một khu rừng rậm không có lối đi mang tên là rừng Vô-Minh.

*Một lời nói ra chẳng khác nào một mũi tên bắn khỏi ná, chẳng bao giờ ta có thể lấy lại được đâu. Xin hãy lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

*Lạc vào rừng sân hận cũng giống như đi trong đêm tối, không còn thấy gì cả.

*Cho dầu ta có thông thái đến đâu đi chăng nữa, hể còn là phàm phu là hãy còn lầm lạc.

*Khiêm tốn không bao giờ làm cho ta mất đi bản chất con người, mà trái lại nó luôn tăng thêm phẩm chất cao thượng của ta.

*Khi ta nổi sân thì ta là kẻ thù của chính ta, nghĩa là ta đang tự chiến đấu chống ta vậy.

*Tâm là người bạn tốt mà cũng là kẻ thù nguy hiểm nhất của ta. Tâm ta có thể là Phật mà cũng có thể là ma vương ác quỷ.

*Chỉ có giới, định và tuệ mới giúp ta diệt trừ được tham, sân, si trong tâm ta mà thôi.

*Muốn thoát ra khỏi phiền lụy mà kẻ khác gây ra cho ta, trước tiên ta hãy tiêu diệt sự sân hận trong lòng ta đi đã.

*Những người ca tụng ta có thể là kẻ thù của ta; trái lại những người chỉ trích ta có thể là thầy của ta.

*Lấy oán báo oán chỉ tạo thêm thù. Xin hãy lấy đức từ bi mà báo oán và hãy lấy tâm từ mà rải ra khắp, cho ngay chính kẻ thù ta, thì tự nhiên mọi oán thù đều tiêu tan.

*Trước khi giận ai, xin hãy tìm cho ra cái nguyên nhân, vì biết đâu phần lỗi chẳng về ta. Một khi biết được lỗi ấy là của ta, xin hãy mạnh dạn chịu lỗi chớ nên chần chừ.

*Muốn được thanh tịnh, xin hãy để cho kẻ khác thanh tịnh.

*Hạnh phúc và thanh tịnh là do chính phẩm hạnh cao thượng của bạn tạo ra chứ không phải từ trên trời rơi xuống, hoặc do van vái mà có được.

*Muốn sống hòa hợp với người, xin hãy cố gắng tự sửa mình, chứ đừng than phiền và chỉ trích người khác.

*Thiên đàng và địa ngục không ở đâu xa, chúng ở ngay trên thế gian nầy, và chúng do tác dụng của đức hạnh và tội lỗi gây ra.

*Giúp cho người khác hành thiện, tức là ta đang giúp ta hành thiện vậy.

*Đời là vô thường, vô ngã. Người khẩu Phật tâm xà. Hãy thiền cho tâm bớt động. Hãy quên tuế nguyệt, hãy quên ta.

*Lễ chùa, dâng hoa cúng Phật, chưa đủ làm cho ta được xứng đáng gọi là Phật tử. Quyết tâm đi theo con đường giải thoát mà Đức Thế Tôn đã vạch ra mới đúng là Phật tử, và đó mới đúng là con đường sáng cho mọi người.

*Quỳ lạy bao nhiêu cũng không bằng nghiêm túc hành trì những nguyên tắc căn bản mà Đức Thế Tôn đã ban truyền.

*Đức Phật không cất giữ kiến thức uyên thâm của Ngài cho riêng Ngài và truyền lịnh cho tín đồ phải nhắm mắt tin theo. Ngài không hứa hẹn sẽ đem bất luận ai lên một cảnh trời nào chỉ vì người ấy là tín đồ của Ngài. Chúng ta có thể tạo ra thiện nghiệp để gặt quả lành và sanh lên cảnh giới chư thiên; hoặc ta có thể tạo ra ác nghiệp để bị đọa vào địa ngục; hoặc ta có thể nương theo những gì mà Đức Thế Tôn đã chỉ dạy để chặt tan bức màn vô minh và tiến tới thanh tịnh.

*Ham muốn dục lạc phù du chỉ biến ta thành nô lệ cho vật chất và mù quáng trước thực tại, chỉ khiến cho ta sống mãi trong đêm tối của vô minh và không hiểu biết điều phải lẽ thật. Chỉ có trí tuệ trước vô minh mê muội, dũng cảm trước ươn yếu, nhẫn nhục trước nóng nảy, trầm tỉnh và hiền hòa trước hung dữ mới dắt ta ra khỏi trầm luân khổ hãi.

*Quy Y Phật, Pháp, Tăng là về nương với ba ngôi Tam Bảo, là con đường sáng đưa ta đến thiện nghiệp, không tạo thêm nghiệp báo và thoát khỏi màn vô minh tăm tối.

*Sanh được vào cảnh người là cơ hội hiếm hoi. Xin hãy đừng để cho nghiệp thế gian và nghiệp con người chúng tiếp tục vận chuyển ta xoay vần trong luân hồi.

*Lời nói giả dối, đâm thọc, thô lỗ, cộc cằn và nhảm nhí vô ích sẽ đem lại ác nghiệp cho ta.

*Hễ sát sanh thì yểu mạng và luôn sống trong sợ sệt. Hễ trộm cắp thì sẽ chịu thiếu thốn nghèo khổ và sống đời đê tiện. Hễ tà dâm thì luôn sống trong thù oán. Hễ sân hận thì xấu xí bịnh hoạn và khuôn mặt sẽ luôn trở nên dể ghét.

