- Mục Lục
- Thay Lời Tựa
- Chương 1: Hòa Thượng Thích Tâm Tịnh (1868-1929), Bổn Sư Của Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu
- Chương 2: Phật Giáo Việt Nam Vào Cuối Thế Kỷ 19 Ðầu Thế Kỷ 20, Dưới Thời Hòa Thượng Tâm Tịnh
- Chương 3: Gia Thế Và Thời Thơ Ấu Của Hòa Thượng Ðôn Hậu
- Chương 4: Hạt Bồ Ðề Chớm Nở
- Chương 5: Một Thoáng Trần Duyên, Một Giây Sinh Tử
- Chương 6: Thế Phát Xuất Gia, Tầm Sư, Học Ðạo
- Chương 7: Dưới Chân Thầy Tổ Những Năm Tháng Tại Phật Học Viện Thập Tháp & Tây Thiên
- Chương 8: Bối Cảnh Xã Hội Từ 1932 Ðến 1945 Và Phong Trào Phục Hưng Phật Giáo
- Chương 9: Công Tác Hoằng Truyền (1932-1945)
- Chương 10: Ngưỡng Cửa Tử Thần (1947) Từ Chiến Tranh Việt- Pháp (1946) Ðến Hiệp Ðịnh Genève (1954)
- Chương 11: Trong Lòng Pháp Nạn (1963)
- Chương 12: Gọng Kềm Lịch Sử (1966-1968)
- Chương 13: Từ Trường Sơn Ðến Thảo Nguyên Mông Cổ (1968-1975)
- Chương 14: Trở Về Chùa Xưa
- Chương 15: Dung Thông Tam Muội
- Chương 16: Như Áng Mây Bay
- Tài Liệu Nghiên Cứu Và Trích Dẫn
NHƯ ÁNG MÂY BAY
Cuộc đời của Đại Lão Hòa Thượng
THÍCH ĐÔN HẬU
Đệ tử Tâm Đức phụng sọan
Thất chúng môn đồ ấn hành 2010 USA
QUYỂN NĂM:
CƯ TRẦN LẠC ÐẠO
Chương 16: Như Áng Mây Bay
Ngày 27-3-1992: Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ trở về Sài Gòn.
Ngày 23-4-1992: Vào lúc 20 giờ Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu viên tịch, trụ thế 87 năm, 67 pháp lạp. Nghi lễ Nhập Tháp do Hòa Thượng Huyền Quang soạn, câu đối do Thượng Tọa Tuệ Sỹ sáng tác.
Ngày 2-6-1992: Chính phủ Võ văn Kiệt công bố đã đóng cửa tất cả các trại cải tạo trên toàn quốc.
*
* *
Vào đầu năm 1992 căn bệnh phổi đầy nước tái phát. Bệnh của Hòa Thượng ngày càng trầm trọng. Bác sĩ, y tá, Tăng Ni, Phật Tử ngày đêm săn sóc, nhưng bệnh tình của Hòa Thượng không thuyên giảm. Hòa Thượng viên tịch ngày 21 tháng 3 Âm Lịch.
Tiểu Sử trong trang 72 ghi: “Vào dịp Tết Nguyên Ðán, Hòa Thượng vẫn khỏe khi ngồi tiếp chuyện với chư vị Hòa Thượng, Thượng Tọa trong Hội Ðồng Lưỡng Viện đến vấn an và chúc thọ Ngài. Ðến giữa tháng Ba, pháp thể Hòa Thượng khiếm an.
Sau một tuần tịnh dưỡng, đúng giữa giờ Thìn, ngày Thân, tháng Thìn, vào lúc 8 giờ tối ngày 21 tháng 3 Âm Lịch, tức ngày 23 tháng 4, 1992, Hòa Thượng xả bỏ báo thân, an nhiên thị tịch. Hòa Thượng trụ thế 87 năm và 67 Pháp Lạp”.
Hòa Thượng đã trụ thế, tu đạo, hành đạo, ra đi NhưÁng Mây Bay.
Cuộc đời của Hòa Thượng không khác ngọn gió bay qua khóm tre thân thuộc trong thôn xóm Việt Nam, mát mẻ mà không hệ lụy; không khác con chim nhạn bay qua hồ nước lạnh, không lưu lại bóng hình, thanh thoát không trụ trước, nhẹ nhàng Như Áng Mây Bay. Cuộc đời của Hòa Thượng có thể được diễn tả trong 4 câu thơ:
Phong lai sơ trúc,
Phong khứ nhi trúc bất lưu thanh.
