Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 2

10/02/201109:15(Xem: 2410)
Phần 2

Tổ Đình Minh Đăng Quang
ĐẠO PHẬT TRONG ĐỜI SỐNG TẬP I
Thiện Phúc

Tập 1 - Phần 2

26. TẠI SAO ĐỨC PHẬT LẠI DÙNG PHƯƠNG TIỆN ĐỂ KHAI THỊ CHO CHÚNG SANH?

Phương tiện là phương cách mà ta xử dụng để đi đến cứu cánh, trong đạo Phật là đi đến Niết Bàn. Tại sao Đức Phật phải bày ra phương tiện? Vì trí huệ của Phật rất thậm thâm cho nên hàng Thanh Văn và Bích Chi không sao hiểu nổi, cho nên Phật bày ra phương tiện là những thứ giúp cho ta dể hiểu về giáo pháp và cách hành trì để cho những ai thành khẩn tu học có thể giác ngộ được. Chính những phương tiện nầy đã khai thị và giúp cho chúng sanh xa lìa lòng chấp.

Vì chúng sanh sống trong đời ác trược nên Đức Phật phải dùng phương tiện nói Tam Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát), chứ mục đích các Đức Phật ra đời chỉ nhằm khai mở tri kiến Phật, chỉ cho chúng sanh thấy tri kiến Phật, làm cho chúng sanh nhận rõ tri kiến Phật và giúp cho chúng sanh đi vào con đường tri kiến ấy nghĩa là thành Phật. Vì vậy chỉ có một Phật Thừa là con đường dẫn chúng sanh đến quả vị Phật, không có hai mà cũng không có ba.

Mục đích của Đức Thế Tôn là làm thế nào dạy cho chúng sanh dứt được tham ái mê muội để hiểu được trí huệ bậc nhất của Ngài. Nếu Ngài chỉ nói Phật Thừa cho chúng sanh, họ không hiểu thấu thì làm sao mà tin cho được. Vì vậy có khi họ bị đọa vào ba đường ác và chìm mãi trong biển khổ. Nhưng Ngài nhớ lại những Đức Phật đời quá khứ cũng đã từng dùng phương tiện để giáo hóa chúng sanh, nên Ngài liền phân chia giáo pháp thành nhiều Thừa để cho hạng trí kém cũng tin theo được. Sự thật Đức Phật ra đời để chỉ bày chân lý chứ không phải chỉ cho chúng sanh pháp phương tiện. Tuy nhiên, không có những phương tiện, dù tầm thường, thì sẽ có rất it chúng sanh đến được bến bờ giác ngộ.

Tóm lại, đừng chấp lầm phương tiện và cứu cánh mà bị kẹt. Cứu cánh của chúng ta là thành Phật bằng bất cứ phương tiện nào. Từ những việc cúng dường, xây tháp, tạc tượng, niệm Phật, lễ lạy cho đến chấp tay lạy Phật... đều được Đức Phật xác định là những bước tiến dẫn đến giải thoát và giác ngộ.

27. TA HỌC ĐƯỢC GÌ Ở NGÀI TRƯỞNG LÃO XÁ LỢI PHẤT?

Ngài Trưởng Lão Xá Lợi Phất cùng thời với ngài Mục Kiền Liên đều là những môn đệ của Bà La Môn trước khi theo Phật tu học. Vì các ngài có cái duyên ở cạnh kề Đức Thế Tôn lúc còn tại thế, nên các ngài đã học được rất nhiều điều rất dễ thương đáng tôn quí từ Đức Thế Tôn. Có một hôm, một tỳ kheo vào cáo với Phật rằng ông ta đã bị chính ngài Xá Lợi Phất đã hiếp đáp. Đức Phật kêu ngài Xá Lợi Phất mà hỏi cớ sự, thì ngài Xá Lợi Phất không nhận mà cũng không chối. Ngài đã bẩm Đức Phật rằng con xin được làm bùn để nhận lãnh tất cả những gì nhơ nhớp của chúng sanh mà không một mải mai phiền hà, con xin được làm dòng nước để hòa tan những ô uế của chúng sanh mà không than trách, và con cũng xin được làm chổi quét để quét sạch những dơ dái bẩn thỉu mà không chút oán than.

Chúng ta có làm được như ngài Xá Lợi Phất không? Có chứ, nếu chúng ta thực tâm học hỏi ở ngài và nếu chúng ta không mê chấp những thương yêu, giận hờn, ganh ghét, mắng chửi...

28. KHAI, THỊ, NGỘ, NHẬP, LÀ THẾ NÀO TRONG PHẬT GIÁO?

Chư Phật hiện ra nơi đời vì muốn cho chúng sanh thấy, hiểu và hành trì Tri kiến Phật. Khai là mở ra cái tâm của Phật, Thị là chỉ cho thấy cái tri kiến Phật tức là chỉ cho thấy cái thấy của Phật, thấy như thật chứ không nhị biên. Ngộ là chính mình thấy được tri kiến Phật tức là chính ta phải thấy được cái thấy của Phật. Nhập là chứng vào đạo.

Khai và thị là chuyện của Phật, có nghĩa là Đức Phật sẽ khai mở ra cái tâm Phật và chỉ cho chúng ta thấy cái thấy của Phật. Còn ngộ và nhập là chuyện của chúng ta. Phật đã mở tâm "từ bi hỉ xả," còn chuyện thấy như Phật thấy là tùy thuộc ở mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, nếu ta không chịu thấy cái tri kiến Phật và không chịu biết cái "từ, bi, hỉ, xả" của Phật, tức là không chịu nhận cái khai thị của Phật thì đừng nói đến chuyện chứng đạo.



29. ĐẠO PHẬT CÓ MẤY THỪA?

Trong đạo Phật chỉ có một thừa duy nhất là Phật thừa. Tuy nhiên, trong thời Phật còn tại thế, Ngài đã đặt ra ba phương tiện để giúp chúng sanh giải thoát tùy theo căn cơ trình độ.

Hàng Thanh Văn tu theo Tứ đế (khổ, tập, diệt, đạo) Nhờ nghe pháp, tu hành mà được giải thoát khỏi luân hồi sanh tử.

Hàng Duyên giác không nghe pháp, không có thầy mà tự mình quán xét mười hai nhơn duyên mà thành đạo, mà giải thoát khỏi sinh tử.

Cuối cùng, Bồ tát là những vị thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh, nghĩa là những vị bồ tát, trên thì cầu Phật đạo vô thượng để giải thoát khỏi sinh tử, dưới thì phát nguyện độ thoát vô lượng chúng sanh để cùng nhau thoát khỏi biển khổ sinh tử.

30. TU BAO LÂU MỚI THÀNH PHẬT?

Có nhiều quan niệm cho rằng làm sao mà tu cho thành chánh quả ở kiếp nầy được, họa chăng là ở kiếp sau. Chính vì thế mà nảy sinh ra những "Thích Đại Khái" nghĩa là làm gì cũng đại khái thôi chứ không cần tinh tấn. Thói thường ta cũng chỉ tu lai rai thôi, tu tà tà và bỏ mặc cho thời gian vùi dập. Vấn đề không cần phải hỏi tu bao lâu mới thành Phật, mà hãy tự hỏi xem ta có nhiếp tâm tu hay không?

Nếu ta nhiếp tâm tu hành thì có thể ngay trong kiếp nầy ta sẽ được thanh tịnh, ấy tức là giải thoát. Tuy nhiên, tu để được giải thoát một cách rốt ráo cho mình và cho người là điều không đơn giản. Tu để được chứng quả A la hán có thể từ một đời đến 100 kiếp, để được chứng quả Bích Chi Phật có thể từ bốn đời đến 100 kiếp... Nhưng muốn thành Phật phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp. Như vậy tu có lâu lắm không? Xin thưa, lâu lắm, nhưng đừng vì thế mà chán nản, vì biết đâu ta đã tu được hai a tăng kỳ kiếp chín chín rồi, và bây giờ chỉ cần buông con dao xẻ thịt xuống là ta sẽ thành Phật.

Tóm lại, muốn tu cho thành Phật thì ta phải dứt khoát chứ đừng lừng khừng, tu từ từ, tu lai rai, tu giai đoạn và chờ kiếp sau tu tiếp.

Tu làm sao?

Làm bất cứ việc gì, lý thuyết và thực hành phải đi đôi với nhau thì mới có kết quả. Tu cũng vậy, nếu chúng ta chỉ thấm nhuần lý thuyết suông mà không thực hành thì cũng giống như người đang đói mà chỉ đem thực đơn ra đọc chứ không biết nấu thành những món ăn thì làm sao mà no? Một thí dụ khác nữa, giáo lý nhà Phật dạy ta ăn hiền ở lành, ta vẫn biết đấy, nhưng khi ra thực tế chúng ta vẫn dữ dằn, cọc cằn thì làm sao gọi là tu, và cho đến đời kiếp nào mới thành Phật đây?

Như vậy, muốn cùng nhau đi đến giải thoát và rốt ráo, chúng ta phải giúp đỡ nhau, dìu dắt nhau, thương yêu nhau. Đó là câu trả lời xác thực nhất cho câu hỏi phải tu làm sao.

Tu có khó không?

Thói thường thì chúng ta cái gì cũng muốn có, mà có được một cách dễ dàng cơ. Hể có việc gì hơi khó một tí là bóp đầu bức trán mà than khó. Việc tu của chúng ta cũng thế, trên lý thuyết thì dễ nhưng thực hành thì khó. Chúng ta phải tự nguyện phát tâm từ bước một, từ thân, rồi đến khẩu, rồi đến ý... Hãy bỏ cái "Thích Đại Khái" của chúng ta vào sọt rác đi mà tự đặt lại cho ta một cái tên khác hơn, chẳng hạn như "Thích Tinh Tấn," "Thích Viên Mãn"... và hãy tâm nguyện tu cho được chuyên cần tinh tấn để đạt được giác hạnh viên mãn.

Tu đến chừng nào mới được mới được an lạc và giải thoát?

Nếu có ai đó nói tu để kiếp sau được giải thoát thì người đó không tu theo đạo Phật, tại sao vậy? Vì tu theo đạo Phật là có giải thoát và giải thoát ngay từ bây giờ, trong kiếp nầy. Thế thì giải thoát là giải thoát cái gì, và giải thoát cho ai? Giải thoát trước tiên, là thoát khỏi những đau khổ phiền não, hoặc những gì làm cho chúng ta không an lạc và thanh tịnh. Kế nữa là giải thoát khỏi cái cảnh lộn lên lộn xuống trong biển luân hồi. Giải thoát cho ai? Cho những ai bị vướng mắc bởi đau khổ phiền não, luân hồi... Tuy nhiên, trước tiên ta phải tự giải thoát cho ta trước vì nếu chính ta còn vướng mắc thì có cỡi mở gì cho ai được. Chính ta không biết bơi thì làm sao cứu người chết đuối.

Hãy tranh thủ bất cứ thời giờ nào ta có để tìm cách giải thoát. Ta có thể rút ngắn con đường đi đến giải thoát mà chính chúng ta cũng có thể kéo dài con đường ấy đến vô tận. Thiền sư Nhất Hạnh đã gọi những cái nhơ nhớp kết tập tự kiếp nào trong tâm ta là "nội kết," nếu ta không tinh tấn tu tập thì không biết đến bao giờ ta mới thông được hết được những nội kết ấy để có được cái tâm thanh tịnh.

Tóm lại, hãy tu ở bất cứ đâu và vào bất cứ lúc nào. Thí dụ như lúc ta đang giặt giũ quần áo, ta cứ nghĩ rằng nội tâm ta nó cũng dơ, nó cũng đóng đầy những nội kết như bụi bặm đóng trên quần áo vậy. Mà quần áo dơ cần tẩy giặt còn tâm ta thì sao? Tâm ta lại cần được tẩy sạch hơn cả áo quần. Mất cái áo cái quần còn sắm cái khác, chứ còn mất cái tâm thì than ôi làm sao mà sắm cái khác đây? Nhưng làm sao để tẩy sạch những nội kết trong tâm? Đơn giản thôi, hãy nhiếp tâm chuyển hoán những cái xấu thành những cái tốt. Ấy là tu. Nghĩ được như vậy, niệm được như vậy là ta đang tìm cách giải thoát đó.

