Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Ðạo Phật và chính trị

02/02/201111:04(Xem: 12789)
06. Ðạo Phật và chính trị

GIỚI THIỆUĐẠO PHẬT
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo, TL. 2005 - PL. 2549

ÐạoPhật và chính trị

Hòathượng K. Sri Dhammananda

ÐứcPhậtxuất thân từ giai cấp vương tướng, và do đó, Ngàiđã có nhiều liên hệ với các vị quốc vương, hoàng tử,quan lại trong triều đình. Mặc dù có nhiều liên hệ nhưthế, Ngài không bao giờ dùng các thế lực chính trị đểtruyền đạo, và Ngài cũng không bao giờ cho phép giáo phápcủa Ngài bị lợi dụng cho các ý đồ chính trị.

Thếnhưng ngày nay, đã có nhiều người có ý gán ghép danh hiệucủa Ngài với những chủ thuyết khác nhau. Tuy nhiên, các hệthống chính trị mà chúng ta quen thuộc ngày nay là bắt nguồntừ phương Tây, xảy ra sau thời kỳ Ðức Phật còn tại thếmột thời gian rất lâu. Ðối với những Phật tử chúng ta,Ðức Phật là bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác, vượt lên trêncác chuyện lo âu, phiền muộn của thế gian.

Cómột vấn đề cơ bản mà ta phải nhận định khi tôn giáobị pha trộn với chính trị. Căn bản của tôn giáo là đạođức, lòng trong sạch, và đức tin; trong khi đó, căn bảncủa chính trị là quyền lực. Trong tiến trình lịch sử,tôn giáo thường bị lạm dụng để hợp thức hóa nhữngngười cầm quyền và sự áp dụng của quyền lực. Tôn giáođã bị lạm dụng để biện minh cho chiến tranh và thôn tính,đàn áp, chém giết tàn bạo, nổi loạn, tàn phá các côngtrình văn hóa và nghệ thuật.

Khitôn giáo bị sử dụng để gia tăng thế lực chính trị thìtôn giáo sẽ phải hi sinh các lý tưởng đạo đức cao quívà trở nên mất gốc, nhượng bộ cho các thế lực chínhtrị trong thế gian.

Mụcđích của Phật Pháp không phải nhắm đến việc thành lậpcác định chế và cơ cấu chính trị mới. Trên cơ bản, tôngiáo tìm cách giải quyết các vấn đề trong xã hội bằngcách giáo hóa mỗi cá nhân, vốn là thành viên của xã hội,và bằng cách đưa ra các nguyên tắc tổng quát để điềuhướng xã hội tiến đến một phong thái nhân bản, cải thiệnđời sống của mọi thành viên, và cổ động sự phân phốicác nguồn vật lực một cách công bằng hơn.

Bấtcứ một thể chế chính trị nào cũng có một giới hạn trongsự bảo vệ hạnh phúc và sung túc của người dân trong thểchế đó. Không một hệ thống chính trị nào, dù rằng cóvẻ rất lý tưởng, có thể mang lại hạnh phúc và hòa bìnhnếu người dân trong thể chế đó còn bị bao trùm bởi lòngtham lam, sân hận, và si mê. Thêm vào đó, còn có những nhântố phổ quát mà từng cá nhân trong xã hội phải trực diện:kết quả của các nghiệp thiện và bất thiện của riêngmình, và sự khiếm khuyết và thiếu vắng của một nền anlạc trường cửu, vì bản chất của thế gian vốn là hoạnkhổ, vô thường, và vô ngã. Ðối với những người conPhật, không một nơi nào trong thế giới Ta Bà luân hồi nầycó được một tự do, giải thoát thật sự, kể cả các cõitrời lạc thú của chư thiên.