Nhạn quá hàn đàm,
Nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh.
TANG LỄ.
Trước khi viên tịch, Hòa Thượng để lại Lời Di Huấn cho hàng thất chúng đệ tử và Chúc Thư cho thành viên Hội Ðồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Trong Lời Di Huấn, Hòa Thượng lưu ý hàng đệ tử ba điều quan trọng đó là:
1. Sống hòa hợp.
2. Tang lễ tổ chức giản dị theo truyền thống.
3. Sắp xếp chỗ đứng chỗ ngồi của chư Tăng Ni, quan khách theo luật định.
Ba điều này thể hiện một cách cụ thể lối suy nghĩ và hành xử của một nhà tu, vì Hòa Thượng luôn luôn là một nhà tu dù ở hoàn cảnh nào, vị thế nào.
Trong Chúc Thư, Hòa Thượng cũng lưu ý đến ba điều quan trọng:
1. Tiếp tục công việc của Giáo Hội đúng theo Hiến Chương của GHPGVNTN.
2. Tổ chức Ðại Hội VIII khi hoàn cảnh cho phép.
3. Quan tâm đến tổ chức Phật Giáo hải ngoại.
Hòa Thượng không quên đặt nặng trọng tâm nếp sống Phật Giáo là thanh tịnh và hòa hợp. Ba điều trong Chúc Thư cũng thể hiện rõ ràng lối suy nghĩ và hành xử của một nhà tu, có trọng trách đối với ngôi nhà Phật Giáo. Và trọng trách ấy cần được thực hiện đúng theo Hiến Chương, đúng theo luật Phật trong thanh tịnh và hòa hợp.
Sau khi Hòa Thượng viên tịch, Hội Ðồng Lưỡng Viện và môn đồ đệ tử thành lập Ban Tang Lễ theo lời Di Huấn của Hòa Thượng. Giản dị mà trang nghiêm. Khiêm cung mà cẩn trọng. Hòa Thượng không muốn có những lời tán dương trần thế, vì cuộc đời tu hành, hoằng đạo của Hòa Thượng chỉ hướng vào việc phụng sự Ðạo Pháp, do đó Ban Tang Lễ tuy rất tri ân Ðại Diện chính phủ muốn truy tặng huân chương cho Hòa Thượng nhưng không thể tiếp nhận được.
Vì Ban Tang Lễ không tiếp nhận huân chương do đại diện chính quyền truy tặng nên đã xảy ra sự hiểu lầm khiến cho chư Tăng Ni môn đồ đệ tử ngồi tuyệt thực trước kim quan Hòa Thượng.
Nhưng rồi mọi chuyện đều được dàn xếp thỏa đáng, Nghi Lễ Nhập Quan được tiến hành.
Kim Quan của Hòa Thượng được tôn trí trang nghiêm trong điện Ðịa Tạng cũ tại chùa Linh Mụ suốt 10 ngày. Trong thời gian này, chư Tăng Ni Phật Tử luân phiên tụng niệm.
Hòa Thượng Huyền Quang đã soạn Nghi Dự Tiến để cúng dường, nói lên công hạnh của cố Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu.
Hòa Thượng Trí Ấn Nhật Liên trao Lời Di Huấn của Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống
cho Hòa Thượng Huyền Quang trước kim quan (Tiểu Sử, tr. 35)
Hòa Thượng Huyền Quang, quyền Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo
đảnh lễ kim quan đức Ðệ Tam Tăng Thống (Tiểu Sử, tr. 73)
Tăng Ni môn đồ tuyệt thực trước kim quan (Tiểu Sử, tr. 35)
Chư Ni luân phiên tụng niệm (Tiểu sử, tr. 73)
NGHI DỰ TIẾN.
Cao Tăng Trừng Nguyên Ðôn Hậu, sắc tứ Linh Mụ Ðại Lão Hòa Thượng.
TIẾT THỨ LÀM NGHI.
– Chuông trống Bát Nhã - Cử nhạc khai đàn
– Chủ lễ lâm diên - Cử nhạc tham lễ
– Chủ lễ niệm hương - Dâng hương - tác lễ
Chủ lễ hạ phủ xích, xướng:
Ðại hạn đến rồi!
Giường hạc an nhiên phút mộng tàn,
Nghìn thu vĩnh biệt nẻo nhân gian.