*Lòng tà kiến sẽ khiến ta tạo ra ác nghiệp.

*Càng tinh tấn bố thí, trì giới và tham thiền thì cuộc sống càng được thong dong tự tại bấy nhiêu.

*Củng cố chánh kiến sẽ giúp ta được hạnh phúc và giải thoát.

*Tán dương công đức của người là trưởng dưỡng lòng khoan dung của ta.

*Đời là vô thường, là khổ, là sanh diệt. Xin hãy tự chế để tránh xa ác nghiệp, thân cận thiện nghiệp và cắt giảm lần cội rễ của luân hồi.

*Sân hận, tham ái và si mê là kẻ thù của khoan dung đại độ, từ ái, vô úy và trí tuệ.

*Đức Thế Tôn đã dạy: Phật tử tại gia nên gia tăng sự nghiệp bằng những phương tiện chân chính; chứ đừng giả dối, lường gạt, gian lận và bốc lột bất cứ ai.

*Hãy dùng tiền của của mình tạo ra cho mình, cho gia đình mình và ngay cả cho những kẻ khốn cùng.

*Ở đời nầy không có cái gì là Ta mà cũng không có cái gì là của ta cả. Tất cả chỉ đến rồi đi, giống như nước chảy qua cầu hay gió thoảng mây bay, thế thôi.

*Không nên vì hoa mà lao thân vào gai, cũng không nên vì gai mà xa lánh hoa.

*Khi ta mất một vật gì, cho dầu có buồn rầu thế mấy cũng chưa chắc gì đã tìm lại được. Xin hãy ước mong cho người được vật ấy được vui vẻ, an lành và hạnh phúc.

*Trên đời nầy có tám ngọn gió lớn mà chúng ta phải đương đầu: Hạnh phúc và đau khổ, ca tụng và khiển trách, danh thơm và tiếng xấu, được và thua. Chỉ có một ngôi nhà tâm linh vững chắc mới giúp ta tránh được tám ngọn gió nầy mà thôi.

*Đức Từ Phụ đã dạy: Làm con cái phải trọng ơn sanh thành của cha mẹ. Làm cha mẹ phải nuôi nấng, dạy dỗ con cái, phải khuyên răn con cái lánh xa thói hư tật xấu và dẫn dắt con cái đi trên con đường đạo đức thanh cao trong sạch. Làm học trò phải biết tôn kính thầỵ Làm thầy cô phải cởi mở mà nghiêm trang; không nên giữa đám đông mà quở trách học trò. Làm chồng phải thương yêu và tôn trọng vợ, phải bình đẳng, lúc nào cũng trung thành và đối xử diệu hiền với vợ. Làm vợ cũng phải chung thủy, biết phụ giúp chồng trong công việc làm ăn, biết khuyên răn mà giữ thể diện cho chồng, và lúc nào cũng phải biết kính yêu gia đình bên chồng.

*Xin hãy cảm ơn ai đó đã gây khó khăn phiền não trên bước đường tu học của ta, vì không có họ ta đâu có cơ hội vàng ngọc để thực hành những đức tánh cao thượng.

*Chúng ta đâu cần phải chạy theo danh thơm tiếng tốt. Nếu chúng ta xứng đáng, nó sẽ đến mà không cần tìm. Tuy nhiên, với người biết tu, danh thơm tiếng tốt chỉ là gió thoảng mây bay, hoặc giả như là nước chảy qua cầu mà thôi.

*Kẻ thù nghịch sẽ lấy làm thỏa thích khi thấy ta bực bội vì lời nói và chủ đích của họ đã có kết quả. Xin hãy thản nhiên thì lời vu oan sẽ tự nó tan biến vào quên lãng.

*Để thấy lỗi người, ta hãy làm như người mù. Để nghe lời chỉ trích người, ta hãy làm như người điếc. Để nói xấu người, ta hãy làm như người câm. Xin hãy đóng bớt những cánh cửa mắt, tai, mũi, lưỡi lại để tâm ta được thanh tịnh hơn.

*Xin hãy như sư tử, không run sợ trước thử thách. Xin hãy như hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Xin hãy như luồng gió để khỏi mắc dính vào màn lưới.

*Xin hãy sẳn sàng đón nhận những bùn dơ mà người ta có thể ném mình, thay vì mong đợi người ném hoa. Có như vậy chúng ta sẽ không bị thất vọng.

Xin hãy bình thản khi được khen cũng như lúc bị chê.

*Xin hãy làm việc, hãy phục vụ; chứ đừng chỉ mãi lo đến việc thọ hưởng.

*Đức Phật vì một đại sự nhơn duyên mà thị hiện ra nơi đời: Nhằm giúp mở bày và chỉ dạy cho chúng sanh cái tri kiến Phật; để từ đó chúng sanh được giác ngộ và thể nhập vào tri kiến Phật.

*Chớ làm việc ác, chăm làm việc lành và luôn giữ ý cho trong sạch.

*Để có thanh tịnh, xin đừng oán hận ai, đừng bài báng ai và cũng đừng tranh tụng với ai.

*Xin hãy đừng chấp, đừng chê, mà hãy hướng dẫn một cách khéo léo.

