Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 5: Ân ái tham dục là căn bản của sự luân hồi

25/06/201319:10(Xem: 9060)
Chương 5: Ân ái tham dục là căn bản của sự luân hồi

Kinh Như Lai Viên Giác Trực chỉ đề cương

Chương 5: Ân ái tham dục là căn bản của sự luân hồi

Pháp Sư Thích Từ Thông

Nguồn: Pháp Sư Thích Từ Thông

Bấy giờ Bồ tát Di lặc đảnh lễ Phật và chấp tay thưa:
Đấng đại bi Thế Tôn đã mở kho tàng bí mật, khiến đại chúng có được đạo nhãn, thâm ngộ luân hồi, phân biệt tà chánh, đối với đại Niết bàn có lòng chánh tín kiên cố, không thể rơi vào ảo tưởng với kiến chấp sai lầm.
Bạch Thế Tôn ! Bồ tát và chúng sanh đời sau muốn dạo chơi trong biển đại tịch diệt của Như lai phải đoạn căn bản luân hồi bằng cách nào? Luân hồi có bao nhiêu chủng tánh? Đường Bồ đề Phật tu tiến có những sai khác thế nào? Khi vào trần lao cần có những phương tiện chi trong sự nghiệp giáo hoá độ chúng sanh? Cúi mong Như Lai mở rộng lòng bi chỉ dạy cho các Bồ tát và chúng sanh có được tuệ nhãn sáng trong, gương lòng tỏ rạng hầu tiếp thu tri kiến Như Lai Vô thượng !
Phật dạy: Di lặc! Những lời ông hỏi rất có ý nghĩa, sẽ đem lại lợi ích cho Bồ tát và chúng sanh.
Nầy, Di Lặc! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, vì ân ái tham dục mà tác tạo ra nguyên nhân và hậu quả của sự luân hồi. Trong thế giới có các loại chúng sanh như: sanh do thai, do trứng, do ẩm ướt, do biến hóa đều do dâm dục mà hình thành tánh mạng. Vì vậy, cho nên biết rằng nguồn gốc của luân hồi chính là sự ái ân. Dục hỗ trợ cho ái, ái làm tăng trưởng dục thành ra chuỗi dài nhân quả, quả nhân cho sự luân hồi tương tục. Thế cho nên, chúng sanh ái mạng cũng tức là ái dục. A? dục là ái nhơn, mà ái mạng là ái quả. Cảnh dục sanh khởi, có cảnh bằng lòng có cảnh trái ý, mà dấy niệm ghét yêu, tạo ra các thứ nghiệp ác. Do vậy, mà có đường ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục. Nhận biết dục là nguyên nhân của khổ đau, sanh làng nhàm chán, bỏ ác làm lành thì được thiện quả ở cõi nhơn thiên. Đến như hạng người nhàm chán ái dục, chuyện tu định xả và đam mê nơi đó thì cũng chỉ là tăng trưởng một phần thiện quả, vẫn chưa ra khỏi luân hồi, không thể thành thánh đạo. Vì thế, chúng sanh muốn thoát ly sanh tử ra khỏi luân hồi, phải trừ sạch khát ái. Các Bồ tát thị hiện sanh ở nhơn gian, không phải do gốc ái mà do lòng từ, vì muốn dạy cho chúng sanh xa lìa tham dục ái ân mà có mặt trong đường sanh tử. Chúng sanh đời sau xả hết các thứ dục, trừ bỏ ghét yêu thì mới bứng sạch gốc rễ luân hồi. Bấy giờ siêng năng cầu học tu tập cảnh giới NHƯ LAI VIÊN GIÁC thì tâm được sạch trong bèn được mở mang tỏ ngộ.
Nầy, Di Lặc ! Tất cả chúng sanh do gốc tham dục mà phát huy vô minh, từ đó sanh ra năm hạng chủng tánh khác nhau căn cứ trên hai thứ chướng mà phước báo và tội báo khác nhau. Hai chướng là lý chướng và sự chướng. Lý chướng, chướng ngại trí hiểu biết nhận thức đúng chân lý. Sự chướng, do những hành vi bất thiện cho nên nối dài đường sanh tử thêm ra.
