- 01. Giới thiệu đạo Phật
- 02. Cuộc đời Ðức Phật
- 03. Tam tạng kinh điển
- 04. Mahayana và Theravada: Cùng một cỗ xe
- 05. Đạo Phật Nguyên thủy tại Việt Nam
- 06. Ðạo Phật và chính trị
- 07. Nhân cách thăng bằng
- 08. Công dụng của giới đức
- 09. Lòng hiếu thảo trong kinh điển Pali
- 10. Duy thức trong Thắng Pháp
- 11. Chánh Niệm và Niết Bàn
- 12. Vô ngã và pháp hành thiền
- 13. Mọi pháp đều vô ngã
- 14. Ðạo và Quả
- 15. Năm triền cái
- 16. Tứ Niệm Xứ: Bốn nền tảng của Chánh Niệm
- 17. Quán niệm hơi thở
- 18. Lợi ích của thiền hành
- 19. Ba bài pháp về Thiền Quán
- 20. So sánh tóm tắt các bộ Luật Tỳ-khưu
- 21. Quy ước trích dẫn kinh điển Nguyên thủy
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo, TL. 2005 - PL. 2549
Nisư Kee Nanayon
Lờigiới thiệu: Ni sư Kee Nanayon (1901-1979) là một trong nhữngvị nữ thiền sư nổi tiếng ở Thái Lan. Năm 1945, bà thànhlập thiền viện Khao-suan-luang dành cho các nữ Phật tử tuthiền trong vùng đồi núi tỉnh Rajburi, miền tây Thái Lan.Ngoài các bài pháp được truyền đi qua các đài phát thanhtrong xứ, bà còn nổi tiếng về tài làm thơ. Bà viên tịchnăm 1979.Mộtđêm nọ tôi ngồi hành thiền ngoài trời, giữ lưng thậtthẳng, và nhất quyết hành trì để làm sao cho tâm tôi đượcan định. Tuy nhiên, sau một thời gian dài, tâm tôi vẫn khônglắng đọng. Do đó, tôi tự nhủ: "Mình đã cố gắng nhưthế trong nhiều ngày rồi, mà tâm mình vẫn không được anđịnh. Thôi thì bây giờ mình tạm ngưng sự quyết tâm đó,và chỉ cần tập quán sát tâm mà thôi."
Sauđó,tôi bắt đầu bỏ tay và chân ra khỏi tư thế thiền,nhưng ngay khi tôi duỗi một chân ra và chân kia vẫn còn xếplại, tôi chợt thấy tâm mình như quả lắc đồng hồ đưaqua đưa lại, chậm dần, chậm dần, rồi chậm dần ... chođến khi nó dừng lại.
Lúcđó, có một sự tỉnh giác tự nó nảy sinh và an trụ. Chầmchậm, tôi xếp chân và đưa tay trở lại tư thế ngồi kiếtgià. Trong cùng lúc, tâm tôi ở ngay trong một trạng thái giácniệm, lặng lẽ tuyệt đối và vững vàng, và tôi nhìn thấyrõ ràng về các hiện tượng căn bản của mọi hiện hữukhi chúng sinh ra rồi hoại diệt, thay đổi theo bản chất tựnhiên của chúng - và cùng lúc đó, tôi cũng thấy được mộtđiều kiện nội tại, không sinh, không diệt, không thay đổi,một điều kiện vượt qua sinh tử: một cái gì đó rất khódiễn tả qua ngôn từ thế gian, bởi vì đó là một sự thựcchứng các hiện tượng căn bản của thiên nhiên, hoàn toàncó tính nội tại và cá nhân.
Mộtlúc sau, tôi từ từ đứng dậy và đến giường nằm xuốngnghỉ. Trạng thái tâm vẫn còn đó như là một tĩnh lặngtự nó hiện hữu ngay ở phần sâu thẳm bên trong. Rồi chầmchậm, tâm ra khỏi trạng thái đó và dần dần trở về trạngthái bình thường.
Từđó, tôi có thể quan sát và nhận thức được rằng nếuhành thiền mà có ước muốn quá mạnh mẽ sẽ chỉ làm tâmchao động, không tạo an định. Nhưng khi ta có một giác niệmvừa phải, sự tỉnh giác nội tại sẽ sinh ra một cách tựnhiên theo cách thức riêng của nó. Bởi vì, có được sựtỉnh giác nội tại rõ ràng như thế, tôi có thể tiếp tụcnhận biết được những sự kiện chân thật và hư ngụy,đúng và sai. Sự tỉnh giác đó cũng giúp tôi biết đượcrằng ngay khi tâm xả bỏ mọi việc, là nảy sinh một trựcnhận rõ ràng về các hiện tượng hữu vi, bởi vì đó làmột sự giác niệm để hiểu biết nội tại và nhìn thấyđúng theo bản chất của nó - không phải những gì mà ta cóthể biết hoặc thấy qua lòng mong muốn.
Cũngvì lý do đó, Ðức Phật dạy rằng: "Mọi pháp đều vôngã" (Sabbe dhamma anatta - Chư pháp vô ngã), để chỉ bảochúng ta không nên chấp thủ vào bất cứ hiện tượng thiênnhiên nào, dù chúng là hữu vi hay vô vi. Từ đó trở đi, tôinhận thức được bản chất thật sự của mọi pháp và xảbỏ mọi chấp thủ từng bước một.
tháng6-2000