Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển Thượng

24/06/201318:26(Xem: 10997)
Quyển Thượng

Phật Nói Kinh Hưng Khởi Hạnh

Quyển Thượng

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

Nguồn: Hán dịch: Hậu Hán Tam Tạng Khương Mạnh Tường Chứng nghĩa: Tỳ kheo Thích Đồng Minh

Nghe như vầy: Một thời,
Phật ở nước Ma Kiệt
Vì các loài chúng sanh
Dừng chân trong vườn Trúc
Phật bảo các Tỳ kheo
Và La hán thần túc
Đều ôm bát khất thực
Đồng đến suối A Nậu
Ngang qua nước Ngũ Tánh
Dẫn các chúng Tỳ kheo
Cùng khất thực trong đó
Năm trăm vị Tỳ kheo
Dùng thần túc bay đến
Tỳ kheo tăng đoanh vây
Đến suối lớn A Nậu
Thế Tôn ngồi ở giữa
Thế Tôn thọ thực rồi
Tỳ kheo mới thọ thực
Ngay khi đang thọ thực
Mặt đất chấn động mạnh
Tỳ kheo hỏi Thế Tôn:
–Sao mặt đất chấn động?
Đức Thế Tôn liên nói:
–Động vì thương chúng sanh
Địa ngục có tội nhân
Làm các hạnh nghịch ác
Có ngàn người quỷ thần
Chặt đứt hai xương sườn
Không chút nào dừng nghỉ!
Với búa rìu cháy đỏ
Chặt ngót cả ngàn năm
Hết sức mới chịu đứt
Hỏi rằng bị tội gì?
Bị khổ thống như vậy?
Xương sườn này lớn lắm
Khiến mặt đất chấn động!
Người này ở thế gian
Hay ưa dâm vợ người
Bởi vì tham sắc dục
Lại giết thanh tín sĩ
Do vì túc duyên này
Nên thọ thân to lớn
Có ngàn người quỷ thần
Thường chặt hai bên sườn!
Thế Tôn nói như vậy
Rồi Ngài hỏi bốn chúng:
Các người gieo nhân gì
Mỗi người hãy tự nói?
Thần thông đại đệ tử
Thay Phật chuyển Pháp luân
Trí huệ Xá Lợi Phất
Đứng dậy hỏi Thế Tôn
–Thế Tôn không ai bằng
Không việc gì không biết
Thế Tôn tự nói trước
Các nhân duyên đời trước
Tôn Đà Lợi hủy báng
Mong được sự kính nể
Vô cớ hủy báng Phật
Đó là nhân duyên gì?
Sanh Xa Di Bạt Đề?
Năm trăm Tỳ kheo này
Vô cớ cùng phỉ báng
Đó là nhân duyên gì?
Sao lại bị đau đầu
Khi giết hại ngũ thân?
Các chi tiết đau nhức
Và bị cứng xương sống
Dùng gươm đâm vào chân
Bị Điều Đạt đôi đá
Làm dập ngón chân cái
Đó là nhân duyên gì?
Bị đồng nữ nhiều lời
Độn bụng cho to lên
Vô cớ đến hủy báng
Ở trước mặt mọi người?
Lại ở ấp Tỳ Lan
Ba tháng ăn luá ngựa
Phạm chí Quốc sư thỉnh
Đó là nhân duyên gì?
Ở nơi Uất Bí Địa
Sáu năm tu khổ hạnh
Đứt hơim thiền ốm yếu
Đó là nhân duyên gì?
Xin Thế Tôn diễn thuyết
Xá Lợi Phất lắng nghe
Nay xin Phật nói rõ
Đời trước làm hạnh gì?

1. Phật nói kinh Nhân duyên kiếp trước của Tôn Đà Lợi.



Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại con suối A Nậu cùng với năm trăm vị Đại Tỳ kheo đều là bậc A la hán, lục thông thần túc, có tiếng tăm lớn, đoan chánh, đẹp đẽ, đều có các tướng: không cao, không thấp, không trắng, không đen, không mậP, không ốm, màu sắc giống như hoa sen hồng, có thể hàng phục tâm ý, chỉ trừ có một Tỳ kheo, đó là tôn giả A-Nan.

Tôn giả Xá Lợi Phất từ tòa bằng hoa đứng dậy, sửa y phục, trạch vai bên hữu, quỳ gối bên hữu trên tòa hoa sen, chấp tay hướng về đức Phật, hỏi đức Thế Tôn rằng:

- Đức Thế Tôn không có việc gì mà Ngài không thấy, không có việc gì mà Ngài không nghe, không có việc gì mà Ngài không biết. Thế Tôn là bậc không ai sánh bằng, đã diệt trừ các điều ác, đầy đủ các điều thiện. Đối với chư Thiên, Long, Thần, vua, quần thần và nhân dân, tất cả chúng sanh Ngài đều muốn độ thoát. Bạch Thế Tôn, bây giờ vì có những duyên hiện hữu còn sót lại, kính mong đức Phật tự nói duyên này, khiến cho trời, người, chúng sanh nghe xong đều hiểu rõ. Vậy vì nguyên nhuân gì mà Ngài bị Tôn Đà Lợi đến hủy báng? Vì nguyên nhân gì bị Xa Di Bạt đề hủy báng Ngài với năm trăm vị La hán? Vì nhân duyên gì mà đức Thế Tôn bị đau đầu? Vì nguyên nhân gì mà xương cốt, tay chân đức Thế Tôn bị đau nhức? Vì nguyên nhân gì mà xương cốt đức Thế Tôn bị cứng đờ? Vì nguyên nhân gì mà Ngài bị cây gươm đâm vào chân? Do nhân duyên gì Địa Bà Đạt Đâu lấy đá mé núi đôi Ngài? Vì nhân duyên gì cô gái Đa Thiệt (nhiều lời) đọân bụng cho lớn, ở trong đại chúng hữu lậu, vô lậu, đến trước nói lời hủy báng rằng:

- Vì sao không tự nói chuyện nhà cửa, mà cứ nói chuyện người khác? Nay tôi sắp sanh, cần phải có dầu bơ để dùng?

Do nhân duyên gì mà ở ấp Tỳ Lan, Ngài và năm trăm vị Tỳ kheo phải ăn lúa mạch? Do nhân duyên gì mà Ngài khổ hạnh sáu năm tại Uất Bí Địa, rồi bảo:“Ta sẽ thành Phật”.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

- Hãy ngồi xuống tòa Hoa, ta sẽ nói các nhân duyên đời trước cho nghe!