Hai chướng chưa đoạn trừ thì gọi đó là chủng tánh phàm phu hạng NGƯỜI CHƯA THÀNH PHẬT.
Nếu đoạn hết tham dục, dứt trừ sự chướng, lý chướng chưa đoạn thì ngộ nhập cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác gọi đó là chủng tánh NHỊ THỪA.
Có chí lớn muốn dạo chơi trong biển Đại Viên Giác Như Lai, phát nguyện dũng mảnh đoạn trừ hai chướng. Hai chướng tiềm phục thì sự nhận thức chân lý rộng sâu, chứng nhập Bồ tát cảnh giới, gọi là hạng người chủng tánh ĐẠI THỪA.
Sự chướng và lý chướng đã đoạn trừ trọn vẹn thì thể nhập NHƯ LAI VIÊN GIÁC cảnh giới vi diệu, tròn đủ Bồ đề và Đại Niết bàn.
Nầy, Di Lặc ! Tất cả chúng sanh ai cũng có khả năng chứng nhập Như Lai Viên Giác vi diệu. Tuy nhiên, trên đường tu hành người thiện tri thức cũng là một trợ duyên có tánh quyết định. Trở thành ngoại đạo, Nhị thừa hay Đại thừa đều ảnh hưởng và tuỳ thuộc cái đạo lý và pháp tu hành của người thiện tri thức hướng dẫn, giáo hóa lúc mới phát tâm. Do vậy, pháp tu hành chia ra có "Đốm" có "Tiệm". Nếu đủ duyên lành gặp được giáo lý Như Lai Vô Thượng dẫn dắt đi con đường chánh thì không luận căn cơ đều có thể thành tựu Phật quả. Nếu chẳng may, trong lúc mới phát tâm tu hành gặp nhằm người tà kiến hướng dẫn vào đạo, bày vẻ pháp tu sai lạc chánh nhơn, mịt mờ chân lý. Hạng người như thế, gọi là chủng tánh ngọai đạo.
Dù bị sư ngoại đạo hướng dẫn tu hành lầm lạc, lỗi đó không phải ở chúng sanh, mà tại vì lúc phát tâm không vận dụng trí tuệ, đắn đo cân nhắc, vì vậy, mà có năm chủng tánh khác nhau cùng hướng về một mục đích: Vô Thượng Bồ đề.
Khác với hạng người trong năm chủng tánh kia, Bồ tát vận dụng đại bi phương tiện thị hiện các thứ hình tướng hoặc từ hoặc uy, lẫn lộn trong thế gian đồng sự với chúng sanh để khai ngộ. Giáo hóa khiến cho thành tựu Phật đạo. Việc làm đó của Bồ tát phát xuất từ nguyện lực thanh tịnh vô thỉ nhằm độ thoát chúng sanh. Chúng sanh đời sau đối với Như Lai Viên Giác nên khởi tâm tăng thượng, phát đại nguyện rằng: tôi nguyên trụ trong Như Lai Viên Giác gần gũi thiện tri thức, tránh xa ngoại đạo và Nhị Thừa. Nguyện đoạn trừ các chướng lần lần tiến lên pháp điện thanh tịnh đại Viên Giác trang nghiêm.
Bấy giời đức Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên bằng một bài kệ:
Di Lặc ông nên biết.
Tất cả các chúng sanh.
Không được đại giải thoát.
Đều do lòng tham dục.
Mà rớt trong sanh tử.
Nếu dứt hết ghét yêu.
Và tham, sân, si, mạn.
Không luận chủng tánh nào.
Đều được thành Phật đạo.
Hai chướng dứt hết rồi.
Cầu thầy được chứng ngộ.
Tuỳ thuận Bồ tát nguyện.
An trú Đại Niết bàn.
Mười phương chư Bồ tát.
Đều dùng nguyện đại bi.
Thị hiện vào sanh tử.
Người tu hành hiện tại.
Và Chúng sanh đời sau.
Siêng năng trừ ái kiến.
Đại Viên Giác được về.