Một thí dụ điển hình cho giải thoát:

Trong đạo Phật "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng," tại sao vậy? Tại sao tất cả những cái có tướng đều là hư vọng mà ta lại sợ chúng? Cái gì có tướng là không hiện hữu, nói như vậy ta cũng hư vọng và cọp cũng hư vọng mà sao ta lại sợ cọp? Sở dĩ ta sợ cọp vì tâm ta không định thấy hình tướng lại cho là hiện hữu, rồi từ đó dẫn ta đến những thứ khác như cọp gầm gừ, móng cọp bén nhọn... và cuối cùng là ta sợ cái hình tướng đó. Làm sao để ta đừng sợ? Muốn đừng sợ, ta hãy lắng nghe những gì Phật đã dạy. Hễ cái gì có tướng là không hiện hữu. Muốn được vậy, tâm ta phải định, biết ta là ai, đang làm gì, biết ta đang đối diện với cái gì. Thì cho dù có hùm, beo, sử tử trước mặt, tâm ta vẫn tự tại. Như Đức Phật Thích Ca đấy, Ngài đã ngồi tịnh tâm giữa rừng với bao nhiêu nguy hiểm chực chờ, thế mà Ngài vẫn an nhiên tự tại.

Những người cố công tu nhưng vì hoàn cảnh đi lính chết trận, có được giải thoát không?

Phật đã dạy, tâm chúng ta như một cái cây trước gió, hể gió bấc thì cây ngã về nam, mà gió nồm thì cây nghiêng về bắc cứ như thế đến ngày cây ngã rạp thôi. Người tu cũng vậy, thân tâm quyết chí an lạc thì một mai có chết, trong bất cứ trường hợp nào, thân tâm vẫn hướng về an lạc.

Tóm lại đã qui y Tam bảo thì đời đời cũng sẽ được qui y Tam bảo. Nếu vì lý do nào đó mà phải bỏ nhục thân nầy, mà chưa được giải thoát, thì cũng sẽ trở lại hoặc kiếp trời hoặc kiếp người và tiếp tục cho đến khi giải thoát rốt ráo.

Khi tu, ta có thể hoán đổi số mệnh không?

Trong Phật giáo, không có cái gì được cải đổi từ bên ngoài, hoặc được định đoạt từ bên ngoài, tức là ta không nhờ ở ngoại lực. Đạo Phật quan niệm ba chiều nhơn quả. Muốn biết những gì ta đã làm trong quá khứ thì hãy xem những gì đang xảy ra cho ta ở kiếp nầy. Muốn biết những gì sẽ xảy ra cho ta trong tương lai hãy xem những gì ta đang làm bây giờ. Thiết tưởng đây là câu trả lời rõ ràng nhứt. Tuy nhiên, đừng băn khoăn cho cái số mệnh ta nó dài hay ngắn, thọ hay không thọ... Chúng chỉ là tạm bợ thôi. Đừng lầm tưởng ngón tay chỉ mặt trăng là cứu cánh, cứu cánh là mặt trăng, không phải là ngón tay chỉ mà cũng không phải là đường lên trăng. Tương tợ, cứu cánh của việc chúng ta tu là giải thoát, chứ không phải sống thọ hay không thọ.

31. GIÁO LÝ CỦA ĐẠO PHẬT

Giáo lý của đạo Phật bao gồm trong ba tạng kinh điển là Kinh, Luật và Luận. Kinh là những lời mà Đức Phật Thích Ca đã nói khi Ngài còn tại thế, nhằm dạy chúng sanh dứt trừ hết phiền não và đạt đến quả vị Niết Bàn. Luật là những giới luật mà Đức Phật đã đặt ra cho các đệ tử, nhằm răn chừa các điều dữ, tu tập các điều lành và trau dồi thân tâm cho thanh tịnh. Luận là những sách do đệ tử của Phật viết ra để bàn giải rõ ràng nghĩa lý mầu nhiệm trong kinh, luật, hoặc quyết đoán lẽ phải và tà kiến khiến cho người đời khỏi bị nhầm lẫn.

Tại sao lại gọi là đại thừa và tiểu thừa?

Thừa có nghĩa là chở hoặc là cỗ xe, ý muốn nói giáo lý của Phật có công năng như một chiếc xe đưa chúng sanh từ chỗ trần lao phiền não đến cảnh giới an vui thanh tịnh, từ biển khổ luân hồi đến Niết Bàn giải thoát. Đại thừa là cỗ xe lớn, chở được nhiều người còn tiểu thừa là cỗ xe nhỏ chở được ít người. Sở dĩ trong giáo lý, Phật nói là có đại thừa và tiểu thừa vì căn cơ và sự hiểu biết của chúng sanh không đồng nhau chứ đạo Phật chỉ có một Phật thừa, không hai mà cũng không có ba.

Ai cảm thấy chỉ có khả năng giải thoát cho mình thôi thì có khuynh hướng tiểu thừa, còn ai có khả năng tự độ cho mình và độ cho người để cùng nhau đi đến Niết Bàn thì có khuynh hướng đại thừa.

Đạo Phật đem lại cho chúng ta những lợi ích nào?

Đạo Phật đem lại cho người tu hành một quả vị là không bao giờ bị luật vô thường chi phối, là chơn thường. Đạo Phật còn mang đến cho ta một sự an vui toàn vẹn và bất tận, là chơn lạc. Ngoài ra, Đạo Phật còn có khả năng giúp ta diệt trừ những chi phối ràng buộc để đi đến giải thoát hoàn toàn, ấy là chơn ngã. Đạo Phật còn giúp cho người tu hành gạn lọc những ô trọc của cõi đời để được sống trong tinh khiết, ấy là chơn tịnh.

Tóm lại, đạo Phật không chỉ đem đến cho to lợi ích trong vị lai, mà là lợi ích ngay trong đời nầy. Nhờ tinh thần Từ Bi của Đạo Phật mà xã hội và nhân loại sẽ yêu thương nhau hơn. Ánh sáng trí tuệ của đạo Phật sẽ làm cho xã hội và nhân loại bớt si mê lầm lạc, thấy đâu là giá trị thật, đâu là phỉnh phờ giả dối. Cuối cùng, tinh thần bình đẳng của đạo Phật sẽ san bằng những bất công của xã hội, nhân loại và làm cho cảnh giới ta bà nầy được sáng sủa, an vui hơn.

Làm thế nào để đạt được những lợi ích vừa kể của đạo Phật?

Chúng ta đã biết rõ ràng những lợi ích của đạo Phật; tuy nhiên, nếu chúng ta không học và hành theo những gì Phật dạy thì chỉ giống như nước đổ lá môn, có bao giờ thấm đâu, và như vậy thì những lợi ích ấy sẽ chẳng bao giờ đến với chúng ta cả. Vậy muốn có lợi lạc, ta phải học giáo lý và cuộc sống đức hạnh của Phật, cố gắng thực hành cho bằng được những điều hay lẽ phải, những từ, bi, hỉ, xả, hoan hỉ, tinh tấn, thanh tịnh. Có học và hành theo đạo hạnh của Ngài thì chúng ta không đang trên đường giải thoát nữa mà chúng ta đang giải thoát đấy.

Cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ, Đức Thế tôn đã trình bày cặn kẻ quan niệm của Ngài đối với kiếp sống con người kinh qua những thực nghiệm mà Ngài đã thấu đáo. Trong ba tạng kinh điển, Đức Phật đã lấy con người làm tiêu chuẩn. Khi đề cập đến Phật giáo là đề cập đến con người qua quá khứ, hiện tại và vị lai. Phật đã nói rõ con người do đâu phát sanh, tại sao sanh ra và sau khi chết sẽ đi về đâu?

Mỗi người chúng ta đều có riêng một vũ trụ quan, và không vũ trụ quan nào giống vũ trụ quan nào. Tuy nhiên, chung qui không ngoài hai sự vui và khổ. Ai nhìn đời bằng con mắt vui tươi hạnh phúc ấy là lạc quan; còn ai nhìn bằng đau khổ chán chường, ấy là bi quan. Phật giáo khi quan niệm "Nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước bể cả" hoặc mạt sát thân nầy ô uế, bất tịnh, giả trá, tạm bợ... là bi quan yếm thế hay lạc quan? Để trả lời câu hỏi nầy, chúng ta hãy nhìn các nhà sư chân chính, nhìn gương mặt vui tươi điềm đạm, lúc nào cũng cười nói vui vẻ và hiền hòa, lúc nào nụ cười cũng chợt n· trên môi thì đủ thấy Phật giáo bi quan hay lạc quan.

Đức Phật vạch rõ cho chúng ta thấy những khổ đau, những bất tịnh và ô uế của con người không phải để cho ta chạy trốn những đau khổ và bất tịnh ấy, mà để cho chúng ta biết nhìn thẳng vào khổ đau để có sức chịu đựng, để tìm cách phá bỏ vĩnh viễn xích xiềng đau khổ.

Con người và cuộc sống luôn luôn mâu thuẫn. Làm con người ai cũng mong được sống lâu, trẻ mãi, và mạnh khoẻ không đau ốm. Nhưng cái thân tứ đại nó không cho phép như vậy, nó bắt chúng ta phải đau, khổ, bịnh, chết. Chính sự mâu thuẩn nầy là một nổi khổ vô tận của con người. Một thí dụ khác của sự mâu thuẫn là trong nắng hạn, ai cũng cầu mưa. Thế nhưng nếu mưa cứ đổ mãi, đường sá ngập lụt, hoa màu tàn rụi thì ta lại kêu rêu ta thán. Sự xung đột giữa tình cảm và lý trí cũng là một niềm đau khổ triền miên của con người.

Phật giáo nhận chân được sự đau khổ của chúng sanh, song Phật giáo cũng vạch ra những ưu điểm nơi con người: "Con người có suy tưởng, có quả cảm, có trí tuệ, nên dễ tiến tu." Đức Phật đã dạy: "Nhơn thân nan đắc." là thân người khó được, hoặc: "Thiên niên thiết thọ khai hoa dị, nhất thất nhơn thân vạn kiếp nan." tức là ngàn năm cây sắt trổ bông còn dễ, một phen mất thân nầy muốn được lại còn khó hơn cây sắt trổ bông. Chính vì vậy mà Phật giáo chủ trương tích cực tu tập một đời để nó đừng luống qua vô nghĩa.

Đức Thế Tôn đã dạy rằng đọa địa ngục thì quá khổ sở, ngạ quỷ thì quá đói khát, súc sanh thì ngu si, còn lên cõi trời thì quá sung sướng không thể tu được, chỉ có làm người là đủ điều kiện để tiến tu hơn cả. Đức Phật đã luôn nhắc nhở rằng con người phải nhận thức sự khổ đau là những chất liệu cần thiết để đắp xây ngôi đền đạo đức. Có hiểu được cuộc đời là xấu xa đau khổ, con người mới lo tìm cách sửa đổi từ nếp sống và tâm hồn cho tươi đẹp và trong sạch hơn.

Tóm lại, giáo lý của đạo Phật vạch cho chúng ta thấy rõ đau khổ gây ra bởi sự mâu thuẫn giữa con người và thiên nhiên, giữa tình cảm và lý trí. Nếu chúng ta tu hành thì chúng ta có thể xoay chuyển những mâu thuẫn ấy trở thành thuận hòa thì tự nhiên đau khổ phải vỡ tan. Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy những khổ đau nó tiềm ẩn nơi đâu để mà chúng ta có thể đương đầu và chịu đựng và tin mình có đủ trí tuệ, có đủ khả năng rứt bỏ ra ngoài sự ràng buộc khốc hại của nó. Bao giờ lý trí của chúng ta hoàn toàn làm chủ tình cảm là lúc ấy cơ hội diệt khổ sẽ không xa. Phật giáo dạy cho con người nhìn thẳng sự thật và nói thẳng sự thật. Phật giáo nói kiếp người là khổ đau, thân người là ô trược; nhưng ta phải mượn thân nầy làm con thuyền qua bờ thanh tịnh và an lạc.

