- 01. Giới thiệu đạo Phật
- 02. Cuộc đời Ðức Phật
- 03. Tam tạng kinh điển
- 04. Mahayana và Theravada: Cùng một cỗ xe
- 05. Đạo Phật Nguyên thủy tại Việt Nam
- 06. Ðạo Phật và chính trị
- 07. Nhân cách thăng bằng
- 08. Công dụng của giới đức
- 09. Lòng hiếu thảo trong kinh điển Pali
- 10. Duy thức trong Thắng Pháp
- 11. Chánh Niệm và Niết Bàn
- 12. Vô ngã và pháp hành thiền
- 13. Mọi pháp đều vô ngã
- 14. Ðạo và Quả
- 15. Năm triền cái
- 16. Tứ Niệm Xứ: Bốn nền tảng của Chánh Niệm
- 17. Quán niệm hơi thở
- 18. Lợi ích của thiền hành
- 19. Ba bài pháp về Thiền Quán
- 20. So sánh tóm tắt các bộ Luật Tỳ-khưu
- 21. Quy ước trích dẫn kinh điển Nguyên thủy
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo, TL. 2005 - PL. 2549
Nisư Ayya Khema
Thamvọngdường như là một hiện tượng tự nhiên của con người.Có người muốn giàu, có quyền thế hoặc danh vọng. Có ngườimuốn có nhiều kiến thức, có bằng cấp. Có người chỉmuốn có một tổ ấm nhỏ và từ đó họ có thể ngắm nhìnquangcảnh giống nhau mỗi ngày. Có người muốn tìm một ngườitình lý tưởng, hoặc càng gần lý tưởng càng tốt.
Ngaykhi chúng ta không sống trong thế gian, chỉ sống trong ni viện,chúng ta cũng có nhiều tham vọng: muốn trở thành thiền giảthượng hạng, muốn có an định toàn hảo, muốn cách sốngnầy tạo ra kết quả tốt. Lúc nào cũng có một điều gìđó để ta hy vọng. Tại sao thế? Bởi vì đó là điều sẽxảy ra trong tương lai, không bao giờ có trong hiện tại.
Thayvì chú tâm vào hiện tại, ta lại cầu mong điều tốt đẹphơn sẽ đến, có lẽ trong ngày mai. Thế nhưng khi ngày maiđến, ta lại mong đến ngày kế, vì nó cũng chưa đủ toànhảo. Nếu ta thay đổi thói quen trong tư duy của mình và chútâm vào cái đang hiện hữu, chừng đó ta sẽ tìm được mộtđiều gì đó làm ta hài lòng. Nhưng khi ta chỉ tìm kiếm nhữnggì chưa hiện hữu, mong rằng có thể toàn hảo hơn, kỳ diệuhơn, thỏa mãn hơn, ta sẽ không thể tìm được gì cả, bởivì ta chỉ tìm kiếm cái mà nó không hiện diện ở đó.
ÐứcPhật nói về hai hạng người, người tầm thường (phàmnhân, puthujjana)và người cao sang (thánh nhân, ariya).Dĩ nhiên, ai cũng mong ước trở thành thánh nhân, nhưng nếuchúng ta chỉ mong cầu điều đó trong một tương lai nào đó,ta sẽ không đạt được. Sự khác biệt giữa một thánh nhânvà phàm nhân là sự thực chứng về "đạo và quả" (magga-phala).Giây khắc đầu tiên khi tâm thức đạt đến trạng thái siêuthế này được gọi là Dự-lưu (sotapatti)và ngườichứng nghiệm điều đó gọi là Dự-lưu nhân (sotapanna),người nhập dòng suối đưa đến Niết-bàn.
Nếuta đem điều đó vào lòng như là một mục tiêu cho tươnglai, điều đó sẽ không xảy ra, bởi vì ta không đem hếtnăng lực và sức mạnh để chú niệm từng giây khắc. Chỉkhi nào tâm chú niệm vào từng giây khắc thì chập tâm Ðạo(sát-na tâm Ðạo) giải thoát mới có thể xảy ra.
