- 01. Giới thiệu đạo Phật
- 02. Cuộc đời Ðức Phật
- 03. Tam tạng kinh điển
- 04. Mahayana và Theravada: Cùng một cỗ xe
- 05. Đạo Phật Nguyên thủy tại Việt Nam
- 06. Ðạo Phật và chính trị
- 07. Nhân cách thăng bằng
- 08. Công dụng của giới đức
- 09. Lòng hiếu thảo trong kinh điển Pali
- 10. Duy thức trong Thắng Pháp
- 11. Chánh Niệm và Niết Bàn
- 12. Vô ngã và pháp hành thiền
- 13. Mọi pháp đều vô ngã
- 14. Ðạo và Quả
- 15. Năm triền cái
- 16. Tứ Niệm Xứ: Bốn nền tảng của Chánh Niệm
- 17. Quán niệm hơi thở
- 18. Lợi ích của thiền hành
- 19. Ba bài pháp về Thiền Quán
- 20. So sánh tóm tắt các bộ Luật Tỳ-khưu
- 21. Quy ước trích dẫn kinh điển Nguyên thủy
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo, TL. 2005 - PL. 2549
Tỳkhưu Brahmavamso
Chướngngạichính cản trở sự thành công trong hành thiền và pháttuệ giải thoát thường có dạng của một trong năm loạitriền cái. Toàn thể pháp hành đưa đến Giác ngộ có thểđược diễn tả như một nỗ lực để vượt qua năm chướngngại nầy, đầu tiên là tạm thời đè nén chúng để đắcThiền-na và phát tuệ minh sát, rồi dần dần chế ngự chúngmột cách vĩnh viễn qua công phu phát triển Bát Chánh Ðạo.Năm chướng ngại đó là gì? Ðó là:
Thamdục (Kamacchanda)
Sânhận(Vyapada)
Hôntrầm(Thina-middha)
Trạocử(Uddhacca-kukkucca)
Hoàinghi(Vicikiccha)
1.Thamdụclà để chỉ trạng thái mong cầu dục lạc quanăm giác quan của hình dáng, âm thanh, mùi hương, vị nếm,và cảm xúc. Tham dục đặc biệt không bao gồm các ước nguyệnđược hạnh phúc qua căn thức thứ sáu là tâm ý.
Trongmột dạng cực đoan, tham dục là lòng mong ước mãnh liệtđể tìm khoái lạc trong những hoạt động tình dục, thứcăn ngon hoặc âm nhạc du dương. Nó cũng bao gồm lòng ham muốnthay thế các cảm giác khó chịu hay đau đớn bằng các cảmgiác dễ chịu, có nghĩa là lòng ham muốn được có cảm giácthoải mái.
ÐứcPhật ví sự tham dục như thể đi vay nợ. Các sự khoái lạcta có qua năm căn đều phải trả lại qua các đau khổ vềbiệt ly, mất mát hoặc sự trống rỗng đói khát, vốn sẽtheo đuổi mãnh liệt sau khi các khoái lạc đã bị tiêu dùng.Cũng như bất cứ món nợ nào cũng phải trả thêm lời, vànhư thế Ðức Phật dạy rằng sự khoái lạc đó thật ralà nhỏ bé so với các đau khổ phải hoàn trả.
Trongkhi hành thiền, thiền sinh vượt qua lòng tham dục bằng cáchbuông xả mọi quan tâm về thân thể và hoạt động của nămgiác quan. Nhiều người cho rằng năm giác quan đó hiện diệnđể phục vụ và bảo vệ tấm thân, nhưng thật ra, tấm thânnầy hiện hữu để phục vụ cho năm giác quan, vì chúng dàndựng thế giới để tìm cầu khoái lạc. Thật thế, ÐứcPhật đã từng bảo rằng: "Năm giác quan chính là thế giới",và để thoát ra thế giới, để vui hưởng hạnh phúc siêuthế của Thiền-na (jhana), chúng ta phải biết xả lycác quan tâm về thân và năm giác quan của nó.