Pháp âm gió thoảng, hồn ngơ ngác,
Tăng tướng mây bay dạ ngỡ ngàng!
Tuy nhiên:
Ðạo nghiệp một đời ghi đá trắng
Hóa thân muôn thuở ngự hoa vàng
Niết bàn, sinh tử không hai lẽ
Duy nguyên Tôn Sư giáng đạo tràng
Tả bạch xướng: Ðảnh lễ giác linh tam bái
Chủ lễ hạ xích thủ, tuyên dương thân thế, đạo nghiệp:
Kính bạch tân tịch Ðôn Hậu Hòa Thượng giác linh:
Hòa Thượng Người:
Cùng tỏ ngộ lòng thiền, trong cửa Tây Thiên, vâng lời thọ ký
Người khai Phật trí tại chùa Linh Mụ nối nghiệp độ sinh.
Người là: Non nước anh linh, trăng sao tú khí
Ngọc vàng tinh túy, tùng bá kiên cường!
Phật pháp đống lương, tông môn cương kỷ
Tào khê pháp khí, thiếu thất gia trân.
Người đã từ:
Quảng Trị nhà Diệp giáng trần, nhân gian thác chất
Xuân kinh cửa Tùng đầu Phật, thế ngoại thê thần!
Lúc thiếu thời, Người:
Ðèn sách chuyên cần, rừng Nho biển Thánh
Bút nghiên kiểu hãnh, cửa Khổng sân Trình
Trau dồi lý thuyết Năm Kinh
Xôi nấu từ chương Bốn Sách
Học tập trí tri vật cách
Thực hành tâm chánh thân tu...
Người thường thao thức:
Không lẽ kiếp sống phù du, nhắm mắt hồn tiêu vĩnh kiếp
Cuộc đời hồ địch, xuôi tay mộng vỡ trường niên?
Biết hỏi ai mở cửa thâm huyền,
Biết nhờ ai chỉ đường diệu ngộ?
Thế rồi Người vào Thuận Hóa,
Tâm Tịnh cầu thầy thế độ,
Tây Thiên xin tổ xuất gia.
Và, từ đó Người sống cuộc đời đạo hạnh:
Thanh tịnh thi la, quang minh bát nhã,
Họ Thích. Người nguyện xây nghiệp cả,
Dòng Thiền, Người mong xây dựng tôn cao!
Người được bổn sư:
Truyền áo phương bào, giữa lúc trăng sao lóng lánh,
Xoa tay viên đảnh, trong khi sương tuyết lạnh lùng!
Bổn sư ân cần chúc dặn:
Trong cửa ta: Ðôn Hậu sau cùng, Trừng Giác Nguyên trước hết,
Làm đạo chớ mỏi mệt, dựng nghiệp phải siêng năng...
Người lên đường tham phương du hóa:
Ðến gõ cửa: Hồng Khê tham vấn Ðại Tăng
Thập Tháp thỉnh cầu Thượng Sĩ
Cơ thiền huyền bí, ý tổ mật nghiêm...
Người đã bao lần chịu gậy (Bảng) dưới thềm
Và, mấy độ nghe la (Hát) trong thất.
Trong cơ sự bất ngờ ấy đã làm cho Người:
Mộng tan nửa giấc, hồn tỉnh một đời
Cơ Thiền diệu ngộ không lời,
Ý Tổ tâm truyền khó nói...
Người đã phát nguyện:
Thuyền từ bể khổ đăng trình,
Xe pháp đường mê thông lộ.
Người đã: Chuyển luân pháp cổ, hàng phục quân ma,
Hiệu triệu pháp loa, hoằng dương Phật đạo.
Khuôn phò tổ quốc, cháu con Vạn Hạnh tiên sinh,
Vận động hòa bình, thầy tổ nhất chi hậu bối.
Ðộ sanh: Người mở mang Phật hội,
Tiếp chúng: Người xây dựng tăng trường.
Cũng có lúc: lụy tiết vấn vương, chim kêu phi tội.
Ðấu tranh đòi hỏi, Người bảo vô công,
Thừa kế Thích Tông, Tăng Thống đại vì chỉ giáo.
Duy trì Thánh Ðạo, Giảo Quyền Phó Viện chủ trì,
Người tượng trưng cho:
Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh.
Tỏ lòng thấy tánh, trăng sáng nước trong,
Thanh cao Linh Mụ tổ phong,
Nghiêm túc thiền tôn đại hóa.