*Đa nghi là mẹ đẻ của thất bại. Nghi pháp thì chẳng học đặng pháp, còn nghi thầy thì sẽ chẳng bao giờ kính thuận thầy.

*Nghe pháp chẳng nhàm chán thì giác ngộ được pháp bất khả tư nghì. Nghe pháp nên cung kính, chăm lòng nghe. Chẳng vì chỉ trích, tranh luận mà nghe. Chẳng vì muốn hơn thua mà nghe.

*Thà là ta học ít mà hiểu thông được nghĩa lý, còn hơn là học nhiều mà chẳng thông.

*Xin hãy làm thầy tâm, chứ đừng để tâm làm thầy ta.

*Khổ, không, vô thường, vô ngã, vô đại, vô tiểu, vô sanh, vô diệt, nhứt tướng, vô tướng, pháp tánh, pháp tướng xưa nay vắng lặng, chẳng đến, chẳng đi, chẳng ra, chẳng vào.

*Miệng ta chính là cây búa tạ, mỗi ngày nó bằm chém thân ta không biết là bao nhiêu lần. Biết như vậy, xin hãy khép bớt nó lại để vừa yên thân ta mà cũng yên thân người.

*Có lòng tin mà không hiểu giáo lý thì vô minh tăng trưởng. Hiểu giáo lý mà không có lòng tin thì dễ sanh tà kiến.

*Lòng tin phải là sự kết hợp của từ cái nghe cái thấy và cái suy nghĩ mà tin, thì mới gọi là lòng tin đầy đủ.

*Bồ Đề tâm là con đường lớn, là con mắt sáng soi rõ chánh tà, là con suối mát trong sạch gột rửa dơ bẩn và phiền não.

*Tâm tạo tác tất cả. Tâm ác thì vướng khổ. Tâm thanh tịnh thì tự nhiên an lạc không tìm mà đến.

*Nếu ta lấy hận thù mà trả hận thù thì hận thù càng chồng chất. Chỉ có từ bi mới trừ được hận thù.

*Nhà lợp không kín ắt phải dột, tâm ta không tu ắt tham dục sẽ lọt vào.

*Nếu tâm ta không an định, không am hiểu chánh pháp, không tín tâm kiên cố thì không thể thành tựu được trí tuệ cao siêu.

*Nếu tâm ta thanh tịnh, chẳng hoặc loạn, chẳng còn thiện ác, chẳng còn dong ruổi, không là Niết Bàn chứ là gì?

*Kẻ thù tác hại kẻ thù, oan gia tác hại oan gia; chẳng bằng cái tác hại của tà tâm.

*Tu mà còn giải đãi, thì cũng giống như đêm trường cho kẻ mất ngủ, hoặc giống như đường dài cho kẻ lữ hành kiệt sức vậy.

*Ngu mà biết ta ngu, ấy là trí. Ngu mà tự xưng là trí, ấy mới thật là ngu.

*Không biết mà oang oác, ấy là cách hành xử của kẻ ngu. Biết mà chịu lắng tai nghe, ấy là cách hành xử của bậc trí.

*Kẻ ngu xuẩn thường ham muốn danh tiếng mà chẳng bao giờ được toại nguyện.

*Ngàn câu vô nghĩa luộm thuộm, chẳng bằng một chữ có nghĩa.

*Thắng ngàn quân địch không bằng tự thắng tâm ta.

*Xin hãy làm người lớn, chứ đừng làm con nít lâu năm.

*Sống trăm năm mà phá giới buông lung, chẳng bằng sống một ngày mà trì giới và thiền định.

*Tâm chứa ác sự, ắt thọ khổ. Tâm chứa thiện sự, ắt thọ lạc.

Nếu ta biết đủ thì ta luôn luôn sung sướng. Nếu ta biết nhịn nhục thì ta luôn được yên thân.

*Ở với người tốt giống như vào vườn lan, ở lâu mình cũng thơm lây mà mình không hay. Ở với kẻ xấu như vào nhà xí, ở lâu một hồi, mình cũng thúi mà mình nào có biết.

*Hãy lên trăng chứ đừng theo ngón tay chỉ trăng.

*Chưa dứt được tham, sân, si thì hãy khoan nói đến giác ngộ.

*Chê người, khen mình là trưởng dưỡng bản ngã, ganh tị, hiềm khích và nhỏ nhen.

*Được khen, hãy khoan vội mừng, mà hãy xem coi ta có xứng đáng được khen không. Bị chê cũng chớ vội buồn, phải tự xét coi họ chê ta có đúng không.

*Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Chỉ có điều là ta không biết làm sao để tìm về cái Phật tánh ấy mà thôi.

*Người biết tu, mỗi khi phạm lỗi là biết lắng nghe và biết sửa. Kẻ u mê, khi phạm lỗi chẳng những không sửa mà còn qui lỗi cho người khác nữa.

*Người cao thượng thường hay trách mình chớ không bao giờ trách người. Tuy nhiên, người biết tu không trách ai cả.

*Giàu sang vinh hèn ở trên cõi đời nầy tất cả chỉ là ảo ảnh.

*Nói hay hơn hay nói.

Đường đời càng đi càng mỏi mệt, nẻo đạo càng bước càng thanh tịnh.