Khivượt qua được tham dục, tâm của thiền sinh sẽ không cònđể ý đến các hứa hẹn của khoái lạc và cũng không cònđể ý đến sự khoan khoái của cơ thể. Thân thể dườngnhư tan biến và năm giác quan dường như đóng lại. Sự khácbiệt giữa khi còn tùy thuộc hoạt động của năm giác quanvà khi vượt qua chúng cũng như thể sự khác biệt khi ta nhìnra bên ngoài qua khung cửa sổ và khi ta nhìn vào gương soi.Tâm ta khi được giải thoát khỏi hoạt động của năm giácquan sẽ có thể thật sự quay nhìn vào bên trong và thấy rõbản chất thật sự của nó. Từ đó, trí tuệ nảy sinh đểcho ta biết được ta là ai, từ đâu và tại sao.
2.Sân hậnlà để chỉ trạng thái mong muốn trừng phạt,gây khổ hoặc tàn phá. Nó bao gồm lòng thù ghét một ngườihoặc một hoàn cảnh nào đó, và vì nó tạo ra một năng lựcmãnh liệt, nó rất hấp dẫn và tạo lôi cuốn. Có lúc nócó vẻ như được biện minh vì nó có một sức mạnh làmbăng hoại khả năng phán xét vô tư của ta. Nó cũng bao gồmlòng thù hận tự thân, thường được xem như một mặc cảmtội lỗi, để tước đoạt mọi khả năng tạo hạnh phúc.Trong khi hành thiền, lòng sân hận thường hiện ra như sựchán ghét vào chính đối tượng thiền quán, bỏ rơi nó đểhướng sự chú tâm của ta lang thang qua các nơi khác.
ÐứcPhật ví lòng sân hận như thể người bị bệnh. Bệnh tậtcản trở sự tự do và hạnh phúc của sức khỏe. Cũng nhưthế, lòng sân hận cản trở sự tự do và hành phúc củaan bình.
Sânhận được vượt qua bằng các áp dụng lòng Từ mẫn. Khicó sự sân hận đối với người nào, lòng Từ mẫn dạycho ta thấy được các sự kiện khác về người ấy ngoàisự kiện đang làm ta đau khổ, để thấy rằng tại sao ngườiấy làm khổ ta - thông thường giúp ta thấy được ngay chínhngười ấy cũng đang bị đau khổ - và khuyến khích ta bỏqua các đau khổ của chính mình và nhìn người khác với lòngtừ bi. Tuy nhiên, nếu ta chưa làm được như thế, lòng Từmẫn cho chính bản thân cũng sẽ giúp cho ta không còn sân hậnvào tự thân, chấm dứt tự làm khổ mình bằng các ký ứcvề những hành động đau khổ. Như thế, khi có sân hận vàongay chính mình, Từ mẫn sẽ giúp ta thấy được lỗi lầmcủa chính mình, khuyến khích ta tự tha thứ cho chính mình,giúp ta học được qua các bài học đó rồi buông xả chúng.Kế đến, nếu ta có lòng sân hận về đối tượng tham thiền- thường là lý do khiến thiền sinh không được an bình -lòng từ mẫn sẽ giúp ta bám sát và nâng niu đối tượngđó một cách trìu mến và vui thích. Cũng như bà mẹ thườngcó bản tính tự nhiên thương yêu đứa con, thiền sinh cóthể đối xử với hơi thở của mình với các cảm giác tươngtự. Như thế, thiền sinh không thể nào quên lãng hơi thởcủa mình - một đối tượng tham thiền - cũng như thể bàmẹ không thể nào bỏ quên đứa con trong khi vào chợ. Từđó, thiền sinh không thể nào xao lãng hơi thở vì một ýnghĩ nào đó, cũng như bà mẹ không thể nào buông bỏ đứacon mà bà đang bồng bế trong tay! Khi lòng sân hận đượcvượt qua, ta sẽ tạo được một liên hệ lâu bền với mọingười, an vui với đối tượng tham thiền, và từ đó ta sẽhoàn toàn thấm nhập vào Thiền-na.
3.Hôn trầmlà để chỉ trạng thái nặng nề của cơ thểvà mờ tối của tâm thức, kéo ta vào một sự lừ đừ vàchán nản. Ðức Phật ví nó như thể bị giam vào một phòngtối, chật chội, không thể di chuyển tự do, trong khi bênngoài là trời nắng sáng. Trong khi hành thiền, nó làm cho tachỉ có những giác niệm rời rạc, yếu ớt và từ đó đưađến sự ngủ gục trong lúc thiền mà ta lại không biết!