32. NHÂN, THIÊN, THANH VĂN, DUYÊN GIÁC, BỒ TÁT VÀ PHẬT.

Chư Phật tùy theo căn cơ của chúng sanh mà thuyết pháp. Căn cơ của chúng sanh có khác, nên Pháp của Phật cũng có những mức độ khác nhau. Đối với những ai chỉ mong được hưởng phước thế gian, hoặc trong cõi trời, thì Phật dạy về Nhân thừa và Thiên thừa. Đối với những ai cầu được giải thoát khỏi sự sống chết, thì Phật dạy về Thanh Văn hoặc Duyên Giác. Riêng đối với những người có lòng từ bi bao la, mong muốn tế độ chúng sanh đồng thành Phật, thì Phật dạy về Bồ Tát thừa, tức là Đại Thừa.

Dù là tùy theo căn cơ mà giảng pháp, bản nguyện của Đức Thế Tôn vẫn là muốn cho khắp cả chúng sanh đều thành Phật Đạo. Đức Phật chia ra làm năm thừa chỉ là chỉ dạy cho chúng sanh từng bước, từ thấp đến cao để đi đến chỗ viên mãn: thành Phật đạo.

Thanh Văn là những người nghe hiểu Phật pháp. Thấy sự vật qua lăng kính đau khổ nên quyết chí tu hành theo Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) mà chứng quả. Tứ Đế là đạo lý căn bản của hàng Thanh Văn, đồng thời cũng là cơ sở của các đạo lý khác trong đạo Phật. Hàng Thanh Văn biết rằng tiếp tục luân hồi là khổ, nên hết tâm cầu đạo giải thoát. Hàng Thanh Văn hiểu rằng khổ tạo bởi nghiệp và nếu siêng năng tu tập thì có thể giải trừ.

Duyên Giác thừa là những bậc tu hành nhìn thấy hoa rơi, lá rụng mà nghĩ đến cái vô thường của vạn vật. Các ngài quyết chí tu hành theo pháp quán sát 12 nhơn duyên, phăng lần từ vô minh đến sinh tử diệt, rồi phăng ngược trở ra để được giải thoát. Phép nầy chủ yếu quán sát tất cả sự vật cho đến luân hồi, đều do nhân duyên hội họp lại thì gọi là sanh, nhân duyên tan rã thì gọi là diệt, sự thật vốn không có cái gì sanh, mà cũng không có cái gì diệt cả. Thí dụ tờ giấy là một hợp nhất của nhiều thứ từ cây thông ở rừng, người đốn thông, người chở thông về nhà máy, người thợ, hóa chất, v..v... Nếu thiếu một trong những thứ ấy thì làm gì có được tờ giấy. Quán sát như thế, thì nhận rõ được các tướng của sự vật đều giả dối, không thật, theo duyên mà khởi, rồi cũng theo duyên mà thay đổi, không có gì là chắc là thật cả. Các ngài thấy rằng nếu vô minh diệt thì hành diệt; hành diệt thì thức diệt; thức diệt thì danh sắc diệt; danh sắc diệt thì lục nhập diệt; lục nhập diệt thì xúc diệt; xúc diệt thì thọ diệt; thọ diệt thì ái diệt; ái diệt thì thủ diệt; thủ diệt thì hữu diệt; hữu diệt thì sanh diệt; sanh diệt thì lão, tử, ưu, bi, khổ não đều diệt. Như thế ta thấy rằng 12 nhân duyên của luân hồi là một dây chuyền liên tục, chuyền từ khâu nầy đến khâu khác, đời này đến đời khác. Đầu dây mối nhợ của cái dây chuyền nầy là vô minh; vậy thì hãy chặt đứt cái móc vô minh đi thì dây chuyền tự nhiên tan rã.

Bồ Tát thừa tức là đường tu của các vị Bồ Tát, nhằm tự giác, giác tha, đến giác hạnh viên mãn và thành Phật Đạo. Bồ Tát nhìn sự vật tánh không , tất cả sự vật đều do các duyên tương trợ lẫn nhau mà sanh khởi, nên không có thực thể. Chính vì thấy cái không có thực thể đó mà chư Bồ Tát đã thực hành hạnh "không chấp." Không chấp của cải của mình nên đem bố thí; không chấp thân tâm nên diệt được tham, sân, si; không chấp cái ta nên nhẫn nhục chịu đựng mà không thấy khổ... Các ngài sở dĩ có đủ trí huệ để đạt được chân lý vì các ngài luôn tinh tấn, không giải đãi, không dần dà làm việc thiện và tạo cho mình cái tâm an trụ. Đi đôi với những công hạnh giác tha, nghĩa là hiện ra nhiều thân trong các loài để hóa độ chúng sanh. Chỉ khi nào công hạnh giác tha được viên mãn thì công hạnh tự giác mới thật sự viên mãn.

Phật nhìn "chơn không hiện hữu," nghĩa là Phật nhìn các tánh, pháp hay sự vật từ xưa đến giờ tự nó nó vắng lặng, tự nó nó tỉnh. Chính những yếu tố bên ngoài, tức là những cái duyên đã làm cho vật thể trở nên động. Thí dụ như không khí tự nó nó rất tỉnh, nếu không có sự thay đổi nhiệt độ thì làm gì có gió. Nước biển tự nó nó lặng, nếu không có gió thì làm gì có sóng... Giống như con người vậy, thí dụ như mình đang ăn, có ai đến bảo sao anh, chị ăn hỗn, sao anh hoặc chị ăn đồ thừa đồ cặn. Ta đâm ra sân si mà chửi rủa thì quả thật giống như biển dậy sóng. Cái việc người ta bảo mình ăn hỗn hoặc ăn thừa, ăn cặn tự nó nó như nước vậy, nếu ta không vì sân si mà chửi rủa, mà khởi gió thì nước vẫn là nước chứ làm gì có sóng.

Tóm lại muốn hiểu thấu cái vắng lặng của các pháp, ta hãy nhìn chư pháp bằng cái nhìn của Phật: "Chư pháp tùng bổn lai, thường tự tịch diệt tướng." Chính Đức Thế Tôn đã khẳng định con người ta cũng thế, tánh cũng vắng lặng. Tuy nhiên những cái duyên từ bên ngoài sẽ có khả năng biến con người thành Bồ Tát hoặc thành quỷ dạ xoa. Ấy là do mình tự chọn lấy.

33. CHÚNG SANH NHÌN SỰ VẬT BẰNG CÁI NHÌN NHƯ THẾ NÀO?

Thói thường chúng ta nhìn sự vật bằng bề ngoài chứ không thấy được chiều sâu, mà nhìn bề ngoài thì làm sao mà thấu hiểu được hết nghĩa lý của nó. Nếu chúng ta nhìn bề mặt mà quên hoàn cảnh và điều kiện chung quanh, thì chẳng những chúng ta gây khổ não cho người mà còn cho mình nữa. Thí dụ như ta thấy con trai anh A chẳng lo học hành gì cả mà chỉ lo theo bạn bè băng đảng thì ta vội kết tội cho thằng nhỏ hư hỏng, chứ nếu ta chịu khó nhìn hoàn cảnh và điều kiện xung quanh thì biết đâu ta sẽ biết rõ hơn lý do tại sao thằng bé lêu lỏng. Nó lêu lỏng có thể vì anh chị A chỉ lo vật chất mà quên mất đi cái phần tinh thần là cái phần rất cần thiết cho cuộc sống. Lại nữa anh chị A có thể là nạn nhân của một sự giáo dục sai lầm... Xa hơn nữa, nếu ta nhìn hoàn cảnh gia đình và trường học khác nhau có khi làm xáo trộn thằng bé, ở nhà cha mẹ dạy một đàng vào trường thầy cô dạy một nẻo. Với cái nhìn thô thiển như vậy rồi hàm hồ kết luận và đem về áp dụng cho chính gia đình mình thì quả tình tự mình đã tạo khổ cho mình.

Đức Phật nhìn cái xác phàm nầy là tạm bợ, được cấu tạo bởi đất, nước, lửa, gió. Còn chúng ta nhìn cái xác nầy bằng hình tướng mập, ốm, cao, thấp, đẹp, xấu... Chính cái nhìn biên kiến nầy mà vợ bỏ chồng, chồng bỏ vợ, người khen ta, ta chê người... và gây ra biết bao nhiêu là khổ não. Muốn dứt hết phiền não thì ta phải tập bỏ đi cái nhìn biên kiến thiên lệch để nhìn sự vật trong trạng thái thực sự của nó.

34. CÁI GÌ ĐÃ TẠO CHO TA CÓ CÁI NHÌN BIÊN KIẾN?

Thật khó mà diễn tả cho được cái tâm của ta vì nó không có hình tướng, dài, ngắn, lớn, nhỏ, vuông, tròn, xanh, trắng, đỏ ... Ta không thể rờ mó nó được; tuy nhiên nhờ thấy được cái tác dụng của nó nên ta biết là ta có tâm. Tâm được cấu tạo ra sao và điều khiển thế nào? Người ta thường nói ta có tám cái tâm hay là tám cái Thức: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, ý căn, và tàng thức hay A lại da.

Trong tám thức trên "Ý" là khôn lanh và tính toán còn "ý căn" hay mạt na thức hay chấp ngã, nó là đầu mối của cái nhìn biên kiến và là gốc của mọi si mê phiền não. Còn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý giống như những công nhân và quản lý của một hảng xưởng mà thôi, ý căn sai bảo gì là làm đó.

Như trên ta đã biết ai là nguồn gốc của cái nhìn biên kiến. Ý căn là đầu dây mối nhợ, như vậy muốn có được cái nhìn như thị của chư Phật ta phải tu theo như chư Phật và quán vô ngã, phá trừ si mê chấp ngã và phiền não chướng. Khi ngã chấp và pháp chấp hết rồi thì phiền não chướng và sở tri chướng cũng dứt, thì quả vị Bồ Đề và Niết Bàn cũng sẽ không xa.

35. AI ĐÃ ĐƯA CHÚNG SANH ĐẾN CHỖ TRẦM LUÂN KHỔ HÃI?

Thật tình mà nói, ngoài ta ra có ai có thể đưa ta đến chỗ trầm luân khổ hãi đâu? Nói như vậy có quá đáng lắm không? Có nhưng cũng không, vì nào có ai muốn mình trầm luân khổ hãi bao giờ, ngặc vì giặc gây ra khổ hãi phiền muộn nó ở tâm ta chứ ở đâu, nhưng chúng ta không biết chúng là ai thành ra chúng ta chẳng những không trị được chúng mà thường là ta tiếp tay cho chúng nữa. Vậy thì chúng là ai và làm thế nào để tránh tiếp tay cho chúng.

Trước hết nói về tham lam. Tham lam là tánh hay để ý rình dòm những gì của người mà ta ưa thích rồi lửa dục nó thúc ta tìm cách đoạt lấy. Sự tham lam là vô cùng vô tận, tham cho ta, tham cho vợ ta, cho con ta, cho thân bằng quyến thuộc ta... Những cuộc xâu xé tranh giành và ngay cả chiến tranh chung qui cũng tại lòng tham mà ra. Là Phật tử nếu ta tự xét ta có tánh tham thì phải gắng tập cho được cái câu "Thiểu dục tri túc" nghĩa là ít ham muốn mà thường hay biết đủ. Có như thế tâm ta sẽ thanh tịnh hơn và ta sẽ cảm thấy hạnh phúc với những gì mà ta có.