Yếutố phân biệt một thánh nhân với phàm nhân là sự đoạndiệt ba kiết sử đầu tiên đã trói buộc ta vào luân hồimiên viễn. Ba kiết sử này là:thân kiến, hoài nghi,vàgiới cấm thủ(sakkayaditthi, vici-kiccha, silabbattaparamasa).Người nào chưa phải là bậc Dự lưu thì ngườiấy vẫn còn bị trói buộc vào ba loại tà kiến này và hànhđộng sai lầm vốn đem ta xa rời sự tự do và đưa ta vàotrói buộc.
Hãythử nhìn vào sợi dây "hoài nghi" trước. Ðó là ý tưởngvụn vặt lúc nào cũng ám ảnh trong đầu óc: "Chắc là cómột pháp tu khác, dễ dàng hơn", hoặc "Tôi biết chắc làtôi có thể tìm được an lạc ở một nơi nào đó trong thếgian rộng lớn nầy". Khi nào vẫn còn sự nghi ngờ về conđường giải thoát khỏi thế gian và vẫn còn sự tin tưởngrằng những điều toại ý có thể tìm ra được trong thếgian, khi đó sẽ không có cơ hội để đắc quả thánh, bởivì ta đang nhìn lầm hướng. Trong thế gian nầy với con ngườivà vật chất, tài vật và sự chiếm hữu, quang cảnh và cáctiếp xúc qua giác quan, không còn có một cái gì khác ngoàinhững gì chúng ta đã từng quen biết. Nếu còn có gì khác,tại sao chúng lại không được xác nhận, tại sao ta đã khôngtìm ra? Ðiều nầy thật hiển nhiên. Thế nhưng tại sao talại phải tìm kiếm chúng?
Dĩnhiên là chúng ta đang tìm kiếm hạnh phúc và an bình, cũngnhư những người khác. Hoài nghi, anh chàng báo động, bảo:"Tôi chắc là nếu tôi thử tu tập một cách thông minh hơnlà phương cách vừa qua, tôi sẽ được hạnh phúc. Còn cóvài điều nữa mà tôi chưa thử qua." Có thể ta chưa tự mìnhlái chiếc máy bay của riêng mình, chưa thử sống trong hangđộng Hy mã lạp sơn, chưa từng dùng thuyền chu du thế giới,chưa từng viết một quyển tiểu thuyết bán chạy nhất. Tấtcả các điều nầy thật là huy hoàng để thực hiện trongcõi đời, nhưng chúng chỉ là những phí phạm thì giờ vànăng lực.
Hoàinghi hiện rõ ra khi ta không biết chắc là trong bước kế tiếp,ta sẽ phải làm gì. "Khi tôi đến đó, tôi sẽ phải làm gì?"Ta chưa định hướng được. Hoài nghi là một kiết sử trongtâm khi chưa có được một sự minh bạch rõ ràng vốn bắtnguồn từ sát-na tâm nhập Ðạo. Tâm thức khởi sinh ngay tronggiây khắc đó sẽ hủy diệt mọi hoài nghi bởi vì lúc đó,ta tự thực chứng được con đường. Cũng như khi ta cắnquả xoài, ta biết được ngay cái vị của nó.
Nhậnthức sai lầm về tự ngã là một kiết sử gây nhiều tổnhại nhất và vây hãm phàm nhân. Nó chứa đựng ý tưởngchôn sâu trong tâm về "đây là tôi". Có thể cái ngã đó khôngphải là cái thân "của tôi", nhưng có "một người nào đó"đang hành thiền. Cái "một người nào đó" nầy đang muốngiác ngộ, muốn đắc quả Dự-lưu, muốn được hạnh phúc.Tà kiến về tự ngã nầy là nguyên nhân của mọi vấn đềđang khởi sinh.
