- Phần mở đầu
- Chương 1: Pháp hành của Như Lai trong khi tu Nhơn Địa.
- Chương 2: Biết huyễn là đã ly huyễn, ly huyễn là Phật rồi.
- Chương 3: Chánh niệm tư duy là con đường tu tập tiệm tiến.
- Chương 4: Chưa ra khỏi luân hồi luận bàn Viên Giác tánh thì tánh Viên Giác trở thành đồng tánh luân hồi.
- Chương 5: Ân ái tham dục là căn bản của sự luân hồi
- Chương 6: Tánh Viên Giác vốn là phi tánh
- Chương 7: Xa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề và Thiền Na là pháp hành căn bản trong toàn bộ nền giáo lý Phật
- Chương 8: Chỉ, Quán, Thiền Có Thể Xoay Vòng Thay Đổi Thành 25 Cách Trong Tiến Trình Tu Tập.
- Chương 9: Chứng ngộ liễu giác là pháp chướng ngại Bồ đề
- Chương 10: Tác nhâm chỉ diệt là bốn căn bệnh trở ngại tiến trình về nhà Như Lai Viên Giác
- Chương 11: Xa Ma Tha Tam Ma Bát Đề và Thiền Na trong bước đường tu tập
- Chương 12: Biển cả dung chứa nước hết thảy sông ngòi khe lạch. Viên Giác đại thừa giáo lợi ích khắp căn cơ
Kinh Như Lai Viên Giác Trực chỉ đề cương
Chương 7: Xa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề và Thiền Na là pháp hành căn bản trong toàn bộ nền giáo lý Phật
Nguồn: Pháp Sư Thích Từ Thông
Lúc bấy giờ Bồ tát Uy Đức Tự Tại đảnh lễ dưới chân Phật và chấp tay thưa:
Đấng Đại bi Thế Tôn đã vì chúng con dạy rõ phương pháp tu hành tùy thận Viên Giác tánh, hàng Bồ tát chúng con giác tâm bừng sáng, không phải tu tập mà được lợi ích lớn lao.
Bạch Thế Tôn ! Ví như đại đô thành, đường đi vào không phải một, tùy hướng mà đến theo sự thuận lợi và ý thích của mỗi người. Bồ tát tu hành trang nghiêm Phật độ có lẽ không phải chỉ có một pháp môn. Cúi xin Như Lai vì chúng con và chúng sanh đời sau dạy cho pháp môn tu hành tiệm tiến, chúng con cần phải làm gì và có bao nhiêu phương cách để vun bồi trí tuệ, hầu tỏ ngộ diệu tánh Viên Giác để rong chơi trong biển đại tịch diệt của Như Lai?
Phật dạy: Nầy Uy Đức Tự Tại ! Vô thượng diệu giác phổ biến khắp mười phương, sản sanh ra chư Như Lai và tất cả pháp bình đẳng đồng thể. Ơ?rong đó việc tu hành không có hướng hai, nhưng vì tùy thuận căn cơ chủng tánh mở bày phương tiện nên có vô lượng pháp môn sai khác. Tuy vậy, có thể tóm kết sự sai khác ấy trong ba phương thức tu hành căn bản:
Một, trước hết Bồ tát phải tỏ ngộ và xác định tánh Viên Giác thanh tịnh vốn có của mình. Lấy sự tỏ ngộ ấy làm đối tượng trụ tâm. Từ đó, vọng niệm đứng lặng, tuệ giác phát sanh, nhận biết phiền não nội tâm chỉ là thứ khách trần. Xả bỏ được tính chấp nặng nề, tâm hành giả bèn có được trạng thái khinh an tịch tĩnh. Bấy giờ tâm của chư Phật hiển hiện vào như hình tượng ảnh hiện trong gương. Thực hiện phương thức nầy thành tựu, gọi đó là pháp môn phương tiện XA MA THA (CHỈ).
Hai, Bồ tát phải tỏ ngộ và xác định tánh Viên Giác thanh tịnh vốn có của mình. Sử dụng giác tâm nhận thức căn trần đều là huyễn hóa. Lấy huyễn tâm trừ huyễn cảnh, lấy huyễn trí giải hoá huyễn tâm. Bừng tỉnh giác biết rằng thân tâm cảnh giới đều hư huyễn. Bấy giờ tâm hành giả được trạng thái khinh ai đại bi. Theo đà phát triển của giác tâm thanh tịnh tăng tiến tu hành trưởng dưỡng quán trí như đất nuôi mạ. Thành tựu hiệu lực như thế, gọi đó là pháp môn phương tiện TAM MA BÁT ĐỀ (QUÁN).
Ba, Bồ tát phải tỏ ngộ và xác định tánh Viên Giác thanh tịnh vốn có của mình. Sử dụng giác tâm trừ chấp. Xóa bỏ cái thấy biết huyễn hóa. Xoá bỏ cái nhận thức thanh tịnh của giác tâm. Không để cho ngăn ngại vì cái biết và cái không biết. Vượt qua tất cả các ngại. Thân tâm hiện hữu trên cõi đời mà Niết bàn và phiền não không trở ngại gì nhau. Ví như tiếng ngân vang của chuông từ chuông mà có, nhưng tiếng và chuông không hề ngăn ngại cho nhau. Lúc bấy giờ hành giả phát ra sự khinh an tịch diệt, tùy thuận diệu tánh Viên Giác. Ơ?rong cảnh tịch diệt, ý niệm vọng chấp: ta, người, chúng sanh và thọ mạng trở thành phù hư không còn công dụng. Thành tựu được hiệu lực như thế, gọi đó là pháp môn tu tập THIỀN NA (gọi tắt là THIỀN).
