IX. Triển khai về sau của Đại thừa
Chúng ta đã nhìn vào một số đặc điểm căn bản của triết học Phật giáo. Trong khi từ Ấn Độ, Tiểu thừa truyền qua ngả Tích Lan tới Miến Điện, vương quốc Khmer, Indonesia, và vùng đất về sau là Thái Lan, Đại thừa bắt đầu truyền sang Trung Á, Tây Tạng và đặc biệt các nước Á đông đồng văn như Việt Nam, Trung Hoa, qua Triều Tiên tới Nhật Bản. Bánh xe hoằng pháp càng lăn trên những vùng đất văn hoá xa lạ thì càng cuộn vào nó vô số dấu vết mới mẻ và những hình thức chuyển động thích nghi. Sự kiện ấy được phản ánh trung thực trong sinh hoạt nghi lễ và nét vẽ, chạm khuôn mặt Phật cá biệt, tương ứng với hình ảnh người dân bản địa, cùng lối kiến trúc bên ngoài và trang trí bên trong các đền chùa.
Phật giáo là một tôn giáo và cũng là một triết học, trong cuộc vận hành trên những vùng đất mới ấy, nảy sinh những triển khai tư duy và thực hành đáp ứng yếu tính và nhu cầu đặc thù mỗi dân tộc, nhưng tựu chung, vẫn dựa trên nền tảng Phật pháp truyền thống. Tuy thế, có một số tông phái Phật giáo cho thấy các lý thuyết triết học mờ nhạt hơn các biểu hiện tôn giáo. Dưới đây, ta sẽ đề cập đôi nét về Phật giáo Trung Hoa, Tây Tạng và Nhật Bản, nhìn thoáng qua Phật giáo Việt Nam, là những nơi có các triển khai đặc thù, mang ý nghĩa triết học.
1. Tại Trung Hoa
Theo ngả Bắc tông, Phật giáo truyền sang Trung Hoa rồi mang một hình thức cá biệt; nói theo một số học giả, Phật giáo đã được phần nào Trung Hoa hoá.
Các giai đoạn thăng trầm
Có thể chia quá trình phát triển Phật giáo tại Trung Hoa làm 4 thời kỳ.
Thời sơ khai,khi mới du nhập Trung Hoa – thế kỷ 2 sau CN, Phật giáo bị xem như một loại phương thuật thần tiên, phần vì phải dùng ngôn ngữ Đạo giáo để diễn tả giáo thuyết và dịch kinh sách Phật, phần vì những người Hán đầu tiên theo đạo Phật là người từng theo Đạo giáo. Dấu vết này, cả về học thuyết lẫn nghi lễ, còn được ghi sâu đậm và lâu dài, tiêu biểu trong trong một số tác phẩm văn học như Tây du ký của Ngô Thừa Ân và Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần, v.v…
Sang thời phát triển, từ thế kỉ 3 tới thế kỉ 5, kinh Phật tìm thấy ngôn ngữ tương đối thích hợp và được dịch rất nhiều. Trung Hoa có cộng đoàn Tăng già từ năm 355. Thời này nổi bật cao tăng Chi Độn (314-366) sáng lập trường phái Bát nhã, một trong Lục gia thất tông. Năm 399, sư Pháp Hiển là người đầu tiên thật sự đi Ấn Độ học hỏi và thu thập kinh sách. Sư Cưu Ma La Thập (344-413) có công lớn dịch kinh điển Đại Thừa và truyền bá rộng rãi giáo pháp của Trung quán tông. Không thể không kể tới đại công của sư Chân Đế (499- 569), người dịch 64 cuốn kinh, đưa Duy thức tông vào. Đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ này là các kinh Nhập Lăng già, Đại bát niết bàn và Thành thật luận. Từ đó đưa tới sự ra đời của các phái Tam luận tông, Thành thật tông, Niết bàn tông. Đây là thời Phật giáo phát triển rộng rãi, được sự ủng hộ của triều đình, xây nhiều chùa và cho ra đời nhiều tác phẩm.
Kế đó, tới thời cực thịnhtừ thế kỷ 6 tới thế kỷ 10. Nhân vật kiệt xuất là cao tăng Huyền Trang Tam Tạng (600-664), người sáng lập Pháp tướng tông, một dạng của Duy thức tông. Sư du hành Ấn Độ trong 16 năm, giảng học tại Viện Phật học Nalanda rồi mang về và dịch hàng trăm bộ kinh. Thời này xuất hiện các tông như Hoa nghiêm, Thiên thai, Tịnh độ, v.v… và đặc biệt Thiền tông mà ta sẽ đề cập chi tiết trong chương 9. Cùng với thời kỳ trước, Phật giáo Trung Hoa tàng trữ được rất nhiều kinh sách dịch từ Phạn ngữ, và tới lượt kho tàng này được nghiên cứu trở lại sau khi tại Ấn Độ, rất nhiều kinh sách nguyên ngữ bị thất lạc.
Tiếp đến là thời suy yếuhoặc hoà đồng. Từ thế kỷ 13, dưới triều đại Tống, Phật giáo Trung Hoa không bao giờ trở lại được thời huy hoàng ngày trước. Phật giáo hoà nhập với Nho giáo và Đạo giáo và để lại dấu ấn quan trọng của Tam giáo trong nền văn hoá; chỉ còn Thiền tông và Tịnh độ tông là quan trọng. Sang tới thời Nguyên, Minh, Thanh, Phật giáo càng sa sút. Các tông phái dung hợp nhau và vấn đề Tâm tính trở thành trọng tâm của triết học. Có khuynh hướng Thiền Tịnh hợp nhất, gây được ảnh hưởng đáng kể, với cao tăng Vân Thê Châu Hoằng (1535-1615). Sau đó, từ thế kỷ 17 tới 20, Phật giáo Tây tạng bắt đầu lan sang và có tác động, nhưng tới thời Cách mạng Văn hoá (1966-1976) Phật giáo Trung Hoa lại gặp cơn khốn đốn.
Lục gia thất tông
“Sáu nhà bảy phái” hình thành trong giai đoạn phát triển của Phật giáo, khoảng thế kỷ thứ 4. Thời Nguỵ Tấn, vì mới khởi sự dịch kinh nên có rất nhiều điểm mơ hồ về kinh nghĩa và dùng từ ngữ của Lão Trang nên sinh ra nhiều cách hiểu khác nhau. Dưới ảnh hưởng của Đạo giáo và vì thiếu ngôn từ thích đáng, các nhà Phật học thời đó liền liên tưởng tới khái niệm Vô, dùng nó để tiếp cận chữ Không. Còn nữa, những tranh luận về Huyền học đương thời cũng được đưa vào nội dung nghiên cứu kinh Bát nhã ba la mật, dẫn tới sự ra đời Bát nhã học làm nảy sinh “sáu nhà”: Bản vô tông, Tức sắc tông, Thức hàm tông, Huyễn hoá tông, Tâm vô tông và Duyên hội tông. Sau có thêm Bản vô dị tông từ Bản vô tông phân ra, nên được gọi là Lục gia thất tông.
Khuôn mặt nổi bật trong Lục gia thất tông là cao tăng và nhà thơ Chi Độn (314-366), còn gọi là Chi Đạo Lâm. Sư vốn họ Quan, người đất Trần Lưu (nay ở phía đông Khai Phong, tỉnh Hà Nam). Đọc kinh từ nhỏ, năm 25 tuổi xuất gia, có tài viết chữ Thảo, chữ Lệ và thích nuôi ngựa. Có người nói nuôi ngựa không phải là việc người tu hành nên làm, sư cười đáp: “Bần đạo ưa cái vẻ thần tuấn của nó”. Hay thơ, thích đàm luận huyền học và là bạn của nhà thư pháp Vương Hi Chi (303-361). Được người đời gọi là “nhà huyền học hoá”, sư viết nhiều sách, trong đó có Tức sắc huyền luận, mở đầu lập thuyết và thành lập tông phái “Bát nhã học tức sắc” trong Lục gia. Theo sư Chi Độn, “Tính của sắc là không tự có sắc. Sắc không tự có nên tuy có sắc mà là không, cho nên bảo sắc tức là không, sắc lại khác không”. Quan điểm ấy về sau bị phê phán là chưa triệt để, chỉ nhìn sắc không như do nhân duyên tạo thành, mà không nắm vững tính chất thống nhất vừa Thể vừa Dụng của tinh thần “sắc tức là không, không tức là sắc”.
Tuy thế, sư Chi Đạo Lâm là người đầu tiên luận giải danh từ Lý dưới ánh sáng Phật giáo. Theo quan niệm truyền thống từ Trung Hoa cổ đại, Lý là qui luật của vũ trụ, nhưng đối với sư Chi Độn, Lý tức là Chân lý cùng tột, Tuyệt đối, Chân như. Quan niệm Lý ấy về sau được các tông phái khác tiếp thu và phát triển thêm, trong đó có Hoa nghiêm tông.