Tôn giả Xá Lợi Phất liền về ngồi lại chỗ cũ. Khi ấy Đại Long Vương A Nậu nghe đức Phật sắp nói về nhân duyên, vui mừng hớn hở, liền làm cái lọng bảy báu ở giữa khoảng không để che đức Phật. Trong cái lọng thì mưa hương bột Chiên đàn rưới khắp các tòa. Vô số các Trời, Rồng, Qủy thần, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khần Na la, Ma hầu na già, đều đến chỗ đức Phật, chắp tay đảnh lễ rồi đứng bao vây chung quanh.

Bấy giờ đức Phật nói cho Tôn giả Xá Lợi Phất nghe rằng:

- Ngày xưa, ở thời quá khứ, trong thành Ba La Nại, có một diễn viên sân khấu tài ba tên là Tịnh Nhãn, giỏi nghề ca hát. Khi ấy có một dâm nữ tên là Lộc Tướng, nhan sắc tuyệt vời, nghiêm tịnh không ai bằng. Bấy giờ Tịnh Nhãn đi đấn chỗ Lộc Tướng nói với nàng rằng:

- Chùng ta nên ra ngoài thành, vào trong rừng cây, tìm chỗ đất tốt cùng nhau vui chơi chứ?

Cô gái thưa:

- Xin vâng!

Lộc Tướng liền trở về trang điểm y phục, đến nhà Tinh Nhãn. Tịnh Nhãn liền chuẩn bị xe ngựa thật tốt cùng đi với Lộc Tướng, ra khỏi thành Bà La Nại, đến một khu vườn, họ vui chơi với nhau mãi cho đến trời tối. Tịnh Nhãn thấy y phục cô ta có kết ngọc quý mới sanh lòng tham muốn giết cô ta để lấy y phục đó. Ông ta lại nghĩ:”Nếu giết cô ta thì dấu thây ở đâu?”. Khi ấy ở trong vườn này có một vị Bích Chi Phật tên là Lạc Vô Vi, ở cách đó không xa, Tịnh Nhãn lại nghĩ:”Vị Bích Chi Phật này lúc sáng sớm đã vào thành khất thực, ta sẽ giết Lộc Tướng, chôn trong am của vị ấy, rồi mang y phục trở về thì ai biết ta đâú”.

Sáng sớm vị Bích Chi Phật vào thành khất thực, sau đó Tịnh Nhãn liền giết Lộc Tướng, cởi lấy y phục rồi chôn xác cô ta trong am của Ngài Lạc Vô Vi, phả đất bằng phẳng như cũ rồi cởi xe vào thành bằng cửa khác.

Khi ấy vị quốc vương của nước Ba La Nại là Phạm Đạt. Nhân dân của nước này không thấy Lộc Tướng ở đâu, họ mới đến tâu với quốc vương:

- Chúng thần chẳng thấy Lộc Tướng ở đâu cả!

Nhà vua liền triệu tập quần thần bảo họ phải đến các nhà, các ngõ hẻm đường làng tìm cho ra Lộc Tướng. Các thần vâng lệnh đi kiếm, nhưng kiếm khắp mà chẳng thấy Lộc Tướng ở đâu! Họ bèn ra khỏi thành thì thấy bầy chim bay liệng ở trên rừng cây rất đông. Họ liền suy nghĩ:” Đã kiếm khắp trong thành mà chẳng thấy cô ta ở đâu cả. Có lẽ chỗ này thôi!”. Vì vậy họ cùng nhau đến chỗ đó tìm kiếm. Họ đến trước cái am của Lạc Vô Vi thì tìm được tử thi. Lúc ấy quần thần nói với Lạc Vô Vi:

- Ngươi đã hành động bất tịnh, sao lại còn giết người?

Vị Bích Chi Phật vẫn im lặng không trả lời. Họ hỏi đến ba lần nhưng Ngài vẫn không trả lời. Ngài Lạc Vô Vi đặt tay chân lên mặt đất, biết việc này là nhân duyên của đời trước nên Ngài mới im lặng không đáp.

Khi ấy mọi ngươì mới bắt trói gô Ngài lại để tra khảo hỏi cung. Bấy giờ vị thọ thần liền hiện ra nửa người, bảo tất cả rằng:

- Đừng có tra khảo người này.

Quần thần hỏi:

- Vì sao không tra khảo?

Thần đáp:

- Điều đó không có! Ngài không bao giờ hành động như vậy.

Quần thần tuy nghe vị thần này nói như thế, nhưng họ chẳng thèm để ý, họ dẫn Lạc Vô Vi đền chỗ vua, tâu rằng:

- Gã đạo sĩ này đã làm điều bất tịnh lại còn giết ngườí!

Nhà vua nghe lời ấy tức giận, quát lớn, bảo các đại thần thẩm tra xem gã đạo sĩ này đã làm điều phi pháp đến như vậy sao?!. Nhà vua bảo quần thần:

- Phải trói gấp gã này vào Lạc Đà, đánh trống dẫn đi khắp nơi, sau đó đem ra cửa thành phía Nam, dắt tới một gốc cây, lấy giáo đâm xuyên vào thân, treo lên đầu cây sào, dùng cung nỏ bắn cho chết. Nếu không chết thì chặt đầu y đí!

Quần thần vâng lệnh, gấp cột Ngài vào con Lạc Đà, đánh trống rao khắp hang cùng ngõ hẻm. Những người trong nước thấy vậy cho là chuyện lạ nên có người tin, có người vẫn không tin. Mọi người tụ lại để xem thì thấy Lạc Vô Vi bị trói ngược trên con Lạc Đà, mọi người đi theo sau. Thấy vậy tâm ông suy nghĩ:”Vị đạo sĩ này vô cớ mà chết oan uổng! Điều này chẳng phải nên có sự qúi kính sao. Chính tự tay ta giết Lộc Tướng chứ không phải đạo sĩ giết. Vậy chính ta phải chịu tội chết mà để cho đạo sĩ sống”. Tịnh Nhãn nghĩ như vậy xong, liền bước ra khỏi bức tường, chạy theo mọi người, gọi vị thượng quan nói rằng:

- Đừng giết đạo sĩ ấy! Không phải đạo sĩ ấy giết Lộc Tướng đâú chính tôi mới là người giết cô ta. Vậy xin các Ngài hãy thả vị đạo sĩ này ra. Hãy trói tôi lại, tùy theo tội mà sử trị.