*Ôi tham ái, dục tình, sân hận và đau khổ, xin hãy để yên cho ta đi vào cõi tịch tịnh của giải thoát.

*Thông minh, đừng khinh người. Có sức, đừng hiếp người. Lanh lợi, đừng dối gạt người.

*Thà nghèo mà chết trong trong sạch, chứ không tham sanh trong bất chánh.

*Khi cha mẹ còn sống phải hết lòng phụng dưỡng. Cha mẹ khuất bóng rồi phải hết lòng bảo vệ thanh danh của người. Tu theo Phật cũng vậy, nói là tu theo Phật mà không hành trì đúng những gì Phật dạy là phỉ báng Phật.

*Cha mẹ có làm điều gì lầm lỗi thì phải tìm cách êm đềm dịu dàng mà can ngăn.

*Muốn dễ tiến tu thì phải có suy tưởng, quả cảm và trí tuệ.

*Thân người khó được. Một khi mất thân nầy thì muôn kiếp khó tái hồi. Vậy hãy mượn thân giả tạm nầy mà tiến tu, chứ đừng để thời gian luống qua đi vô ích.

*Nếu ta không có tâm niệm trả thù thì làm gì ta có kẻ thù.

*Xin hãy vui vẻ giúp người làm việc đạo đức như chính mình làm việc đạo đức vậy.

*Xin hãy tùy hỉ công đức, chớ đừng vô duyên không thích kẻ có duyên, không tiền ghét kẻ có tiền cầm tay.

*Của bố thí dù nhỏ mà tâm bố thí rộng thì quả báo cũng tợ như núi Tu Di.

*Thấy người làm điều thiện, phải phát tâm hoan hỉ. Thấy ai làm việc ác, phải ra sức can ngăn.

*Nghe ai ca ngợi mình mà không thay đổi sắc mặt, ấy là người can đảm. Nghe người chê mình mà vẫn giữ được nét thản nhiên, ấy là can đảm.

*Pháp bổn pháp vô pháp. Vô pháp, pháp diệt pháp. Lìa hết tướng, tức là Phật.

*Chư Phật đã thị hiện, không một pháp trao cho các ngài, không một lần lấy tâm truyền thọ. Thì tại sao chúng ta cứ mãi lo cầu ngoại mà quên mất đi ta.

*Hể tham thì rơi vào quỷ đói, sân thì rơi vào địa ngục, si thì rơi vào súc sanh.

*Nước biển thuần một vị mặn, Phật pháp cũng chỉ thuần một vị giải thoát.

*Nhân không thể một mình sanh quả mà phải có sự trợ giúp của nhiều duyên.

*Có khi quả báo nhãn tiền, lắm khi quả báo trong nhiều đời sau.

*Yên lặng, trong sạch, sáng suốt không mê lầm, dũng mãnh, tự tại, thương xót, hy sinh, chân thật, vui vẻ, tốt lành ấy là bản thể của chơn tâm.

*Không một việc lành nào mà không làm, không một việc ác nào mà không tránh.

*Xin hãy sống tích cực với mình và với đời.

*Giải thoát chính là sống hoạt động, yên vui, sung sướng, và tự do hoàn toàn ngay trong đời sống hiện tại.

*Tự do đúng nghĩa của nó phải là tự do cả thân lẫn tâm. Thế gian không thể nào giải phóng con người thoát khỏi tham, sân, si; chỉ có Phật pháp nhiệm mầu mới làm được chuyện đó.

Trước khi tu phải có "chí muốn thành Phật," "Tự nguyện thành Phật," và "tự tin mình sẽ thành Phật."

*Tu tại chùa mà tâm vẫn vọng động, thì thà rằng ở nhà mà tu. Như vậy ta không làm phương hại đến người khác.

*Trong mọi hoàn cảnh ăn, ở và hành động đều theo lời Phật dạy, ấy là tu.

*Nếu ta cứ cho rằng ta bận làm ăn buôn bán, công danh, sự nghiệp mà chưa tu được, thì chừng nào ta mới tu được?

*Xin hãy nguyện suốt đời đi theo con đường mà Đức Thế Tôn đã vạch ra. Xin nguyện tránh xa tội lỗi. Xin nguyện làm tất cả những việc lành để được trọn nhân cách con người.

*Ôm lòng ái dục cũng giống như cầm đuốc đi ngược gió, không sớm thì muộn rồi ta cũng bị lửa đuốc đốt cháy tay.

*Không có tiền của thì người ta khổ, mà có tiền của đầy kho rồi người ta có hết khổ hay không?

*Người không có nghĩa thì đừng giao du, vật phi nghĩa thì đừng nên lấy.

*Không biết tu tâm sẽ sanh ra hung dữ, rầy rà kiện cáo, rối loạn, gia đình không hạnh phúc, đất nước chiến tranh.

*Từ tham dục nẩy mầm đau khổ và sợ hãi. Xin hãy cố tu và thoát vòng tham dục thì sẽ không còn đau khổ và sợ hãi nữa.

*Lo âu làm cạn khô năng lực và máu huyết ta nhanh hơn là tuổi già.

*Không có kẻ thù nào nguy hiểm cho bằng tham dục, đố kỵ và ganh ghét của chính chúng ta.