Tam luận tông
Trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa, đây là tông phái đầu tiên lập một hệ thống triết học, tuy trong mắt giới học thuật, nó là một học phái hơn là một tông phái. Sở dĩ có tên Tam luận tông vì đặt cơ sở lý luận trên hai bộ luận của Long Thọ là Trung quán luận tụng, và Thập nhị môn luận cộng với một bộ luận của Thánh Thiên là Bách luận.
Các bộ luận ấy ở trong số 35 bộ 294 quyển kinh Phật, được cao tăng Cưu-ma-la-thập (344-413) dịch và chú giải vào thế kỷ 5, trở thành kinh điển cơ bản cho các học phái và tông phái Phật giáo Trung Hoa. Sư chào đời ở Tây Vực, nay là vùng Tân Cương, cùng mẹ gia nhập Tăng già từ năm 7 tuổi, trước học Tiểu thừa sau qua Đại thừa.
Năm 401, Cưu-ma-la-thập đến Trường An và bắt đầu công trình dịch thuật trong hơn 10 năm, với sự góp sức của cả ngàn nhà sư và được triều đình hỗ trợ tích cực. Năm 402, sư được phong danh hiệu Quốc sư. Dưới sự chỉ đạo và biên tập của sư, các bản dịch kinh sách Đại thừa từ Phạn ngữ (sanskrit) ra Hán văn đã mang một phong cách mới và tìm được ngôn từ thích hợp. Sư chủ trương dịch theo ý, dám cắt bỏ một vài đoạn không hợp và chuyển văn từ cho hợp với người Hán. Với những bản dịch tác phẩm quan trọng nhất của Long Thọ và Thánh Thiên, sư là người truyền bá triết học Trung quán tông rộng rãi tại Trung Hoa.
Tam luận tông khởi đi từ Cưu-ma-la-thập tới Tăng Triệu (374- 414), vị sư xuất sắc, được coi là “người hiểu Không tính hàng đầu”. Kế đó qua các sư Tăng Lãng, qua Tăng Thuyên, đến Pháp Lãng rồi tới đại sư Cát Tạng (549-623), người được tôn xưng là “thuỷ tổ của Huyền tông” và cũng được xem là người chính thức sáng lập Tam luận tông. Suốt đời, sư Cát Tạng giảng Tam luận hơn 100 lần và giảng kinh Pháp hoa hơn 300 lần. Tác phẩm Tam luận huyền nghĩa của sư được lưu hành rộng rãi, cả ở Triều Tiên lẫn Nhật Bản.
Bắt nguồn từ Trung quán tông nhưng có những nét đặc thù của Trung Hoa, Tam luận tông cho rằng Đức Phật chỉ dạy hai phép tu là:
Thanh văn thừa: Tu theo Tiểu thừa, nhờ nghe giảng pháp Tứ diệu đế mà giác ngộ. Mục đích cao nhất của Thanh văn là đạt Vô dư Niết bàn mà thành A-la-hán.
Bồ tát thừa: Tu theo Đại thừa, chứng tri kiến Không tính của thế giới hiện tượng mà đạt giác ngộ, đạt quả vị Bồ tát. Và đây là phép tu của Tam luận tông.
Theo Tam luận tông, có 3 thời giáo thuyết giảng của Đức Phật:
Thời giáo thứ nhất, kinh Hoa nghiêm. Kinh này chứa những lời khai thị cho Bồ tát nhưng các đệ tử thời đó chưa đủ trình độ lãnh hội;
Thời giáo thứ hai, Phật giảng theo trình độ của đệ tử; kéo dài giữa thời kinh Hoa nghiêm và thời kinh Diệu pháp liên hoa, trong đó toàn bộ giáo pháp bao gồm Tiểu thừa lẫn Đại thừa, có giá trị cả cho Thanh văn thừa, Độc giác thừa và Bồ tát thừa;
Thời giáo thứ ba, là lúc mọi đệ tử đã sẵn sàng để nghe kinh Diệu pháp liên hoa. Đây là thời Phật thừa, chỉ có một pháp duy nhất.
Về học thuyết, Tam luận tông không chấp hữu – tức là có – cũng không chấp vô – tức là không; sự vật khách quan tuy tồn tại nhưng không như chúng ta thấy, chúng do nhân duyên sinh, nhưng tự chúng không có bản thể, không có thực thể. Sư Cát Tạng chia mỗi chân lý trong Nhị đế thành ba cấp:
Chân lý tương đối:
Chấp hữu, cho rằng tất cả đều có;
Chấp hữu hoặc chấp vô;
Chấp hoặc không chấp cả hữu lẫn vô.
Chân lý tuyệt đối:
Chấp vô, cho rằng tất cả đều không;
Không chấp cả hữu lẫn vô;
Không chấp và cũng không không chấp cả hữu lẫn vô.
Từ lý thuyết ấy, sư Cát Tạng đạt tới, qua nhiều lần phủ định, một cấp độ ở đó cả hữu lẫn vô đều có ý nghĩa. Và đây chính là mức độ cao nhất của Trung đạo. Người đời sau xếp sư vào mười vị Đại sư đời Hậu Tuỳ (618-626).
Học thuyết Tam luận tông thịnh hành đầu đời Đường. Tới khi các tông phái Duy thức và Pháp tướng, Hoa nghiêm, Thiền lưu hành rộng rãi, Tam luận tông suy yếu dần.
Thiên thai tông
Kính ngưỡng đại luận sư Long Thọ là sơ tổ, lấy Diệu pháp liên hoa kinh làm căn bản, Trí độ luận làm kim chỉ nam, Đại bát-niết-bàn kinh (cuốn sanskrit – Đại thừa) hỗ trợ và Bát-nhã Ba-la-mật làm cơ sở của các phép quán, Thiên thai tông được thành lập đời Trần-Tuỳ do cao tăng Trí Khải (538-597) tại núi Thiên Thai, nay thuộc tỉnh Triết Giang. Được xem là một phái bao quát, Thiên thai tông chứa đựng một cách tổng hợp nhiều quan điểm của các phái khác. Từ thế kỷ 9, tông này truyền qua Nhật Bản và đóng vai trò rất quan trọng tại đó.
Dựa trên học thuyết Long Thọ về Không tính và Chân như, Thiên thai tông phân tích thành ba chân lý là:
Không. Trống rỗng. Mọi pháp đều hư không, không có tự tính;
Giả. Có hình tướng. Tuy thế, mỗi pháp có dạng hiện hữu tạm thời với thời gian nên con người có thể biết nó bằng giác quan;
Trung. Ở giữa. Tổng hợp Không và Giả. Thể của sự vật không nằm ngoài hình tướng nên không thể bỏ hiện tượng mà đi tìm bản chất. Thể và tướng là một.
Như thế, học thuyết này khẳng định ý tưởng về tính toàn bộ và sự xâm nhập lẫn nhau của vạn pháp. Toàn bộ và các thành phần đều đan lồng vào nhau; mỗi cái chứa đựng mọi cái khác. Không, Giả và Trung chỉ là một và từ một mà ra. “Toàn thể vũ trụ nằm trên đầu một hạt cải” và “Một ý nghĩ chứa đựng ba ngàn thế giới”. Từ đó, phương pháp của Thiên thai tông tuy bao hàm các yếu tố Mật tông như Mantra (thần chú) và Man-đa-la, nhưng căn bản vẫn là Chỉ quán. Chỉ là sự tập trung và tĩnh tâm, để nhận ra rằng vạn pháp đều là hư không, nên ngăn cản được việc hình thành các ảo ảnh mới. Quán để thấy tận tường rằng mỗi pháp tuy hư không nhưng vẫn hiện hữu theo vẻ ngoài, tạm thời và mang chức năng ước lệ.
Thiên thai tông chia giáo pháp Phật Thích Ca thành năm thời kỳ thuyết giảng:
Thời giáo Hoa nghiêm. Chỉ vỏn vẹn trong 3 tuần lễ. Sau khi đại giác, Đức Phật thuyết giảng kinh Hoa nghiêm, có ý dạy toàn bộ chân lý với ý tưởng cho rằng vũ trụ là biểu hiện của cái Tuyệt đối, nhưng rồi ngài nhận thấy chẳng người nghe nào hiểu.
Thời giáo Tiểu thừa. Kéo dài 13 năm, còn gọi là thời A hàm. Đức Phật dạy những gì các môn đồ có thể hiểu. Nội dung chứa đựng trong các kinh A hàm như Tứ điệu đế, Bát chính đạo, Thập nhị nhân duyên.
Thời giáo thứ nhất của Đại thừa. Kéo dài 8 năm, còn gọi là thời Phương đẳng. Ngài nhấn mạnh tính ưu việt của Bồ tát so với A-la-hán, và làm sáng tỏ sự thống nhất giữa Phật và người, giữa cái tương đối và cái Tuyệt đối.
