- Lời thưa về việc hiệu đính (1)
- Lời thưa (2)
- Tiểu sử tôn giả Tịch Thiên (Sàntideva)
- Chương Một: Lợi Ích Của Tâm Bồ Đề
- Chương Hai: Sám Hối Tội Nghiệp
- Chương Ba: Phát Tâm Bồ Đề
- Chương Bốn: Thực Hành Tâm Bồ Đề
- Chương Năm: Chánh Niệm, Tỉnh Giác
- Chương Sáu: Nhẫn Nhục
- Chương Bảy: Tinh Tấn
- Chương Tám: Thiền Quán
- Chương Chín: Trí Tuệ
- Chương Mười: Hồi Hướng
CHƯƠNG X
HỒI HƯỚNG
1.
Công đức do viết luận
„Nhập
Bồ Tát Hạnh“ này
Xin
hồi hướng chúng sinh
Mong
tất cả bước vào
Con
đường của Bồ Tát.
2.
Nguyện nhờ công đức này
Mà
tất cả chúng sinh
Đang
chịu bao đau bệnh
Hành
hạ thân và tâm
Được
an vui vô tận.
3.
Nguyện họ luôn hạnh phúc
Suốt
sinh tử luân hồi.
Nguyện
họ luôn an lạc
Như
chư vị Bồ Tát.
4.
Nguyện chúng sinh khắp nơi
Đang
ở trong địa ngục
Được
niềm vui cực lạc
Cõi
Sukhavati.
5.
Nguyện kẻ bị run rét
Trong
địa ngục giá băng
Đều
được hơi sưởi ấm;
Nguyện
chúng sinh nóng nực
Trong
địa ngục đốt nung
Được mây lành Bồ Tát
Giáng
mưa làm dịu mát
6.
Nguyện rừng lá gươm đao
Thành
vườn hoa tráng lệ;
Nguyện
cây cành giáo mác
Biến
thành cây như ý
[Làm
thoả mãn ước mơ].
7.
Nguyện địa ngục thành vườn
Với
hồ sen tỏa hương
Với thiên nga, nhạn, hạc
Hát
ca vui rộn ràng.
8.
Nguyện địa ngục đốt nung
Biến
thành kho châu ngọc;
Nguyện
cho nền sắt nóng
Thành
thủy tinh lung linh ;
Nguyện
địa ngục xay nghiền
Thành
điện đền thờ Phật.
9.
Nguyện mưa đá núi lửa
Biến
thành trận mưa hoa ;
Nguyện
chiến trường gươm giáo
Thành
lễ hội tung hoa.
10.
Nguyện chúng sinh chìm nổi
Trong
dòng sông địa ngục
Nước
nóng bỏng sục sôi
Nấu
tiêu tan thịt da
Xương
lòi ra trắng hếu
Nhờ
công đức của tôi
Được
sinh lên cõi trời
Sông
Madukini.
11.
Nguyện ngục tốt Diêm Vương
Và
kên kên, chim quạ
Hình
dáng thật dữ dằn
Trong
bóng đen thâm u
Bỗng
nhiên tan biến hết;
Chúng
ngẩng lên hỏi nhau
“Ánh
sáng kỳ diệu này
Từ
đâu chiếu rọi đến?”
Và
tất cả bỗng thấy
Bồ
Tát Kim Cương Thủ
Uy
nghiêm đứng trên không.
Nhờ
năng lực hoan hỷ
Rửa
sạch hết lỗi lầm
Chúng
cùng bay theo Ngài.
12.
Nguyện tội nhân địa ngục
Gặp
được mưa hoa sen
Chan
hoà với nước thơm
Rơi
xuống rưới tắt lửa
Liền
hân hoan, khoan khoái.
Các
tội nhân tự hỏi
“Ai
đã làm thế này?”.
Chúng
ngẩng nhìn hư không
Thấy
Bồ Tát Quan Âm
Tay
cầm hoa sen vẫy.
Chúng
vô cùng cảm phục
Nhận
hạnh phúc bất ngờ.
13.
Nguyện hữu tình địa ngục
Vui
thấy Đức Văn Thù.
Chúng
lớn tiếng gọi nhau:
“Bạn
ơi! Mau lại đây
Chiêm
ngưỡng Đức Văn Thù
Ngài
đến cứu chúng ta !