Chừngnào vẫn còn có ý tưởng có "một người nào đó", ta vẫncòn nhiều vấn đề. Nếu ở đó không có một người nàocả, thì ai đang gặp khó khăn đây? Tà kiến về tự ngã làgốc rễ tạo ra sự đau đớn, buồn rầu và than thở. Kèmtheo với nó là sự sợ hãi và lo lắng: "Không biết tôi sẽan toàn, hạnh phúc, thanh bình, tìm được cái tôi đang tìmkiếm, đạt được điều tôi mong muốn như là an lạc, giàucó và khôn ngoan không?" Những nỗi lo lắng và sợ hãi nầyđược hỗ trợ bằng các kinh nghiệm cá nhân trong quá khứ.Trong quá khứ, ta đã không bao giờ khỏe mạnh, giàu có vàkhôn ngoan, đã không thể đạt được điều mong muốn, đãkhông có cảm giác kỳ diệu. Do đó, đây là lý do mạnh mẽđể ta lo lắng và sợ sệt, chừng nào vẫn còn các tư tưởngsai lầm về tự ngã bao trùm.
Lễnghi và cúng tế tự chúng không phải gây nhiều điều hại,chỉ khi nào ta tin tưởng đó là một phần của con đườngđến Niết Bàn thì mới có hại. Chúng không cần phải cótính tôn giáo, dù rằng ta thường nghĩ như thế. Những hànhđộng như dâng hương hoa trên bàn thờ, quỳ lạy hoặc thamgia vào các cuộc lễ có thể tích tụ phước báo để táisinh vào các cõi trời. Sự thành tín, kính trọng và biếtơn đối với Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) mới là điều quantrọng. Nhưng ngay cả lòng tin nầy cũng không chỉ giới hạnvào các hoạt động tôn giáo. Mọi người đều sống vớilễ nghi và cúng tế, cho dù có khi ta không ý thức về chúng.Trong sự tương giao của con người, có những cách thức quiđịnh để giao tiếp với cha mẹ, con cái, vợ chồng. Ta phảixử sự thế nào trong công việc, với bạn bè, với ngườilạ, ta mong người khác đối đãi như thế nào, tất cả nhữngđiều nầy đều liên kết với những định kiến về sựđúng đắn và thích hợp trong một văn hoá và truyền thốngnào đó. Không một điều nào hàm chứa chân lý, bởi vì chúngchỉ do tâm tạo ra. Ta càng có nhiều ý kiến, ta càng xa rờithực tế. Ta càng tin tưởng vào chúng, ta càng khó gỡ bỏchúng. Khi ta tưởng ta là một loại người nào đó, ta sẽcó giao tiếp như thế trong mọi tình huống. Ðiều này xảyra chẳng những trong phương cách ta chưng hoa trên bàn thờmà ngay cả trong cách ta thù tiếp người khác, nếu ta làmtheo một nghi lễ tiên định nào đó và không theo cách màtâm rộng mở của ta sai khiến ta.
Bakiết sử trên sẽ bị tiêu trừ khi chập Ðạo và chập Quảđược thực chứng. Lúc ấy sẽ có một sự thay đổi rõràng trong người đó, dĩ nhiên không thể nào thấy đượcqua hình dạng bên ngoài. Nhưng sự thay đổi nội tâm trướctiên là kinh nghiệm thực chứng đó sẽ làm tiêu tan tuyệtđối các hoài nghi về điều cần phải làm trong đời sống.Biến cố nầy hoàn toàn khác hẳn những gì đã biết từtrước, cho đến nỗi, người ấy sẽ thấy những gì đãtạo ra đời sống của mình, từ trước cho đến nay, đềuvô nghĩa. Không có việc gì trong quá khứ là quan trọng nữa.Ðiều quan trọng duy nhất là tiến hành với công phu tu tậpđể làm tăng trưởng sự chứng nghiệm nầy từ trong chậptâm Ðạo đầu tiên, để tái nghiệm và thiết lập vữngchắc trong người ấy.