Vị tha vô ngã, kiến nghĩa năng vi,
Hưng từ vận bi, dương nhơn bất nhượng.
Cao cả thay, Tòng lâm long tượng,
Quí báu thay, Ðôn Hậu cao tăng!
Chủ lễ hạ thủ xích, cảm thán:
Thế nhưng, việc phải đến đã đến,
Thật vô khả nại hà.
Than ôi:
Ðạo tràng gió tạt từ đăng,
Pháp hội khói tan tuệ cự
Giờ này: Tăng Ni đau buồn khắp xứ.
Thiện tín thương tiếc mọi nơi!
Tòng bá lệ rơi,
Trống chuông buồn trổi...
Chủ lễ hạ phủ xích, tuyên Pháp ngữ:
Kính bạch Tân Tịch Ðại Lão Cao Tăng Giác Linh:
Biết bao giờ nghe thầy hỏi đá: Phật tánh vân hà?
Biết mấy thuở thấy Tổ cầm hoa: Pháp thân như thị!
Như Người đã biết:
Sanh tử, niết bàn bất dị,
Bồ đề, phiền não vô thù.
Chỉ ngậm ngùi: Nhất biệt, thiên thu,
Mong sao được: Tam sinh tái ngộ.
Tả bạch tiến: Kính bạch giác linh tân tịch Hòa Thượng:
Pháp sư vừa cúng dường cam lộ,
Linh giác đã nạp thọ đề hồ.
Giờ này: Giáo đoàn pháp phái hiếu đồ,
Trân trọng thượng hương bái thỉnh:
Hương hoa thỉnh, hương hoa phụng thỉnh.
Chủ lễ hạ phủ xích, thượng hương sơ thỉnh:
Nam mô nhất tâm phụng thỉnh:
Thạch Liêm tục diệm, Liễu Quán truyền đăng,
biển pháp mạc vận cân bằng, rừng thiền hậu sanh sư tượng.
Hôm nay Pháp tịch, phụng vị:
Sắc tứ quốc tự, Thiên Mụ đường thượng,
nối dòng Pháp Lâm Tế đời thứ 42,
húy thượng Trừng hạ Nguyên,
tân tịch bổn sư, Hòa Thượng Giác Linh, liên đài tọa hạ.
Duy nguyện:
Hương lòng vừa bén, linh giác đã hay,
Pháp tịch vừa bày, nguyện xin chứng giám.
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh...
Chủ lễ hạ phủ xích, thượng hương tái thỉnh:
Nam Mô Nhất Tâm phụng thỉnh:
Xích tâm tôn giả, cầu Phật đại phu,
Ấn tâm chánh thống nghìn thu,
y bát chơn truyền muôn thuở.
Hôm nay Pháp tịch phụng vị:
Tây Thiên đường thượng,
Nối dòng Pháp Lâm Tế đời thứ 42,
Pháp hiệu Ðôn Hậu, pháp sư giác linh, liên đài tọa hạ.
Duy nguyện đài vàng hoa rải, đảnh báu hương xông,
linh giác cảm thông, quang lâm Pháp Hội.
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh...
Chủ lễ hạ phủ xích. Thượng hương tam thỉnh:
Nam Mô Nhất Tâm phụng thỉnh:
Cổ chùy đại sát, lão nạp tổ đình.
Thoại đầu khám phá nghi tình,
công án phát minh tín giải.
Hôm nay Pháp Tịch phụng vị: Thiền tôn tự tổ,
Nối dòng Pháp Lâm Tế đời thứ 42,
Truyền giáo Sa Môn, Bổn sư Giác Linh, liên đài tọa hạ.
Duy nguyện: Thiền sàng an tọa, trượng thất cao cư,
Duy nguyện thùy từ, chứng minh công đức.
Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh...
Nam Mô Ðăng Bảo Tọa Bồ Tát.
Tả bạch xướng: Sơ hiếu trà. Lễ tam bái. Ðồng quì.
Chủ lễ hạ phủ xích. Vịnh 1:
Tôn linh báo hiếu lễ nghiêm trang,
Duy nguyện tôn sư giáng đạo tràng.
Lễ nhạc hương hoa dâng cúng dưỡng,
Cúi đầu đảnh lễ trước tôn nhan.
Kệ trà:
Tôn nhan ngôi sư tượng,
Tướng hảo vẫn huy hoàng.