Ngài
Văn Thù Đồng Tử
Trong
hào quang tỏa rạng
Đã
phát tâm Bồ Đề
Có
năng lực diệt khổ
Và
đưa đến an vui.
Ngài
với tâm từ bi
Triệt
để cứu muôn loài“.
14.
"Bạn ơi! Hãy nhìn kia
Dưới
gót sen của Ngài
Vương
miện trăm vị Trời
Đang
cúi xuống đảnh lễ
Tiếng
Thiên nữ ca ngợi
Mê
ly khắp điện đền
Mưa
hoa rắc đầu Ngài
Mắt
Ngài óng từ bi”
Bao
tội nhân địa ngục
Đều
đứng dậy reo hò.
15.
Nguyện chúng sinh địa ngục
Nhờ
công đức của tôi
Thấy
Phổ Hiền Bồ Tát
Hoá
hiện vầng mây lành
Trút
mưa thơm dịu mát
Khiến
chúng đều hân hoan.
16.
Nguyện tất cả chúng sinh
Lià
sợ hãi, đau đớn
Như
tại châu Kuru.
17.
Nguyện loài vật hết sợ
Cảnh
ăn thịt lẫn nhau
Nguyện
cho loài ngạ quỷ
An
vui như những người
Ở
Bắc Câu Lưu Châu.
18.
Nguyện Đức Quán Thế Âm
Rưới
nước cam lồ mãi
Khiến
ngạ quỷ no ấm
Tắm
được dòng sữa mát.
19.
Nguyện kẻ mù được thấy
Nguyện
người điếc được nghe
Nguyện
các bà mang thai
Sinh
nở không đau đớn
Như
Hoàng Hậu Ma-gia.
20.
Nguyện người trần thân trụi
Áo
cơm có đầy đủ
Được
những gì cần thiết
Cho
cuộc sống yên bình.
21.
Nguyện người đau thoát bệnh
Tù
nhân được tự do
Kẻ
yếu được mạnh ra
Mọi
người thương mến nhau.
22.
Nguyện người sợ hết sợ
Người
trói được tháo dây
Người
yếu được mạnh lên
Nguyện
người người nhớ đến
Giúp
nhau làm việc thiện.
23.
Nguyện cho khách lữ hành
Đến
đâu cũng an lành
Nguyện
cho người buôn bán
Thu
lợi nhuận dễ dàng.
24.
Nguyện những kẻ đi thuyền
Đạt
được nhiều mục tiêu
Thuyền
bình an cập bến
Đoàn
tụ cùng thân quyến.
25.
Nguyện hành khách lạc đường
May
gặp đoàn đi buôn
Thoát
lo sợ bị cướp
Hay
thú dữ cọp beo
Hành
trình được xuôi thuận.
26.
Nguyện chư Thiên, Thánh Thần
Hộ
trì kẻ bệnh hoạn
Kẻ
say sưa, cùng bấn
Người
già yếu, trẻ thơ
Kẻ
ngu si, quẫn trí.
27.
Nguyện chúng sinh thoát khỏi
Tám
hoàn cảnh hiện hữu
Không
thuận cho việc tu (46)
Nguyện
họ đủ đức tin
Đủ
từ bi, trí tuệ
Hoàn
hảo trong hình tướng
Thuần
thục cách hành xử
Nhớ
lại được đời trước.
28.
Nguyện chúng sinh có được
Những kho tàng vô tận
Là
hư không, tự do
Nguyện
họ sống hoà hợp
Không
tuyệt vọng, lệ thuộc.
29.
Nguyện chúng sinh yếu đuối
Được
trở thành mạnh mẽ;
Nguyện
khất sĩ tiều tụy
Được
đẹp tươi vô cùng.
30.
Nguyện tất cả thiếu nữ
Được
trở thành nam nhi;
Nguyện
kẻ địa vị thấp
Đạt
được địa vị cao
Không
thành kẻ kiêu mạn.
31.
Nguyện tất cả chúng sinh
Nhờ
phước đức của tôi
Mà
dứt sạch điều ác
Luôn
thích làm điều lành.
32.
Nguyện tất cả chúng sinh
Không
lìa tâm Bồ Tát
Hiến
thân cho giải thoát
Thường
được Phật gia hộ
Không
vướng bẫy ma vương.
33.