Mộthệ thống chính trị tốt và công bằng - có những bảo đảmcho các quyền căn bản của con người, và có những địnhchế giám sát và cân bằng việc sử dụng quyền lực - làđiều kiện quan trọng cho cuộc sống hạnh phúc trong xã hội.Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên bỏ quá nhiều công sức vàthì giờ để tìm kiếm đến vô tận một hệ thống chínhtrị toàn hảo để giúp con người được hoàn toàn tự do.Tự do tuyệt đối không thể nào có được trong các địnhchế chính trị, mà chỉ có được trong tâm thức khi nó đượcgiải thoát. Ðể được giải thoát, chúng ta cần phải nhìnvào nội tâm của chính mình, và nỗ lực giải phóng nó rakhỏi các gông xiềng của vô minh, hận thù và tham dục.Tự do trong ý nghĩa đích thực tuyệt đối chỉ có đượckhi nào chúng ta dùng Chánh Pháp để phát triển tâm ý qua lờinói và hành động hướng thiện, và để huân tập tâm ý,để phát triển tiềm năng tâm linh, đạt đến cứu cánh tuyệtđối của giác ngộ.

Mặcdù chúng ta công nhận về sự lợi ích trong việc tách rờitôn giáo và chính trị, và về các giới hạn an lạc và hạnhphúc mà hệ thống chính trị mang đến, nhưng cũng có nhiềukhía cạnh trong các lời dạy của Ðức Phật có những tươngquan với các bố cục chính trị ngày nay.

Thứnhất, Ðức Phật đã giảng dạy về tính cách bình đẳngcủa con người - cả mấy ngàn năm trước tuyên ngôn củaông Abraham Lincoln (Tổng Thống Mỹ). Ngài dạy rằng các giaicấp, tầng lớp trong xã hội chỉ là những hàng rào nhântạo do xã hội dựng ra. Việc sắp xếp thứ bậc của loàingười, theo lời Ngài, chỉ có thể dựa trên phẩm chất giớihạnh của họ mà thôi.

Thứhai, Ðức Phật khuyến khích tinh thần hợp tác bình đẳngvà tích cực tham gia đóng góp trong xã hội. Ðây là một tinhthần đã được cổ võ trong tiến trình chính trị của cácxã hội hiện nay.

Thứba, Ngài đã không chỉ định một người nào để kế thừaNgài. Ngài chỉ dạy rằng, mọi người phải tự mình mà tuhọc, lấy Chánh Pháp làm nền tảng và làm nơi nương tựa.Các thành viên của Tăng Ðoàn chỉ chịu sự hướng dẫn củaGiáo Pháp và Giới Luật (Dhamma-Vinaya)- như là một bộluật sinh hoạt. Cho đến ngày nay, mỗi tu sĩ của Tăng Ðoànđều phải tuân thủ bộ Giới Luật đó để làm kim chỉnam hướng dẫn cho mọi sinh hoạt tu học của mình.

Thứtư, Ðức Phật đã khuyến khích tinh thần tham vấn và tiếntrình dân chủ. Ðiều nầy được thể hiện qua cộng đồngtăng sĩ, trong đó mỗi thành viên đều có quyền quyết địnhvề các vấn đề chung. Khi có một nghi vấn nghiêm trọng cầnphải được giải quyết, các vấn đề có liên quan đượcđem ra giữa các tu sĩ để thảo luận trong một phương cáchtương tự như trong hệ thống quốc hội ngày nay. Tiến trìnhtự quản trị nầy có lẽ sẽ làm nhiều người ngạc nhiênvì nó đã được áp dụng trong các cộng đồng tăng sĩ PhậtGiáo tại Ấn Ðộ trong 2.500 năm trước đây, và phương cáchđiều hành có rất nhiều điểm tương đồng với các thủtục thảo luận trong quốc hội.

Mộttu sĩ, tương tự như vị "phát ngôn nhân", được chỉ địnhđể có một tiếng nói chung, đại diện cho cộng đồng. Mộttu sĩ khác, tương tự như vị "chủ tịch", được bầu rađể điều hành diễn đàn. Các vấn đề được đưa ra nhưcác nghị trình để được thảo luận công khai. Trong mộtvài trường hợp, khi vấn đề đó có tính cách nghiêm trọngvà phổ quát, thì nó có thể được đem ra thảo luận nhiềulần, tương tự như các vòng thảo luận của quốc hội vềcác dự luật. Nếu qua các cuộc thảo luận mà vẫn còn nhiềuý kiến xung khắc, bất đồng, thì vấn đề sẽ được biểuquyết qua một cuộc bỏ phiếu để lấy quyết định theođa số.