Lúc ấy các vị quan đều kinh ngạc, bảo rằng:

- Vì ao ngươi lại có thể chịu tội thay thế người khác được?

Họ liền mở trói cho vị Bích Chi Phật, rồi bắt Tịnh Nhãn trói ngược lại như họ đã làm với đạo sĩ. Bấy giờ các Thượng quan...đều hướng về Bích Chi Phật cầu xin sám hối, rằng:

- Bọn con ngu si, vô cớ mà làm đạo sĩ khốn đốn một cách oan uổng. Mong Ngài lấy lòng từ bi mà tha tội cho chúng con. Đừng để cho tương lai chúng con phải gánh láy tội nặng.

Họ nói như vậy ba lần, nhưng vị Bích Chi Phật Lạc Vô Vi vẫn im lặng không trả lời. Vị Bích Chi Phật suy nghĩ rằng:”Ta không nên vào thành Ba La Nại khất thực nữa, ta phải nên diệt độ ở đây, truớc mọi người”. Vị Bích Chi Phật liền ở trước mọi người nhảy lên hư không, đi qua đi lại, ngồi nằm rồi đứng, từ dưới eo lưng thì khói phun, trên eo lưng thì phun lửa; hoặc dưới eo lưng thì phun lửa, trên eo lưng thì phun khói: hoặc bên hông trái thì phun khói, bên hông phải thì phun lửa; hoặc bên hông trái phun lửa, bên hông phải phun khói; hoặc trước bụng thì phun lửa, trên lưng thì phun khói; hoặc trước bụng thì phun khói, trên lưng thì phun lửa; hoặc từ eo lưng trở xuống thì phun lửa, eo lưng trở lên thì phun nước; hoăc eo lưng trở xuống phun nước, eo lưng trở lên thì phun lửa; hoặc hông trái phun lửa, hông phải phun nước; hoặc hông trái phun nước, hông phải phun lửa; hoăc trước bụng phun nước, trên lưng lưng phun lửa; hoặc trước bụng phun lửa, trên lưng phun nước; hoăc vai trái phun lửa, vai phải phun nước; hoặc vai trái phun nước, vai phải phun lửa; hoạêc cả hai vai phun đều nước; hoặc cả hai vai phun đều lửa. Sau đó toàn thân phun khói, toàn thân phun lửa, toàn thân phun nước. Ngay khi đó, ở trên không, Ngài thiêu thân diệt độ.

Bấy giờ đại chúng thảy đều sót thương rơi lệ, hoặc có người sám hối, hoặc có người đảnh lễ. Họ thu lấy xá lợi, dựng bảo tháp ở ngã tư đường.

Bấy giờ các thượng quan liền dẫn Tịnh Nhãn đến chỗ vua Phạm Đạt tâu rằng:

- Chính người này đã giết Lộc Tướng chớ không phải là đạo sĩ.

Nhà vua tức giận. Liền quở quan Giám Ty:

- Lúc trước tại sao ngươi dôí tâu việc không thật rằng:” Đây là kẻ giết người”, nay lại nói là không phải, khiến cho ta trở thành con người lừa dối, gây oan uổng, khốn khổ cho đạo sĩ?

Quần thần tâu vua:

- Khi ấy thần đã nhiều lần hỏi đạo sĩ: “Sao lại giết người?”, nhưng lúc ấy đạo sĩ vẫn cứ im lặng, chẳng thấy trả lời gì cả. Lại còn đặt tay sát đất nữa. Vì vậy chúng thần bảo đó là kẻ sát nhân.

Bấy giờ vua ra lệnh cho vị đại thần:

- Cột người này lên con Lạc đà, vào thành phía Nam, lấy mâu đâm vào, sau đó lấy cây sào đâm lên đến đầu, rồi lấy tên mà bắn. Nếu chưa chết thì chặt đầu để kết thúc đời người này.

Các quần thần vâng lệnh, liền dắt con Lạc đà đã trói Phạm nhân dẫn đi đánh trống khắp nơi, đem ra thành phía Nam lấy mâu đâm xuyên thân bằng cây nhọn, dùng cung để bắn, sau đó thì chặt đầu con người ấy.

Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

- Ngươi có biết Tịnh Nhãn lúc đó là ai chăng? Chính là thân của ta. Này Xá Lợi Phất! Ngươi có biết Lộc Tướng lúc đó là ai chăng? Đó chính là Tôn Đà Lợi bây giờ vậy. Này Xá Lợi Phất! Ngươi có biết vua Phạm Đạt lúc đó là ai chăng? Đó chính là chấp trượng dòng họ Thích bây giờ vậy.

Này Xá Lợi Phất, lúc xưa ta đã giết Lộc Tướng, làm oan uổng, khốn khổ cho vị Bích Chi Phật, vì tội ác như vậy cho nên trải qua vô số ngàn năm, ta đã bị chưng nấu trong địa ngục, rồi bị leo lên rừng kiếm. Vô số nààn năm ta đã trong loài súc sanh, vô số ngàn năm ta đã ở trong loài qủy đói. Cái tai ương ta sót lại lúc ấy, đến nay tuy ta đã thành Phật mà vẫn bị Tôn Đà Lợi hủy báng.

Bấy giờ đức Phật tự nói về nhân duyên kiếp trước của mình bằng bài kệ:

Trước ta tên Tịnh Nhãn
Là diễn viên sân khấu
Bích Chi tên Lạc Vô
Không bị tội khốn khổ
Ngài là chơn tịnh hạnh
Bị chúng làm ưu não
Huỷ nhục và bắt trói
Muốn đem ra khỏi thành
Ta thấy Bích Chi Phật
Bị khốn nhục trói buộc
Nên khởi lòng từ bi
Để Ngài được giải thoát
Do nhân duyên như vậy
Mãi thọ khổ địa ngục
Tai ương còn sót lại
Nay mới bị huỷ báng
Ta nay hết tái sanh
Chấm dứt ngay đời này
Ngồi đây Tôn Đà Lợi
Mới đến để huỷ báng
Nhân duyên không thể thoát
Cũng chẳng thành hư không
Nên giữ ba nhân duyên
Trước sau không vi phạm
Ta tự thành Tôn Phật
Được làm tướng ba cõi
Nên nói nhân duyên trước
Trong suối lớn A Nậu.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngươi xem đức Như Lai, các điều ác đã hết, các điều thiện đầy đủ, có thể hoá độ Trời, Rồng, Quỷ thần, vua Trời Đế Thích, quần thần nhân dân, cho đến loài bò, bay, máy, cựa, Ngài đều khiến cho được đắc độ vô vi an lạc. Tuy Ngài có công đức nhu vậy nhưng vẫn không thoát khỏi nhân duyên kiếp trước. Huống chi kẻ ngu si tăm tối chưa đắc đạo, không thu nhiếp thân, miệng và ý, bọn người ấy sẽ như thế nào?