*Những tật xấu mà ta nhìn thấy nơi người khác là phản ảnh bản tánh của chính chúng ta. Vì vậy trước khi nói lỗi người, xin hãy nói ra lỗi của mình.

*Xin đừng nên nói cái nầy của ta, cái kia của ta; mà chỉ nên nói cái nầy đến với ta, cái kia đến với ta. Như vậy chúng ta sẽ ít nuối tiếc những cái bóng mờ của thời huy hoàng không còn nữa. Từ đó chúng ta sẽ ít khổ hơn.

*Hạnh phúc thay cho những ai mưu tìm kế sinh nhai mà không bao giờ làm hại đến người khác.

*Lặng thinh cũng bị trách, nói ít cũng bị trách, mà nói nhiều cũng bị trách. Thế mới biết lòng của phàm phu.

*Thấy lỗi người thì dễ, nhưng lỗi của chính mình thì quả là khó thấy. Lỗi người thì mình quan sát kỷ lưỡng và tỉ mỉ, trong khi lỗi của mình thì tự mình che lấp.

*Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có một ai hoàn toàn đáng trách hay đáng khen.

*Loài dơi không nhìn thấy vào ban ngày, nhưng chúng lại nhìn thấy vào ban đêm. Những ai nóng giận cực độ thì sẽ chẳng nhìn thấy cả ngày lẫn đêm.

*Phương pháp tốt nhất để chống lại kẻ thù là hãy mang lòng từ tâm và thương yêu đến cho họ.

*Nếu không muốn có kẻ ngoại thù, thì trước hết chúng ta hãy tiêu diệt kẻ thù lớn nhất chính nơi ta.

*Xin hãy yêu thương những người ghen ghét ta.

*Người say lúc nào cũng chối bỏ lẽ phải, tự hủy trí nhớ và sức lực. Người say là kẻ thù của chính họ, là kẻ trộm trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Họ là kẻ ăn xin và là tai ương cho vợ con họ. Họ không là hình ảnh của một con người. Họ tự giết mình bằng cách tự cướp đoạt lấy sức khỏe của chính mình.

*Xin hãy để cho thời gian tự nhiên trôi qua. Chúng ta cứ sống, làm việc và dự tính. Lúc cười, lúc khóc, đừng bao giờ ém nhẹm nguồn tình cảm nơi ta.

*Người vô tâm thì lúc nào cũng đổ lỗi cho người khác. Người có một chút tâm thì tự trách mình. Người thật sự có tâm thì sẽ không trách ai cả.

*Làm hại người vô tội, ngay lành, trong sạch chẳng khác nào tự mình tung bụi ngược chiều gió. Mình sẽ lãnh đủ trước ai hết.

*Chừng nào mà mình còn nhìn người khác như là bằng mình, hơn mình, hoặc kém hơn mình thì chừng ấy tâm ta vẫn còn cố chấp và bất an.

*Khi ta ghét ai và ta tìm cách hại họ, ấy là ta đang bị họ sai khiến đấy.

*Sống giữa những kẻ thù ta mà ta không thù họ thì quả thật là hạnh phúc vậy.

*Sân hận sẽ không bao giờ dập tắt được sân hận. Chỉ có tình thương mới dập tắt được sân hận mà thôi.

*Nghịch cảnh và tai ương dạy ta kiên nhẫn và thiện chí. Ấy là những nấc thang đưa ta đến chỗ giải thoát.

*Xin hãy nên bày tỏ thiện cảm đối với những kẻ phạm lỗi vì thiếu hiểu biết.

*Con người sẽ không bao giờ tìm thấy thỏa mãn, ngay khi họ gồm thâu được cả thế giới. Thế mới thấy cái nô lệ của ta cho dục vọng.

*Không có gì xãy ra cho con người mà không có bàn tay của họ góp phần vào.

*Bạn không có giày đẹp để mang, còn người cụt chân thì sao?

*Khi gặp khó khăn lớn, hãy cố làm cho nó nhỏ đi. Khi gặp khó khăn nhỏ, hãy cố làm cho nó thành không khó.

*Xin hãy xa lánh tất cả những hành động tội lỗi, hãy cố gắng trau dồi cuộc sống bằng những hành động tốt và thanh lọc khỏi tâm trí những ý nghĩ bất tịnh.

*Nếu ta cứ tin vào tha lực giúp ta vượt qua những sợ hãi, bực dọc, băn khoăn, dục vọng thì chúng ta nào khác những đứa trẻ khi đang khóc được mẹ cho ngậm vú da hoặc đưa kẹo vào miệng là nín.

*Đời sống là một cuộc săn mồi bất tận. Thú lớn bắt thú nhỏ, người bắt thú, người mạnh hiếp người yếu. Cứ như thế mà tạo ra đau khổ cho nhau.

*Ở đời nầy có ai chịu để cho một người chưa từng quen biết thưởng phạt, tha thứ và cứu rỗi cho mình bao giờ?

*Chỉ tin vào tín ngưỡng mà không có kiến thức phân tách, có thể làm cho chúng ta trở thành cuồng tín.

*Đức Phật chỉ cho chúng ta cách giải thoát, chứ Ngài không thể nào giải thoát dùm cho ai cả.

*Không một ai có thể tạo sự thanh tịnh hay bất tịnh cho ta, ngoại trừ ta.