Thời giáo đích thực Đại thừa. Kéo dài 20 năm, còn gọi là thời Bát nhã. Phật giảng về kinh Bát-nhã Ba-la-mật, trong đó nhấn mạnh Không tính và sự tồn tại của các mặt đối lập.
Thời đốn giáo. Tương ứng với 8 năm tại thế cuối cùng của Đức Phật, còn gọi là thời Pháp hoa và Niết bàn. Ngài đặc biệt nhấn mạnh tính đồng nhất tuyệt đối của các mặt đối lập, giảng về kinh Pháp hoa và kinh Đại bát niết bàn. Ba cỗ xe (triyana) của các Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát đều có giá trị giới hạn về thời gian, và cuối cùng hoà lẫn nhau thành một cỗ xe duy nhất: Phật thừa (ekayana: nhất thừa). Trong thời kỳ này, Đức Phật trình bày học thuyết hoàn hảo, theo quan niệm của Thiên thai tông.
Hoa nghiêm tông
Lấy Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh làm giáo lý căn bản, Hoa nghiêm tông do Pháp sư Hiền Thủ Pháp Tạng (643-712) thành lập từ đời nhà Đường. Nhưng trước đó, tông có sơ tổ là sư Đỗ Thuận (557-640) và nhị tổ là sư Vân Hoa Trí Nghiễm (602-668). Hiện nay, Hoa nghiêm tông vẫn thịnh hành ở Trung Hoa và Nhật Bản.
Mọi vật đều bình đẳng – hiểu như đồng nghĩa với Tuyệt đối, tức là Bất nhị: không có hai – và đều liên hệ lẫn nhau, không cái nào tồn tại độc lập. Khái niệm này được gọi là “nhất thể” vì Hoa nghiêm tông quan niệm rằng tất cả đều từ Một mà ra và mọi hiện tượng chẳng qua chỉ là vẻ xuất hiện bên ngoài của cái Một đó. Các hiện tượng của Pháp giới cùng xuất hiện đồng thời và mỗi Pháp đều có sáu đặc trưng căn bản (xem phần Vũ trụ luận nói tới Hoa nghiêm).
So với các trường phái Đại thừa khác, Hoa nghiêm tông có điểm khác biệt là chuyên nghiên cứu mối liên hệ giữa hiện tượng với nhau chứ không phải mối liên hệ giữ hiện tượng và bản thể – cái Tuyệt đối. Các thực thể hiện hữu trong trạng thái hoàn toàn hoà hợp vì đều là những biểu hiện của Nguyên lý thống nhất. Tuy chúng cực kỳ khác nhau như những làn sóng biển, nhưng đều bắt nguồn từ một Nguyên lý cao nhất và do đó, chỉ là Một với Tinh thần Phật.
Hoa nghiêm tông chia vũ trụ thành 4 thế giới (Tứ pháp giới):
Thế giới hiện thực của các hiện tượng, gọi là Sự;
Thế giới của Nguyên lý, của cái Tuyệt đối, gọi là Lý;
Thế giới trong đó các hiện tượng và các nguyên lý xâm nhập lẫn nhau, gọi là Lý sự vô ngại;
Thế giới “lý tưởng”, trong đó các hiện tượng đều có thể cùng hiện hữu hài hoà, không cản trở nhau, gọi là Sự sự vô ngại.
Dùng hình ảnh toàn thân con sư tử và các cơ quan hay bộ phận thân thể của nó, sư Pháp Tạng giải thích sáu bản tính của các Pháp (dharmas) thành Lục tướng như sau:
Tính phổ biến, tương ứng với toàn bộ con sư tử;
Tính riêng biệt, như mỗi bộ phận của con sư tử, có chức năng riêng, phân biệt với toàn thân của nó;
Tính giống nhau, vì mọi cơ quan đều là các bộ phận của con sư tử;
Tính đặc thù thể hiện ở chức năng khác nhau của mỗi cơ quan;
Tính hợp nhất ở chỗ mọi cơ quan hiệp thành con sư tử;
Tính phân hoá vì mỗi cơ quan chiếm một vị trí riêng biệt trong toàn bộ con sư tử.
Về sự phân chia các thời giáo thuyết giảng của Đức Phật, quan điểm của Hoa nghiêm tông có phần hơi khác với của Thiên thai tông, tuy cũng chia làm năm thời kỳ.
Thời đầu tiên, Đức Phật giảng giáo lý Tiểu thừa;
Thời thứ hai, Đức Phật giảng Đại thừa thuỷ giáo tức giáo lý sơ bộ của Đại thừa. Theo sư Pháp Tạng, Tam luận tông thuộc thời kỳ này vì chỉ nói về Không tính, chưa đề cập tới Phật tính có sẵn trong mọi chúng sinh;
Thời kỳ thứ ba, Đức Phật giảng về Đại thừa chung giáo, là giáo pháp Đại thừa hoàn hảo. Theo Hoa nghiêm tông, giáo lý Thiên thai tông thuộc thời kỳ này vì nói về Không tính mà không bác bỏ sự hiện hữu của hiện tượng, cái vốn giả;
Thời kỳ thứ tư, Đức Phật giảng về Đốn giáo, tức giáo lý chứng ngộ trực tiếp, tức thời, không theo cấp bậc nào. Giáo lý Thiền tông thuộc thời kỳ này;
Thời kỳ thứ năm, Đức Phật giảng Viên giáo, giáo pháp trọn vẹn, đó là giáo pháp Hoa nghiêm tông.
Tịnh độ tông
Tịnh độ (buddhaksetra), theo Đại thừa, có thể hiểu theo hai cách:
Về ý nghĩa, có ý chỉ cảnh giới tâm linh thanh tịnh, được sở đắc trọn vẹn bởi bậc giác ngộ, và là một dạng ưu việt của tâm thức.
Về hình tượng, là cõi trời tinh sạch nơi Phật ở, không bị uế nhiễm bởi ngũ trọc, và đối lập với trần thế nhơ nhớp là nơi chúng sinh phàm tục sinh sống.
Cũng theo Đại thừa, mỗi cõi Tịnh độ thuộc về một vị Phật; vì có vô số chư Phật nên có vô số Tịnh độ. Cõi Tịnh độ được nhắc nhở nhiều nhất có tên là Cực lạc mà giáo chủ là vị Phật quan trọng, được tôn thờ nhiều nhất trong Đại thừa là A-di-đà. Cõi ấy nằm ở phương Tây – phía đông là cõi Ta-bà của chúng ta. (Xem tiểu đề Năm vị Phật và bức tranh Man-đa-la ở phần trên).
Theo kinh sách, cõi Cực lạc (sukhavati) cũng được gọi là An lạc quốc, An dưỡng quốc, Thanh thái quốc hay Hảo ý quốc. Đó là nơi chan hoà ánh sáng của Phật A-di-đà, đầy nhạc, hoa và châu ngọc, không có súc sinh, địa ngục cùng A-tu-la. Chúng sinh thác vào đây hết cảnh già chết bệnh tật, sống an nhàn hạnh phúc, được nghe Phật A-di-đà giảng pháp, và tu mãi cho tới khi thành Phật. Cũng sẽ được như ý nếu muốn tái sinh qua các cõi thế giới khác để tu thêm công đức hoặc vào các nhà tôn quí, căn cơ đầy đủ, đáng kính đáng yêu; sau khi mệnh chung cũng sẽ quay về cõi Cực lạc tu học thêm nữa cho đến khi viên thành, nhập Niết bàn.
Từ khoảng thế kỷ thứ nhất sau CN, đã có tục tôn thờ Phật A-di-đà, biểu tượng cho Từ bi và Trí huệ. Hình tượng của ngài thường được vẽ với màu đỏ ráng chiều trời tây, tay bắt Ấn thiền định hay Ấn giáo hoá, giữ Bát đựng trái cây. Ngài ngồi trên toà sen tượng trưng cho thanh tịnh và hai con công biểu hiệu cho thoát hiểm, thoát khổ. Cùng được thờ với A-di-đà có hai vị Đại Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. Phật A-di-đà cũng được kính danh theo nghĩa Vô-lượng-thọ Phật, Vô-lượng-quang Phật hoặc Tây Phật. Người Mật tông gọi Phật A-di-đà là Cam-lộ Vương.
Tương truyền A-di-đà từng là một vị vua, xuất gia làm Tì kheo Pháp Tạng; đây là một dạng tiền kiếp của ngài, không phải là Hiền Thủ Pháp Tạng của Hoa nghiêm tông. Ngài quyết tâm tu thành Phật và nguyện giúp chúng sinh sống trong cõi Cực lạc của mình cũng thành Phật. Ngài đưa ra 48 đại nguyện nhằm cứu độ chúng sinh giải thoát, trong đó có việc chúng sinh chỉ cần nghe đến danh ngài sẽ được:
Khi sống mà khởi niệm thì cầu đạt chánh quả vô thượng;
Khi lâm chung sẽ có ngài hiện đến để tiếp dẫn và giúp cho quyến thuộc chung quanh khỏi sợ hãi;
Khi lìa đời, muốn thác sinh vào cõi Tịnh độ (Cực lạc quốc) của ngài để trau dồi thiện nghiệp thì được toại nguyện.