Sân là sự nóng nảy. Người có tánh nóng nãy gặp những gì trái ý thì bực dọc, mặt đỏ rần hoặc tái mét trông hình tướng xấu xí vô cùng. Cái "sân" nhiều khi nó đưa chúng ta đến chỗ đánh đập chém giết lẫn nhau. Phật tử muốn diệt trừ cái "sân" trong ta thì phải tập tánh nhẫn nhục. Có nhẫn nhục rồi thì tự nhiên cái sân nó mất chỗ đứng trong ta.

Si là si mê hoặc vô minh tức là không sáng suốt. Đối với sự vật hiện tiền, tâm tánh mờ ám, không có trí huệ sáng suốt để phán đoán đúng hay sai, hay hoặc dở, tốt hoặc xấu, lợi hay hại... Chính cái si mê nầy nó đưa ta đến những hành động tội lỗi chẳng những có hại cho mình mà còn cho người nữa.

Trong ba thứ tham sân si, thì "Si" là độc ác hơn cả vì nếu trí ta sáng suốt phán đoán đúng sai kịp thời thì không có si mê u muội thì tham sân cũng chẳng làm gì đặng. Ta nên luôn nhớ: "Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì." nghĩa là ta không sợ cái tham sân nó khởi dậy trong ta mà ta chỉ sợ mình si mê giác ngộ chậm mà thôi.

Mạn là ngã mạn cống cao tức là phách lối, lấn lướt, hiếp đáp người. Con người ta vì ỷ mình có tiền bạc, tài năng và quyền uy mà khinh rẻ, hiếp đáp người khác, chẳng kính trọng người già cả. Bởi cái tánh hiên hiên tự đắc coi trời không bằng vun, ta là trung tâm của vũ trụ, nhìn quanh ta như chỉ có ta chứ không có ai khác (mục hạ vô nhơn) nên chẳng ai ưa. Thực tình mà nói, những kẻ ngã mạn cống cao nhiều khi họ đâu có tài cán gì, mà tại cái cố hữu của họ cho mình là hơn hết, mình là trung tâm của vũ trụ nên không kính phục ai. Hể cứ h· ra là oang oác (thùng rỗng kêu to). Cái gì của mình cũng hay, cái gì của người cũng dở từ đó chẳng chịu học hỏi. Những người ngã mạn cống cao rất tổn đức, ngày qua ngày tội lỗi càng chồng chất. Là Phật tử nên tự kiểm điểm chính mình xem ta có ngã mạn cống cao không, nếu có hãy diệt trừ nó đi, vì ngã mạn cống cao không bao giờ có chỗ đứng trong "từ bi hỉ xả" của nhà Phật.

Nghi là nghi hoặc, hay nghi ngờ. Nghi ngờ những đạo lý chơn chánh mà lại đem lòng tin những việc tà dại. Đối với những điều phước thiện lại do dự chẳng làm và chính cái nghi nó làm cản trở sự tu tiến của ta . Ta nghi cả những người đã dạy cho mình những tinh hoa của lẽ sống. Nhiều khi còn hàm hồ nghi ngờ và nói xấu thầy tổ nữa là khác. Từ cái nghi nó dẫn ta đến cái không chí tâm, mà chí tâm làm sao được khi tâm ta còn vướng mắc cái nghi. Tóm lại, những người có tánh hay nghi, đối với bạn bè không cả tin, trong gia đình không cảm thấy thân mật và gần gủi được ai cả, và từ đó tự mình cô lập mình với bên ngoài. Những người nghi còn vướng phải một tội khác nữa là tuy bên trong họ nghi, nhưng mặt ngoài họ vẫn giả nhân giả nghĩa, vẫn niềm nở với bạn bè, gây nên cảm giác không thật cho kẻ khác. Là Phật tử, ta nên cẩn thận trong trong mọi việc, không vội tin ai nhưng phải cương quyết diệt trừ cho bằng được cái nghi trong ta. Có như thế ta mới cảm thấy gần gủi với gia đình và bạn bè được.

Thân kiến hoặc là chấp thân. Ta thường hay chấp là ta có thật rồi trong đời sống hàng ngày cái gì cũng vì ta, tranh danh đoạt lợi cũng vì ta. Chẳng những tranh đoạt cho ta mà còn tranh đoạt cho gia đình và quyến thuộc nữa. Thật cái chấp thân là một tai họa vì bao nhiêu tranh chấp tương sát, chiến tranh đều do cái chấp thân mà ra. Phật tử nên sáng suốt nhìn thấy rằng thân nầy giả hợp chứ không thật có, để từ đó ta phá trừ đi cái thân kiến. Một khi đã phá được cái chấp thân rồi thì tự nhiên cái tánh ích kỷ vị ngã cũng sẽ không còn nữa, do đó mà ta sẽ có một cuộc sống đầy tình thương và vị tha.

Biên kiến tức là thấy có một bên hoặc chấp có một bên. Có người thì chấp rằng khi chết rồi thì mất hẳn vì thế giới bao la, không gian vô tận, chết rồi là mất, tội gì phải bỏ công bỏ của ra làm phước... Từ cái biên kiến đó khiến họ hưởng thụ, chứ chẳng muốn tu nhơn tích đức gì cả, họ thấy đời một khi chết rồi chẳng còn giá trị gì cả nên mặc tình làm những điều tội lỗi. Sở dĩ hằng ngày có những vụ tự tử cũng do nơi cái biên kiến ấy mà ra. Họ cho rằng chết là hết, là không còn đau khổ nữa nên mỗi khi gặp những ngang trái trắc trở, họ không trầm tỉnh sáng suốt để tìm phương giải quyết mà chỉ biết chết là hết, rồi đi quyên sinh. Cái biên kiến nầy nhà Phật gọi là "Đoạn kiến ngoại đạo." Thật ra người chết rồi không phải thường còn cũng không phải thường mất hẳn, mà tùy theo nghiệp lực lành hay dữ để luân hồi lên xuống, người Phật tử nên diệt trừ biên kiến.

Kiến thủ tức là bảo thủ sự hiểu biết sai lầm của mình. Hành vi đã sai lầm, ý kiến lại thấp thỏi nhưng lại không biết mà lúc nào cũng bảo thủ cho mình là hay, là giỏi, là đúng đắn hơn hết, ai nói cũng chẳng nghe, ai khuyên cũng chẳng chịu. Nhiều khi biết mình làm như thế là sai, nói như vậy là trật nhưng cứ khư khư giữ lấy cái của mình chỉ vì cái kiến thủ nó lấn lướt ta, đưa ta từ sai lầm nầy đến sai lầm khác và nên nhớ rằng tài của ta chỉ là một hạt cát trong triệu ức hạt cát khác của sa mạc mà thôi.

Giới cấm thủ nghĩa là cứ khư khư giữ lấy những điều cấm kỵ vô lý không phải là nhân giải thoát mà là chấp theo những tục lệ thế gian giết heo bò trong những kỳ giổ kỵ, hoặc thậm chí giết người để tế thần. Phật tử chân chính hoàn toàn chống lại những chuyện trên.

Tà kiến hoặc mê tín như thờ ông táo, bình vôi, xin xăm, bói quẻ, coi ngày, cúng sao, cúng hạn... Ta nên coi chổ tạo nhơn của ta lành hay dữ, chánh hay tà chớ không nên mê chấp vào mê tín dị đoan. Thật tình mà nói thì cái ông sao La Hầu hay Kế đô gì đó mà chiếu ta hoặc rơi trúng ta thì đâu phải một mình ta lãnh đâu mà cả trái đất nầy cũng lãnh đủ. Đừng nói chi Phật tử, ngay cả chùa chiền nhiều khi cũng bày ra xin xâm. Đó là những sai lầm tai hại của một số người hoặc vì tiền bạc hoặc vì kém hiểu biết mà nhẫn tâm biến ngôi chùa thành nơi làm thương mại. Là Phật tử chân chánh, chúng ta phải cương quyết dẹp tan những mê lầm tai hại đó.

Phật tử chúng ta nên biết rằng chính những tham, sân, si, mạn nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, và tà kiến đã xiềng xích trói cột chúng sanh vào phiền não và sanh tử luân hồi. Chính những thứ nầy đã sai khiến chúng sanh làm nô lệ cho đủ thứ thất tình lục dục, lăn lộn trong ba cõi dục, sắc và vô sắc giới hoặc quanh quẩn ở sáu đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thiên nhơn, và a tu la để mà chịu khổ.

Phẫn tức là tức giận trước việc gì. Do nghịch cảnh mà cái "sân" của ta nổi lên từ đó sanh ra cái "phẫn." Phẫn là giận nghẹn ngào chẳng nói ra tiếng, mặt mày tái mét, mất hẳn sự ôn hòa nhã nhặn. Có người phẫn vì tình duyên trắc trở, muốn mà không được, bị cha mẹ cản ngăn, từ đó sanh ra giận, giận mình tại sao lại sanh ra trong gia đình nầy... Có khi phẫn vì ta thua người và cũng có khi phẫn vì ganh tị. Cổ nhân đã nói "dĩ hòa vi quí" ôn hòa nhã nhặn là cái quí. Là Phật tử, mỗi khi tức giận nổi lên, phải định tâm niệm Phật để dằn nó xuống và giữ cho được chữ "hòa."

Hận hay hờn, có lúc hờn mát nghĩa là hờn một chút, có lúc hờn thiệt nghĩa là hờn hoài không bỏ, hờn thâm xương. Dù hờn mát hay hờn thiệt thì cũng chỉ làm khổ ta mà thôi, vì người manh tâm hờn thấy cái gì cũng chướng tai gai mắt, thấy ai cũng muốn gây, thấy cái gì cũng không vừa ý mình. Là Phật tử ta nên luôn nhớ: "oan gia nghi giải bất nghi kết" nghĩa là việc oán thù nên cởi mở chớ không nên trói cột thêm. Có làm được như vậy tâm ta mới thanh tịnh, lòng ta mới có được "từ bi hỉ xả."

Não là buồn rầu ray rứt, từ giận đến phẫn, hờn rồi não. Chính phẫn, hờn, và não chúng làm cho lòng ta không vui được rồi từ đó cứ cằn nhằn cửi nhửi không muốn hỏi han ai mà cũng không muốn ai hỏi han mình. Có ai hỏi thì nói xui xị, cộc lốc, hoặc nếu có ai đụng đến mình là mình gây liền. Thật tình mà nói cái "não" hoặc buồn man mác nầy, tuy nó không ra gì nhưng chính nó đã làm khổ ta và những người quanh ta.

Phú là che dấu những tội lỗi của mình làm và không chịu phát tâm sám hối. Mấy ai mà không phạm lỗi, có điều là mình có biết mình đã phạm lỗi hay không. Khi ta biết ta phạm lỗi thì ta có cơ may sửa chữa những lỗi lầm đó, mới biết những di hại của nó mà không dám tái phạm nữa. Còn người che dấu tội mình giống như đi trong u minh vậy, đâu có thấy đường sá gì. Đến khi đụng phải vật gì, đầu bể, sứt trán thì việc đã xong rồi.

Tật là tật đố hay ganh ghét. Thấy ai hơn mình là ganh ghét nổi lên. Thấy người vinh hiển thay vì tùy hỉ mà vui với người thì mình lại lấy làm xốn mắt, khó chịu trong lòng, lộ ra cử chỉ nhún trề. Đây là loại tiểu nhơn đê tiện. Là người Phật tử phải cố dẹp tật đố đi để vui với cái vui của kẻ khác, thấy ai giỏi ta phải xem xét coi ta phải học ở họ những gì và ta phải nên làm những gì để được giỏi như họ.