*Chúng ta không thể đạt được hạnh phúc hoặc an lạc khi còn chứa chấp giận hờn, oán ghét, và vị kỷ.

*Chân hạnh phúc là cảm giác vĩnh cửu của sự thanh tịnh, thỏa mãn và an tâm.

*Chúng ta đang gặt được những gì chúng ta đã gieo trong quá khứ và sẽ gặt những gì chúng ta đang làm.

*Khi chúng ta mở mang tâm trí qua thiền định, chúng ta sẽ ngưng những ham muốn của ngũ quan, sự lo âu sẽ giảm; tham dục nóng giận, và ghen ghét cũng sẽ không còn.

*Xin hãy can đảm chịu trách nhiệm về hành động của chính mình, hãy chu toàn nhiệm vụ và bổn phận đối với người khác. Ấy là chúng ta đang san bằng phiền não và đau khổ vậy.

*Một lời nói cao đẹp mà không có hành động tương xứng theo sau, thì chẳng khác gì hoa đẹp mà không có hương hoặc không kết trái vậy.

*Tu là vượt qua bến mê để đến bờ giác. Tự mình phải qua, chứ đâu có thể nào ta đứng ở bờ bên nầy mà kêu bờ bên kia phải chuyển qua cho ta.

*Về nương Phật, Pháp, Tăng không thôi chưa đủ, mà phải nương tựa cho được nơi chính mình.

*Có những điều lúc đầu ta cho là đúng thì cuối cùng lại sai, mà có những điều mà lúc đầu ta cho là sai lại trở nên đúng.

*Chơn lý không sợ bất cứ một sự thách đố nào, bởi lẽ chơn lý lúc nào cũng đúng.

*Lời chỉ trích giống như viên thuốc đắng, nhưng lại trị hết bịnh. Pháp của Phật khó trì bởi như ta lội ngược dòng, nhưng nó có công dụng giúp ta giải thoát.

*Nếu ta đến và đi mà chẳng giúp ích được gì, ví bằng chẳng đến.

*Ít nói là không hay nói những lời vô ích.

*Xin hãy đừng nói những điều xấu của người, mà xin hãy nói những điều tốt của người.

*Ở đời có hai điều trái ngược: Ta thích nghe chuyện xấu của người mà lại thích người nói tốt về mình thì làm gì có lẽ ấy.

*Ở đời người ta ganh ghét, thù oán, tị hiềm cũng chỉ vì quyền thế, tước vị, chí hướng và lợi lộc.

*Nếu không có đức kiên nhẫn thì không tài nào trị nổi sân si.

*Buổi sáng thì răn về sắc đẹp; buổi trưa thì răn về sân si; và buổi chiều thì răn về lòng ích kỷ bỏn xẻn. Đó là một ngày tu trọn vẹn.

*Lầm Lỗi mà tội không nặng bằng không chịu nhận lỗi.

*Cách báo thù hay hơn hết là không báo thù.

*Lầm lỗi mà biết sửa chữa là biết trưởng dưỡng hòa khí giữa mọi người.

*Thông minh, tài giỏi mà không ba hoa, ấy mới thật là thông minh tài giỏi.

*Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và sẽ thành tựu quả vị Phật nếu chịu khó công phu tu định.

*Hành ác thì xuống địa ngục; hành thiện thì lên cõi trời; mà thanh tịnh trong sạch là Niết Bàn.

*Ái dục tình thì ích kỷ, độc ác, chấp chặc, là sanh tử luân hồi. Ái chúng sanh là bình đẳng, chơn chánh, là lên đến trí huệ, là toàn giác.

*Ái dục tình là tà vạy, vọng động, si mê và vô minh. Ái chúng sanh là hành thiện, là đi đến trí huệ, là đi vào chơn như, là đời đời không thọ khổ.

*Trí huệ thì hành thiện, danh sắc thiện, lục nhập thiện, xúc thiện, thọ thiện, ái thiện, thủ thiện, hữu thiện, sanh thiện và tử thiện.

*Thấy chơn chánh, nghĩ chơn chánh, nói chơn chánh, làm chơn chánh, sống chơn chánh, siêng năng chơn chánh, niệm chơn chánh, và định chơn chánh là những nấc thang đưa ta đến chỗ tịnh tịch.

*Hành thiện là đi tới, hành ác là đi lui, trong sạch là giải thoát.

*Sanh ra làm người mà tự mình làm ác, xúi người làm ác, ưa chịu việc làm ác; tội ác không chừa, quả báo không sợ, tới đâu hay đó, sống chết mặc bây thì thà đừng sanh ra chi cho uổng kiếp người.

*Mắt thấy sắc không ưa thích, tai nghe tiếng động không ưa thích, mũi ngửi mùi không ưa thích, lưỡi nếm vị không ưa thích, thân xúc chạm không ưa thích, ý đối với các pháp không ưa thích thì đâu cần tu cũng đã là bậc vô thượng rồi.

*Đời người thật là như giấc mộng ảo hóa, như giọt sương đầu lá, như ánh điện chớp. Thấy đó rồi mất đó, chấp trước mà làm gì?

*Xin hãy kiêng cử các điều ác và hãy chuyên làm các điều lành.

*Ta chỉ cần thiên một chút thôi, hoặc về bên thiện, hoặc về bên ác, cũng đủ làm cho mặt biển chân như nổi sóng.