Tịnh độ tông được sáng lập bởi cao tăng Huệ Viễn (334-416). Thiếu thời theo học Nho của Khổng Mạnh và Đạo của Lão Trang, năm 21 tuổi, sư xuất gia theo thầy là cao tăng Đạo An (312-385) và gia nhập Tăng già, bắt đầu học kinh Bát nhã Ba-la-mật. Sư là một trong những cao tăng Trung Hoa đầu tiên nhấn mạnh tầm quan trọng của phép Thiền trong việc tu học. Tại Lư Sơn, một trung tâm Phật giáo quan trọng thuộc tỉnh Giang Tây ngày nay, sư Huệ Viễn cổ động dịch kinh sách và thường liên hệ với sư Cưu-ma-la-thập để trao đổi về các vấn đề Kinh tạng và sự khác biệt giữa một A-la-hán và một Bồ tát.
Năm 402, sư Huệ Viễn tập hợp 123 tăng sĩ, thệ nguyện trước tượng A-di-đà là sẽ thác sinh vào cõi Tây phương Cực lạc, và sư thành lập Liên phái. Từ đây, sư được xem là sơ tổ của Tịnh độ tông. Kinh sách quan trọng của tông này là Lạc hữu trang nghiêm hay Đại thừa vô lượng thọ trang nghiêm, Quán vô lượng thọ và A-di-đà kinh mà nguyên bản Phạn ngữ đã bị thất lạc, chỉ còn những bản dịch chữ Hán của Cưu-ma-la-thập và Huyền Trang.
Các nẻo đường tu tập, theo lối nói hẳn có tính tượng trưng thì có tới tám vạn bốn ngàn pháp môn, tuỳ trình độ và căn cơ của từng sinh linh. Theo sư Đàm Loan (476-542), người tích cực phát triển Tịnh độ tông thì trong thời mạt pháp này phải chọn lấy một pháp môn thích hợp cho chúng sinh yếu đuối và si dại, không đủ tự lực để đeo đuổi con đường tu luyện gian nan. Và đó là Tịnh độ tông. Nền tảng của Tịnh độ tông là lòng tin nhiệt thành vào lời thệ nguyện và sức mạnh cứu độ của Phật A-di-đà, đấng cai quản cõi Cực lạc ở phương Tây, nơi ta có thể tuỳ vào công đức của mình trong kiếp sống này để sau khi từ trần, thác sinh vào cõi cuối cùng ấy rồi an tâm tu tập cho tới khi nhập Niết bàn.
Phương pháp tu tập của Tịnh độ tông có 4 đặc điểm:
Tin tưởng tuyệt đối vào lời Phật A-di-đà thệ nguyện cứu độ chúng sinh có lòng tín ngưỡng ngài.
Trông cậy tuyệt đối vào sức mạnh cứu độ của Phật A-di-đà;
Lấy việc niệm danh hiệu Phật A-di-đà làm chủ yếu;
Quán tưởng cõi tịnh độ Tây phương Cực lạc.
Về hình thức, việc niệm “Nam mô A-di-đà Phật: Cúi đầu đảnh lễ Phật A-di-đà” và quán cõi Cực lạc, thoạt xem có vẻ dễ dãi và dựa vào tha lực, nhưng nhìn kỹ vào thực chất hẳn thấy nó không kém phần sâu sắc, thực tiễn và rất thân cận với thường tính con người. Có lẽ nhờ thế, tông phái này được đông đảo người theo nhất so với mọi tông phái khác từ trước tới nay. Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách phân tích cặn kẽ ý nghĩa và cứu cánh của phép quán niệm ấy trang sách đã dẫn, t. 434 như sau:
“Mục đích của phép niệm danh hiệu A-di đà là tìm cách chế ngự tâm. Thường thường hành giả tự đặt cho mình một chỉ tiêu niệm bao nhiêu lần. Phép quán niệm này được xem là có thể giúp hành giả ‘thấy’ được A-di-đà và hai vị Bồ tát tả hữu là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí và biết trước được giờ chết của mình. Phép niệm này có thể thực hiện bằng cách đọc to hay đọc thầm, không nhất thiết phải có tranh tượng A-di-đà. Đó là cách tu thông thường nhất. Ngoài ra hành giả có thể thực hiện phép thứ 16 trong Vô lượng thọ kinh, bằng cách tạo linh ảnh của A-di-đà và thế giới Cực lạc, xem như hiển hiện trước mắt. Phép tu cao nhất của tông này là tự xem thể tính của mình chính là A-di-đà. Tất cả mọi hành giả của Tịnh độ tông đều mong muốn được thấy A-di-đà trong một linh ảnh, đó là bằng chứng chắc chắn nhất sẽ được tái sinh trong cõi Cực lạc. Niệm danh hiệu và tạo linh ảnh là điều kiện ‘bên ngoài’, lòng tin kiên cố nơi A-di-đà là điều kiện ‘bên trong’ của phép tu này, với hai điều kiện đó thì hành giả mới được tái sinh nơi cõi Cực lạc”.
Sở dĩ phải dành chỗ tương đối rộng cho Tịnh độ tông trong cuốn sách đại cương và hạn hẹp này chính vì đây là tông phái Phật giáo phổ biến nhất, cho đến tận ngày nay, tại Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
So với Kitô giáo
Niệm danh hiệu Phật A-đi-đà để “thân tâm an lạc” được tin là có khả năng xua tan tạp niệm, vun xới thiện căn trong tâm thức và xác lập định hướng công quả cho mỗi hành động của người tu tập. Có thể thăm dò điểm tương đồng của nó trong việc kêu tên và chiêm nghiệm gương phước Đức Giê-su của Kitô giáo.
Có một truyền thống mang tính thần bí hoặc huyền học của Chính thống giáo nói riêng và Kitô giáo nói chung, chủ trương chỉ việc kêu lên thánh danh Đức Giê-su – thí dụ “Chúa Giê-su Kitô, xin thương xót tôi” – là “thơm tho miệng lưỡi”, thoát khỏi mọi lâm nguy, sống an chết lành và được cứu rỗi muôn đời. Song song, việc chiêm nghiệm về cuộc đời Đức Giê-su khiến ta tu đức theo gương phước của Ngài. Người biện hộ cho phép kêu thánh danh và chiêm nghiệm này cũng lập luận rằng đây là một phương pháp tạo an tĩnh trong tâm hồn, chế ngự cái ác chờ chực xuất hiện, và viện cầu hữu hiệu ơn cứu độ.
Trọng điểm của cách thế tu tập ấy là qua tâm trí, đến tâm hồn vào sâu trong tâm linh, hiệp nhất với cái Tuyệt đối. (Xem Chuyện người hành hương, Nguyễn Ước biên dịch, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2007).
Đặt phép quán niệm này dưới ánh sáng phân tâm học, có thể thấy ở đây có hiệu ứng của vô thức lên ý thức. Điểm khác biệt là tác động ấy có chủ ý và do bởi chủ thể hành giả (tín đồ Tịnh độ tông) chứ không là tiếp nhận thụ động từ khách thể (phân tâm học), do đó quán niệm có tính chủ động (ý thức vào vô thức rồi tác động trở lại ý thức) và thuận tiện biến thành tập quán tích cực.
Mật Tông
Chuyên dùng những phép tu tập huyền bí như linh phù, mật chú, ấn quyết, quán đỉnh, Mật tông Trung Hoa được thành lập bởi một số cao tăng đến từ Ấn Độ và Tích Lan. Xuất sắc và nổi tiếng nhất là đại sư Thiện Vô Uý, tên chữ Hán của Subhakara (637- 735), người từng giảng dạy Mật giáo tại Viện Phật học Nalanda. Sư đến Trung Hoa năm 720 và dịch bộ kinh căn bản của Mật tông là Đại tì lô giá na kinh.
Người Mật tông không thờ Phật Thích Ca mà thờ Phật Đại Nhật Như Lai, với niềm tin rằng đó là vị Phật đầu tiên đề ra giáo thuyết cho họ. Mật tông không được truyền bá sâu rộng vì giáo lý chỉ bí truyền từ thầy xuống trò. Có lẽ vì thế, từ cuối thế kỷ 8, Mật Tông không còn thịnh hành.
Thiền tông
Tương truyền do Bồ Đề Đạt Ma (470-543), một cao tăng người Nam Ấn qua Trung Hoa sáng lập vào năm 520. Thiền Tông rất thịnh hành ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam. Chủ trương không thông qua nghiên cứu kinh điển, trực tiếp chỉ vào tâm người, thấy tính mà thành Phật.