Xan là bỏn xẻn, rít, keo kiết. Hạng người nầy lúc nào cũng bo bo xếp kỹ từ cây kim sợi chỉ, có một đồng phải bằng mọi cách kiếm thêm một đồng nữa để được hai, chứ có đời nào chịu bố thí cho ai. Biết được nghề hay chỉ khăng khăng giữ lấy chứ không dạy cho ai, nếu có dạy thì cũng chỉ sơ xài thôi. Những người như vậy chỉ biết dự trử từ thức ăn, vật chất, của cải, tiền bạc đến nổi hư mụt, hoặc bị mối ăn rồi trách đất kêu trời. Hạng người keo kiết nầy lúc sống thì chẳng ai ưa mà lúc chết thì thành ngạ quỷ để chịu cảnh đói khát lạnh lẽo.

Cuồng là dối gạt người, vì danh lợi mà đi dối gạt người hiền hậu thật thà. Có rất nhiều người đã dùng "khẩu Phật tâm xà," chuyên môn gạt gẫm lừa phỉnh người khác. Là Phật tử nên tự kiểm điểm lại coi mình có cuồng không để mà sửa đổi tu tâm.

Kiêu là kiêu căng, ỷ mình có danh vọng, tiền tài, uy quyền rồi đâm ra kiêu căng. Gặp người không thèm tiếp, chẳng chào hỏi. Ai hỏi chẳng trả lời, hiên hiên tự đắc (mục hạ vô nhơn). Người kiêu căng thì chỉ tự làm tổn âm đức thôi. Là Phật tử nên tự xét lại mình mà bỏ đi tánh kiêu căng.

Siểm là bợ đở, a dua, nịnh nọt. Đối với mgười giàu có quyền thế nhà cao cửa rộng thì nịnh bợ chìu luồn cho được lòng người. Cố gắng trau chuốt lời nói không thật để nịnh hót, làm bộ cung kính khen ngợi người để lợi dụng tiền của hoặc công lao của người. Phật tử nên nhớ đừng bao giờ lợi dụng ai bằng siểm nịnh.

Vô tàm tức là không biết xấu hổ. Người vô tàm thì việc gì cũng dám làm, không phân biệt phải trái.

Vô quí tức là không biết thẹn khi làm việc sai quấy với ai, thấy người hiền không biết kính trọng, gặp việc phải chẳng màng, làm việc quấy không sợ người chê cười. Chính vì những điều đó mà tội lỗi ngày càng chất chồng.

Điệu cử là lao chao có nghĩa là tâm tính không trầm tỉnh. Ngồi chẳng yên như con lật đật, đùi rung bần bật, nói năng lắp bắp mà oang oác, cười cợt không ngừng, tánh tình không ra người lớn chút nào. Là Phật tử ta quyết không làm con nít lâu năm.

Hôn trầm tức là mờ mịt. Trong khi thiền, cũng như lúc nghe kinh một lát là mơ mơ màng màng, ngủ chả phải ngủ mà tỉnh chả phải tỉnh, vì tai vẫn nghe nhưng chả hiểu gì cả.

Tán loạn là rối loạn, tâm trí dong ruổi không định do đó không sanh trí huệ là không đoạn được vô minh.

Tất cả những điệu cử, hôn trầm và tán loạn nầy là những chướng ngại rất lớn cho những người tu học.

Phóng dật là buông lung, không biết tự kềm hãm lấy mình, không giữ giới pháp mà mình đã thọ. Người đời vì buông lung mà sanh ra cờ bạc, rượu chè, ăn chơi, phá tán để rồi đi đến tán gia bại sản.

Bất tín là không tin. Không tin ở nhơn quả tội phước, không tin điều hay lẽ phải, không tin giáo pháp chơn chánh của thánh hiền. Vì không tin nên không làm do đó mà sanh ra biếng nhác. Hạng người nầy tâm tánh thường đen tối.

Giải đãi là biếng nhác không muốn làm từ việc nhỏ đến việc lớn, hoặc làm cẩu thả, hoặc làm nửa chừng rồi bỏ.

Thất niệm nghĩa là không nhớ hoặc không chăm chú, để ý đến việc làm của mình. Chính cái thất niệm nầy nó làm ta hỏng rất nhiều việc. Hãy cố gắng định tâm để diệt trừ thất niệm.

Bất chánh tri tức là hiểu biết không chánh đáng, hiểu tà vạy, hiểu mê lầm từ đó làm sai, làm trật. Phật tử mỗi khi làm việc gì phải phán đoán cho kỷ để tránh những hành vi không hay.

36. NHỜ ĐÂU MÀ TA ĐẾN ĐƯỢC BẾN BỜ CHÁNH ĐẴNG CHÁNH GIÁC?

Đức Thế Tôn đã khai thị cho ta, còn ngộ và nhập hay không là nhờ ở đạo quân trung thành bảo vệ và giúp đỡ ta. Vậy đạo quân ấy là những ai?

Tín là lòng tin. Đức Phật đã dạy: "Lòng tin là mẹ sanh ra các công đức." Vì có tin ở nhơn quả phước báo nên ta mới tránh dữ làm thiện vì có tin ta mới quyết chí tu học và giữ giới để khỏi bị đọa trong tam đồ ác đạo.

Tinh tấn là siêng năng. Đối với việc dữ, siêng năng dứt trừ, đối với việc lành siêng năng làm. Chính nhờ siêng năng mà nhiều thầy tổ đã chứng được đạo.

Tàm là sự xấu hổ. Có biết xấu hổ ta mới quyết tránh không làm những điều không phải.

Quí là thẹn với người. Là con người làm việc gì không đúng với lương tâm của mình thì biết xấu hổ, biết thẹn với người. Tóm lại biết hổ thẹn là đức tính tốt. Phật tử lúc nào cũng cần biết hổ thẹn thì mới tránh làm việc xàm bậy được.

Vô tham tức là không tham lam tiền tài vật chất vì biết các pháp vô thường. Không dục sắc đẹp, chẳng màng danh vọng chỉ biết an phận tùy duyên. Hể không có tham lam thì không có tranh giành tức là không có chiến tranh.

Vô sân là không nóng nảy, giận hờn. Sân hận là một là một tai hại rất lớn: "Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai" có nghĩa là niệm một điều sân hận thì trăm ngàn tội chướng đều sanh ra, hoặc "ăn nóng quá mất ngon, giận quá mất khôn." Không sân hận là một kiện tướng dẹp trừ phiền não. Hãy tu pháp quán "Từ Bi" để trừ lòng sân hận và được nhẫn nhục an vui.

Khinh an tức là thân nhẹ nhàng thơ thới, làm việc vui vẻ không mờ mịt, từ đó trí huệ mới sáng suốt và suy tính việc gì cũng mau ra lẽ.

Bất phóng dật là không buông lung, biết tự kềm thúc. Biết lo làm việc lành, không buông lung theo cờ bạc, rượu chè, phá trai, phạm giới, hoặc là những điều ích kỷ hại nhân.

Hành xả là làm mà không cố chấp. Nếu gặp điều trái ý làm cho ta đau khổ thì ta phải xả bỏ ngay thì ta mới không khổ, nhược bằng ta cố chấp thì lòng ta sẽ giữ mãi những bực tức nặng trĩu. Khi làm việc lành không nên cố chấp mà nhớ mãi, nghĩ mãi đến nó mà có khi sanh ra tánh tự cao, tự đắc, hoặc cho như thế là đủ rồi không cần làm thêm nữa.

Bất hại là không làm gì tổn hại cho ai. Nếu ta không làm được lợi ích cho họ thì thôi chứ không nên làm tổn hại. Luôn nhớ "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân" nghĩa là cái gì ta không muốn thì đừng làm cho kẻ khác.

Như trên ta đã phân định rõ ai là giặc phiền giặc não và ai là những trung thần giúp ta tinh tấn trên đường tu học. Lúc nào ta cũng nên nhớ rằng trí huệ Phật là do kết quả của sự tu hành nhiều đời nhiều kiếp và do sự gần gủi với chư Phật. Qua nhiều đời kiếp chư Phật đã biết diệt trừ những tên giặc phiền não và nuôi dưỡng những trung thần đã giúp các Ngài đạt thành chánh đẳng chánh giác.

Trí huệ của Phật rất sâu và hữu vô lượng môn. Trí huệ đó rất khó hiểu và khó vào. Tri kiến Phật rất rộng lớn sâu xa, vô lượng vô ngại, thập lực từ vô úy đến thiền định. Tri kiến Phật thì cho dù tất cả Thanh văn và Bích Chi họp chung lại cũng không suy lường được. Như vậy ta không thể dùng cái thế kiến của phàm phu để mà suy lường tri kiến Phật vì phàm phu nhiều khi chuyện thế gian mà còn chưa suy lường được huống hồ suy lường những tri kiến của Phật.

Tóm lại, tri kiến của Phật chỉ có "tu" mới được chứ không thể nào dùng thế trí mà suy lường. Tuy nhiên, ở đời nầy có rất nhiều hạng người tự cho mình biết nhiều và biết như thế là đủ lắm rồi. Đó là những "Thế trí biện thông" trong Phật giáo, hạng nầy chỉ chuyên gây phiền não và đau khổ mà thôi. Đi tới đâu cũng oang oác cho là mình biết hơn người và đôi khi còn cho là mình hơn các thầy nữa. Chẳng những họ tạo phiền não cho chính họ mà họ còn gây não phiền cho nhiều người khác nữa.

37. XUẤT GIA CÓ PHẢI LÀ PHƯƠNG TIỆN DUY NHẤT ĐỂ TU HAY KHÔNG?

Tôn chỉ của đạo Phật là giải thoát khỏi sinh tử và xuất gia là phương pháp tốt nhất. Tuy nhiên, xuất gia mà không thực tu và tâm còn chất chứa đầy não phiền thì làm sao mà giải thoát cho được. Đừng hiểu lầm vô chùa để xa lánh thế gian là tu, xa lánh những phiền não của thế gian là trốn chạy chứ không phải tu theo đạo Phật. Tu theo đạo Phật là phải biết cội nguồn của đau khổ, phiền não để mà diệt chúng. Trái lại, những người tu tại gia mà biết tìm cách giải thoát cho mình, cho người thì vẫn chứng quả như thường. Tuy là chưa được rốt ráo hoàn toàn nhưng cũng đã rất gần với cảnh giới giải thoát rồi.

Tóm lại, cứu cánh của chúng ta là thành Phật quả, mà xuất gia là một phương tiện tốt để đạt được cứu cánh và rút ngắn con đường tu của ta.

38. NGƯỜI TU NHÌN TRI KIẾN PHẬT NHƯ THẾ NÀO?

Tu là tập cho ta tâm địa thương yêu, bồ tát chứ đừng bỏn xẻn. Cứu cánh của tu là thành Phật và trong chiều sâu tâm hồn chúng ta ai cũng muốn đạt được quả vị Niết Bàn, ai cũng muốn thành Phật. Phật ở đây là sự giác ngộ, tỉnh táo, yêu thương và phước trí đầy đủ.

Khi tu, ta nhìn và thấy sự vật đúng như cái "như thị" của nó. Lúc giận ta biết ta giận và ta nói ta giận, khi ghét ai ta nói ta ghét... vì có nói được như vậy ta mới phân tích tìm hiểu lý do tại sao ta giận ta ghét... để từ đó ta có cơ hội sửa chữa. Lúc chưa tu thì chạy theo cái vui, buồn, thương, ghét. Lúc tu rồi thì cũng thấy những vui, buồn, thương, ghét đó nhưng không bao giờ chạy theo chúng.

39. TU VÀ ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY CỦA CHÚNG TA.

Một ngày nó chả là bao so với cuộc sống của chúng ta, nó lại càng chả có là bao so với kiếp, vô lượng kiếp, hoặc a tăng kỳ kiếp. Tuy nhiên, một ngày mà ta biết tu, một ngày mà ta chịu đi với Phật thì ta biết chắc là ngày đó ta không đi với ma vương ác quỉ. Ngày đó ta không đi với xấu ác, mà trái lại ngày đó ta đi với "từ bi hỉ xả," ấy là một ngày đầy ý nghĩa trong cuộc sống của ta.