*Khi ta có được no mà để cho có kẻ đói lạnh thì ta tu ở chỗ nào? Người có tu mà làm ngơ trước những kẻ đói lạnh thì chắc chắn sẽ đi vào con đường tam đồ ác đạo.

*Công phu tu hành, nếu không thành Phật, cũng thành Tiên, thành Thánh. Sống đời phóng túng thì lưu chuyển khổ não trong tam đồ, lục đạo.

*Nếu nghe được một câu pháp mà ta chưa từng nghe, thì ta sanh lòng vui mừng còn hơn được châu báu.

*Nếu ta hay tin, biết tiêu trừ kiêu mạn, phát tâm liền thấy được Như Lai. Nếu còn dua vạy, tâm chẳng tịnh, ức kiếp tìm cầu khó gặp thay.

*Kiêu mạn, si mê, biếng nhác, không tin Phật pháp thì đừng bao giờ nói chuyện giải thoát.

*Chẳng u buồn với những thiên tai chướng nghiệp, vì những thiên tai chướng nghiệp ấy là những nấc thang đưa ta đến thanh tịnh và giải thoát.

*Xin hãy nghĩ rằng những người mà ta gặp đều giỏi hơn ta, thì lúc ta gần họ, ta sẽ học hỏi được rất nhiều ở họ.

*Mình muốn ai cư xử với mình ra sao, thì trước hết mình phải cư xử với họ như thế ấy.

*Ai cũng cho là mình tài giỏi và quan trọng hơn người, sự thật chỉ là những tưởng tượng trong tâm ta mà thôi.

*Có khi một nụ cười chỉ nở ra trong khoảnh khắc, nhưng người nhận nó sẽ nhớ suốt đời.

*Nụ cười là lều thuốc bổ cho kẻ mệt nhọc, là bình minh cho kẻ ngã lòng, là nắng xuân cho kẻ buồn rầu và là thứ thuốc mầu nhiệm để chữa lo âu phiền não. Vậy mà nụ cười lại không phải mất tiền để mua. Tại sao ta không để sẳn thật nhiều nụ cười bên ta?

*Ở đời nầy không nên phung phí bất cứ thứ gì, ngoại trừ lòng nhơn đạo và nụ cười. Vì lòng nhơn đạo và nụ cười nó chan hòa trong lòng người biết tu. Hai thứ ấy không thể mua được, không thể xin được, không thể mượn được, mà cũng không thể ăn cắp được. Tuy nhiên, hai thứ ấy chỉ có được từ cái tâm từ mà thôi.

*Nếu muốn người khác trốn tránh, chế giễu và khinh ghét ta, thì lúc họp mặt ta đừng bao giờ lắng nghe họ nói, mà chỉ nói hoài những điều mà ta muốn nói.

*Kẻ nào chỉ nói về mình mà không lắng nghe người là những kẻ thiếu giáo dục.

*Muốn được thiện cảm của người thì hãy nói với người ấy về sở thích và hoài bão của họ.

*Muốn được người thân thiện thì phải luôn luôn làm cho người khác thấy sự quan trọng của họ.

*Khi mới gặp tai nạn ta rụng rời, tưởng chừng như trời long đất lở; rồi bình tỉnh lại ta tự an ủi "tản tài tiêu tai," rồi lại an lòng với định mệnh, rồi chúng ta cũng sẽ trở lại trạng thái bình thường. Nếu ta biết được luật vô thường của đạo Phật, thì tâm ta lúc nào cũng ở trạng thái bình thường.

*Xin hãy ngửng đầu lên hít thở không khí trong lành và ánh sáng mặt trời, hãy mỉm cười với mọi người thân và xiết tay người quen biết. Đời là vô thường, xin đừng để phí thì giờ nghĩ đến kẻ thù.

*Xin hãy ngửng đầu lên trong can đảm, trung chính và vui vẻ; vì nếu trong mỗi cái kén đều có một con bướm chưa nở, thì trong mỗi chúng ta đều có Phật tính, chỉ đợi dịp phát huy mà thôi.

*Nếu ngày nào mà ta không có ý định mỉm cười, thì đừng nên bước ra khỏi nhà ngày hôm ấy.

*Một nụ cười không mất vốn, nó chẳng những không làm nghèo người phát ra, mà còn làm giàu người nhận nó.

*Xin hãy cho người cái mà người thích, đừng cho người cái mà ta thích.

*Ai biết đặt mình vào địa vị người khác, hiểu được tư tưởng và ý định của người, thì không lo gì không thành công.

*Xin hãy quên mình và thương người thì cho dù ta muốn có kẻ thù cũng không có được.

*Ai không quan tâm tới người khác, chẳng những sẽ gặp khó khăn thất bại trong đời, mà còn là người tai hại nhất cho những người chung quanh.

*Xin hãy ngưỡng mộ người, vì ai trong chúng ta cũng đều thích được ngưỡng mộ.

*Thói thường chúng ta thích được người chú trọng, chứ ít khi ta chú trọng đến người. Xin hãy chú trọng đến người khác hơn một chút nữa.

*Hạnh phúc ta không do ngoại vật mang tới mà là ở tự tâm ta phát khởi.

*Không có chi tốt, mà cũng không có chi xấu; tốt xấu đều là do tưởng tượng mà có.

*Chân mình cũng lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà vê chân người.