Thiền Tịnh hợp nhất
Ở đây, Thiền là Thiền tông, Tịnh là Tịnh độ tông. Từ thời nhà Minh (1368-1644), có một khuynh hướng phối hợp và phát triển cách tu niệm danh Phật A-di-đà với phương pháp hành thiền, gây được ảnh hưởng đáng kể và còn để lại dấu vết rộng rãi cho tới ngày nay.
Người sáng lập khuynh hướng Thiền Tịnh hợp nhất là Cao tăng Vân Thê Châu Hoàng (1535-1615). Thuở thanh niên, sư học Nho, năm 32 tuổi mới xuất gia cầu đạo với nhiều cao tăng và nhiều tông phái đương thời. Sư sáng lập chùa Vân Thê tại Hàng Châu, nơi có tiếng là giữ giới luật nghiêm ngặt. Khởi đi từ câu “Ngoài tâm không Phật”, sư quan niệm người niệm Phật A-di-đà và người quán công án Thiền tông tuy có khác nhau cả bề ngoài lẫn cách tu tập nhưng đều đạt kết quả như nhau. Do đó, niệm danh Phật đến khi mọi ý nghĩa được xua tan khỏi tâm thức và chỉ cần “A-di-đà”, hành giả sẽ đạt tới cảnh giới không khác gì để hết tâm trí vào công án.
Trong khi niệm danh A-di-đà, hành giả không chỉ nên tập trung vào danh hiệu mà còn phải chú tâm vào “sự thật” đứng đằng sau danh hiệu ấy. Không có A-di-đà nào ngoài cái tâm đang niệm A-di-đà, và ngoài A-di-đà không có cái tâm nào. Với chủ trương vừa thực hành quán niệm theo quan niệm ấy vừa giữ đúng mọi giới luật, sư Vân Thê Châu Hoằng thuyết phục được rất nhiều người tu hành Phật đạo, đặc biệt trong giới tu tại gia.
2. TạI TÂY TạNG
Từ thế kỷ thứ 7 tới thế kỷ 11, người Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, xuất phát từ Ấn Độ, Trung Hoa và Trung Á, đã loan truyền những giảng thuyết của họ sang Tây Tạng.
Sau cuộc tranh luận giữa Mật tông và Thiền tông, truyền thống Trung Hoa bị đặt sang một bên, người Tây Tạng thiên về truyền thống Phật giáo Ấn Độ. Từ đó, tại xứ sở ấy phát triển một hệ thống giảng dạy có tổ chức và duy nhất được gọi là lamrim, nghĩa là “các giai đoạn mới của Con đường đạo”. Lamrim cũng là tên chung của một số luận văn – Bồ đề đạo thứ luận – do những đại sư của Phật giáo Tây Tạng sáng tác, dựa theo tác phẩm Bồ đề đạo đăng luận (Bodhipathapradipa) của Đại sư A-đề-sa (982-1054), người truyền Phật Pháp sang Tây Tạng.
Lối tiếp cận này xem ba truyền thống giảng dạy Phật pháp là ba cỗ xe (triyana) dẫn từ trình độ này lên trình độ khác theo một quá trình tiệm tiến từng cấp bậc. Tác phẩm kinh điển của nó, ngoài cuốn của đại sư A-đề-sa như đã nói ở trên, còn có bộ Bồ đề đạo thứ đệ tuỳ phá tông trang nghiêm của Gampopa, danh xưng của sư Tây Tạng Đạt-bảo Cáp-giải (1079-1153).
Ba cấp bậc ấy là:
Tiểu thừa. Nay gọi là Phật giáo Nguyên thuỷ. Đặt cơ sở trên các lời giảng của Phật giáo thời kỳ đầu, được thể hiện trong thời hiện đại bởi truyền thống Theravada;
Đại thừa: Kết hợp quan điểm Trung quán và Duy thức;
Kim Cương thừa. Đây là lối tiếp cận vào Phật giáo, mang tính Mật tông, và vì có những thành tố Mật pháp (Tantra) trong Ấn giáo cũng như Phật giáo.
3. TạI NHậT BảN
Tại Nhật bản, Phật giáo Phát triển với nhiều hình thức đa dạng; mỗi hình thức mang một nét đặc trưng nổi bật.
Thiên thai tông
Có gốc tích từ Thiên thai tông của Trung Hoa nên cũng dựa trên kinh Diệu pháp Liên hoa và xem đại luận sư Long Thọ là sơ tổ. Như đã trình bày ở đoạn trên, tông phái ấy cho rằng mọi hiện tượng đều:
Dựa lên nhau mà có;
Thực chất là Không tính;
Biểu hiện thể tuyệt đối là Chân như.
Được cao tăng người Nhật là Tối Trừng (767- 822) mang sang Nhật Bản, tông phái ấy tuy vẫn giữ nội dung của Thiên thai tông Trung Hoa, nhưng thêm vào một số điểm mới. Chấp nhận giá trị của các mạc khải tinh tiến trong đó cái tối thượng được tìm thấy trong kinh Hoa nghiêm, đại sư Tối Trừng cổ động cho ý tưởng rằng mọi hình thức giảng dạy đều có thể dẫn tới giác ngộ, không phải vì chúng giống hệt nhau, nhưng vì chúng có chung điểm cốt yếu là gắn liền với một dạng “cỗ xe” hoặc con đường đạo.
Thêm nữa, vị đại sư ấy còn xem Phật giáo Đại thừa có nhiệm vụ bảo vệ đất nước Nhật và các tăng sĩ là tài nguyên của quốc gia, hoặc phải ở lại trong chùa phụng sự tổ quốc hoặc phải tham gia làm viên chức chính quyền trong các lãnh vực hành chánh, giáo dục, v.v... Thiền viện do sư Tối Trừng sáng lập tại núi Tỉ Duệ được xem là “Trung tâm bảo vệ quốc gia” của Nhật.
Tịnh độ tông
Thoạt đầu, sư Viên Nhân (793-864), một cao tăng Nhật Bản từng du học Trung Hoa rồi mang về quê hương mình các giáo lý của Thiên thai tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Sư truyền bá phương pháp niệm Phật A-đi-đà và từ đó, câu niệm ấy trở thành một phần của việc tu hành trong các tông phái tại Nhật Bản.
Thế nhưng Tịnh độ tông Nhật Bản chỉ được chính thức hình thành với sự xuất hiện của cao tăng Pháp Nhiên (1133-1212). Sư đề cao quan niệm rằng về mặt thực tiễn, đối với đa số con người nói chung, đặc biệt trong thời buổi “mạt pháp” này, con đường tu tập để đi tới giác ngộ quá đỗi gian nan. Chúng sinh đang đau khổ không có khả năng theo đuổi, nên phải tìm cho họ một con đường khác thích hợp hơn.
Câu trả lời duy nhất là phải trông cậy vào sức mạnh bên ngoài bản thân họ – tha lực – của Phật A-di-đà: niệm “Nam mô A-di-đà Phật”. Bằng cách ấy, sư Pháp Nhiên mở ra con đường mới mẻ và dễ dàng cho chúng sinh bất hạnh của “kỷ nguyên sau cùng” này. Thuyết phục được quần chúng, sư thành công nhanh chóng và qui tụ được rất nhiều giáo đồ. Tịnh độ tông Nhật Bản ngày càng lớn mạnh. Tuy thế, có lẽ vì sư tự coi học thuyết của mình là cao nhất nên gặp sự chống đối của các tông phái khác ở Nhật, khiến tới năm 74 tuổi, sư vẫn phải bị lưu đày tới một vùng đất xa xôi.
Tịnh độ chân tông
Tịnh độ tông của đại sư Pháp Nhiên tiến thêm một bước xa hơn dưới chủ trương của đại sư Thân Loan (1173-1262). Sư là học trò của sư Pháp Nhiên và là người sáng lập Tịnh độ chân tông.
Chung một tuyến tư duy với sư phụ mình, sư Thân Loan cho rằng thế giới đang suy tàn, con người đang bị kích thích bởi đam mê mù quáng của thời đại nên không thể trông đợi ở bất cứ phương cách tu tập nào dựa trên sự tự lực, tự chủ và đạo hạnh. Vì thế, tu theo tự lực là bất khả thi và chẳng ích lợi gì; mọi người phải cần tới sự trợ giúp từ bên ngoài của Phật A-di-đà mới có thể đạt tới giác ngộ, giải thoát. Do đó, việc niệm danh hiệu Phật A-di-đà là phương pháp tu hành tổng hợp mọi phương pháp và là cách bày tỏ lòng báo ân với vị Phật ấy. Thậm chí đối với những ai có niềm tin vững chắc, mãnh liệt vào Phật A-di-đà là đủ để được giải thoát, và như vậy đôi khi cũng chẳng cần phải liên tục niệm danh hiệu ngài.
Ngoài ra, so với Phật giáo thời kỳ đầu, chủ trương của sư Thân Loan có hai điểm khác:
Tu viện không còn là tâm điểm của cuộc sống Phật giáo;
Thế nên ba ngôi Tam Bảo Phật, Pháp và Tăng chỉ còn hai.