Nguyện tất cả hữu tình
Được
sống lâu vô tận
Luôn
luôn được hạnh phúc
Chữ
“chết’ không hề nghe .
34.
Nguyện mười phương thế giới
Đầy
rừng cây như ý
Vang
diệu âm thuyết pháp
Của
chư Phật, Bồ tát.
35.
Nguyện toàn cõi địa cầu
Không
gồ ghề sỏi đá
Bằng
phẳng như lòng tay
Dịu
êm đầy ngọc báu.
36.
Nguyện pháp hội Bồ Tát
Mở
ra khắp nơi nơi
Điểm
trang cho mặt đất
Bằng
hào quang các ngài.
37.
Nguyện tất cả chúng sinh
Nghe
pháp âm vi diệu
Vang
bất tận từ rừng
Từ
chim muông, ánh sáng
Từ
trời rộng mênh mông.
38.
Nguyện chúng sinh kề cận
Chư
Phật và Bồ Tát
Với
lễ vật cúng dường
Nhiều
như mây bốn phương
Dâng
lên đấng đạo sư.
39.
Nguyện chúng sinh được mưa
Rơi
xuống đúng thời vụ
Mùa
màng được sung túc;
Nguyện
thế giới giàu sang
Vua
quan đều chính trực.
40.
Nguyện thuốc thang công hiệu
Nguyện
thần chú ứng linh
Nguyện
quỷ ma, phù thủy
Đều
phát tâm từ bi.
41.
Nguyện tất cả chúng sinh
Không
gặp điều bất hạnh
Bị
tội lỗi, đau bệnh
Bị
đàn áp khinh khi
Không
còn tâm độc ác.
42.
Nguyện tu viện, chùa chiền
Tu
học được hưng thịnh
Tăng
chúng sống vững bền
Mọi
việc đều thành tựu.
43.
Nguyện tăng sĩ siêng tu
Đạt
trí tuệ càng nhiều
Thích
giữ gìn giới luật
Diệt
trừ sạch tán loạn
Tâm
trí được khinh an.
44.
Nguyện cho các ni cô
Không
tranh chấp lẫn nhau
Thu
lợi từ giáo pháp ;
Nguyện
những vị khất sĩ
Luôn
đầy đủ giới hạnh.
45.
Nguyện người bị phạm giới
Biết
ăn năn sám hối
Nguyện
họ sinh cõi lành
Không
còn phạm giới thêm.
46.
Nguyện những vị xuất gia
Học
rộng và uyên thâm
Được
tặng phẩm, bố thí
Được
tâm ý sạch trong
Vang
mười phương tiếng tốt.
47.
Nguyện chúng sinh không khổ
Và
không gặp gian nan
Vì
số kiếp tồi tàn
Với
thân người duy nhất
Trở
thành bậc Chánh giác.
48.
Nguyện tất cả chúng sinh
Luôn
cúng dường chư Phật
Được
hạnh phúc khôn lường
Nhờ
phước Phật vô biên.
49.
Nguyện Bồ Tát hoàn thành
Ước
nguyện cứu thế gian;
Nguyện
tất cả chúng sinh
Được
chư Phật, Bồ Tát
Xót
thương và cứu độ.
50.
Nguyện cho hàng Độc Giác,
Và
Thanh Văn an lạc
Luôn
luôn được Trời, người,
A
Tu La cúng dường.
51.
[Cuối cùng] Nguyện cho tôi
Nhận
được sự gia hộ
của
Văn Thù Bồ Tát
Nhớ
lại những đời trước.
Nguyện
đời nào cũng tu
Để
chứng Cực Hỷ Địa (47)
52.
Nguyện suốt mọi thời gian
Định
lực đều duy trì;
Nguyện
đời đời kiếp kiếp
Có
được chốn thanh tịnh
Để
thuận lợi tu hành.
53.
Nguyện khi tìm học Pháp
Đều
được Đức Văn Thù
Giải
ngộ những chướng ngại
Và
được ngài hộ trì.
54.
Nguyện như Đức Văn Thù
Đi
khắp mọi chân trời
Làm
lợi cho chúng sinh
Tôi
mong được như ngài.
55.
Ngày nào hư không còn
Ngày
nào quả đất còn
Ngày
đó tôi tiếp tục
Diệt
khổ của trần gian.
56.