Cácchập tâm Ðạo và Quả sẽ lại xảy ra cho những vị Nhất-lai(sakadagami),Bất-lai (anagami)và Giác-ngộ (arahant, A-la-hán).Mỗi lần như thế, chúng chẳng những sâu đậm hơn mà cònkéo dài hơn. Ta có thể so sánh với các kỳ thi trong trườngđại học. Nếu ta chọn một chương trình bốn năm để lấybằng cấp, mỗi năm ta phải dự kỳ thi cuối năm. Ta phảitrả lời các câu hỏi trong mỗi kỳ thi, dựa theo kiến thứcta đã thu hoạch được. Các câu hỏi trở nên sâu sắc hơn,khó khăn hơn trong các kỳ khảo hạch kế tiếp. Trong khi chúngchỉ liên quan đến cùng một chủ đề, chúng đòi hỏi phảicó kiến thức sâu rộng hơn. Cho đến khi ta tốt nghiệp vàkhông cần phải trở lại trường đại học nữa. Sự pháttriển tâm trí của chúng ta cũng như thế. Mỗi một chậptâm Ðạo là dựa theo chập tâm trước và có liên quan đếncùng một chủ đề, nhưng nó đi sâu hơn. Cho đến khi ta vượtqua kỳ khảo hạch cuối cùng và không cần phải trở lạinữa.
Chậptâm Ðạo không có tư tưởng hay cảm thọ trong đó. Nó khôngthể so sánh với các tầng thiền-na (jhana). Mặc dù nódựa vào các tầng thiền vì chỉ có tâm định mạnh mẽ mớicó thể đi vào chập tâm Ðạo, nó không có những tính chấtnhư trong các tầng thiền - trong các bước đầu - như là hỷ,lạc, và an bình. Lúc sau, tâm chứng nghiệm một sự bành trướng,vô sở hữu và một thay đổi về nhận thức. Chập tâm Ðạokhông bao hàm các trạng thái tâm nầy.
Nócó tính không sinh hữu. Ðây là một sự nhẹ nhõm và thayđổi cái nhìn về thế gian, hoàn toàn đến đỗi mà giờđây người ấy hiểu được tại sao Ðức Phật đã dạyvề một sự phân biệt rõ ràng giữa một phàm nhân và Thánhnhân. Trong khi các tầng thiền-na đem đến cảm giác nhấtnhư, nhất thể, tâm Ðạo không có cảm giác đó. Chập tâmQuả, tiếp theo chập tâm Ðạo, là một chứng nghiệm đãthông hiểu và tạo ra một cái nhìn hoàn toàn mới lạ vềsự hiện hữu.
Sựhiểu biết mới nầy nhận thức được rằng mỗi ý tưởng,mỗi cảm thọ đều là khổ (dukkha). Ngay chính ý tưởngcao sang nhất, cao thượng nhất cũng có tính chất đó. Chỉkhi nào không có gì cả, mới không có khổ. Không có cái gì,bên trong lẫn bên ngoài, hàm chứa tính chất toại ý hoàntoàn. Bởi vì, có một nhận thức rõ ràng như thế, lòng hammuốn về bất cứ điều gì được loại bỏ. Mọi việc đượcnhìn theo bản thể chân thật của chúng, và không gì có thểmang lại hạnh phúc như là những gì khởi sinh qua sự tu tậpÐạo và kết quả của nó.
Yếutố Niết-bàn không thể diễn tả thật sự như là hoan lạc,vì hoan lạc mang hàm ý có phấn khởi. Ta dùng chữ "hoan lạc"cho tầng thiền-na, bởi trong đó còn có một sự thích thú.Yếu tố Niết-bàn không công nhận hoan lạc vì tất cả nhữnggì khởi sinh đều xem là khổ. "Sự hoan lạc của Niết-bàn"có thể làm cho ta có cảm tưởng rằng ta có thể tìm thấyhạnh phúc tuyệt đối, thật ra là điều ngược lại. Ta thấyở đó không có gì cả và vì thế, không còn điều bất hạnhnữa, chỉ có an bình.
Nếuchỉ mong tìm kiếm Ðạo và Quả sẽ không đem chúng đếnta, bởi vì chỉ có sự tỉnh giác từng thời khắc mới cóthể làm được điều đó. Sự chú niệm này dần dần sẽgiúp tạo một tâm định thật sự, trong đó ta có thể xảbỏ mọi tư tưởng và hoàn toàn hòa nhập vào đề mục. Lúcđó, ta có thể bỏ đề mục hành thiền. Ta không cần phảiđẩy nó ra, nó sẽ rớt đi theo cách riêng của nó, và sựan định trong giác niệm sẽ xảy đến. Nếu cần phải cómột tham vọng nào trong đời sống, thì đây là một tham vọngduy nhất có giá trị. Các loại khác không mang đến thànhđạt trọn vẹn.