Dâng hương hoa cúng dưỡng,
Cúi lễ trước linh sàng.
Chủ lễ tuyên sớ:
Nguy nguy Tăng tướng,
Trạo trạo uy quang,
Thiên thượng nhân gian,
Tùy duyên ứng cúng.
Nay có hiếu chúng,
Thiết lễ an linh,
Tỏ tấc hiếu tình,
Sớ văn bái bạch.
Duy nguyện tôn sư cảm cách,
Từ bi túc đại chứng minh.
Tuyên đọc văn sớ:
Kính bạch Linh Mụ Tân Tịch Hòa Thượng Giác Linh:
Chúng con cung kính nghe rằng:
Ðại Phật xuất sinh,
Tự có ngày niết bàn an nghỉ.
Cao Tăng nhập diệt,
Há không dịp đền đáp thâm ân?
Sự ấy rất cần,
Lý đâu lại chấp.
Sớ rằng: Nay có Tỳ Kheo, hiếu đồ Thích Nhật Liên,
Cùng bốn chúng Tăng Ni, mười phương thiện tín,
thuộc các tổ đình Thiền Tôn, Tây Thiên, Linh Mụ...
ở cố đô Huế.
Giờ này cung kính quì trước tổ đình,
chí thành dâng lên Sư Tọa:
Tâm Hoa Bát Nhã, đạo vị Thiên Trù,
Thanh tịnh trai tu, thiền duyệt pháp hỷ.
Ngõ đền ơn khai thị, hầu tỏ dạ tiếc thương.
Hiếu tĩnh hương phẩm cúng dường, linh giác ái liêm chứng giám.
Chúng con tự nghĩ: Tôn sư Người,
Pháp thân diệu trạm, Phật tính Trừng Thanh,
Thuyết pháp độ sanh, tham thiền kiến tánh.
Non thần viên đảnh, nghe nhiều thấy rộng phẩm cao,
Ruộng phước phương bào, giống Thánh hạt lành giá quí.
Người là: Trần lưu đạo sĩ, tịch tịnh thiền tăng.
Than ôi:
Ðau lòng trước cảnh sơn băng,
Xót dạ trong tình hà ẩm?
Rồi đây: Áo não khói mờ màu giáo phẩm,
Gậy giày mưa xóa dấu (gót) Tăng quan!
Giờ thì: Tịch mịch thiền sàng, cô liêu linh tọa!
Từ nay: Ai phò cơ cao nghiệp cả?
Ai truyền diệu kệ chơn thuyên?
Hải hà đức lớn khó đền,
Khe hát lòng hèn nào bổ.
Thổn thức vì: Song lâm thiên cổ,
Nghẹn ngào vì: Chính lý nhất triêu.
Nay thời: Pháp tịch lâm triều, tang nghi cập nhật.
Cẩn cụ sớ văn tuân thức, hòa nam bái bạch xin nghe:
Nam Mô Sắc Tứ Quốc Tự, Thiền Tôn tổ đình,
Linh Mụ Tự Tổ, Tân Tịch Cao Tăng Ðôn Hậu
Sa Môn Hòa Thượng Giác Linh tác đại chứng minh.
Phục nguyện: Một tánh linh minh,
Tây phương trực vãng,
Ba thân viên mãn,
chánh giác vị thành.
Chứng pháp nhẫn vô sanh,
ngộ chân thừa đại định.
Mong Phật thọ mệnh,
ứng hóa độ sanh.
Cẩn sớ.
Tả bạch xướng: Hiến trà. Lễ tam bái. Ðồng quì.
Chủ lễ hạ phủ xích. Vịnh 2:
Sắc hương mỹ vị y hồ soạn,
thành kính dâng lên trước bảo đài.
Một bát hòa la đầy đạo vị,
Cúng dường Hòa Thượng Sứ Như Lai.
Kệ trà:
Như Lai, người sứ giả,
Ứng cúng khắp mười phương.
Một bát y hồ soạn,
Xin thành kính cúng dường.
Mỹ Hương Trai Bồ Tát Ma Ha Tát.
Tả bạch xướng: Phụng thực.
Tụng: Cúng dường thanh tịnh Pháp Thân...
Tả bạch xướng: Chung hiến trà. Lễ tam bái. Hồ quì.
Chủ lễ rung linh. Vịnh 3:
Người từ đâu đến, đi về đâu?