Nguyện đau khổ chúng sinh
Chín
muồi nơi thân tôi;
Nguyện
phước đức Bồ Tát
Mãi
mãi đem hạnh phúc
Đến
tất cả chúng sinh.
57.
Nguyện giáo pháp Như Lai
Là
linh dược duy nhất
Trừ
đau khổ thế gian
Được
trường tồn, ca ngợi
Được
xuyển dương, hộ trì.
58.
Nay tôi xin kính lễ
Đức
Văn Thù Sư Lợi
Nhờ
ân đức của ngài
Mà
tâm tôi hướng thiện;
Kính
lễ thiện tri thức
Nhờ
ân đức các vị
Mà
tâm tôi lớn lên.
***
CHÚ THÍCH :
(01)
Phật: Trong Luận „ Nhập Hạnh Bồ Tát“, ngài Santideva đã
dùng nhiều danh hiệu khác nhau để thay cho danh hiệu „Phật“,
ví dụ như: đức Thế Tôn, bậc Chiến Thắng, đức Như Lai,
bậc Đạo Sư, Hiền Giả v..v..
(02)
Những vị Thừa Kế đức Phật bao gồm những vị thừa kế
lời Phật dạy như hàng Thanh Văn, Độc Giác Phật và những
vị thừa kế tâm của Phật như hàng Bồ tát.
(03)
Các nơi Bồ tát ở: Là những nơi chốn và địa điểm sống
và tu tập của Bồ tát Tất-Đạt-Đa Cồ-Đàm (Siddhàrtha Gautama)
trước khi giác ngộ thành vị Phật lịch sử Thích Ca Mâu
Ni.
(04)
Tam Bảo: gồm có Phật, Pháp và Tăng
(05)
Phạm Thiên: Là một hình thái hiện hữu của thế giới các
vị Trời tối thượng
(06)
Ba ruộng phước (Phước điền): Là những vị mà Phật tử
nên cúng dường để được phước đức lớn cho đời này
và đời sau. Thứ nhất là cúng dường Phật, Pháp Tăng (Kỉnh
điền). Thứ hai là cúng dường cha mẹ (Ân điền). Thứ ba
là cúng dường những kẻ nghèo khó (Bi điền)
(07)
Pháp cạn, sâu: Chỉ cho Tiểu Thừa và Đại Thừa
(08) Chú thuật Mật tông: Đó là những câu tụng niệm có âm thanh
chứa đựng một sức mạnh huyền bí của vũ trụ hay của
Phật tính với công năng ủng hộ kẻ tu niệm
(09)
Kinh Ba Phần: Là kinh gồm có ba phần: sám hối, phát nguyện
và hồi hướng
(10)
Truyện Cát Trường Sinh: Trong Kinh Hoa Nghiêm
(11)
Nữ thần Durga: Là Nữ thần của Đạo Karnapa, Nam Ấn Độ
(12)
Đổi vị trí cho nhau: Là một trong những phương tiện giúp
đỡ tu tập, được miêu tả rõ trong Chương 8, từ câu 90-100
và từ câu 101-139
(13)
Hoá sinh trong lòng sen: Đây là cảnh hóa sinh tại cõi Cực
Lạc của đức Phật A Di Đà
(14)
Chiến công trọn thành: Tức là đạt được sự giác ngộ,
thành Phật và truyền dạy giáo lý (Chuyển Pháp Luân)
(15)
Xem chương VII, câu 16
(16)
Xem chương IX, câu 73
(17)
Bồ tát Diệu Hoa Nguyệt (Supuspacandra): Mặc dầu biết vua Curadatta
rất ác độc, song vẫn cương quyết thuyết pháp vì lợi ích
cho chúng sinh và đã bị vua hành hạ.
(18)
Tinh huyết của cha mẹ
(19)
Từ câu 141 đến câu 154 (trong ngoặt kép): Nơi đây ngài Santideva
đã tự đặt mình vào địa vị của một người khác rồi
hướng về „cái Ta“ (ngã) mà nói
(20)
Chân lý thế gian: Còn gọi là tục đế, chân lý tương đối,
chân lý bao phủ
(21)
Chân lý tuyệt đối: Còn gọi là chân đế, thắng nghĩa đế
(22)
Đây là cuộc tranh luận giữa Tôn giả Santideva (Trung Quán)
và phái Duy Thức. Duy thức chủ trương rằng mỗi sự vật
và hiện tượng bên ngoài đều là ảo tưởng. Chúng không
có thật mà chỉ là bóng dáng của tâm. Chỉ có tâm mới hiện
hữu thật sự
(23) Phụ nữ vô sinh: Là phụ nữ không thể nào sinh con được.