TRỰC CHỈ

Luân hồi là một chân lý phổ biến. Giáo lý luân hồi không phải dành riêng cho những người có đức tin Phật. Hiện tượng vạn hữu đều ở trong quy luật tuần hoàn luân hồi. Nói theo thuật ngữ của Phật giáo, vô tình chúng sanh, hữu tình chúng sanh đều chịu sự chi phối của quy luật luân hồi.
Xuân, hạ, thu, đông, sanh, trụ, dị, diệt, thành, trụ, hoại, không là biểu hiện sự luân hổi của vạn vật vô tình, sanh, già, bệnh, chết là biểu hiện luân hồi của chúng sanh hữu tình, cho nên đúng chân lý thì luân hồi không phải là sự kiện đáng lo sợ. Vì đó là quy luật là chân lý.
Sự luân hồi mà Bồ tát Di Lặc yêu cầu Phật khai thị ở đây là thứ luân hồi trong sáu nẻo trực tiếp chĩu sự chi phối khổ não ưu bi của các cõi trời, người, a tu la, quỷ, súc sanh và địa ngục.
Tạo nghiệp luân hồi có tương quan với chủng tánh. Mỗi chủng tánh là mỗi căn cơ sai khác. Chủng tánh phàm phu thường tạo nghiệp nhơn luân hồi trong thế giới lục phàm. Chủn tánh Nhị thừa và chủng tánh Đại thừa chỉ tạo nhân luân hồi trong cảnh giới Tứ thánh mà thôi.
A? ân và tham dục là nguyên nhân của luân hồi sanh tử ưu bi khổ não. A? ân nuôi lớn tham dục, tham dục làm tăng trưởng ái ân kết thành chuỗi dài nhân quả tương tục.
Sanh mạng do dục mà có. Dục là nhân của sanh mạng, sanh mạng là quả của dục. Vì vậy, ái mạng tức là ái dục, chẳng qua ái mạng là ái quả, còn ái dục là ái nhân.
Cảnh ái dục có bằng lòng và trái ý, từ đó sanh khởi ý niệm ghét thương thân sơ thủ xả tạo ra nhiều nghiệp ác. Do vây có ra các đường ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục.
Biết tai hại của ái dục phát tâm tu các thiện nghiệp thì được quả báo cõi nhơn thiên. Đến như hạng người nhàm chán ái dục tu thiền định "xả", một thứ định cao nhất trong tứ thiền, nhưng nếu lệch đi một niệm khởi ý đam mê sự "thanh tịnh" thì vẫn chưa ra khỏi luân hồi. Bởi vì "đam mê" là một hình thức ái dù là "ái" thanh tịnh, "ái" Bồ đề, Niết bàn.
Thế cho nên, tất cả chúng sanh muốn ra khỏi luân hồi sanh tử ưu bi cần phải đoạn trừ gốc ái.
Bồ tát, Phật "tùy nguyện" thọ sanh hiện vào các quốc độ trong mười phương để hóa độ chúng sanh. Sự thọ sanh của các Ngài không có bị khổ não ưu bi chi phối. Cho nên sự thọ sanh đó, thừơng được kín trọng xưng gọi bằng cái từ "thị hiện". Thực lý, thì đó cũng là một hình thức luân hồi của những bậc đại giác, luân hồi trong tỉnh thức không bị chi phối bởi lực hấp dẫn của vô minh.
Do lẽ đó, nên biết rằng: Bồ tát, thành Phật không phải là thành "cái không có gì hết" "cái rỗng không" ở một cõi "trống trơn" vắng lặng…
A La Hớn là con người. Thành A La Hớn từ con người. Duyên Giác, Bồ tát cho đến Vô thượng Bồ đề Phật vẫn là con người và các quả vị đó thành tựu từ con người.
Tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Cho nên gọi là "chủng tánh" thực lý không có chủng tánh nào cố định. Dù không cố định, nhưng có thể có ra năm thứ chủng tánh khác nhau. Yếu tố để ước định phân chia thành chủng tánh là SỰ CHƯỚNG và LÝ CHƯỚNG.
Sự chướng cũng gọi PHIỀN NÃO CHƯỚNG. Thứ chướng nầy thường qua lại trong sáu căn, biểu hiện thông qua ba nghiệp: thân, miệng và ý của con người. Sát, đạo, dâm: vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiện, ác khẩu; tham, sân, si là những biểu hiện cụ thể là căn bản của sự chướng. Do vậy, sự chướng nối dài đường sanh tử luân hồi ưu bi khổ não thêm ra.
Lý chướng còn gọi SỞ TRI CHƯỚNG. Thứ chướng nầy cản trở sự hiểu biết trong sáng sự nhận thúc đúng chân lý, khiến cho con ngừơi mê mờ chân lý không phân chánh tà, thiện ác, triền phược, giải thoát. Do vậy, đóng bít cửa Niết bàn, cắt đứt đường Bồ đề Phật.
Đối với sự chướng, lý chướng còn chưa có ý thức đoạn trừ, hạng người như thế gọi là CHỦNG TÁNH PHÀM PHU.
Dứt trừ sự chướng, chưa đoạn lý chướng, hạng người như thế gọi là CHỦNG TÁNH NHỊ THỪA.
Có chí lớn muốn dạo chơi trong biển đại tịch diệt Như Lai Viên Giác, dũng mãnh đoạn trừ hai chướng. Khi hai chướng tiềm phục, trí tuệ rộng sâu trong tiến trình nhận thức chân lý… Thể nhập Bồ tát cảnh giới có sức tự tại đối với vạn pháp. Như thế gọi là hạng người CHỦNG TÁNH ĐẠI THỪA.
Trên đường tu, người thiện tri thức có ảnh hưởng đến cuộc đời mình. Trong lúc mới phát tâm chẳng may gặp phải người tà kiến khuyến hóa tu hành, sai lạc chánh nhơn thành Phật, van thần, khấn quỷ, trì tà chú luyện âm binh. Ngừơi như thế lạc vào CHỦNG TÁNH NGOẠI ĐẠO.
Nếu gặp duyên lành trở về đường chánh đạo được thiện tri thức dạy chánh pháp tu học chánh nhơn người nầy có thể phát huy thiện nghiệp tiến lên hoặc cũng có thể tiến xa hơn nữa, cho nên gọi hạng người ở vào trường hợp như thế là CHỦNG TÁNH BẤT ĐỊNH.
Tất cả chúng sanh đều có khả năng tu hành để thành tựu đến quả vị Phật. Dù bị tà sư ngoại đạo dẫn dắt sai lạc chánh pháp, nhưng lỗi đó cũng không quy trách cho tà sư, cũng không phải vô cớ mà người nầy đi vào con đường sai lạc ấy. Điều đó phải hiểu rằng nó có tương quan mật thiết trong quá trình gieo trồng hạt giống Bồ đề của mọi người có cạn có sâu. Vì vậy mà có năm chủng tánh sai khác.
Cùng một sự kiện phát tâm, người trí phải chín chắn suy nghĩ về hành động của mình va mục đích của sự phát tâm đó. Phát tâm TÀ, CHÁNH, CHƠN, NGỤY, ĐẠI, TIỂU, THIÊN, VIÊN kết quả khác nhau như đen với trắng.
Người đệ tử Phật muốn rong chơi trong biển đại tịch diệt Như Lai Viên Giác chỉ có thể phát tâm CHÁNH, CHƠN, ĐẠI và VIÊN. Phát tâm như vậy sẽ không lệch mục tiêu cao đẹp của người con Phật đang tiến bước trên đừơng Bồ đề, Niết bàn vô thượng.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com