ÐạoPhật khuyến khích nền tảng đạo đức và việc sử dụngquyền lực cộng đồng với ý thức trách nhiệm. Ðức Phậttuyên giảng về hòa bình và bất bạo động như là một thôngđiệp phổ quát. Ngài không chấp nhận bạo lực và hủy hoạisinh mạng. Ngài tuyên bố rằng, không có một chiến tranh nàolà chiến tranh của công lý. Ngài dạy: "Người thắng tạocăm thù, kẻ thua sống khổ sở. Người nào từ bỏ thắngvà bại thì người đó sống an vui và hạnh phúc." Chẳngnhững Ðức Phật dạy về hòa bình và bất bạo động, cólẽ Ngài cũng là vị Giáo Chủ đầu tiên và duy nhất đãra tận chiến trường để tìm cách ngăn chận chiến tranh.Ngài đã hóa giải sự xung đột giữa bộ tộc Sakya và bộtộc Koliya khi họ muốn khởi sự đánh nhau vì tranh chấp nướcsông Rohini. Ngài cũng đã thuyết phục vua Ajatasanu bỏ ý địnhtấn công vương quốc của bộ tộc Vaiji.

ÐứcPhật đã giảng dạy về sự quan trọng và về các điềukiện thiết yếu của một chính phủ tốt. Ngài dạy rằngkhi người lãnh đạo chính phủ tham nhũng và bất công thìxứ sở trở nên tham nhũng, băng hoại, và đau khổ. Ngài chốnglại sự tham nhũng và đã dạy rằng chính phủ phải biếtquản trị dựa trên các nguyên tắc nhân ái.

Ngàinói: "Khi người lãnh đạo xứ sở có tính công bình vàthiện ái thì triều đình có tính công bình và thiện ái.Khi triều đình có tính công bình và thiện ái thì các quanchức có tính công bình và thiện ái. Khi các quan chức cótính công bình và thiện ái thì các cán bộ hạ tầng có tínhcông bình và thiện ái. Khi các cán bộ hạ tầng có tính côngbình và thiện ái thì người dân có tính công bình và thiệnái." (Tăng Chi Bộ Kinh).

TrongKinh Cakkavatti Sihananda(Chuyển Luân Thánh Vương Sư TửHống, Trường Bộ), Ðức Phật nói rằng các điều hung ácvà tội phạm, như ăn cắp, lường gạt, bạo lực, thù ghét,bạo tàn, v.v. đều bắt nguồn từ sự nghèo khó. Quốc vươngvà triều đình có thể dùng sự trừng phạt để kiềm chếtội phạm, nhưng không bao giờ có thể tiêu trừ các tộiphạm bằng quyền lực của mình.

TrongKinh Kutadanta(Cứu-la-đàn-đầu, Trường Bộ), Ðức Phậtchủ trương phát triển kinh tế, thay vì dùng quyền lực, đểxóa giảm tội phạm. Triều đình phải biết sử dụng cácnguồn tài nguyên để cải thiện điều kiện kinh tế trongnước. Họ phải biết phát triển nông nghiệp ở thôn quê,trợ giúp giới buôn bán, cung cấp lương bổng đầy đủ chocông nhân để bảo đảm một đời sống tốt có nhân phẩm.

TrongKinh Bổn Sanh (Jakata), Ðức Phật có đưa ra 10 nguyêntắc của một chính quyền tốt, gọi là "Thập Vương Pháp"(DasaRaja Dhamma). Mười nguyên tắc nầy vẫn có thể áp dụngtrong thời đại ngày nay cho bất cứ một chính quyền nào,để quản trị xứ sở một cách hài hòa. Ðó là:

1.Phải cởi mở và không ích kỷ;
2.Duytrì đạo đức cao;
3.Sẵnsàng hi sinh lợi ích cá nhân để phục vụ cho an sinhcủa dân chúng;
4.Phảithành thật và ngay thẳng;
5.Phảidịu dàng và giàu lòng nhân ái;
6.Phảisống giản dị để làm gương cho dân chúng;
7.Phảivượt lên trên mọi hận thù;
8.Biếtáp dụng tinh thần bất bạo động;
9.Biếtnhẫn nại;
10.Tôntrọng ý kiến dân chúng, và biết phát triển sự hòabình và hòa hợp.
Về cáchhành xử của người lãnh đạo thì Ngài giảng thêm (Kinh CakkavattiSihananda):
-Người lãnh đạo tốt phải biết cư xử công bình, khôngthiên vị bất cứ nhóm nào;

- Ngườilãnh đạo tốt không bao giờ gieo lòng thù hận trong dân chúng;

- Ngườilãnh đạo tốt không bao giờ ngần ngại áp dụng luật phápkhi cần thiết;

- Ngườilãnh đạo tốt phải thông hiểu luật pháp rõ ràng mỗi khiáp dụng. Luật pháp không phải áp dụng chỉ vì người ấycó uy quyền, mà phải được áp dụng hợp tình và hợp lý.

Bộ Mi-Lan-ĐaVấn Ðạo (Milanda Panha)có viết: "Nếu người nàokhông có tài năng, không đạo đức, không phạm hạnh, khôngxứng đáng là vua, mà lại tự mình tôn xưng là vua hay ngườilãnh đạo với nhiều quyền lực thì người ấy sẽ bị nguyềnrủa và trừng phạt bởi dân chúng, bởi vì người ấy, vìkhông xứng đáng và không tài năng, đã tự đặt mình mộtcách vô lý vào vị trí của người lãnh đạo. Người lãnhđạo, cũng như những người đã vi phạm các nguyên tắc đạođức và giới luật căn bản của xã hội loài người, sẽbị trừng phạt như bao nhiêu người khác, nhất là đối vớinhững người lãnh đạo ăn cắp tài sản của dân chúng."

KinhBổnSanh cũng có đề cập đến người lãnh đạo nào màchỉ trừng phạt người vô tội và không trừng phạt ngườiphạm tội thì người lãnh đạo ấy không xứng đáng lãnhđạo xứ sở.

Vìvậy, Trung Bộ Kinh cũng có nói về vị quốc vương biết tựthăng tiến và lúc nào cũng nỗ lực gìn giữ hành động,lời nói và tâm ý, lúc nào cũng biết lắng nghe ý kiến củadân chúng về sự cai trị của mình, để biết mình có phạmlỗi lầm nào không trong khi điều hành đất nước. Nếu vịquốc vương ấy cai trị xấu, người dân sẽ than phiền rằnghọ đang bị phá hoại bởi một vị lãnh đạo xấu vì cácchính sách hà khắc, nhũng lạm, bất công, sưu cao thuế nặng,và do đó, dân chúng sẽ có phản ứng chống lại vị vua ấy.Ngược lại, nếu vị vua cai trị tốt, thì dân chúng sẽ chúctụng: "Cầu xin cho quốc vương của chúng tôi được trườngthọ."

Lờidạy của Ðức Phật về các bổn phận đạo đức của vuachúa để sử dụng công quyền, bảo đảm an sinh người dân,đã giúp cho vua A Dục (Asoka), vào thế kỷ 3 trước Tâylịch, cai trị đất nước của ông. Hoàng Ðế A Dục, làmột thí dụ điển hình của nguyên tắc đạo đức nầy,đã sống và thực hành Chánh Pháp cho tất cả mọi ngườidân trong triều đại của ông. Ông quảng bá chính sách bấtbạo động đến các vương quốc lân cận, cam đoan các thiệný của ông, và gửi sứ giả đi khắp nơi để truyền báthông điệp hòa bình và bất bạo động. Ông cổ võ sự ứngdụng của các nguyên tắc đạo đức trong xã hội, như chânthật, từ bi, bác ái, bất bạo động, nhân từ, không hoangphí, không chiếm đoạt, và không gây sát hại cho mọi loàivật. Ông khuyến khích tự do tôn giáo và bình đẳng tươngkính giữa mọi đức tin. Ông thường du hành thuyết giảngÐạo Pháp đến người dân ở tận thôn quê. Ông thiết lậpcác công trình công cộng như bệnh xá, cung cấp thuốc men,trồng cây gây rừng, đào giếng, các công trình thủy lợi,và nhà tạm trú. Ông cũng đặc biệt ngăn cấm việc đốixử tàn ác với các loài thú vật.