Ðạo lý vô sanh quá nhiệm mầu.
Ðến chẳng tằng sanh, đi chẳng diệt,
Ðến, đi, dấu tích khó tìm cầu.
Kệ trà:
Tìm cầu chi dấu vết,
Chẳng đến cũng chẳng đi.
Lý vô sanh đã nêu rõ,
Ði, đến hỏi làm gì?
Tụng: Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh...
Chủ lễ hạ phủ xích: Hồi hướng:
Vừa rồi bao nhiêu công đức, bấy hương hoa,
Thành kính thiết tha nguyện cúng dường.
Linh Mụ phương trượng giác linh tọa,
Duy nguyện ai liêm, thùy từ minh chứng.
Cúi mong Người hãy dùng thần thông cảm ứng,
Diệu dụng thiêng liêng.
Gia hộ cho:
Thanh tịnh nhà thiền, trang nghiêm chốn tổ,
Trong sáng tôn phong Linh Mụ,
Vàng son Tổ ấn thiền tôn,
Ðạo pháp trường tồn, núi sông vĩnh điện.
Và mong được, sống thời:
Nghe pháp dưới sân Tiêu Diễn,
Tham thiền trong thất thần quang.
Nối dòng lịch sử vẻ vang,
Noi dấu ông cha rạng rỡ.
Trúc Lâm muôn thuở,
Yên Tử nghìn thu.
Tăng Ni thực học chân tu,
Thiện tín xây đời giữ đạo
Tôn thờ Tam Bảo,
Ðền đáp Tứ Ân.
Ðồng hòa: Nam Mô A Di Ðà Phật.
Chủ lễ hạ phủ xích. Tán lưu:
Ðại Tăng tang sự rất trang nghiêm,
Long vị, thiền sàng đã tạm yên.
Nghi trượng thiền môn còn tiếp diễn,
Xin Người an nghỉ tại Linh Sàng.
Linh Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Chủ lễ phủ xích. Kết diện, xướng:
An linh lễ tất,
Hiếu sự sơ thành.
Chuông trống hòa thanh,
Lễ từ ba lạy. Lễ chung.
LỄ NHẬP THÁP.
Lễ cung nghinh kim quan của Hòa Thượng nhập bảo tháp được tổ chức trọng thể và trang nghiêm vào đúng giữa giờ Mão, ngày Mồng Một tháng Tư Âm Lịch, vào lúc 6 giờ sáng ngày 3 tháng 5 Dương Lịch.
Tham dự Lễ Nhập Tháp có đầy đủ chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa trong Hội Ðồng Lưỡng Viện Giáo Hội PGVNTN, cùng chư Hòa Thượng, Thượng Tọa đại diện các Miền, Tỉnh, Quận.
Ngoài ra còn có sự hiện diện của chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa trong Hội Ðồng Chứng Minh, Hội Ðồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, phái đoàn Ðại diện Hội Ðồng Chính Phủ, Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Ban Tôn Giáo, đại diện Bộ Văn Hóa Thông Tin, phái đoàn Tỉnh Ðảng Bộ Ðảng Cọng Sản Việt Nam tỉnh Thừa Thiên, Huế, phái đoàn Tỉnh Bộ Ðảng Cọng Sản Việt Nam tỉnh Quảng Trị, phái đoàn đại diện các cơ quan, đoàn thể chuyên nghiệp công tư, cùng hàng vạn tín đồ Phật Tử, hàng nghìn Huynh Trưởng, Ðoàn Sinh Gia Ðình Phật Tử Thừa Thiên, Huế
Bảo Tháp của Hòa Thượng được xây dựng phía sau điện thờ Ðức Quán Thế Âm, trong khuôn viên chùa Linh Mụ.
Kiến trúc ngôi bảo tháp thể hiện được đường nét đặc trưng về sự đơn sơ và giản dị nhưng không thiếu phần mỹ thuật đúng y theo Lời Di Huấn của Hòa Thượng.
Thượng tọa Tuệ Sỹ mô tả cuộc đời Hòa Thượng Linh Mụ trong hai câu đối:
Lễ Nhập Tháp (Tiểu Sử, tr. 41)
Thiên chu mê vụ, cử trạo kích kinh đào,
thanh đoạn cửu thiên, trường xướng vô sanh vô ngã.
Kiều mộc tằng nham, phất vân khuy hạo nguyệt,
ảnh phù không dã, thùy tri tức vọng tức chân.