Tacũng không cần phải tự ép buộc xả bỏ hoài nghi. Còn gìphải hoài nghi khi ta đã chứng nghiệm Chân lý? Nếu ta tựđánh mình bằng một cây búa, ta cảm thấy đau đớn mà khôngthể nghi ngờ chi cả. Ta biết rõ như thế qua kinh nghiệm tựthân.
Chấpthủ vào lễ nghi và giới cấm sẽ bị kết liễu thú vị,bởi vì khi ta đã chứng nghiệm được tâm Ðạo thì khôngcòn trường hợp nào ta cần phải đóng tuồng nữa. Mọi vaitrò chỉ là những cấu tử của hư ngụy. Ta có thể sẽ tiếptục các lễ nghi vì chúng hàm chứa những phần kính trọng,biết ơn và thành tín. Nhưng không còn có các lễ nghi đểứng xử với người khác, với tình huống, và cũng khôngcòn phải tạo dựng các câu chuyện về tự ngã, bởi vì cácphản ứng của ta lúc đó là hoát nhiên với tâm rộng mở.
Xảbỏ tư tưởng sai lầm về tự ngã dĩ nhiên là một thay đổisâu xa nhất, tạo ra tất cả các thay đổi khác. Ðối vớivị Dự-lưu, tà kiến về tự ngã không còn khởi sinh qua lýluận nữa, nhưng vẫn còn các cảm xúc về nó, vì chập tâmÐạo xảy ra và biến đi rất nhanh. Nó chưa tạo một tácđộng tuyệt đối. Nếu nó làm được như vậy thì đã tạora quả Giác ngộ. Có những người có thể đắc nhanh nhưthế, như đã ghi trong kinh điển thời Phật còn tại thế.Cả bốn quả thánh có thể được chứng đắc ngay trong khilắng nghe Pháp của Ngài.
Chậptâm Quả đầu tiên cần phải được tái sinh, do đó cầnphải tái lập nó nhiều lần, cho đến khi chập tâm Ðạothứ hai khởi sinh, cũng như thể lặp lại những gì mình đãbiết để khỏi quên, và từ đó tạo dựng thêm cái khác.
Ðiềucần thiết là ta phải luôn tự nhắc nhở trong mỗi thờikhắc thức tỉnh rằng sắc, thọ, tưởng, hành, thức đềuvô thường và không có bản thể thường tồn, thay đổi từngchập. Cho dù ta có một trực kiến về vô ngã (anatta)hay chỉ có kiến thức về điều đó, trong trường hợp nàota cũng phải đem điều đó vào trong tâm và sống với nócàng nhiều càng tốt. Khi ta tiếp tục làm như thế, các vấnđề thông thường sẽ khởi sinh ít đi. Nếu ta giác niệmvề tính vô thường của mọi hiện hữu, các nỗi khó khăncủa ta dường như không còn quan trọng nữa và cách nhìn vềtự ngã sẽ từ từ thay đổi.
Trikiến ta có về chính ta là kẻ thù độc hại nhất của ta.Mỗi người tạo ra một cá tính, một mặt nạ để mang, vàta không muốn thấy những gì phía sau mặt nạ đó. Ta cũngkhông cho phép người khác thấy những điều đó. Sau khi đắctâm Ðạo, sự che giấu đó không còn nữa. Cái mặt nạ, sựsợ hãi và xua đuổi hiện ra rõ ràng. Ðể đối trị hữuhiệu, ta phải luôn nhớ rằng thật ra không có ai ở đó,chỉ có các hiện tượng mà thôi. Cho dù cái nhìn trong tâmvẫn chưa ổn cố đủ để chứng minh điều đó, sự xácđịnh như thế giúp tháo lỏng các bám thủ, chấp dính vàlàm ta chấp giữ ít chặt chẽ hơn.