Sư Thân Loan lập luận rằng cuộc sống thế tục không gây trở ngại cho quá trình tinh tiến tâm linh, đồng thời nhấn mạnh rằng sự tiết chế điều độ và cuộc sống độc thân chỉ là dấu hiệu của lòng thiếu tin tưởng, sư lập gia đình và các đệ tử của sư toàn là cư sĩ. Với sư Thân Loan, sự thác sinh vào cõi tịnh độ không tuỳ thuộc vào công quả đạo đức của bạn mà hoàn toàn căn cứ trên lòng bạn tin tuyệt đối vào quyền năng của Phật A-di-đà. Có thể tóm tắt lập trường ấy bằng mấy câu thơ của sư Thân Loan trong “Bài ca thời đại lạc loài”:
Vì quyền năng của lời thệ nguyện ấy [của Phật A-di-đà] vô hạn,
Nên dù ác nghiệp của chúng ta quá sâu nặng cũng chẳng là gánh nặng,
Vì trí huệ của Phật ấy [A-di-đà] vô hạn,
Nên dù người hoang mang ương ngạnh cũng không bị bỏ rơi.
Đối với sư Thân Loan, Phật giáo có thể được rút gọn trong câu jinen honi (jinen: mọi sự vật như chúng đang là; honi: biết được qua các pháp). Nói cách khác, hiểu theo khía cạnh triết học, có một thời điểm mang tính chất tự nhiên, nó có ở đó trước khi có mọi suy ngẫm về con người và bản tính khác hoặc giữa bản thân ta và những cái khác; trong thời điểm ấy, ta là ta và ta hành động như là thành phần của một vũ trụ ở đó mọi sự vật chính xác như chúng là chúng, không hơn không kém.
Có lẽ vì thế không lấy làm lạ sự kiện Tịnh độ chân tông gồm toàn cư sĩ tại gia với các vị đứng đầu tông phái được phép trao quyền thừa kế cho con mình. Tại Nhật Bản, ngày nay Tịnh độ chân tông là tông phái mạnh mẽ nhất với hai bộ phái Ôtani và Honganji. Cả hai được tách ra từ thế kỷ 17, chỉ khác nhau về các hình thức tụng niệm lễ bái, và hiện nay đều thành lập hai trường đại học lớn.
Đi tìm điểm đồng, dị
Sẽ thấy ở đây có nhiều điểm tương đồng nếu ta nhìn vào Thiền tông hoặc Đạo giáo. Theo quan điểm của hai vị cao tăng sư phụ Pháp Nhiên và đệ tử Thân Loan ấy, Phật giáo trở thành hầu như đồng nghĩa với tính tự nhiên. Nhưng cái đáng để ý ở đây là bước chuyển dịch khỏi sự phản tỉnh (suy ngẫm) ấy rất có ý thức, và nó được phân tích thành “đức tin tôn giáo”.
So với triết học của Phật giáo thời kỳ đầu hoặc Trung quán tông và Duy thức tông, thì ta thấy rằng Tịnh độ tông ở Trung Hoa và đặc biệt tại Nhật Bản, rất khác. Và như thế, người ta có thể tranh luận liệu có nên xem nó có chút nào mang tính triết học không. Có ít nhất ba điểm khác biệt là:
Một đằng dựa vào chứng nghiệm một đằng dựa vào “đức tin”;
Một đằng dựa vào tự lực, một đằng dựa vào tha lực, để được giải thoát, cứu độ.
Niết bàn là trạng thái tịch tịnh, tịch diệt – không còn bị chi phối bởi sinh tử, không còn bị ám ảnh bởi phiền não – cảnh giới an tĩnh của người giác ngộ. Trong khi đó Cực lạc là tên của một cõi được định vị rõ rệt và có không gian cụ thể. Nó được hiểu là đất thanh khiết và trung chuyển của Phật A-di-đà, nằm ở phía Tây cõi Ta-bà của chúng ta, nơi hoàn toàn an lạc, chỉ có vui không có khổ.
Nhật liên tông
Tông phái Phật giáo Nhật Bản này lấy theo tên của sư tổ sáng lập là cao tăng Nhật Liên (1222-1282). Vị cao tăng ấy cho rằng bộ kinh Diệu pháp Liên hoa là biểu hiệu vừa tối thượng vừa tuyệt đỉnh của Phật giáo và chỉ có bộ kinh ấy mới có thể cứu độ mọi sinh linh. Vì tinh hoa của Phật Pháp hội tụ trong bộ kinh ấy nên chỉ cần phương pháp tu hành chính là niệm “nama myoho reing-kyo: Nam mô Diệu pháp Liên hoa kinh”. Cứ niệm câu ấy sẽ thanh lọc thân, khẩu, ý và thay cho việc qui y Tam bảo.
Với mức độ nhấn mạnh đến như thế, Nhật liên tông xem việc lặp đi lặp lại lời tụng ấy là một hoạt động tâm linh căn bản. Chúng ta sẽ không đi sâu vào việc xem xét Nhật liên tông, phần vì tông ấy liên quan tới “đức tin” hơn tới triết học, phần vì lý thuyết còn lại của tông ấy tương đồng với triết học Đại thừa mà chúng ta đã xem xét ở các phần trên.
Tuy thế, Nhật liên tông có một khái niệm cần được đề cập đến. Đó là nguyên lý ichinen-sanzen: nhất thời hành thiền. Đây là quan điểm cho rằng mỗi khoảnh khắc của ý nghĩ chứa đựng toàn bộ các hệ thống thế giới. Tâm trí của bạn không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Giống như vào khoảnh khắc giác ngộ cũng chính là thời điểm ta được xem là có tri thức lập tức về mọi sự, Nhật liên tông cũng thế: vào khoảnh khắc bạn niệm tức là bạn tóm hết mọi sự đã và đang xảy ra trong mọi hệ thống thế giới. Hành động niệm “Nam mô Diệu pháp Liên hoa kinh” nâng cá nhân người niệm lên quả vị Phật và hiệp làm một với thực tại vũ trụ.
So với Ấn giáo
Như thế, dù phát triển từ triết học Phật giáo truyền thống, thật thú vị khi thấy Nhật liên tông cực kỳ gần gũi với ý tưởng giải thoát tối hậu trong Ấn giáo truyền thống. Theo các kinh Veda, vào khoảnh khắc ấy tiểu ngã Atman hoà nhập làm một với Đại ngã Brahman.
Cả trong Nhật liên tông Nhật Bản lẫn Ấn giáo truyền thống, bản ngã của bạn sẽ tìm thấy một Bản ngã lớn lao hơn để được đồng hoá.
4. Tại Việt Nam
Từ đầu kỷ nguyên Tây lịch, bánh xe Phật giáo đã lăn tới vùng đất Giao Châu – tên gọi xứ Việt Nam thời xa xưa ấy – theo bước chân thương thuyền trên đó có các tăng sĩ Ấn Độ. Con đường từ Nam Ấn qua Ấn Độ dương đi vòng lên đưa Phật giáo tới Việt Nam trước con đường Bắc tông từ Trung Hoa đi xuống. Từ đó đến nay, với sự thực hành các tông phái mà nổi bật là Tịnh độ tông, Thiền tông, v.v... cùng với ảnh hưởng của Theravada ở phương nam, Phật giáo có khi suy khi thịnh nhưng nói chung, chưa bao giờ mất ảnh hưởng trong dân tộc Việt Nam.
Trung tâm Luy Lâu
Từ thế kỷ thứ nhất sau CN, tại Luy Lâu (nay là phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) đã xây dựng một trung tâm Phật giáo với hàng trăm tu sĩ. Có người cho rằng trung tâm Luy Lâu được thành lập trước cả Lạc Dương và Bành Thành của Trung Hoa, và là nơi làm bàn đạp để hình thành hai trung tâm bên Tàu ấy.
Sang khoảng thế kỷ thứ 5, Giao Châu lại hân hạnh tiếp nhận vị đại sư Ấn Độ nổi tiếng thuộc truyền thống Đại thừa là Pháp Thiên (Dharmadeva). Tương truyền sư cùng sơ tổ Thiền tông Trung Hoa là Bồ Đề Đạt Ma đến Giao Châu. Sư ở lại giảng dạy; trong số các đệ tử, có hai vị sư nổi tiếng là Huệ Thiên và Huệ Thắng.
Kể từ thế kỷ thứ 6 trở đi, bắt đầu từ Đại sư Tì-ni-đa Lưu-chi, nhiều vị sư khác từ Trung Hoa sang Việt Nam khai sáng nhiều tông phái Đại thừa, theo truyền thống Thiền tông và Tịnh độ tông. Từ đó, Phật giáo Việt Nam nghiêng dần về Bắc tông. Mãi tới thế kỷ 17, khi lãnh thổ Việt Nam mở rộng hết vùng đất Nam bộ, Phật giáo Việt Nam lại tiếp nhận Nam tông theo tập quán tín ngưỡng của sắc dân Thuỷ Chân Lạp ở vùng lục tỉnh ngày nay.