Trong cuộc sống hàng ngày của ta trong cõi Ta Bà ác trược nầy, ta không cho một niệm xấu nổi lên ấy là ta được một niệm tu vậy. Tuy nhiên, chúng ta phải biết rõ mục đích việc tu của chúng ta, tại sao tu? Và tu đến bao giờ? thì chúng ta mới đạt được chánh quả. Làm cái gì mà không có mục đích thì sớm muộn gì ta cũng bỏ cuộc. Cuộc sống hàng ngày của chúng ta luôn có những hoàn cảnh làm cho ta phiền não khổ sở. Không khổ vì cái mắt thì cũng khổ vì cái tai; mà không khổ vì cái tai thì cũng khổ vì cái lưỡi. Không khổ vì cái lưỡi thì cũng khổ vì cái thân, cái ý... Những thứ nầy nó đưa ta lẩn quẩn trong bể khổ, khổ vì tai còn vướng tiếng, lưỡi còn vướng vị ngon, miệng còn oang oác, ý còn chạy rong.

Thực trạng đời sống luôn luôn có những đau khổ và phiền não. Muốn thoát khổ chúng ta phải tinh tấn tu học, tu làm sao cho sáu căn sáu trần của ta không tạo nghiệp chướng, không chạy theo cái lôi cuốn bên ngoài. Có như thế tâm ta mới thanh tịnh và cuộc sống ta mới an lạc, tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, nếu chỉ nói suông thôi thì biết cho đến bao giờ chúng ta mới thoát khổ. Chúng ta phải nổ lực để kiếm cho ra sự an lạc, phải công phu bái sám, thiền định... thì ta mới tìm được nó.

Hãy phát từ tâm với tất cả lòng thành, tùy cơ duyên mà áp dụng Phật pháp vào đời sống hàng ngày, tu và hành trì ngay trong từng bước đi, ngay trong từng lời nói. Đó là chân lý của cuộc sống vậy.

40. PHƯƠNG PHÁP HÀNH TRÌ - TU VÀ ÁP DỤNG GIÁO LÝ VÀO CUỘC SỐNG NHƯ THẾ NÀO?

Khi ta nói mà không làm thì đó chỉ là tư tưởng mà thôi, đến khi ta thực sự hành trì thì đó mới là sống thực với giáo lý. Ta hãy thử chiêm nghiệm xem thế nào là thiền quán? Thiền quán là phương pháp định tâm trong đời sống hàng ngày của ta, vì sao? Thiền giúp ta định tâm, để biết ta đang làm gì và từ đó trí tuệ ta sẽ sáng suốt hơn.

Thói thường nhìn đạo Phật một cách sai lầm, nhìn đạo Phật trên khía cạnh bi quan, yếm thế... nghĩa là ai chán đời mới đi tu, chứ họ không ngờ đạo Phật rất sống động và đạo Phật nó gắn liền với cuộc sống hằng ngày. Đạo Phật có đầy đủ "Bi Trí Dũng" và lòng từ bi của đức Phật có khả năng chuyển hóa những đau khổ phiền não thành thanh tịnh và an lạc. Đạo Phật dạy ta lấy ân báo oán thì oán cừu tiêu tan. Cho dù ta đến với cửa Phật với những ưu tư phiền não, nhưng với lòng "từ bi hỉ xả" của cửa Phật, những ưu tư đau khổ ấy cũng vơi đi.

Ta nên luôn nhớ rằng khi ta đối đầu với một vấn đề mà ta nhịn được ấy là ta đã tu, nhược bằng chưa được ấy là còn trầm luân. "Nhịn" không có nghĩa là ta thua, mà là nhịn để được an lạc như cổ nhân đã nói: "một sự nhịn có chín sự lành."

Tâm hãy bảo miệng bớt nói đi, nếu có nói thì nên nói những lời ái ngữ chứ đừng nói chuyện thị phi tranh chấp vì chúng chỉ đem đến khổ s· và phiền não cho ta mà thôi. Khi ta nói ra điều gì nên nói với một cái tâm hoan hỉ vì làm sao ta phát ra được ái ngữ khi tâm ta chất đầy sân hận.

Tóm lại, tu và hành trì kinh quả thật là không dễ. Tuy nhiên, nếu chúng ta chịu khó tu và hành trì, ấy là ta đã vượt qua được đại tam nan sự của chúng sanh rồi. Ấy là:

"Nhơn thân nan đắc; Phật pháp nan văn; và Chúng tăng nan hội."

Đó là ba điều rất khó thực hiện. Vì được thân ta đã là khó, gặp được Phật pháp lại càng khó hơn, và có cơ duyên được gặp chúng tăng thuyết pháp thì lại càng hi hữu hơn nữa. Ba điều khó nhứt ta đều được như vậy không lý nào ta hoài công mà bỏ mất cái cơ hội hãn hữu nầy.

41. CHÁNH NIỆM VÀ VỌNG NIỆM

Thường thì chúng ta không sống thực cho chúng ta, chúng ta không sống cho hiện tại mà tâm chúng ta cứ dong ruổi đến những vùng quá khứ hoặc chạy theo ảo tưởng của tương lai. Quá khứ còn đâu mà ta lại phí thì giờ hoài công vô ích, hãy để thì giờ đó mà sống cho hiện tại của ta. Cái mà chúng ta đang có thực là cái ngày mà chúng ta đang sống đấy. Còn tương lai nào ai mà biết được chuyện gì sẽ đến? Thế tại sao chúng ta lại phí thì giờ mơ tưởng đến nó. Tất cả chỉ là ảo tưởng ; tuy nhiên, ta luôn bị chúng vây quấn lấy hết ngày nầy đến ngày khác. Làm sao ta có thể nhất tâm chánh niệm? Điều nầy rất khó nếu ta không chịu tập thiền vì thiền sẽ giúp ta chú tâm vào cái gì ta đang làm để quán chiếu vào đời sống hàng ngày của ta. Thí dụ như lúc ta đi, ta biết lúc nào ta giở chân lên, bước tới và để chân xuống, ấy là ta đang có chánh niệm trong thiền vậy. Cái lợi lạc trước nhất là ta biết những chướng ngại vật để tránh mà không bị vấp ngả do đó mà đi đến nơi đến chốn an lành. Kế nữa, nếu ta thực hiện được như vậy tâm ta chỉ chú tâm vào những bước đi, không bị dong ruổi, không bị những vọng niệm vây quấn, ấy là ta đã có được chánh niệm vậy.

42. NGÔI NHÀ TÂM LINH

Ai cũng biết hình ảnh ngôi nhà và làm sao để xây dựng nó. Tuy nhiên đó chỉ là hình tướng và vật thể của ngôi nhà thế tục. Ngôi nhà tâm linh không như một ngôi nhà thường, nó không được dựng lên bởi vật chất mà bởi phúc đức và sự tu tập trong đời sống hàng ngày. Nếu ta không có một ngôi nhà thế tục để ở đã là khổ, phải vất vưởng lang thang nay đây mai đó, huống hồ tâm linh không nơi nương tựa thì thực là bơ vơ lạc lỏng.

Không riêng gì người Á đông chúng ta mà mọi người trên thế giới nầy đều cần có một ngôi nhà tâm linh vì nó là món ăn tinh thần, nó là chỗ cho tâm ta về nương. Mỗi cá nhân nên xây dựng cho chính mình một ngôi nhà tâm linh trong đời sống hàng ngày để có chỗ thanh tịnh và an lạc cho tâm ta.

43. NGÔI NHÀ TÂM LINH ĐƯỢC XÂY DỰNG NHƯ THẾ NÀO?

Bất cứ ngôi nhà nào cũng được dựng lên từ nền móng, tường vách và mái che. Tuy nhiên, nền móng của ngôi nhà tâm linh không xây bằng bê tông cốt sắt mà nó được xây đắp bởi năm giới cấm của nhà Phật. Như vậy chỉ có những ai phát nguyện trì giới mới có khả năng xây dựng nền móng của ngôi nhà tâm linh. Khi nền móng đã vững vàng rồi thì ta bắt đầu làm vách. Tường vách của ngôi nhà thế tục dùng để cản giông gió bụi cát từ bên ngoài, thì tường vách của ngôi nhà tâm linh giữ cho tâm ta đừng vướng bụi trần, giúp cho tâm ta định tĩnh đừng dong ruổi. Cuối cùng là mái che cũng là đỉnh chóp của căn nhà. Mái che của căn nhà thế tục dùng để che nắng che mưa, trong khi mái che của căn nhà tâm linh chính là trí tuệ của đạo pháp giúp ta vén cho được bức màn vô minh.

Những chất liệu để xây dựng nền móng của căn nhà thế tục là xi măng, sắt... thì chất liệu giúp ta xây dựng nền móng của căn nhà tâm linh là những giới cấm trong đạo Phật. Những giới luật nầy nó còn rắn chắc hơn cả bê tông cốt sắt. Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ và không uống rượu đều là những chất liệu tinh hảo giúp ta làm lành lánh ác, chúng quả là một gia tài quí báu giúp ta xây dựng tốt ngôi nhà tâm linh.

Ta dùng ván hoặc gạch để làm tường vách cho ngôi nhà thế tục, còn ngôi nhà tâm linh thì sao? Đức Thế Tôn đã nói tâm ta như con vượn chuyền cây, nó lao chao dong ruổi, nếu ta không tìm cách kềm nó lại thì ta sẽ mãi chịu khổ hãi phiền não vì nó. Đời sống vốn dĩ đã khổ bởi dây chuyền của khổ nghiệp và phiền não. Nỗ lực đừng để cho tâm ta dong ruổi không phải dễ, nhưng làm được. Đức Thế Tôn đã ngồi liên tục bốn mươi chín ngày đêm để được giác ngộ, vậy tại sao chúng ta không bắt chước theo Ngài mà xây dựng tường vách cho ngôi nhà tâm linh của ta bằng những sinh hoạt thiền quán. Thiền quán để chi? Để nhốt con vượn chuyền cây lại, để đừng cho nó dong ruổi nữa. Để cho tâm ta bớt lao chao và từ đó mà được định tỉnh hơn. Khi tâm ta được định tĩnh thì không lo gì, vì chắc chắn chúng ta sẽ có trí huệ của đạo pháp che chở ta trong những cơn giông bão trên đời.

Tóm lại, hãy trân trọng những sinh hoạt tu học, coi đó như những phương tiện giúp ta làm lành tránh dữ, bớt lao chao; chẳng những thế nó còn giúp cho tâm ta được định tỉnh, che chở ta qua những gió lửa của dục vọng bên ngoài. Chính những sinh hoạt tu học giúp chúng ta xây dựng ngôi nhà tâm linh vững chắc, mà khi đã có ngôi nhà tâm linh vững chắc rồi thì chuyện giải thoát đâu có xa.

44. LÀM CÁCH NÀO ĐỂ TÂM TA LÚC NÀO CŨNG CÓ CHÁNH NIỆM?

Tâm ta lúc nào cũng dong ruổi như con vượn chuyền cây, không lúc nào chịu ở yên một chỗ. Chính vì vậy mà ta phiêu lưu từ hết vọng niệm nầy đến vọng niệm khác, hôm nay ngồi đây mà tâm cứ nhớ đến thời quá khứ vàng son, hoặc mơ tưởng đến tương lai xa mờ. Làm thế nào để ta trút bỏ những vọng niệm để thật sự sống với chánh niệm của hiện tại? Chúng ta muốn được như vậy, chỉ còn cách duy nhất là phải tìm cách tu tỉnh lại, hoặc ở chùa, hoặc ở nhà, hoặc ở bất cứ đâu. Đừng hẹn, đừng đợi cho tội ác chồng chất lên đến già, hoặc đến hưu trí rồi mới tu. Nên nhớ rằng: "mồ hoang lắm kẻ tuổi còn xanh." Ta phải tự tạo cho ta cái duyên để được gần gủi Phật pháp và phải tu bất cứ ở đâu. Chẳng hạn như khi lái xe ta biết ta đang lái xe và chủ tâm vào việc lái xe, ấy là ta đang tu vậy. Hãy xem cái xe như là vị Bồ Tát đã giúp đưa ta an toàn từ chỗ nầy đến chỗ khác, từ đó tay chân ta sẽ dịu dàng lái cẩn thận và lái với cái tâm thanh tịnh, bình tỉnh và thong thả. Nếu trên xe có người, xin hãy vì họ, lái làm sao cho họ cảm thấy thoải mái sung sướng, chứ đừng để họ phải hoảng sợ mà phải luôn miệng niệm Phật. Hãy tập thiền ngay cả trong lúc lái xe để thấy cái vi diệu của nó. Xin đừng lầm tưởng "thiền" là mơ mơ màng màng, lái xe mà mơ mơ màng màng là chết sớm. Thiền ở đây là tâm thanh tịnh, tỉnh táo, biết ta đang làm gì; thiền là để chánh niệm chế ngự vọng niệm. Lái xe mà thiền có nghĩa là ta biết ta đang lái xe chứ không chen vào bất cứ vọng niệm nào. Lắm tai nạn đã xãy ra chỉ vì trong lúc lái xe mà tâm ta dong ruổi.