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngươi nên học như vậy, và các La hán với tất cả chúng sanh phải hộ trì ba lỗi ở thân, bốn lỗi ở miệng và ba lỗi ở ý. Này Xá Lợi Phất! Ngươi nên học như vậy và mọi người cũng như thế.

Khi đức Phật dạy như vậy, tôn giả Xá Lợi Phất và năm trăm vị La hán, Đại Long vương A Nậu, Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la và Ma hầu la già nghe đức Phật dạy, thảy đều hoan hỷ phụng hành.

2. Phật nói kinh Nhân duyên kiếp trước của Xa Di Bạt.



Nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại con suốt lớn tên là A Nậu, cùng với chúng Đại Tỳ kheo là năm trăm vị, đều là bậc La hán, lục thông, thần túc, chỉ trừ có một Tỳ kheo là A Nan.

Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ở thời quá khứ lâu xa, cách đây chín mươi mốt kiếp. Lúc ấy có một vị vua tên là Thiện Thuyết, có một cái thành tên là Thiện Thuyết do vua xây cất. Trong thành có một Bà la môn tên là Diên Như Đạt, hiếu học, quảng bác bốn bộ sách của ngoại đạo: Thiên văn, Đồ sấm, Chiêm tướng, Nghệ thuật. Hiểu bảy loại sách và giáo giới của ngoại đạo, hiểu rõ các Pháp, sách vở thế tục gồm có ba mươi loại, thường dạy học cho năm trăm đồng tử của những gia đình giàu có.

Lại có một Bà la môn tên là Phạm Thiên, giàu có, nhiều của cải, voi, ngựa, bảy báu, có kẻ hầu người hạ. Vợ của ông ta tên là Tịnh Âm, đoan chánh, dung mạo không ai bằng, diệu hiền, tánh hạnh diệu hoà, không có tâm ganh ghét đố kỵ.

Bà la môn Phạm Thiên là đàn việt của Diên Như Đạt, nên vợ ông ta cúng dường cho vị này đồ ẩm thực, quần áo, giường nằm, toạ cụ, thuốc men chữa bệnh lúc đau ốm.

Có một vị Bích Chi Phật tên là Aùi Học, đi vào trong thành, mặc y, ôm bát, muốn đi khất thực, tình cờ đến trước cửa nhà của Phạm Thiên. Bấy giờ Phu nhân Tịnh Âm thấy vị Bích Chi Phật y phục tểø chỉnh, bước đi vững chải, sáu căn định tịch tĩnh nên trong tâm rất kính mến, liền thỉnh Ngài về để cúng dường, thưa rằng:

–Từ nay về sau, đối với y phục, ẩm thực, giường nằm, thuốc men, con xin thường xuyên cúng dường. Mong Ngài vì con mà thọ nhận.

Phu nhân Tịnh Âm liền lấy đồ ẩm thực thơm ngon đổ đầy bát để cúng Ngài. Vị Bích Chi Phật thọ nhận xong, ôm bát bay lên hư không, bảy lần xoay chuyển, rồi bay về chỗ cũ. Khi ấy người trong thành thấy sự thần túc này, bảo rằng:

–Trong nước ta có vị này, sẽ khiến cho chúng ta có phước.

Vì vậy nhân dân cả nước vui mừng hăng hái cúng dường cho Ngài. Phu nhân Tịnh Âm cúng dường cho vị Bích Chi Phật mỗi ngày một nhiều, còn cúng dường cho Bà la môn Diên Như Đạt ngày một ít.

Diên như đạt tự biết Phu nhân cúng dường cho mình ngày mộït ít, còn vị kia ngày một nhiều, nên mới sanh lòng đố kỵ, bài báng rằng:

–Đạo sĩ này thật ra chẳng có giới đức gì cả. Vì sao vậy? Vì ông ta cùng Phu nhân Tịnh Âm là điều bất tịnh. Do đó mới khiến bà ta cúng dường cho ông nhiều.

Diên Như Đạt nói với năm trăm đệ tử rằng:

–Đạo sĩ này Phạm giới, không có hạnh tinh tấn. Vậy các đồng tử hãy trở về nhà mình nói rõ cho mọi người biết rằng: “Gã đạo sĩ này không có hạnh thanh tịnh, tư thông với Phu nhân Tịnh Âm”.

Các đồng tử thưa:

–Dạ vâng!

Rồi như lời thầy nói: “Gã đạo sĩ này thật có tâm dâm dục”.

Bấy giờ năm trăm đồng tử thọ giáo đi vào thành, đến các ngõ đường làng tuyên bố rằng:

–Gã đạo sĩ này có tâm dâm dục, tư thông với Phu nhân Tịnh Âm.

Khi ấy mọi người trong nước đều nghi hoặc, cho rằng: “Bậc có thần túc như vậy mà có tiếng xấu như vậy sao?”.

Tiếng đồn xấu ấy đến bảy năm mới chấm dứt. Sau đó vị Bích Chi Phật hiện mười tám cách biến hoá, rồi diệt độ. Lúc ấy mọi người mới biết: Diên Như Đạt là hư vọng, còn vị Bích Chi Phật là thanh tịnh.

Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngươi có biết Diên Như Đạt lúc ấy là ai chăng? Đó chính là thân của ta vậy. Phạm Thiên lúc ấy chính là vua Ưu Diên. Tịnh Âm lúc ấy chính là Xa Di Bạt. Còn năm trăm đồng tử lúc ấy nay là năm trăm La hán này vậy.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Lúc ấy vì ta mất sự cúng dường nên mới sanh tâm đố kỵ, ganh ghét, cùng với các ngươi huỷ báng vị Bích Chi Phật. Do nhân duyên đó nên ta và các ngươi cùng vào địa ngục, chưng nấu trong vạc nước sôi trong vô số ngàn năm. Do tai ương này còn sót lại, nay ta tuy đã làm Phật, cùng với các ngươi vẫn bị Xa Di Bạt huỷ báng.

Bấy giờ đức Thế Tôn nói nhân duyên đời trước bằng bài kệ:

Trước ta là Phạm Chí
Học rộng sách ngoại đạo
Sống ở trong rừng cây
Dạy năm trăm đồng tử.
Có một Bích Chi Phật
Thanh tịnh có thần túc
Thấy Ngài được cúng dường
Nên dựng chuyện huỷ báng
Lại bảo các đồng tử:
“Đạo sĩ làm bất tịnh”
Ta vừa nói như vậy
Đồng tử đều hoan hỷ.
Khi nghe xong điều ấy
Học đến các xóm làng
Tuyên bố mọi người biết:
“Đạo sĩ làm bất tịnh”.
Do nhân duyên như vậy
Ở mãi trong địa ngục
Ta và bọn các ngươi
Thọ lãnh vô lượng khổ
Vì nhân duyên sót lại
Năm trăm người chúng này
Vô cớ bị phỉ báng
Bởi nàng Xa Di Bạt
Nay là đời cuối cùng
Ta thành đạo Vô thượng
Như Lai thành Tôn Phật
Là đại tướng ba cõi
Trong ao lớn A Nậu
Tự nói duyên đời trước.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngươi xem đức Như Lai, các lậu đã hết, các điều thiện đầy đủ, thương yêu Trời, người cho đến loài côn trùng, làm cho tất cả đều được độ thoát. Tuy có công đức như vậy, nhưng vẫn không thoát khỏi nghiệp duyên kiếp trước. Huống chi kẻ ngu si mông muội chưa hiểu đạo!

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngươi phải học như vậy. Các La hán, tất cả chúng sanh đầu phải học như vậy.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngươi phải phòng hộ ba lỗi của thân, bốn lỗi của miệng và ba lỗi của ý. Này Xá Lợi Phất! Phải học như vậy.

Khi đức Phật dạy như vậy, tôn giả Xá Lợi Phất và năm trăm vị La hán, Đại Long vương A Nậu, Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la và Ma hầu la già nghe đức Phật dạy, thảy đều hoan hỷ phụng hành.

3. Phật nói kinh nhân duyên kiếp trước của sự đau đầu.



Nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại con suối lớn tên là A Nậu, cùng với năm trăm vị đại Tỳ kheo, đều là bậc A la hán, lục thông, thần túc, chỉ trừ Tỳ kheo là A Nan.

Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Vào thời quá khứ lâu xa về trước, trong thành lớn của La Duyệt Kỳ, gặp vào lúc lúa thóc khan hiếm, con người đi nhặt xương trắng về đập vụn nấu nước để uống, đào gốc các cây cỏ để ăn sống qua ngày. Lúc ấy người ta lấy một thăng vàng (một phần mười đấu) đổi lấy một thăng lúa.

Khi ấy ở La Duyệt Kỳ có một thôn lớn, có mấy trăm ngôi nhà gọi là Chi Viêt. Không xa Phiá Đông cái thôn có một cái ao tên là Đa Ngư. Người của thôn Chi Việt dẫn vợ con đến bên cái ao nhiều cá ấy, bắt ca ăn thịt.

Khi những người bắt đôi cá lên bờ, cá nhảy lạch đạch trên mặt đất. Lúc ấy ta là một cậu bé mới bốn tuổi, thấy cá nhảy ta rất vui, lấy cây đập lên đầu chúng. Khi ấy ở trong ao có hai loại cá: một loại tên là Phù Ngư, một loại tên là Đa Thiệt. Chúng tự nói với nhau:

–Chúng ta không xúc phạm con người, nhưng họ lại bắt càn để ăn thịt. Đời sau ta phải trả báo này.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngươi có biết người nam, nữ, bé, lớn của thôn Chi Việt lúc ấy là ai chăng? Đó là giòng họ Thích của nước Ca Tỳ La Vệ hiện nay vậy. Cậu bé lúc ấy chính là thân của ta bấy giờ. Con cá Phù Ngư lúc đó thì nay là vua Tỳ Lâu Lặc. Con cá Đa Thiệt lúc ấy thì nay là Bà la môn Ác Thiệt, tướng sư của vua Tỳ Lâu Lặëc vậy. Lúc đó có con cá nhảy, ta dùng gậy nhỏ đánh lên đầu nó. Do nhân duyên ấy ta phải đọa trong địa ngục vô số ngàn năm. Nay ta đã được thành quả chánh đẳng chánh giác, nhưng vì nhân duyên còn sót lại kiếp trước, nên vua Tỳ Lâu Lặc chinh phạt giòng họ Thích, thì lúc đó ta bị đau đầu,

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngươi có biết vì sao ta bị đau đầu? Nầy Xá Lợi Phất! Khi ta mới bị đau đầu, bảo tôn giả A Nan rằng: “Lấy cái bát bốn thăng chứa đầy nước lạnh đem lại đây”. Tôn giả A Nan vâng lời đi lấy nước, lấy tay bịt miệng bát, làm nước trong bình bị đục, do đó nước trong bát bị khô sạch, giống như mặt trời suốt ngày nóng bức chiếu vào nồi đồng lớn. Nếu nhỏ một giọt nước vào nồi đồng ấy thì giọt nước bị không liền. Sự nóng bức trong đầu ta cũng giống như vậy. Giả như khiến cho một bên của núi Tu Di bỗng xuất hiện một hòn núi cao một Do diên đến một trăm Do diên, nếu gặp sức nóng đau đầu của ta thì cũng Phải cháy tan. Này Xá Lợi Phất! Đức Như Lai đau đầu như vậy.