Hôntrầm được vượt qua bằng cách làm khơi dậy năng lực tinhtấn. Nguồn năng lực lúc nào cũng có sẵn nhưng ít ngườibiết cách khai thác nó. Ðặt một mục đích, một mục đíchvừa phải, là một cách khôn ngoan và hữu hiệu để phátsinh năng lực, để tạo nhiều hứng khởi vào công việc trongtay. Một đứa bé con thường có một sự thích thú tự nhiên,và tiếp theo là năng lực, bởi vì thế giới bên ngoài rấtmới lạ đối với em. Như thế, nếu chúng ta học cách nhìnvào đời sống của chính ta, hoặc pháp thiền của ta, bằngtâm trí của một người mới bắt đầu ("sơ tâm"), ta sẽluôn luôn nhìn nó qua những góc nhìn mới lạ và những điềukhả thi tươi tắn, với nhiều nghị lực và tinh tấn, xa rờitrạng thái buồn chán. Tương tự, ta có thể tạo hứng khởivào điều đang làm bằng cách huấn luyện tư tưởng đểnhìn được cái đẹp trong chuyện thông thường. Từ đó,phát sinh sự thích thú, tránh khỏi trạng thái nửa sống nửachết của hôn trầm.
Tâmthức có hai nhiệm vụ chính: "cái làm"(tác nhân) và"cáibiết"(tri nhân). Hành thiền là để làm an dịu"cáilàm"để đạt đến an định tuyệt đối trong khi vẫnduy trì "cái biết". Hôn trầm sẽ xảy ra khi thiền sinhbất cẩn làm an dịu "cái làm"lẫn "cái biết",không có khả năng để phân biệt chúng.
Hôntrầm là một vấn đề rất thông thường, từ từ lan rộngra rồi bao trùm tâm thiền sinh. Một thiền sinh thiện xảophải biết canh chừng, phát hiện ngay những dấu hiệu đầutiên của hôn trầm, nhận định chúng và phải có phản ứngđối phó kịp thời. Cũng như khi ta đến ngã ba đường, tacó thể chọn một đường cho tâm thức xa rời sự hôn trầm.Hôn trầm là một trạng thái khó chịu của thân và tâm, quácứng đọng không thể đi vào sự an lạc của Thiền-na, vàquá mù quáng không thể khám phá ra các Tuệ quán. Tóm lại,đây hoàn toàn là một sự phí phạm thì giờ.
4.Trạo cửlà để chỉ trạng thái tâm như khỉ vượn chuyềncành,không bao giờ chịu ở yên tại bất cứ chỗ nào. Nó đượctạo ra từ trạng thái tìm lỗi trong tâm, không bao giờ chịuthỏa mãn với sự việc như thật, và như thế phải phóngra ngoài tìm những hứa hẹn tốt hơn, lúc nào cũng nhìn sangnơi khác.
ÐứcPhật ví trạo cử như một tên nô lệ, tiếp tục chạy nhảytheo lệnh của ông chủ khắc nghiệt luôn luôn đòi hỏi sựtoàn hảo, và như thế không bao giờ cho phép nó được dừngnghỉ.
Trạocử được vượt qua bằng cách phát triển sự biết đủ(tri túc), là đối nghịch với sự tìm lỗi. Ta học cách anvui đơn giản qua sự hài lòng với chút ít, chứ không phảilúc nào cũng đòi hỏi cho nhiều. Ta cảm thấy biết ơn tronggiây phút hiện tại, chứ không phải moi tìm các khiếm khuyếtcủa nó. Như một thí dụ, trạo cử khi hành thiền thườnglà sự nóng nảy mong sao để tiến nhanh vào giai đoạn kếtiếp. Thế nhưng, cấp độ tiến triển nhanh nhất thườngxảy ra cho những thiền sinh nào chỉ biết bằng lòng vớinhững gì họ đạt được ngay trong hiện tại. Vì có sựtri túc, hài lòng đó đã làm chín muồi để đi vào giai đoạnkế tiếp. Cho nên, ta phải cẩn thận về thái độ "làm nhanhcho xong" và thay vào đó, cần phải học cách an nghỉ trongtrạng thái hài lòng và tri túc. Làm như thế, "cái làm" sẽtan biến và công phu hành thiền sẽ nở hoa.
Hốihận là một trạng thái đặc biệt của trạo cử, là nghiệpquả của các hành động bất thiện. Cách duy nhất để vượtqua hối hận, sự trạo cử do lương tâm cắn rứt, là phảigiữ gìn giới đức, tập sống tử tế, khôn ngoan và dịudàng. Một người không có đạo đức hoặc sống buông lungthì không thể nào có được các kết quả sâu sắc trong khihành thiền.