Mâu Tử và Khương Tăng Hội
Mâu Tử sinh khoảng năm 165-170 s.C.N., được xem là luận sư đầu tiên của Phật giáo Việt Nam với tác phẩm không những lưu hành tại Giao Châu mà còn ở cả Trung Hoa và được các học giả người Hoa, Nhật, Tây phương nghiên cứu.
Sư là người học nhiều, biết rộng, cuối cùng chọn lựa Phật giáo làm lối đi riêng cho mình sau khi đã chất vấn đối luận với những học giả thuộc các truyền thống triết học Trung Hoa khác. Lý hoặc luận là tác phẩm gồm những câu vấn đáp, dùng lý luận để xoá tan những nghi ngờ về đạo Phật. Phát xuất từ quan điểm Phật giáo, sách gồm có 37 điều. Ngoài 3 điều đầu trình bày về cuộc đời Đức Phật và các giới luật giữ đạo, tất cả 34 điều còn lại dành để bàn luận bàn về những tinh hoa và bất cập trong triết học Nho giáo, Đạo giáo cùng lễ nghi và văn hoá của Trung Hoa. Đây có lẽ là cuốn sách đầu tiên bằng chữ Hán với nội dung “giải hoặc” Nho giáo và Đạo giáo và dùng văn học của hai truyền thống ấy để giải thích Phật giáo.
Sau Mâu Tử, Phật giáo Việt Nam nổi bật sư Khương Tăng Hội, người được xem là khởi nguyên Thiền tông tại Việt Nam. Sư sống vào khoảng thế kỷ thứ 3 sau CN với các sáng tác phẩm Phật giáo đầu tiên của Việt Nam như Lục độ yếu mục; Nê hoàn phạm bối; chú giải sách An-ban thủ ý. Sư cũng là người có những đóng góp trở lại về học thuyết cho Phật giáo Trung Hoa. Cuối đời, sư đi Nam Kinh (Trung Hoa) và mất tại đó năm 280.
Tịnh độ tông
Tông phái này cùng với Mật tông và Thiền tông quyện chặt vào nhau, thấm nhuần trong Phật giáo Việt Nam. Con đường Tịnh độ tông đi vào Giao Châu là qua ngã thiền phái Vô Ngôn Thông.
Theo Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh) trong Việt Nam Phật giáo sử luận tập I, tt. 218, 219 thì
“Ta biết rằng Thiền học Việt Nam đã từ lâu thấm nhuần Mật Giáo [Mật tông Phật giáo]; nhưng ta không biết được do cách nào mà giáo lý niệm Phật đã thâm nhập vào thiền phái Vô Ngôn Thông. Có thể nói đây là do sự tiếp xúc giữa các thiền sư phái này với thế hệ tăng sĩ Trung Hoa đệ tử của thiền sư Diên Thọ”.
Đề cập sự có mặt của Tịnh độ tông trong cuốn Thiền uyển tập anh ngữ lục đời Trần, Nguyễn Lang cho biết các tác giả
“ngoài việc nhắc đến tượng đồng A Di Đà do Không Lộ (?-1119) thực hiện, còn nói đến thiền sư Lục Tịnh như một người đã đắc được ‘Pháp niệm Phật tam muội’ [.] Ông dạy đệ tử là ‘không nên cầu sự chứng ngộ bên ngoài’ và ‘nếu muốn diệt trừ các ác nghi ệp thì nên áp dụng phương pháp niệm tụng bằng cả tâm lẫn miệng’. Sự phối hợp giữa Thiền và Tịnh Độ sau này sẽ trở nên quan trọng trong đạo Phật tại Việt Nam”.
Truyền thống tứ ân
Người Phật giáo cũng là kẻ phải sống giữa cuộc đời, có tương liên nối kết cụ thể với những công quả đã nhận và những ơn đức phải báo đáp. Từ đó, triển khai khái niệm về Tứ ân tức là bốn ơn, vốn có nguồn gốc từ trong kinh điển truyền thống, và ảnh hưởng sâu sắc lên tâm thức của người Phật giáo Việt Nam. Có ít nhất hai thuyết về bốn ơn này.
Theo kinh Tâm địa quán, bốn ơn ấy gồm: ơn cha mẹ; ơn chúng sinh; ơn quốc vương; và ơn tam bảo.
Theo kinh Thích thị yếu lãm, bốn ơn gồm: ơn cha mẹ, ơn sư trưởng, ơn quốc vương, ơn thí chủ.
Yên tử Trúc Lâm
Khởi đi với danh xưng Yên tử, đây là một tông phái Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ 13, đặt cơ sở trên các bộ kinh Đại thừa như Kim cương, Diệu pháp Liên hoa, Bát nhã Ba-la-mật, Nhập lăng già và Hoa nghiêm. Yên tử Trúc Lâm do sư Hiện Quang (?-1221) thành lập bằng cách hợp nhất ba phái thiền Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa Lưu-chi. Tổ thứ 13 của tông phái này từng là một vị vua lỗi lạc lãnh đạo đất nước hai lần đánh thắng quân Nguyên, tức Trần Nhân Tông (1258-1308), cho nên từ đó được gọi là phái Trúc Lâm Yên tử với vị sư cựu hoàng ấy làm Đệ nhất tổ.
Trúc Lâm Yên tử ngoại trừ phần tu tập có tính tu viện, còn mang tính nhập thế. Tăng nhân cũng là kẻ có những ưu tư của người dân nước nhỏ sống bên cạnh một nước lớn với trạng thái bang giao “vô thường” khi bạn khi thù. Chính Trần Nhân Tông, tức Trúc Lâm Đầu đà, đã hạ bút trong Cư trần lạc đạo rằng:
“Tụng kinh niệm bụt
Chúc thánh khẩn cầu
Tam hữu, Tứ ân
Ta nguyền được trả”.
Triều đại Trần xem tông phái Trúc Lâm là một dạng Phật giáo chính thức của cả nước. Có lẽ vì sự liên quan mật thiết ấy nên sau khi nhà Trần suy tàn, Trúc Lâm bị lâm cảnh mai một. Mãi tới thời Trịnh Nguyễn phân tranh (1600-1700) mới thấy xuất hiện các cao tăng của Trúc Lâm, nổi bật nhất là Minh Châu Hương Hải (1628-1715), ở cả hai miền nam bắc. Sư thường dạy rằng:
“Ngộ được tự tính mình thì chúng sinh là Phật, mê tự tính của mình thì Phật là chúng sinh. Giữ được tự tính mình bình đẳng thì chúng sinh là Phật, để tự tính mình gian hiểm thì Phật là chúng sinh”. Lại nói: “(Có những kẻ) Chỉ muốn tránh chỗ huyên náo, bỏ nơi hoạt động, cố phá từng cái tướng, tách từng mảnh bụi của vật thể để tìm hiểu biết. Làm như thế tuy chỗ tĩnh lặng cốt ngộ lý không nhưng không biết đó cũng là cái lối làm chôn vùi chân tính, lấp mất chân giác… Nếu biết quay ánh sáng soi lại nơi mình, bỏ ngoại cảnh mà xem tự tâm, thì Phật nhãn sáng suốt, bóng nghiệp tự tan, Pháp thân hiện ra, những vết trần tự diệt… Cái bản thể của tâm và chân tướng của tánh, vốn lặng lẽ chẳng phải có, chẳng phải không, không có sinh cũng không có diệt. Ta tìm nó thì không thấy, bỏ nó vẫn chẳng rời. Nếu ta mê cái hiện tượng của nó thì khổ sở lầm lẫn lăng xăng, nếu ngộ được chân tánh của nó thì tinh thông sáng suốt. Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm, song chỉ có người chứng ngộ mới biết”.
(Nguyễn Hiền Đức, Lịch sử Phật giáo Đàng trong, Tp HCM, 1988; trích theo Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách, sách đã dẫn, t. 194).
Sư Hương Hải để lại 16 tác phẩm giải thích các kinh Pháp hoa, Kim cương và A-di-đà.
Trong thế kỷ 17-18, tông phái Trúc Lâm có vị thiền sư xuất sắc cuối cùng là Chân Nguyên Huệ Đăng (1647- 1726), và hoà nhập vào tông Lâm Tế.