*Xin đừng bao giờ cho là người dở hơn ta, và luôn nhớ rằng tài ta chỉ là hạt cát trong sa mạc, hoặc chỉ là một giọt nước trong đại dương mà thôi.

*Xin hãy đừng dèm pha ganh ghét, mà hãy giúp đở thương yêu lẫn nhau.

*Mục đích của Đức Thế Tôn không phải chỉ để dạy cho ta biết không thôi mà còn muốn ta phải hành trì nữa.

*Cho dù cho ta có là ma vương ác quỷ đến đâu đi nữa, thì trái tim ta vẫn có những giây phút thương người và không muốn làm hại một ai hết. Biết như vậy, xin đừng hàm hồ kết luận về ai chỉ vì một hành động của họ.

*Xin hãy đừng phán xét gì ở người nếu ta chưa phán xét ta.

*Suy xét người theo lập trường của mình là chỉ gánh lấy thất bại. Xin hãy phối hợp lập trường của cả mình lẫn người.

*Xin đừng nói mãi với người cái mình muốn, xin hãy nói cái mà người muốn.

*Thô lổ chỉ đi với người ngu xuẩn mà thôi.

*Chỉ trích giống như một ngòi lửa, mà cái ngã chấp của con người là một kho thuốc súng. Gặp nhau tất bùng nổ, tai hại vô cùng.

*Muốn xét sự độ lượng của ai, nên coi cách hành xử của họ đối với kẻ ăn người ở của họ, chứ đừng xem cách họ đối xử với người trên cơ họ.

*Ai cũng muốn được nghe một lời khen hoặc chê chân thành, nhưng ít khi ta được cái đó lắm.

*Không ai ở đời nầy mà không nhờ cậy đến người khác.

*Nếu ta không muốn người khác làm cho ta đau khổ và phiền não, thì xin hãy đừng gây đau khổ và phiền não cho kẻ khác.

*Khen người là biểu lộ lòng khoan dung đại độ của ta. Nịnh người là một hành vi đê tiện, nó biểu lộ sự gian trá của mình để làm vừa lòng người.

*Cây ngả theo chiều gió. Cứ nhìn hành động hiện tại của ta là ta biết ta sẽ đi về đâu trong tương lai. Có một cách làm cho cây không ngả là dùng phương tiện chống đỡ. Có một cách để đi về nơi mà ta muốn đến, ấy là về nương nơi Tam Bảo và quyết tâm tu trì những lời dạy của Đức Thế Tôn.

*Áo dù dơ bẩn thâm căn, đem ngâm giặt trong chốc lát là sạch. Người dù làm ác đến đâu, đến lúc sắp lâm chung mà biết hướng thiện, thì tội báo cũng sẽ vơi đi.

*Tâm ta trong sạch và ngay thẳng thì ở đâu ta cũng không hổ thẹn, ở đâu ta cũng được người kính trọng.

*Luyện thép để bỏ chất rỉ sét cho thép được tốt. Học đạo thì bỏ tâm nhơ bẩn để cho tâm ta được trong sạch và thanh tịnh.

*Thói thường ta không khuất phục nổi ý mình mà lại muốn đi dạy người khác khuất phục ý của họ.

*Lời nói mà không mang lại lợi lạc cho người, cho dù nói chơi cũng không nói.

*Chẳng nghe nói nghe, chẳng thấy nói thấy; ấy là nói lời dữ cho người tranh cãi; nói thêm để hại người thì cho dù ta có tu đến ba a tăng kỳ kiếp ta cũng vẫn là quỷ.

*Lời nói thật ngữ là chẳng nói dối, chẳng nói nhiều. Lúc nào ta cũng giữ gìn lời nói và chẳng nên nói lời thô lỗ.

*Khen kẻ ác, được kẻ ác khen lại; hai bên đều là ác.

*Ưa dùng miệng đấu nhau, về sau đôi bên đều không yên.

*Chẳng tự cao, chẳng tâng bốc người, chẳng khen ngợi mình, chẳng khen ngợi người. Chẳng thiện, chẳng ác. Không giải thoát chứ là gì?

*Lúc tu chúng ta là những người lái xe; xe có ngừng hay không là do ta.

*Chỉ trích chỉ vô ích mà còn nguy hiểm vì nó làm thương tổn lòng tự ái của người và gây ra oán thù.

*Kẻ làm quấy oán trách đủ mọi người, mà chẳng bao giờ oán trách mình.

*Lạy Đức Thế Tôn ngàn triệu lạy, chẳng bằng thực hành rốt ráo lời dạy của Ngài.

*Còn chần chờ gì? Phật là Đạo Sư tối thượng, pháp của Phật là đuốc sáng, và chư Tăng là những chỉ đạo viên tuyệt vời.

*Khi nhìn một cái bông mới nở; người không tu thì khen hoa đẹp và muốn được một cái để ngắm; người mới tu thì nghĩ rằng hoa kia rồi sẽ tàn úa, rơi rụng, giống như chúng ta rồi sẽ già nua bịnh hoạn; kẻ tu lâu hơn thì nhìn hoa thản nhiên và tự tại.

*Hãy luôn mỉm cười với ta, với người. Cầu cho tất cả chúng sanh đều an vui và đừng bao giờ rơi vào ác đạo.



 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com