Nầy Uy Đức Tự Tại ! Ba pháp môn đó là những phương thức gần gũi và tuỳ thuận tánh Viên Giác. Mười phương Như Lai nhơn đó mà thành Phật. Mười phương Bồ tát, bao nhiêu phương tiện đồng dị cuối cùng đều y ba phương thức tu hành đó mà người thì chứng ngộ, kẻ được thể nhập Như lai Viên Giác.
Nầy Uy Đức Tự Tại ! Giả sử có ngưới siêng tu thánh đạo, giáo hoá thành tựu trăm ngàn muôn ức A La Hớn, Bích Chi Phật, không bằng người nghe pháp môn Viên Giác thanh tịnh nầy tùy thuận tu tập trong một sát na!
Bấy giờ đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
Uy Đức ông nên biết.
Viên Giác tâm Vô thượng.
Bản chất không hai tướng.
Tùy thuận mở phương tiện.
Pháp môn có rất nhiều.
Như Lai tóm kết lại.
Phương thức có ba điều.
Tịch tĩnh XA MA THA.
Như gương in ảnh tượng.
NHƯ HUYỄN TAM MA ĐỀ.
Như đất nuôi mọng mạ.
THIỀN NA sâu tịch diệt.
Như tiếng ngân và chuông.
Ba pháp môn màu nhiệm.
Đều tùy thuận Viên Giác.
Mười phương các Như Lai.
Và chư Bồ tát chúng.
Nhơn đấy được thành đạo.
Ba pháp, tu viên mãn.
Được cứu cánh Niết bàn.
TRỰC CHỈ
Trong đạo Phật có rất nhiều pháp môn để tu và hành. Tùy hoàn cảnh, căn tánh, hành giả có thể chọn một pháp môn tu thích hợp với mình. Kinh sách Phật có câu: "vô lượng pháp môn tu". Ý nghĩa của câu đó, cho biết rằng, người tu chọn pháp môn nào cũng được đều có thể đạt mục đích được, không nhất thiết bắt buộc phải theo một pháp môn giáo điều cố định nào. Đó là tinh thần phóng khoáng và tánh "tự do" của nền giáo lý Phật. Tuy vậy, trong phóng khoáng tự do vẫn có tiêu chuẩn của tự do phóng khoáng. Xa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề và Thiền na là tiêu chuẩn chung cho "tất cả pháp môn". XA MA THA là Phạn âm Trung Hoa dịch là CHỈ. Chỉ là ngăn dứt vọng tâm chặn đứng loạn tưởng. Tâm con người thường ngày quay cuồng trong cái vòng lẩn quẩn: Mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn… không có phút đứng yên. Tất cả thức đó là nguyên nhân gây ra khổ não. Hành giả vận dụng nội lực cắt bỏ, chặn đứng các thứ vọng tưởng của cái vòng lẩn quẩn ấy để tâm được dừng trụ. Tâm dừng trụ một chỗ, đó là công dụng của pháp tu CHỈ và XA MA THA. Trạng thái dừng trụ yên tĩnh được chiếm nhiều thời gian trong ngày, trong cuộc sống. Đây là bước đầu hành giả được làm quen và là cơ hội để hành giả nhận diện bộ mặt thật của "chơn tâm thường trú" của mình.
TAM MA BÁT ĐỀ Trung Hoa dịch là QUÁN. Quán là vận dụng TRÍ để nhận xét đối tượng. Ví dụ: Cái bàn. Lấy cái bàn làm vật đối tượng để nhận xét.
Ví dụ: "Cái bàn là vật VÔ THƯỜNG". Qua nhận xét bằng TRÍ, hành giả thấy "cái bàn vô thường" là một chân lý.
TRÍ nhận xét thuật ngữ gọi là "năng quán". Cái bàn bị nhận xét, thuật ngữ gọi là "sở quán". Dùng trí năng quán, quán xét biết được đối tượng sở quán (cái bàn) là một vật vô thường.
Đó là cách sử dụng Tam Ma Bát Đề trong tu tập. Dựa trên pháp quán về "cái bàn" ấy, bậc đại trí lợi căn còn suy diễn và đánh giá hiện tượng vạn hữu qua kết luận bao quát bằng sự nhận thức chân lý:
"Tất cả hiện tượng vạn hữu đều vô thường.
Vì chúng là vật chất.
Phàm vật chất đều vô thường.
Ví như cái bàn…"
THIỀN NA là Phạn âm Trung Hoa dịch TĨNH LỰ, có nghĩa là tư duy trong tịch tĩnh. Chữ TĨNH có ý nghĩa như chữ CHỈ. Chữ LỰ có ý nghĩa như chữ QUÁN. Do vậy, THIỀN NA được hiểu đồng nghĩa như CHỈ QUÁN. Cho nên nói đến "TU THIỀN" là nói đến pháp môn CHỈ QUÁN song tu. Thiền là gọi tắt của từ Thiền na ấy.
Tóm lại, XA MA THA, TAM MA BÁT ĐỀ, THIỀN NA, là ba pháp môn: CHỈ, QUÁN và CHỈ QUÁN đồng tu. Đó là ba pháp môn căn bản của tám muôn bốn ngàn pháp môn tu trong đạo Phật. Học Phật, tu Phật mà không biết sử dụng CHỈ, QUÁN hoặc CHỈ QUÁN đồng tu thì quả quyết mà nói thẳng rằng: cách tu đó, bất cứ với dạng thức nào, đều được xem là tu sai lạc, hoàn toàn không đem lại một lợi ích, một kết quả nào. Ví như người thợ làm bánh Trung Thu trong lò bánh không có bột, đường, thịt, hạt, trứng… thì không làm sao có được bánh Trung Thu ngon lành trong thị trường Trung Thu tháng Tám !