Hoà đồng và hiệp nhất
Từ cách hiểu Phật pháp của truyền thống nguyên thuỷ cho rằng cứu cánh con đường đạo là giải thoát con người cá nhân khỏi cõi thế đáng khinh rẻ, sang tới triển khai của Đại thừa về lý tưởng Bồ tát đã đưa tới những thực hành tích cực trong Phật giáo Việt Nam. Phật giáo không còn là một truyền thống tách biệt như ở Ấn Độ mà đã hoà đồng với các truyền thống Nho giáo và Đạo giáo. Trần Thái Tông (1218-1277), trước khi xuất gia thành Thiền sư, đã viết trong bài tựa cuốn Thiền Tông chỉ nam của mình rằng:
“Trẫm thầm nhủ: Phật không chia Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm; tính người có trí ngu, cũng nhờ giác ngộ mà thành đạt. Vì vậy, phương tiện dẫn dụ đám người mê muội; con đường tắt sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là đại giáo của đức Phật. Đặt mực thước cho hậu thế; làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy trách nhiệm của Tiên thánh. Cho nên Lục tổ có nói: ‘Bậc đại thánh và đại sư đời trước không khác gì nhau.’ Như thế đủ biết đại giáo của đức Phật ta phải nhờ Tiên thánh mà truyền lại cho đời; thế thì nay lẽ nào trẫm không coi trách nhiệm của Tiên thánh là trách nhiệm của mình, giáo lý của đức Phật là giáo lý của mình!’’
Hằng trăm năm trước triều đại nhà Trần, Phật giáo Việt Nam nói chung và các vị cao tăng nói riêng với triết lý nhập thế, đã có những đóng góp tích cực vào cuộc an dân vệ quốc của dân tộc Việt như Khuông Việt (933-1011) phò trợ Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành, sư Đỗ Thuận (915?-990) làm cố vấn cho Lê Đại Hành (935?-1018), góp phần vào việc khai sáng nhà Lý, v.v…
Bửu sơn Kỳ hương
Vùng đất Nam bộ thuở mới mở mang vào các thế kỷ 18 và 19 là nơi lưu dân người Việt sống rải rác, phải giáp mặt với thiên nhiên, dịch bệnh, thảo khấu và sự va chạm giữa các sắc tộc. Đó cũng là vùng đất đi lại khó khăn, triều đình gặp nhiều trở ngại không thể thi hành pháp luật chu đáo. Sự xuất hiện của Phật thầy Tây An với tông phái Bửu sơn Kỳ hương đã phát triển ở vùng đồng bằng sông Cửu Long - vốn phần lớn thuộc Nam tông - một tông phái Phật giáo Đại thừa, có tính dân dã, vệ quốc và an dân.
Phật Thầy tức tu sĩ Đoàn Minh Huyên (1807-1856), đạo hiệu Giác Linh, quê ở Sa-đéc (nay là Đồng Tháp). Mùa thu năm 1819, họ Đoàn xuất hiện chữa bệnh thời khí đang nhiễu hại dân chúng Hậu giang. Từ đó, sư thành lập tông phái Phật giáo Bửu sơn Kỳ hương với giáo thuyết nhấn mạnh trên:
Tứ ân: ân tổ tiên cha mẹ; ân đất nước; ân tam bảo, ân đồng bào (hoặc ân thí chủ);
Tránh tạo ba nghiệp chướng thân-khẩu-ý;
Thực hành Bát chánh đạo.
Vì chủ yếu thiên về lối tu hành dành cho cư sĩ tại gia, Bửu sơn Kỳ hương gần như không có tầng lớp tăng lữ và chùa chiền; chỉ có các nhà hội họp, đọc và giảng kinh, cùng hai ngôi cổ tự ở Long Kiến (An Giang) và Núi Sam (Châu Đốc), nơi hiện còn ngôi mộ không đắp nấm của Phật Thầy. Kinh sách hầu hết dựa trên các sáng tác gồm những bài thơ, bài vè và tập văn vần khuyến giáo và khuyến thiện của giáo chủ. Bên cạnh đó, Phật thầy Tây An cổ động việc khai khẩn đất hoang, mở các trại ruộng cho tín đồ di dân tới ở.
Sau ngày Phật Thầy qua đời, các giáo đồ tin rằng “hồn” – nghiệp lực cứu độ chúng sinh – của Phật Thầy được lưu truyền qua các hoạt Phật kế tiếp, cùng sống chung đụng với người đời để cứu độ chúng sanh trong thời hạ nguyên này, chuẩn bị vào hội Long Hoa là thời điểm những người thiện hảo được hưởng ân phúc, và vũ trụ chuyển sang một chu kỳ mới. Hậu thân của Bửu sơn Kỳ hương ngày nay là Phật giáo Hoà Hảo và đạo Hiếu nghĩa, v.v... Thời Pháp mới xâm chiếm nam Việt, có nhiều đại đệ tử của Phật Thầy và tín đồ Bửu sơn Kỳ hương tham gia các phong trào nghĩa dân bảo vệ lục tỉnh.
Triển khai ý niệm Bồ tát của truyền thống Đại thừa, Phật giáo Việt Nam đã tiến rất sâu và rộng trên con đường nhập thế bằng con đường hoà đồng với các truyền thống triết học Nho và Đạo, kết hợp một cách tự nhiên giữa chính trị và tôn giáo, và trên con đường tích cực phục vụ với lý tưởng Bồ tát ấy, Phật giáo Việt Nam đã có những đóng góp đặc biệt và nổi bật vào nền triết học cũng như văn hoá của người Việt.
Trước khi kết thúc
Trong phần lớn tư tưởng Đông phương có sự đan quyện của những yếu tố mà người Tây phương hẳn muốn, nhưng rất khó đạt được khi tách riêng thành những gì thuộc về triết học ở bên này, và thuộc về tôn giáo ở bên kia.
Trong phần bàn về Đại thừa ở trên, chúng ta không thể tránh khỏi việc đề cập tới một số luận giải có tính tôn giáo trong truyền thống ấy, dù những thăm dò liên quan tới ý nghĩa tôn giáo đều nằm ngoài phạm vi chủ đề của bài viết này. Nhưng dù có cố tránh cũng không thể không đề cập, nếu muốn làm sáng tỏ triết học Đại thừa. Cũng như chúng tôi đã hầu như cố ý lặp đi lặp lại rất nhiều lần, ở nhiều chỗ khác nhau, nội dung của Không tính và Tự tính, vì đây là các khái niệm tương đối khó diễn tả minh bạch bằng ngôn từ và khúc chiết theo lối lập luận qui ước thông dụng.
Mặt khác, cũng xuất phát từ Đại thừa, đưa tới hai định hướng rất riêng biệt, dựa trên các nguyên lý triết học rất khác nhau: Mật tông và Thiền tông mà chúng ta sẽ bàn trong một dịp khác.
Ghi chú: Đây là chương 4 của cuốn Đại cương triết học Đông phương sắp xuất bản. Có thể đọc thêm hai bài thuộc chương 1: Triết học Ấn Độ và chương 2: Phật giáo thời kỳ đầu tại www.thuvienhoasen.org.
Tư liệu tham khảo:
Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách, Từ điển Phật học, Thuận Hoá, Huế, 1999;Đoàn Trung Còn, Phật học từ điển, bản năm 1963, Chùa Khánh Anh Paris, không ghi năm tái bản;
Don Reisman, Senior editor, Religions of the World, Third Edition, Nxb St. Martins’s Press, New York, 1993;
Huệ Năng, Pháp bảo đàn kinh, bản dịch của Thích Thanh Từ, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh, 1992;
Kimura Taiken, Đại thừa Phật giáo Tư tưởng luận, bản dịch của Thích Quảng Độ, Sài Gòn, không ghi nhà xuất bản.
L.H. Tịnh Huệ, Đại thừa yếu lược, bản in ronéo tại Sài Gòn năm 1988;
Lao Tử & Thịnh Lê, Từ điển Nho Phật Đạo, Văn học, Hà Nội, 2001;
Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, quyển I, Thuận Hoá, Huế, 1999;
Mel Thompson, Eastern Philosophy, NTC/Contempory Publishing, Hoa Kỳ, 2005;
Một số Từ điển Triết học bằng Anh ngữ;
Nàrada Thera, Đức Phật và Phật Pháp, Phạm Kim Khánh dịch, TP. Hồ Chí Minh, 1998;
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, quyển I, Văn Học, Hà Nội, 1994;
Nguyễn Q. Thắng, Từ điển tác gia Việt Nam, Văn Hoá, Hà Nội, 1999;
Nguyễn Tôn Nhan, Bách khoa thư: Văn hoá cổ điển Trung quốc, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000;
The Oxford Dictionary of World Religions, Oxford University Press, Anh, 1997;
Thích Minh Châu & Minh Chi, Từ điển Phật học Việt Nam, Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991;
Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Phật học tinh hoa, Khai Trí, Sài Gòn, 1965;
Trần Trọng Kim, Phật Lục, Tôn giáo, Hà Nội, 2002;
Trần Trọng Kim, Phật giáo, Tôn giáo, Hà Nội, 2002.
Walpola Rahula, What the Buddha Taught (Bản dịch: Tư tưởng Phật giáo – Con đường thoát khổ của
Thích nữ Trí Hải), Phật học viện Quốc tế tái bản, Hoa Kỳ, 1990;
Will Durant, Lịch sử văn minh Ấn Độ, Nguyễn Hiến Lê dịch, Văn Hoá, Hà Nội, 1996.