Bấy giờ đức Phật nói bài kệ về túc duyên:

Đời trước thôn Chi Việt
Có một Chi Việt tử
Bắt cá bỏ trên bờ
Lấy gậy đập đầu nó
Bởi do nhân duyên này
Ở lâu trong địa ngục
Gọi là ngục Hắc Thằng
Thiêu nấu vô số kiếp
Do nhân duyên sót lại
Nay bị đau đầu, nhức.
Khi tàn sát họ Thích
Ác hạnh Tỳ Lâu Lặc
Duyên này không tiêu hoá
Cũng chẳng thành hư không.
Các ngươi tự cẩn thận
Phòng hộ thân khẩu ý
Ta tự thành Tôn Phật
Là tướng lĩnh ba cõi
Nên nói duyên đời trước
Trong suối lớn A Nậu.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Người thấy đức Như Lai, các điều ác đã chấm dứt, các điều thiện đầy đủ, Ngài muốn khiến cho Trời, Rồng, Quỷ thần, vua Trời Đế Thích, quần thần nhân dân đều nghĩ đến điều thiện, vì lý do như vậy. Huống lại những bọn ngu si chưa thấy đạo!

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngươi nên học như vậy. Cùng với các La hán, tất cả chúng sanh đều nên học như vậy.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngươi nên gìn giữ ba lỗi của thân, bốn lỗi của miệng và ba lỗi của ý. Này Xá Lợi Phất! Phải học như vậy!

Khi đức Phật dạy như vậy, tôn giả Xá Lợi Phất và năm trăm vị La hán, Đại Long Vương A Nậu, Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la và Ma hầu la già nghe đức Phật dạy, thảy đều hoan hỷ phụng hành.

4. Phật nói kinh Nhân duyên xương cốt, các khớp đau nhức.



Nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại con suối lớn tên là A Nậu, cùng với đại chúng Tỳ kheo năm trăm vị, đều là bậc A la hán, lục thông, thần túc, chỉ trừ có Tỳ kheo A Nan.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngày xưa, rất lâu, ở trong thành La Duyệt Kỳ có một người con của trưởng già bị bệnh sốt rất nguy kịch. Trong thành đó có một người con của thầy thuốc giỏi, riêng biết các loại thuốc, có thể trị lành các chứng bệnh. Khi ấy người con của trưởng giả bảo người con của thầy thuốc rằng:

–Xin bạn hãy chữa tôi lành bệnh, tôi sẽ cho bạn nhiều của cải quý.

Người con của thầy thuốc liền điều trị, làm cho con của trưởng giả được lành bệnh. Sau khi lành bệnh thì con của trưởng giả không đền ơn. Người con của trưởng giả sau đó lại bị bệnh, lại mời anh ta đến chữa, nhưng lành bệnh rồi vẫn phủi ơn. Như vậy cho đến ba lần mà con của trưởng giả vẫn chẳng đền ơn. Sau đó người con của trưởng giả lại bị bệnh, lại mời anh ta đến chữa trị. Lúc ấy anh ta suy nghĩ: “Trước đây ba lần ta đã chữa hết bệnh mà vẫn chẳng thấy báo đền”. Bấy giờ con của trưởng giả nói:

–Anh đã chữa trị tôi như trước và sau mà chưa được báo đền. Nay anh hãy chữa trị cho tôi thật tốt, lành bệnh tôi sẽ báo đền luôn một lần.

Lúc đó người con của thầy thuốc nghĩ: “Gã này đã lừa dối ta ba lần như vậy, như phỉnh đứa con nít. Nay ta sẽ bốc thuốc làm cho y phải chết”. Anh ta liền đưa cho con trưởng giả thứ không phải thuốc, làm cho người này bệnh càng lúc càng nguy kịch, kết cuộc phải chết.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngươi biết người con của thầy thuốc lúc đó là ai chăng? Chính là thân của ta. Còn người con của trưởng giả lúc đó là ai vậy? Đó chính là Đề Bà Đạt Đa vậy.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Lúc ấy ta cho thứ không phải thuốc cho người con của trưởng giả này, làm cho y bị chết. Do nhân duyên ấy nên bị thiếu đốt dưới địa ngục mấy ngàn năm, rồi làm súc sanh, ngạ quỷ. Nay ta tuy đã làm Phật nhưng vẫn bị xương cốt, các khớp đau nhức.

Bấy giờ đức Phật nói về nhân duyên kiếp trước bằng bài kệ:

Xưa ta con thầy thuốc
Trị bệnh trưởng giả tử
Tức giận cho thuốc độc
Vì vậy y phải chết
Do nhân duyên kiếp trước
Phải chịu khổ địa ngục
Nay duyên xưa sót lại
Cho nên bị đau nhức
Nhân duyên không thể mất
Cũng không thành hư không
Do bởi ba nhân duyên
Phải giữ thân, miệng, ý
Ta tự thành Tôn Phật
Làm tướng lĩnh ba cõi
Nên nói duyên kiếp trước
Trong suối lớn A Nậu.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Người thấy đức Như Lai, các điều ác đã chấm dứt, các điều thiện đầy đủ, Ngài muốn khiến cho Trời, Rồng, Quỷ thần, vua Trời Đế Thích, quần thần nhân dân đều nghĩ đến điều thiện, vì do nhân duyên đó nên ta phải bị như vậy, huống chi bọn người ngu si chưa đắc đạo!

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngươi nên học như vậy. Năm trăm La hán, tất cả chúng sanh đều phải học như vậy.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngươi nên gìn giữ ba lỗi của thân, bốn lỗi của miệng và ba lỗi của ý. Này Xá Lợi Phất! Ngươi nên học như vậy!

Khi đức Phật dạy như vậy, tôn giả Xá Lợi Phất và năm trăm vị La hán, Đại Long Vương A Nậu, Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la và Ma hầu la già nghe đức Phật dạy, thảy đều hoan hỷ phụng hành.

5. Phật nói kinh Nhân duyên kiếp trước của sự đau lưng.



Nghe như vầy:

Một thời đức Phật ở tại con suối lớn A Nậu, cùng với đại chúng Tỳ kheo là năm trăm vị đều là bậc A la hán, lục thông, thần túc đầy đủ, ngoại trừ có Tỳ kheo là tôn giả A Nan.

Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngày xưa, rất lâu, ở La Duyện Kỳ, nhân ngày lễ lớn, mọi người tụ hội. Bấy giờ trong nước có hai lực sĩ của hai dòng họ là Sát đế lợi và Bà la môn cũng đến tụ hội. Lúc hai lực sĩ đấu nhau, lực sĩ Bà la môn bảo lực sĩ Sát đế lợi rằng:

–Ngươi đừng đánh ta, ta sẽ cho ngươi nhiều tiền của.