Tóm lại, thiền quán đúng cách sẽ giúp ta lúc nào cũng có chánh niệm. Mà thiền có thể được ở bất cứ nơi nào lúc nào, như vậy nếu ta muốn ta sẽ có được chánh niệm từ ngày này qua ngày khác hoặc năm nầy qua năm khác, hoặc mãi mãi.

45. TẠI SAO PHẢI CHUYỂN HÓA VÀ CHUYỂN HÓA NHƯ THẾ NÀO?

Chúng ta từ vô thỉ đã tạo bao nhiêu nghiệp chướng bởi lầm mê, chính vì vậy mà cứ luân hồi lên xuống. Giờ đây chúng ta muốn ngưng tạo nghiệp, ngưng luân hồi lên xuống thì chúng ta phải chuyển hóa lầm mê thành trí huệ. Bằng cách nào? Ta nên nhớ rằng muốn được trí huệ thì trước hết tâm ta phải thanh tịnh, muốn được thanh tịnh thì con đường sáng duy nhất là hãy đến trước đài vô Thượng Giác để hướng về ánh từ quang, lạy Phật tổ soi đường dẫn bước.

Hãy lạy Phật tổ mà sám hối bao tội ác gây ra bởi tham, sân si và thệ nguyện rằng từ nay lòng ta sẽ thanh tịnh, sẽ trì giới, sẽ phát tâm làm lành tránh dữ. Từ nay ta sẽ nương nhờ Tam Bảo mà vượt qua bể khổ. Tam Bảo với lòng đại từ đại bi thương xót chúng sanh sẽ giúp ta sạch được ba nghiệp "Tâm, thân, ý." Tam Bảo sẽ là đuốc sáng soi cho ta thấy đâu là chánh kiến, đâu là chánh niệm. Nhờ Tam Bảo mà mỗi khi buồn giận, ta biết định tâm niệm Phật, biết trở về hơi thở và biết dừng hẳn những tham sân si. Mở mắt thức dậy ta biết trân trọng những gì mà ta có trong đời, trân trọng những gì mà ta có ngày hôm nay.

Tam Bảo còn dạy cho chúng ta cái "Bi Trí Dũng" của nhà Phật nghĩa là biết làm cho mọi người thêm vui, bớt khổ; làm với cái trí huệ sáng suốt và lòng can đảm. Dám làm những điều thiện, tự tin, không nghi, không sợ tiếng vào lời ra; cho dù ai có nói ra nói vô, ta vẫn không bỏ cuộc. Hãy chiêm nghiệm lại hình ảnh của Đức Phật, cho dầu cực khổ cách nào, Ngài vẫn tinh tiến không lùi bước, đó chính là cái "dũng" của đạo Phật. Đức Thế Tôn dù bị vu oan giá họa, nhưng Ngài vẫn thẳng đường "Đại Từ, Đại Trí, Đại Dũng cảm" mà tiến tới.

46. NHỮNG GIỌT NƯỚC MƯA XUYÊN QUA ÁNH MẶT TRỜI

Tất cả các pháp của thế gian nầy chỉ là tạm bợ, cũng như tất cả những hoài bảo mà mình mong đợi chỉ là nhữ giọt nước mưa xuyên qua ánh mặt trời. Nhìn thì đẹp lắm, đủ màu đủ sắc, kim cương cũng không bì kịp, nhưng có ai bắt được chúng đâu, có chăng chỉ là những giọt nước làm mát tay ta trong giây lát chứ chả được gì. Chúng ta là thế đó, cứ mãi chạy theo dục vọng, ham muốn. Tại sao chúng ta cứ mãi chạy theo những ảo tưởng? Tại sao chúng ta chả bao giờ thỏa mãn với hiện tại? Ta cứ mãi cho là chưa đủ. Dĩ nhiên là trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta phải có những dự định, những toan tính. Nhưng xin đừng để những dự định ấy nó làm chậm trể sự tu học của ta. Đừng để phí thì giờ để bắt lấy những viên ngọc nước và đừng vịn vào bất cứ lý do gì để mà trì hoản việc tu học. Xin hãy sống thật với ta, xin hãy nhìn và học ở những vị bồ tát.

47. TẠI SAO CHÚNG TA NÊN PHÁT TÂM ĂN CHAY?

Trong cuộc sống hàng ngày nhiều khi ta muốn phát tâm ăn chay nhưng không được trọn vẹn vì chúng ta đi làm. Một đôi khi có tiệc tùng trong sở cũng như những giao tế hằng ngày làm sao mà tránh được. Nói như thế không có nghĩa là ta không phát tâm ăn chay. Đạo Phật tuy không bắt buộc Phật tử ăn chay, nhưng đạo Phật khuyến khích Phật tử nên phát tâm ăn chay, vì sao? Ăn chay là một nét đặc sắc của đạo Phật, là phát xuất từ lòng từ bi đối với tất cả mọi loại hữu tình. Ăn chay sẽ làm cho ta nhẹ nghiệp vì người ăn chay đa số không nghỉ đến sát sanh, từ đó thân tâm thanh tịnh và cuộc sống sẽ phấn chấn hơn. Khi ăn chay tức là ta đang gieo cái "nhân" tốt thì đương nhiên cái "quả" sẽ tốt thôi.

Tuy nhiên, nếu không ăn chay được thì cũng xin đừng sát sanh, tự mình sát sanh, chỉ huy sát sanh hay có ý nghỉ sát sanh cũng đều phạm vào giới thứ nhất của năm giới cấm trong đạo Phật. Không ăn chay được thì cũng xin phát tâm là ăn để sống, chứ không phải sống để mà hôm nay ăn gà tươi, ngày mai ăn vịt tươi, hoặc mốt ăn cao lương mỷ vị.

48. THÂN TỨ ĐẠI LÀ VÔ THƯỜNG, CHẤP CÓ NÓ LÀ TẠO THÊM NGHIỆP; CHỈ CÓ "TỪ BI HỈ XÃ" CỦA NHÀ PHẬT LÀ VĨNH HẰNG.

Chúng ta, xuất gia cũng như tại gia, đã có nghiệp, đang tạo nghiệp và sẽ tiếp tục tạo nghiệp nếu chúng ta không chuyển hóa được cái kiếp trầm luân ở cõi ta bà nầy. Những cái mà chúng ta đang mang ấy là giả tá. Thí dụ như cái thân tứ đại nầy do duyên tạo cho bốn cái đất, nước, lửa, gió nương nhau mà thành, nhưng chúng hay phản nhau mà gây đau khổ phiền não cho ta. Tỉ như vì lý do gì đó mà thân nhiệt trong người lên cao thì mắt ta hoa lên, tai ta lùng bùng, đầu thì nhức... Như vậy tự cái lửa nó phản bội ba cái kia mà gây đau khổ cho cái thân.

Như trên ta đã biết thân ta là giả tạm, là mượn; mà hễ giả, hễ mượn là không có thật. Nói cho đúng ra thân ta là tạm bợ mà thôi, có gì đâu mà phải chấp nó để tạo thêm nghiệp. Chúng ta có mấy ai nghĩ đến cái việc chúng ta đang chuẩn bị hoàn trả về cho tứ đại những gì của tứ đại? Chúng ta biết đó, nhưng hình như chúng ta có khuynh hướng phủ nhận những biến chuyển thay đổi trong cuộc sống của ta. Thí dụ như con người từ trẻ đến già, tất phải trải qua những chuyển biến rõ nét từ tóc đen đến tóc bạc, từ da thẳng má hồng đến da nhăn má hóp, từ răng chắc đến răng long... Chúng là những thông điệp báo cho chúng ta cái ngày chúng ta phải trả lại cái thân giả tạo nầy đấy. Chúng báo cho chúng ta thấy một ngày qua đi là một ngày chúng ta đi gần đến nhà mồ. Như vậy thì chúng ta đâu có nhiều thì giờ để suy nghỉ viễn vong về quá khứ và tương lai. Quá khứ có mang lại cho chúng ta những thứ mà ta cần không? Quá khứ nó ít khi mang lại cho chúng ta hạnh phúc, mà đa phần nó vừa làm ta mất thời giờ và vừa làm ta khổ. Còn tương lai có phải là những thực tế để cho chúng ta trân trọng không? Thưa không, trái lại nếu ta cứ mơ mộng với tương lai thì ta chỉ chuốc lấy thất bại và đau khổ mà thôi.

Nếu ngay bây giờ, trong hiện tại, chúng ta chọn lấy con đường ta đi và biết được điểm mà chúng ta muốn đến thì quả thật là hạnh phúc. Chúng ta hãy can đảm sống theo con đường "Từ bi hỉ xả" của nhà Phật, sống bằng cái hạnh của chư Bồ tát ngay từ bây giờ đi thì không đợi đến kiếp sau mà rất có thể ngay trong kiếp nầy chúng ta cũng được giải thoát.

Chúng ta chạy theo giàu sang, danh vọng, tiền bạc, của cải, tài sắc, quyền uy là chúng ta chạy theo cái gì? Là chúng ta chạy theo ảo ảnh đấy, mà hễ nói ảo ảnh là không có thật. Chúng ta sanh ra đời với hai bàn tay trắng với nợ nần của nhiều đời trước không chừng. Nếu không khéo đến khi lìa đời chẳng những với hai bàn tay trắng, mà không chừng đôi vai ta còn nặng thêm gánh của những nghiệp chướng trong kiếp nầy. Làm sao để ta có thể tránh được tình trạng chưa trả nợ cũ mà còn thêm nợ mới? Hãy tu đi, hãy sống theo con đường "Từ bi hỉ xả" của Đức Phật, hãy tập sống theo hạnh nguyện của chư Bồ Tát đi thì sẽ không mang thêm nợ của đời nầy, mà nếu có nợ nần của những đời trước cũng sẽ được giảm bớt. Tu là sao? Tu là biết dừng lại, để biết đừng chạy theo những ảo ảnh. Tu là biết ban vui cho người, tu là biết làm cho người bớt khổ đau phiền não, tu là biết vui theo cái vui của người, và tu là biết xả bỏ hay không chấp ngã.

Tóm lại, chấp cái thân vô thường là mang thêm nghiệp chướng và tiếp tục trầm luân sanh tử. Còn đi theo con đường "Từ bi hỉ xả" của nhà Phật là rốt ráo, là giải thoát, là Niết Bàn.



49. PHẬT GIÁO VÀ CUỘC ĐỜI

Phật giáo cũng như bất cứ một tôn giáo nào, đều có nhân sinh quan của nó. Nhân sinh quan là quan niệm về cuộc đời. Theo đạo Phật mà không biết cái quan niệm về cuộc đời của nó thì quả thật chưa phải là Phật tử.

Phật giáo quan niệm về đời sống con người như thế nào?