Ðịnhhướng của sự tu tập chắc chắn là hướng về quả Dự-lưu.Tuy nhiên, không có gì để chứng đắc, mà tất cả cần phảiđược xả bỏ. Nếu không làm như thế, chập tâm Ðạo sẽkhông xảy ra, và ta tiếp tục sống như trước: bị khổ nãohành hạ và ràng buộc, trải qua các sự khen chê, được mất,sang hèn, vui buồn. Các vấn đề thông thường - tạo ra bởicái "ngã" - sẽ lại sinh ra, rồi cứ thế sinh ra mãi. Sự thayđổi thật sự chỉ đến khi nào có được một thay đổirốt ráo về phương thức ta nhìn về ta. Nếu không, các khókhăn vẫn tồn tại như cũ vì đó là do một người như xưatạo ra chúng.
Cóchánh niệm trong và ngoài lúc hành thiền là phương cách tutập để mang lại kết quả. Có nghĩa là giờ nào làm việcấy, chú ý qua thân và trong tâm. Khi nghe Pháp, chỉ chuyên tâmnghe. Khi ngồi thiền, chỉ chú tâm vào đề mục hành thiền.Khi trồng cây, chỉ biết trồng cây. Không kiểu cách, khôngphán đoán. Ðó là để cho tâm ý được quen dần trong sựsống từng giây khắc. Làm như thế thì chập tâm Ðạo mớixảy ra. Không phải ở một tương lai xa xôi, mà nó có thểxảy ra ngay trong lúc nầy và tại nơi đây. Không có lý dogì mà một thiền sinh có đủ trí khôn, khỏe mạnh và quyếttâm, lại không thể đạt được điều đó với lòng kiênnhẫn và trì chí.
Chúngta đã nghe về sự chán chường và lạnh nhạt là những bướctrên đường đến giải thoát và tự do. Chúng không thể cóý nghĩa và tác động nếu không có một quan kiến về mộtthực tế hoàn toàn khác biệt, một thực tế không nằm trongsự đa dạng của thế gian. Khi ta ngồi thiền mà bắt đầusuy luận, đó là cám dỗ của sự đa dạng hóa và bành trướng,hý luận (papanca). Yếu tố Niết-bàn là một, không đadạng. Ta có thể nói nó không hàm chứa những gì ta biết.Cho đến khi thấy được như thế, thế gian tiếp tục đặttên cho nó, nhưng ta không cần phải tin như thế. Ðó là mộtcông việc khó khăn. Ta phải tự cảnh giác luôn, nếu khôngsẽ bị cám dỗ lôi cuốn. Ta không nên ngạc nhiên khi ta khôngtìm thấy hạnh phúc; sự đa đoan, đa dạng không thể tạohạnh phúc, chỉ tạo vọng tưởng mống khởi.
Chắcchắn là ta có thể chứng nghiệm khoái lạc qua các giác quan.Ta sẽ được nhiều dịp như thế nếu ta tạo nghiệp lành.Thức ăn ngon, phong cảnh đẹp, đối tác dễ thương, âm nhạcdu dương, sách hay, nhà cửa thoải mái, không có tật bệnhkhó chịu. Nhưng những điều nầy có đem lại một hạnh phúctoàn bích không? Nó đã không xảy ra trong quá khứ, tại saonó sẽ phải xảy ra trong tương lai? Ðạo và Quả mang lạihạnh phúc vì chúng không hàm chứa hiện tượng. Tánh Khôngkhông thay đổi, không trở nên khó chịu mà cũng không thiếuvắng sự bình an, vì không có gì để chao động nó.
Khingười ta nghe hoặc đọc về "Niết-bàn", người ta nói ngaylà: "Làm thế nào mà tôi có thể không mong muốn gì cả?"Khi ta đã thấy mọi thứ ta muốn chỉ là để trám đầy sựtrống rỗng bên trong và đều bất toại ý, đó là lúc takhông muốn gì cả. Ðiều nầy vượt qua sự "không mong cầu"vì giờ đây ta chấp nhận rằng, trong thực tế, không cógì đáng để sở hữu. Không mong muốn điều gì sẽ giúpta có thể thực chứng được rằng, thật ra không có gì cả- chỉ có một sự yên lặng và an bình.
tháng5-1999