Vì vậy lực sĩ Sát đế lợi không dùng hết sức, chỉ giả bộ chịu Phục. Do đó hai người đều được nhà vua khen thưởng. Nhưng lực sĩ ba la môn không làm đúng như lời đã hứa với lực sĩ Sát đế lợi. Sau đó lại đến ngày lễ lớn, họ lại đến tụ hội để đấu với nhau. Lực sĩ Bà la môn lại yêu cầu lực sĩ Sát đế lợi in như lần trước. Lực sĩ Sát đế lợi lại tha thứ, không đánh, nên lực sĩ Bà la môn được thưởng như lần đầu, nhưng anh ta lại nuốt lời hứa. Như vậy cho đến ba lần, sau đó lại đến ngày lễ hội, lực sĩ Bà la môn lại nói với lực sĩ Sát đế lợi rằng:

–Tôi đã hứa với ban trước và sau. Vậy để lần này báo đền một lần luôn.

Khi ấy trong tâm lực sĩ Sát đế lợi suy nghĩ: “Người này đã mấy lần lừa dối ta. Chẳng những y không báo đền mà còn xâm lấn phần của ta nữa. Hôm nay ta Phải tiêu diệt gã”. Khi ấy lực sĩ Sát đế lợi cười khan, bảo rằng:

–Anh đã lừa dối tôi ba lần. Nay tôi không cần tiền bạc của anh đâu.

Nói xong anh ta lấy tay mặt đè cổ, tay trái nắm eo lưng, hai tay xiết lại, bẻ gẫy xương sống của lực sĩ Bà la môn. Xiết ba lần như vậy để cho mọi người thấy, sau đó mới đôi xuống đất. Khi rơi xuống đất, lực sĩ Bà la môn chết liền. Bấy giờ vua và quần thần reo hò sung sướng, tặng anh ta mười vạn tiền vàng.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngươi có biết lực sĩ Sát đế lợi hạ sát lực sĩ Bà la môn lúc đó là ai chăng? Chính là thân của ta. Còn lực sĩ Bà la môn lúc đó là Đề Bà Đạt Đa vậy.

–Nầy Xá Lợi Phất! Lúc vì tham, giận cho nên ta đã giết lực sĩ này. Do nhân duyên này mà ta đọa trong địa ngục, bị thiêu đốt, hành hạ, trải qua mấy ngàn năm. Nay ta đã thành chánh đẳng chánh giác, các lậu đã hết mà nhân duyên còn sót lại nên nay mới bị cứng đau xương sống này.

Bấy giờ đức Thế Tôn tự nói về nhân duyên quá khứ bằng bài tụng:

Lễ hội cùng đánh nhau
Ý muốn đối thủ phục
Một lần đôi xuống đất
Làm y gãy xương sống
Bởi do nhân duyên này
Mãi thọ khổ địa ngục
Dư ương còn sót lại
Nay bị đau xương sống
Duyên này không biến mất
Cũng chẳng thành hư không
Giữ ba thân duyên này
Đừng phạm thân, khẩu, ý
Ta tự thành Tôn Phật
Là tướng lĩnh ba cõi
Trong suối lớn A Nậu
Tự nói duyên kiếp trước

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Người thấy đức Như Lai, các điều ác đã chấm dứt, các điều thiện đầy đủ, đối với Trời, Rồng, Quỷ thần, vua Trời Đế Thích, quần thần nhân dân tất cả chúng sanh, Ngài đều làm cho họ được đắc độ, mà không còn thoát khỏi tai ương đời trước còn sót lại. Huống chi kẻ ngu si chưa đắc đạo!

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

– Các ngươi phải học như vầy: gìn giữ ba lỗi của thân, bốn lỗi của miệng và ba lỗi của ý.

Đức Phật thuyết như vậy xong, tôn giả Xá Lợi Phất và năm trăm vị La hán, Bát bộ, quỷ thần, nghe đức Phật dạy, thảy đều hoan hỷ phụng hành.

6. Phật nói kinh nhân duyên bị cây giáo đâm chân.



Nghe như vầy:

Một thời Phật ở tại Tinh xá Trúc Viên, La Duyệt Kỳ, cùng với Đại Tỳ kheo Tăng là năm trăm vị.

Đức Thế Tôn vào lúc sáng sớm, mặc y bưng bát cùng với năm trăm Tỳ kheo Tăng và tôn giả A Nan, vây quanh cùng vào thành La Duyệt Kỳ để khất thực, đang đến các nhà bỗng thấy một thanh gỗ dài một thước hai của người đẻo gỗ cứng trong xóm, đang chạy loạn xạ theo bên Phật và đứng ngay trước Ngài.

Đức Phật liền nghĩ:

–Điều này do nhân duyên kiếp trước do chính ta tạo ra, nay ta phải gánh lấy.

Mọi người thấy chuyện lạ đều xúm lại xem. Họ thấy xong, kinh ngạc, la thất thanh.

Đức Phật lại nghĩ:

–Nay ta nên hiện rõ sự quả báo kiếp trước, cho mọi người thấy, tin và hiểu sự gánh lấy tai ương đời trước, để họ không dám tạo điều ác.