Cách nay hơn hai ngàn năm trăm năm, Đức Thích Ca Mâu Ni đã nói rõ rằng đời sống con người phải bao gồm quá khứ, hiện tại và vị lai. Ba cái này nó gắn liền nhau, hãy nhìn những gì ta đang làm thì biết tương lai ta sẽ đi về đâu. Nhìn cái cây đang rạp theo chiều gió nào thì biết lúc chết cây sẽ ngả nằm theo chiều ấy. Tương tự, hãy nhìn những gì đang xãy đến với ta thì biết trong quá khứ chúng ta đã làm những gì.

Mỗi người chúng ta đều quan niệm khác hẳn về cuộc sống, kẻ nào hạnh phúc vui vẻ thì theo chủ nghĩa lạc quan; còn kẻ chán đời, yếm thế, đau khổ, chán chường thì bi quan. Còn đạo Phật thì sao? Đạo Phật quan niệm "nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước biển, thân chúng sanh là ô uế, bất tịnh, và giả tạm như một tia chớp." Nói như thế không có nghĩa là những người tu theo đạo Phật là khắc khổ, sầu não, chán nản... Ngược lại, hãy nhìn những nhà sư chân chính ta sẽ thấy lúc nào họ cũng vui tươi, điềm đạm, sáng suốt và cương quyết. Lời nói của họ hiền hoà và môi họ lúc nào cũng chực ban cho những người chung quanh một nụ cười. Tại sao những nhà sư ấy lại vui vẻ như vậy? Họ có biết rằng theo giáo lý nhà Phật thì cuộc đời nầy giả tạm lắm, có gì đáng vui đâu? Họ biết lắm chứ và họ biết rất thâm sâu nữa là khác. Họ biết rằng thân phận con người là bèo là bọt, là đau khổ, bất tịnh... Chính vì vậy mà họ không muốn cho nó bèo bọt hơn, khổ hơn, bất tịnh hơn bằng cách ban vui cho bất cứ ai đối diện họ. Họ biết nhìn thẳng vào sự đau khổ để biết chân tướng của nó để mà có sức chịu đựng. Họ biết rằng đường đời dẫy đầy nguy hiểm, nếu cứ nhắm mắt mà đi thì sớm muộn gì cũng lọt hố.

Tóm lại, đạo Phật chỉ cho ta phải nhìn cho kỹ chung quanh mà đi để không lọt hố. Chính Đức Phật đã dạy: "Các con hãy thắp đuốc chánh pháp lên để đánh tan những u minh tăm tối để đi đến chỗ giải thoát rốt ráo."

Tuy nhiên, có người cho rằng cần gì phải giải thoát vì đời sống tự nó cân bằng nghĩa là có khổ, có vui, có buồn, có sung sướng, có chán chường, có đói, có no... Hễ đói thì khổ mà hể ăn được no thì vui thế thôi, tại sao lại phải giải thoát những thứ ấy cho thêm mệt?

Thật ra cuộc sống nó đâu có đơn giản như ta tưởng mà trái lại nó rất phức tạp. Thí dụ như ta đói, ăn no xong ta có chịu dừng lại để mà vui với cái no hay không, hay là đã no rồi lại muốn được ăn ngon, đã ngon rồi lại muốn cái ngon hơn... Ta cứ mãi quanh co lẩn quẩn bởi những ham muốn chứ ta nào dám nhìn thẳng vào sự thật sanh, già, bịnh, chết đâu. Thường thì ta muốn trẻ mãi, khoẻ mãi và sống mãi. Chính những cái muốn ấy tạo ra những mâu thuẫn trong cuộc sống hằng ngày của ta. Mâu thuẫn tức là ngược lại với những gì ta mong muốn. Theo nhà Phật thì ngược lại với những gì ta mong cầu là khổ. Đó là điểm chính yếu mà đạo Phật muốn chỉ cho chúng ta thấy. Đạo Phật muốn cho ta có một cái nhìn "như thị" nghĩa là nhìn sự vật là sự vật chứ không bị những vọng niệm dẫn dắt đi đâu cả. Cái hoa là cái hoa, chứ không đẹp không xấu. Tuy nhiên, người biết tu, nhìn một đóa hoa đang nở, có thể thấy được sự vô thường của vũ trụ. Đạo Phật còn dạy chúng ta biết tri túc và biết hòa hợp với thiên nhiên. Con người chúng ta chả bao giờ chịu bằng lòng với những gì đang xãy ra cả, thí dụ như nắng hạn thì đi cầu mưa, mà mưa to gây lụt lội thì ta thán. Ta nào có biết đâu tất cả những mưa gió bão bùng đều là do những nhân duyên hợp lại, khi những nhân duyên không còn thì tự nó cũng tan đi chứ ai mà cản cho được.

Điểm quan trọng khác của đạo Phật là tuy nhận chân cuộc đời là đau khổ và đầy tai ách, người Phật tử vẫn nhìn thẳng vào sự thật và hãnh diện đã được sinh ra làm kiếp con người vì con người có suy tưởng, có quả cảm, có trí tuệ và thân người khó được. Chính nhờ cái thân người nầy mà ta có được cơ hội tu tiến. Đức Phật đã nói: "Nhơn thân nan đắc" nghĩa là thân người đâu phải dễ được, mà hễ được rồi lại để mất thì muôn kiếp khó tái hồi. "Thiên niên thiết thọ khai hoa dị, nhất thất nhơn thân vạn kiếp nan." Như vậy ta thấy một khi được thân nầy mà buông xuôi một đời luống qua vô nghĩa thì thật là uổng lắm. Cũng chính Đức Thế Tôn đã dạy: "Địa ngục quá khổ, ngạ quỷ đói khát, súc sinh thì ngu si, cõi trời thì nhiều dục lạc nên không thể tu được. Chỉ có làm người là đủ điều kiện tiến tu hơn cả." Khổ quá cũng khó tu, mà sướng quá cũng khó tu. Chỉ có cõi nhơn có khổ có sướng, nhưng kham được, cho nên con người có một giá trị thật đặc biệt trong việc tu học. Dù biết thân nầy ô uế, giả tạm, nhưng ta cần phải mượn nó làm con thuyền qua bờ thanh tịnh và an lạc.

Còn một điểm nữa trong Phật giáo là "đạo lý vô ngã." Một khi đã là Phật tử thì hãy cởi bỏ đi cái "chấp ngã" nghĩa là đừng nghĩ đến cái ta, đừng chấp cái thân nầy thường còn, bất biến. Có người cho rằng con người có phần linh hồn bất biến nghĩa là thân xác nầy dù tan hoại thì linh hồn vẫn còn đó. Có người lại cho rằng khi thân xác nầy tan hoại thì hết không còn gì để mà bàn với luận. Chính những cái nhìn sai lệch nầy đã đẩy con người vào những cuộc thụ hưởng bất kể đến tội phúc quả báo. Một khi họ đã quan niệm như vậy thì tu cũng bằng thừa.

Là Phật tử nên nhớ con người chúng ta không bất biến và tự tại. Con người do tâm lý và vật lý phối hợp, cả hai đều tùy duyên chuyển biến khi thăng khi trầm nhưng không bao giờ mất hẳn. Chỉ có một con đường duy nhất đưa ta đến chỗ không thăng trầm vỉnh viễn, ấy là con đường giải thoát rốt ráo mà năm xưa Đức Từ Phụ đã đi

 

50. ĐẠO PHẬT DIỆT CÁI KHỔ RA SAO?

Trong đạo Phật, sanh là khổ, già là khổ, bịnh là khổ, chết là khổ, yêu thương chia lìa là khổ, cầu việc chi không được là khổ, ghét hận gần nhau là khổ,v. v. Như thế tất cả cái khổ do "ngã" làm gốc, không có "ngã" thì không có khổ. Cái "ngã" mà ta chấp là có; từ đó nó sanh ra tham, sân, si và chính nó làm cho ta tiếp tục luân hồi sanh tử. Nếu chúng ta diệt hết ngã tưởng và tham, sân, si đi thì cái khổ cũng đều theo đó mà tự diệt.

Muốn diệt cái khổ, trước hết ta phải nhận là ta đau khổ, rồi đi tìm nguyên nhân gây ra cái khổ (chính ta chấp ngã mà có), cuối cùng theo chơn lý Tứ Thánh Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo để làm vơi đi cái khổ và từ từ đi đến chỗ rốt ráo, thế là đoạn được sanh tử luân hồi.

Người tu học theo đạo Phật, khi có đau khổ thì tìm cách làm vơi khổ, nhưng biết rằng cái khổ nó vẫn còn đó, lúc nào nó cũng sẵn sàng bổ nhào đến quấn lấy chúng ta. Chính vì biết cái khổ nó vẫn còn đó nên người tu học quyết chí học theo Tứ Diệu Đế của Đức Thế Tôn mà giải thoát. Ngược lại, phàm phu lúc khổ thì than thân trách phận, lúc vui thi mãi mê thụ hưởng, quên đi giặc khổ đang rình rập cướp lấy cái tâm thanh tịnh của ta.

Đức Phật sở dĩ ứng thân thị hiện nơi đời là do bởi chưa có tôn giáo nào đạt được "chơn thiện mỹ " nên chúng sanh cứ mãi lặn ngụp trong rừng mê bể khổ. Vì một nhơn duyên lớn mà đức Phật xuất hiện ra nơi đời, nhân duyên ấy là gì? Ấy chính là "Khai thị cho chúng sanh được ngộ nhập Phật tri kiến," để cho chúng sanh được từ đó mà đổi mê ra ngộ, đổi khổ ra an lạc.

Chúng sanh đang lăn trôi lặn hụp trong biển sanh tử luân hồi, đang sống trong cảnh vô thường khi trẻ khi già, khi lành khi ốm, khi sống khi chết. Chúng sanh đang sống trong cảnh giới tối tăm, buồn tủi và đau khổ; nếu có vui cũng chỉ trong chốc lát, như người đi biển khát nước, uống nước mặn vào, đỡ khát trong chốc lát, nhưng về sau lại càng khát hơn. Chúng sanh bị không biết bao nhiêu nghịch cảnh ở chung quanh chi phối, ràng buộc, như kẻ bị tù tội giam hảm trong ngục tù không bao giờ được tự do.

Đạo Phật như một luồng nước ngọt cho người đi biển trong cơn khát, đạo Phật tháo gỡ những nghịch cảnh và phá bẻ gông cùm tù ngục cho chúng sanh đi đến giải thoát. Đạo Phật giúp cho chúng sanh giải thoát những vô thường và đem đến cho những ai biết tu hành một sự an vui toàn vẹn và bất tận. Đức Phật cũng khai thị cho chúng sanh thấy được những trói buộc, và làm cho con người có đầy đủ năng lực để thực hiện những ý nguyện tốt đẹp của mình để có được một cuộc sống an nhiên tự tại. Đạo Phật còn giúp cho chúng sanh gạn lọc những ô trọc của cõi đời để có được một cuộc sống trong trắng hơn, tinh khiết hơn, bớt vướng bợn nhơ của trần tục hơn.

Ở đời chuyện gì cũng có cái chuyển biến thay đổi từ từ của nó, ví như cuộc đời từ trẻ đến già thì tóc phải từ đen chuyển thành hoa râm rồi đến bạc, từ da thẳng má hồng đến da nhăn má hóp, từ răng chắc đến răng long... Đó là những thông điệp báo cho ta thấy cuộc đời ta nó trôi qua mau như vậy đó. Một ngày ta sống là một ngày ta đang chết, thế mà ta cứ dong ruổi chạy theo những vọng niệm, ta cứ để cho chúng dẫn dắt ta về những vùng quá khứ luyến tiếc để thêm khổ đau, hoặc những mù mịt của tương lai. Chúng ta được gì ở tương lai? Chạy theo tương lai tức là chạy theo ảo ảnh, không có thật, chúng ta chẳng những không được gì mà còn chuốc lấy đau khổ nữa.



 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com