Cóngười cho rằng Ðức Phật là một nhà cải cách xã hội.Trong các bài giảng, Ngài đã lên án hệ thống giai cấp vàNgài công nhận quyền bình đẳng của con người. Ngài giảngvề nhu cầu cải thiện các điều kiện kinh tế xã hội, côngnhận tầm quan trọng của việc phân bố công bằng các củacải giữa người giàu và nghèo, nâng cao vị trí của phụnữ, khuyến khích việc áp dụng tinh thần nhân bản trong guồngmáy hành chính. Ngài dạy rằng xã hội phải được điềuhành trên tình thương và lòng từ bi, chứ không dựa vào lòngtham lam.

Hơnthế nữa, sự đóng góp của Ngài cho nhân loại còn cao quíhơn, vì Ngài còn đi xa hơn các nhà cải cách xã hội thờiđó, vì không ai đã có thể chỉ thẳng vào cốt lõi củacác cơn bệnh trong tâm thức của con người. Chỉ ở trongtâm thức thì sự cải cách mới thật sự có ý nghĩa. Cáccải cách bên ngoài do các quyền lực áp đặt thì chỉ cóhiệu quả ngắn hạn vì nó không có cội rễ. Chỉ có cảicách nào dựa trên căn bản cải thiện tâm thức thì nó mớicó cội rễ vững chắc. Có cội rễ vững chắc thì các cànhnhánh của cải cách xã hội mới được phát triển tươitốt, vì chúng được nuôi dưỡng bởi nguồn sinh lực liêntục, đó là nguồn tâm lực của dòng sinh hóa trong cuộc đời.Như thế, các cải cách xã hội chỉ có thể khả thi khi nàomà tâm ý của con người đã được sửa soạn sẵn sàng chocác việc đó. Các cải cách đó sẽ tiếp tục sống mạnhkhi nào mà con người sẵn sàng nuôi dưỡng chúng qua sự chuyêncần và tôn trọng sự thật và công lý, tôn trọng đời sốngcủa đồng bào của họ.

Giáothuyết của Ðức Phật không dựa trên một "Triết lý Chínhtrị" nào cả. Giáo thuyết nầy không khuyến khích con ngườiđi vào con đường hành lạc vật chất. Giáo thuyết nầy vạchra con đường đưa đến giải thoát tối hậu, là Niết Bàn.Nói một cách khác, mục tiêu tối hậu của Giáo thuyết ấylà đoạn diệt lòng tham ái vốn đã cột chặt con ngườitrong vòng trầm luân, khổ ải. Một câu kệ trong Kinh PhápCú (kệ 75) đã tóm tắt điều nầy: "Con đường đưa đếnthủ đắc vật chất là một con đường, còn con đường đưađến Niết Bàn là một con đường khác."

Ðiềunầy không có nghĩa là các Phật tử không nên tham gia vàotiến trình chính trị, vốn là một thực tại xã hội. Ðờisống của mọi người trong xã hội được uốn nắn bởiluật pháp và các qui định, bởi các bố trí kinh tế củaquốc gia, bởi guồng máy quản trị hành chính, và như thếchịu ảnh hưởng của các bố cục chính trị của quốc giađó. Tuy nhiên, nếu người cư sĩ Phật tử có ý muốn thamgia chính trị thì người đó không nên lạm dụng tôn giáođể mưu đồ tạo các quyền lực chính trị cho mình.

Tómlại, Ðức Phật là bậc Giác Ngộ, vượt lên trên mọi vấnđề của thế gian. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời hoằngdương Chánh Pháp, Ngài luôn luôn có những lời dạy quí báucho các quốc vương và triều đình để quản trị tốt xứsở của họ.

BìnhAnson trích dịch,
"Gemsof Buddhist Wisdom",

tháng10-1996
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com