Vì vậy sự bàn luận về sắc đẹp của đứa con gái của
một phụ nữ vô sinh chỉ là chuyện vui đùa
(24)
Đây là ví dụ về một con gấu bị chuột cắn làm độc.
Gấu ngủ suốt mùa đông. Đến mùa xuân, khi nghe tiếng sấm
nó tỉnh dậy và cảm thấy đau đớn mới nhớ lại đã bị
chuột cắn. Ký ức của con người cũng tương tự như vậy
(25)
Tâm siêu nhiên = Tha tâm thông
(26)
Nơi đây Tôn giả Santideva phản bác lại phái Tiểu thừa đã
quan niệm rằng sau khi đức Phật nhập Niết Bàn thì Ngài
không còn làm lợi ích cho chúng sanh được nữa.
(27)
Bám víu đối tượng hay sự vật = chấp pháp. Bám víu cái
Ta = Chấp ngã
(28) Theo Prajanàkarumati thì các câu 50, 51 và 52 là những câu đã
được tác giả khác từ ngoài đưa vào
(29)
Chướng ngại hiểu biết = Sở tri chướng
(30)
Số luận (Samkhya) là một học thuyết phi Phật giáo do Rishi
Kapila thành lập vào thời cổ Ấn Độ, tin rằng mọi hiện
tượng - trừ cái ngã trường cửu bất biến - được tạo
thành từ một thần ngã Prakrti hay là thực chất tối sơ thấm
khắp mọi sự. Khi tiếp xúc với thực chất này thì một
loạt những biểu hiện như tri thức, cảm quan và đối tượng
cảm giác phát xuất từ đấy và được cái ngã cảm thọ.
Thực chất tối sơ là một chất liệu trường cửu, phổ
biến tạo nên mọi sự và là bản chất của các pháp trong
thế giới kinh nghiệm. Ngã là nguyên lý tâm bất biến trở
nên liên kết với ngoại giới do sự đồng nhất sai lầm
của nó với biểu hiện của thực chất tối sơ. (Theo: Thích
Nữ Trí Hải: Nhập Bồ Tát Hạnh, Trang nhà Quảng Đức, Chương 9: Trí Tuệ, câu 60). Xem thêm Tìm hiểu sáu phái Triết
học Ấn Độ, Thích Mãn Giác, 2002, Trang nhà Quảng Đức.
(31)
Âm thanh: Là đối tượng của sự nghe = Trần cảnh
(32)
Cái biết, Tánh biết= nhận thức
(33)
Ba đức (nguyên lý) tối sơ của Số luận là: rajah, sattwa
và tamah. Tùy theo dịch gỉa mà có nhiều cách dịch khác nhau.
Cách dịch ở đây dựa theo E. Steinkellner với ba thuật ngữ:
Güte, Leidenschaft và Finsternis (Santideva: Eintritt in das Leben
zur Erleuchtung - Bodhicarỳavatàra. Eugen Diederichs Verlag, 1981, trang
125.)