5.Nghi ngờlà để chỉ trạng thái nội tâm đặt nhiềucâu hỏi rối ren trong lúc thiền sinh cần yên lặng để tiếnsâu hơn vào tâm thức. Nghi ngờ tạo ra câu hỏi về chínhkhả năng của ta: "Không biết tôi có làm được việc nầykhông?", hoặc nghi vấn về pháp hành: "Không biết cách nầycó đúng không?", hoặc ngay cả nghi vấn về ý nghĩa: "Cáigì đây?". Cần phải nhớ rằng các câu hỏi đó là chướngngại trong lúc hành thiền, bởi vì chúng đặt ra không đúngthời, và vì thế trở thành sự xâm chiếm, làm lu mờ trikiến thanh tịnh.
ÐứcPhật ví nghi ngờ như thể bị lạc trong sa mạc, không nhậnra được các mốc điểm. Sự nghi ngờ đó được vượt quabằng cách thu thập các lời hướng dẫn rõ ràng, có mộtbản đồ tốt, để giúp ta thấy được các mốc điểm vitế trong vùng đất không quen thuộc của tâm thiền sâu kín,và từ đó biết được con đường phải đi. Nghi ngờ vềkhả năng của chính mình có thể được vượt qua bằng cáchnuôi dưỡng lòng tự tin với một vị thiền sư tốt. Vịthiền sư có thể ví như một huấn luyện viên thể thao cókhả năng thuyết phục các vận động viên rằng họ có thểthành công. Ðức Phật dạy rằng mỗi người chúng ta có thể,và sẽ đắc Thiền-na và Giác ngộ nếu ta thực hành theo cáchướng dẫn của Ngài một cách cẩn thận và kiên nhẫn. Chỉcó một điều không chắc chắn là "không biết đến khi nào"!Kinh nghiệm hành thiền cũng giúp ta vượt qua các nghi ngờvề khả năng của ta và về con đường hành đạo. Khi ta tựthực chứng được các giai đoạn tốt đẹp của con đường,ta khám phá rằng thật ra ta có khả năng cao nhất, và đâyđúng là con đường đưa ta đến mục đích đó.
Nghingờ - trong dạng kiểm tra thường xuyên: "Ðây có phải làThiền-na? Tôi được kết quả đến đâu?" - được vượtqua bằng cách nhận thức rằng các câu hỏi như thế nên hoãnlại cho đến lúc cuối, trong những phút cuối của buổi thiền.Vị bồi thẩm tòa án chỉ có quyết định trong ngày cuốiphiên tòa, khi các tang chứng đã được trình bày. Cũng nhưthế, một thiền sinh thiện xảo chỉ biết yên lặng thu nhặtmọi bằng chứng, và chỉ xét duyệt trong những phút cuốiđể khám phá ý nghĩa của nó.
Tronghành thiền, nghi ngờ hoàn toàn tan biến khi tâm thức hoàntoàn tin tưởng vào sự vắng lặng, không còn gây rối loạnvới các đối thoại bên trong. Cũng như thể ta có đượcmột tài xế tài ba, ta hoàn toàn tin tưởng người đó vàta ngồi yên lặng trên suốt cuộc hành trình.
*
Khihànhthiền, nếu có vấn đề xảy ra thì đó là vì có sựhiện diện của một trong Năm Triền Cái nầy, hoặc là sựkết hợp của chúng. Như thế, khi thiền sinh gặp khó khăn,thiền sinh nên dùng các định nghĩa như trên của Năm TriềnCái như là bảng kiểm tra để xác định vấn đề. Từ đó,thiền sinh biết được cách hóa giải thích hợp, áp dụngcẩn thận, vượt qua trở ngại để tiến vào mức thiềncao sâu hơn.
Khihoàn toàn vượt qua được năm sự ngăn che đó, hàng rào giữathiền sinh và sự an lạc của Thiền-na sẽ không còn hiệnhữu nữa. Do đó, sự kiểm chứng chắc chắn nhất để biếtNăm Triền Cái nầy đã thật sự được vượt qua là làmsao để phát triển được khả năng của thiền sinh để anđịnh vào các tầng Thiền-na.
tháng8-2001