Và Thượng Tọa dịch ra chữ Việt bằng văn vần:
Thuyền con giữa chốn mịt mù,
vung chèo cỡi sóng, đêm thu bão bùng.
Lời ca vang chín từng không,
diễn lời kệ ngọc vô sinh nhiệm mầu.
Cây cao trên đỉnh ngút ngàn,
xé mây lóa ánh trăng vàng mát trong.
Bóng cây tỏa khắp ruộng đồng,
ai hay tâm vật sắc không là gì.
Hòa Thượng Thiện Hạnh thay mặt Ban Tang Lễ
đọc lời cảm tạ quan khách sau Lễ Nhập Tháp.
(Từ phải sang trái: Ô. Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương
Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Ô. Vũ Thắng, Bí Thư Tỉnh Ủy Thừa Thiên, Huế,
Ô. Nguyễn Chính, Phó Ban Tôn Giáo Chính Phủ. (Tiểu Sử, tr. 75)
Trong Light of Asia (Ánh Sáng Á Châu) thi sĩ người Anh Edwin Arnold bằng lời thơ bóng bẩy đơn sơ, như bức tranh thủy mạc, diễn tả Phật nhập Niết Bàn, gọn ghẽ trong bốn giòng thơ ngắn:
He is one with Life
Yet lives not. He is blest, ceasing to be
Om Mani Padme, Om! The Dewdrop slips
Into the shining sea!
Tôi tạm dịch:
Người và Nguồn Sống biến thành nhất thể
Cuộc đời nhân thế đâu người trải qua.
Người xa sinh tử Ba Tà, đi vào tịch tịnh hư vô Niết Bàn
Úm Ma Ni Bát Mê Hồng! Giọt sương tan biến đại dương sáng ngời.
Cuộc đời của Hòa Thượng
“Phong lai sơ trúc,
Phong khứ nhi trúc bất lưu thanh.
Nhạn quá hàn đàm,
Nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh!”
Hòa Thượng Thích Huyền Quang trong Nghi Dự Tiến diễn đạt:
Người từ đâu đến, đi về đâu?
Ðạo lý Vô Sanh quá nhiệm mầu
Ðến chẳng từng sanh, đi chẳng diệt
Ðến, đi, dấu tích khó tìm cầu...
“Tứ đại đã về không, nhưng Pháp Âm và Pháp Thân của Hòa Thượng vẫn bất diệt giữa dòng đời sinh diệt.”
Với quần chúng Phật tử Mông Cổ, Hòa Thượng được ngưỡng mộ như bậc Thánh. Với hàng Phật Tử Việt Nam, Hòa Thượng được kính trọng như vị tôn sư. Với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hòa Thượng là Ðức Ðệ Tam Tăng Thống, nhưng với hàng thất chúng môn đồ đệ tử, Hòa Thượng là Sư Phụ trong Gia Ðình Ðạo, là Ôn sống mãi trong lòng những người đệ tử thân thuộc, trong lòng con cháu của Ôn. Và một ngày nào đó, như lòng mong ước, những người đệ tử của Ôn sẽ gặp lại Ôn bên kia trời Tây, nơi thế giới Cực Lạc vô sinh vô tử, mãi mãi cùng Ôn không xa cách!
Ôn ra đi, để lại Ngôi Nhà Phật Giáo, cũng như Ngôi Nhà Việt Nam, tuy đã được kết hợp, nhưng vẫn còn nhiều hàng rào phân cách. Không biết khi nào, như ông Hồ Sĩ Khuê đã đặt câu hỏi: “Người bên này, người bên kia chiến tuyến, chịu tháo gỡ các hàng rào ý hệ, xé nát khẩu hiệu, bích chương, cùng mở lối cho nhau về lại Ngôi Nhà của ông cha?” (Hồ Sĩ Khuê: HCM, NÐD, và MTGP tr. 442)
Tiếng Ôn vọng lại từ Áng Mây Bay: “Tất cả chỉ là huyễn vọng. Ngày nào con người còn chấp trước, còn thị phi, thì không làm sao có thể nhìn mặt nhau, không làm sao tìm được cái an lành, êm ả, cái không khí thân tình của Ngôi Nhà do tổ tiên để lại...”
Nam Mô Tôn Sư Bồ Tát, Ân Sư Bồ Tát Ma Ha Tát.
Con cháu của Ôn quanh quẩn bên Ôn