Thích
Nữ Trí Hải dịch là: ưu, hỷ, ám. Sách đã dẫn, câu 64
Thích
Trí Siêu dịch là thanh tịnh, tạo tác u mê (Thích Trí Siêu:
Bồ Tát Hạnh, Trang Nhà Quảng Đức, chương 9: Trí huệ, câu
64)
(34)
“Một”: Theo Trung Quán, một sự vật có thật (có tự tính)
còn được gọi là “Một”. Tự nó là nó, không do nhiều
điều kiện khác (nhân duyên khác) phối hợp mà thành
(35)
Năm Uẩn: Ngũ Uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức
(36)
Ảo tưởng: Được sinh ra từ tưởng tượng, từ tà kiến
hoặc do chấp trước
(37)
Giác quan = Căn: tai mắt, mũi, lưỡi thân
Đối
tượng: ví dụ như sự vật = Trần: như âm thanh, màu sắc,
mùi vị, va chạm
(38)
Hạt bụi cực nhỏ = vi trần hoặc cực vi trần và lân hư
trần, nhỏ đến mức dường như không có gì cả
(39)
Xem lại các câu 86 – 88 của chương chín
(40)
Xem lại các câu 58 – 88 của chương chín
(41)
Phản bác phái Hữu Bộ. Phái này quan niệm rằng tâm và vật
là hai thực thể khác biệt
(42)
Phái Vô Nhân: Phái này chủ trương rằng tất cả các pháp
không do nhân gì sinh ra, họ bảo: “Mọi sự vật như mặt
trời mọc, nước chảy xuống núi, hạt đậu tròn, gai nhọn
và lông đuôi con công … không do ai làm ra cả, chúng tự nhiên
sinh (Thích Nữ Trí Hải, sđd, chương 9, câu 116)
(43)
Thường Luận: Phái này tin rằng mọi sự do thần Tự Tại
Thiên sinh ra. Vị này có năm đức là thiêng liêng, trong sạch,
đáng kính, trường cửu, độc nhất và là sáng tạo chủ
của mọi sự (Thích Nữ Trí Hải, sđd, chương 9, câu 118)
(44)
Bốn Đại chủng: gồm có đất, nước, lửa, không khí và
không gian
(45)
Cõi lành, Cõi phước = Bát phước sanh xứ: Tám cõi nhờ có
phước đức mà được sinh đến đó, gồm có cõi người
giàu sang, cõi trời bốn vị Thiên Vương, cõi trời Đao-lỵ,
cõi trời Dạ-Ma, cõi trời Đâu-Suất, cõi trời Hoá-Lạc,
cõi trời Tha-Hoá và cõi trời Phạm Thiên (Theo Đoàn Trung Còn:
Phật học Từ điển, Saigon 1966, tập I, trang 243)
(46)
Tám hoàn cảnh xấu (Bát nạn): Tám cảnh ngộ ngăn chận sự
tu học để được giác ngộ, gồm có Địa ngục, Ngạ quỷ,
Súc sanh, Châu Uất đan việt (Châu Bắc-cu-lư) người ở châu
này sung sướng mãi nên tu học không được, cảnh trời Trường
thọ (Vô tưởng thiên), nơi đây không có tâm tưởng nên không
tu học được, đui, điếc, câm, Thế trí biện thông (ỷ mình
thông minh biện bác theo thế sự mà không lo tu học, trước
Phật và sau Phật, hai thời này không có sự bành trướng
của đạo Phật nên không thể tu học (Đoàn Trung Còn, sđd,
tr. 235)
(47)
Cực Hỷ Địa: Sơ Địa của Bồ Tát
Links: Về Ngài Tịch Thiên
http://www.daouyen.com/Data/Ph_T/T184.htm
http://www.daouyen.com/Data/Ph_T/T185.htm
http://www.quangduc.com/BoTat/index.html
http://www.namsebangdzo.com/category_s/2418.htm
http://www.kagyu-asia.com/t_bodhicaryavatara.html
Sàntideva
(Tôn
giả Tịch Thiên)
Bodhicaryàvatàra
NHẬP
HẠNH BỒ TÁT
Việt
dịch: Nguyên Hiển
Hiệu
đính: Lê Triều Phương
Liên
Lạc
Tuệ
Quang Wisdom Light Foundation
PO
Box 91748
Henderson,
NV 89009, USA
(702)564-9186
Email:
info@daitangvietnam.com
WEBSITE:
WWW.DAITANGVIETNAM.COM
Ấn
bàn điện tử, Xuân 2009
Chịu
trách nhiệm ấn bản điện tử lần 2 : Nguyên Định (2/2009).
Xin
hồi hướng công đức đến hương linh đạo hữu TS Lê Văn
Tâm, pd. Nguyên Thái, bút hiệu Lê Triều Phương, nguyên giáo
sư Đại học Göttingen (CHLB Đức), mãn phần ngày 12/06/2008
tại Gò Vấp, Việt Nam, hưởng thọ 70 tuổi.
Người gửi: Nguyên Định
Các bản dịch khác:Nhập Bồ Tát Hạnh do Ni Sư Thích Nữ Trí Hải dịch năm 1998
Bồ Tát Hạnh, do Thượng Tọa Thích Trí Siêu (Pháp) dịch năm 1990
Source: thuvienhoasen