Do đo, đức Phật bay lên hư không, cách mặt đất một nhẫn; cây giáo nhọn liền đuổi theo đức Phật cũng cao một nhẫn, đứng trước đức Phật. Đức Phật lại bay lên cao hai nhẫn, ba nhẫn, bốn nhẫn cho đến bảy nhẫn, cây giáo cũng đuổi theo Ngài cao đến bảy nhẫn. Đức Thế Tôn lại bay lên cao một cây Đa la, thì cây giáo cũng bay theo cao đến một cây Đa la. Đức Phật bay lên cao bảy cây Đa la, cây giáo nhọn cũng đuổi theo và đến đứng trước Ngài. Đức Phật lại bay cao bảy dặm, cây giáo cũng bay theo cao bảy dặm. Đức Phật lại bay cao mười dặm, cây giáo cũng bay cao như vậy. Đức Phật lại bay cao một Do diên, cây giáo cũng bay theo Ngài. Đức Phật lại bay cao bảy Do diên, cây giáo cũng đuổi theo Ngài. Khi ấy đức Phật ở trên không trung lại hoá thành một tảng đá xanh, bề dày sáu Do diên, rồi Ngài đứng trên tảng đá ấy; cây giáo liền đâm thủng tảng đá, đứng trước đức Phật. Đức Phật lại ở trên không trung hoá ra một dòng nước, rộng mười hai Do diên, sâu sáu Do diên. Ngài đứng trên dòng nước ấy, cây giáo lại xuyên qua dòng nước, đứng trước đức Phật. Đức Phật lại ở trên không trung hoá thành một đống lửa lớn, bề sáu rộng mười hai Do diên, cao Do diên, rồi đứng trên đống lửa ấy; cây giáo cũng xuyên qua đống lủa, đến đứng trước đức Phật. Đức Phật lại ở trên hư không hoá thành luồn gió xoáy rộng mười hai Do diên, cao Do diên, rồi dứng trên luồng gió ấy, cây giáo bay theo một bên chênh chếch, đến đứng trước đức Phật. Đức Phật lại bay lên cung điện Tứ Thiên Vương, rồi ở trong đó, cây giáo cũng bay theo rồi đứng trước đức Phật. Đức Phật lại bay lên cõi trời thứ ba mươi ba, ngồi trên tảng ngọc lưu ly vuông vức một Do diên; cây giáo cũng bay theo, đến đứng trước đức Phật.

Sau khi đức Phật đi rồi, các Tứ Thiên Vương bảo nhau rằng:

–Đức Phật sợ cây giáo này, nhưng cây giáo vẫn đuổi theo Ngài, không tha.

Họ đều có vẻ không vui.

Đức Phật từ cõi trời thứ ba mươi ba biến mất, hiện đến cõi trời Diệm Thiên; rồi biến mất khỏi Diệm Thiên, hiện đến Đâu Suất; biến mất khỏi Đâu Suất, hiện đến Niết Ma La Tha; biến mất khỏi Niết Ma La Tha, hiện đến Bà La Ni Mật; biến mất khỏi Bà La Ni Mật, hiện đến Phạm Thiên; nhưng cây giáo từ cõi trời thứ ba mươi ba, thứ lớp đi lên, cho dến cõi Phạm Thiên, đứng trước đức Phật.

Lúc ấy chư Thiên đều bảo nhau rằng:

–Đức Phật sợ cây giáo này bỏ chạy, mà nó vẫn đuổi theo không tha!

Bấy giờ Thế Tôn tự nói nhân duyên kiếp trước của mình cho các Phạm Thiên nghe. Từ cõi trời Phạm Thiên, Ngài xuống Bà La Ni Mật, từ cõi Bà La Ni Mật, Ngài xuống Niết Ma La Tha; từ Niết Ma La Tha, Ngài xuống cung trời Đâu Suất; từ Đâu Suất, Ngài xuống Diệm Thiên, từ Diệm Thiên, Ngài đến cõi trời thứ ba mươi ba; từ cõi trời thứ ba mươi ba, Ngài xuống cõi trời Tứ Thiên Vương, từ Tứ Thiên Vương, Ngài trở về thành La Duyệt Kỳ.

Qua các cõi trời, Ngài đều thuyết pháp nhân duyên kiếp trước. Lúc ấy cây giáo vẫn đuổi theo Ngài trên các cõi trời cho đến lúc Ngài xuống La Duyệt Kỳ. Đức Phật cũng nói về nhân duyên quá khứ cho mọi người ở thành La Duyệt Kỳ nghe.

Đức Phật cùng Tỳ kheo Tăng ra khỏi thành La Duyệt Kỳ mà cây giáo vẫn đuổi theo đức Phật. Khi ấy mọi người trong nước đều đi theo đức Phật ra khỏi thành.

Bấy giờ đức Phật hỏi mọi người:

–Các ngươi muốn đi đâu?

Mọi người thưa rằng:

–Chúng con muốn theo đức Như Lai để xem nhân duyên này.

Đức Phật bảo mọi người:

–Các ngươi hãy tự trở về, đức Như Lai tự biết thời tiết.

Tôn giả A Nan hỏi đức Phật:

–Tại sao đức Như Lai bảo mọi người phải trở về?

Đức Phật bảo tôn giả A Nan:

–Nếu mọi người thấy ta trả quả báo này, họ sẽ chết ngất rơi xuống đất.

Tôn giả A Nan liền im lặng:

Đức Thế Tôn trở về Tinh xá Trúc Viên, tự ở trong phòng bảo các Tỳ kheo:

–Các ngươi hãy trở về phòng mình.

Mọi người vâng lời đều trở về phòng.

Tôn giả A Nan hỏi đức Phật:

–Con sẽ làm gì?

Đức Phật bảo tôn giả A Nan:

–Ngươi cũng trở về phòng của mình.

Tôn giả A Nan liện trở về phòng.

Đức Phật liền suy nghĩ:

–Việc này do đời trước ta tự tạo, chắc chắn ta phải gánh lấy. Ngài liền lấy Đại y, gấp làm bốn lớp, ngồi lên chỗ ngồi cũ. Đức Phật liền đưa chân mặt ra. Khi ấy cây giáo liền từ gót chân Ngài đưa lên rồi đâm xuống, rồi xuyên qua lòng đất, sâu đến sáu vạn tám ngàn Do diên; xuyên qua đất thì đến nước, nước sâu sáu vạn tám ngàn Do diên; xuyên qua nước đến lửa; lửa cao sáu vạn tám ngàn Do diên; khi cây giáo đến lửa thì bị cháy tiêu. Ngay khi ấy, mặt đất có sáu lấn chấn động.

Bấy giờ tôn giả A Nan, các Tỳ kheo đều tự nghĩ rằng:

–Mặt đất bây giờ chấn động chắc cây giáo đã đâm trúng chân đức Phật rồi!

Khi đức Phật bị cây giáo đâm xong, liền bị đau một cách khổ sở, đau một cách cay nghiệt, đau một cách nhứt nhối, đau gần đứt hơi thở. Tôn giả A Nan liền đến chỗ đức Phật, thấy cây giáo đâm vào chân Ngài làm bị thương, liền bị chết ngất, ngã nhào xuống đất. Đức Phật liền lấy nước rảy lên tôn giả A Nan, tôn giả A Nan đứng dậy, đảnh lễ dưới chân đức Phật, xoa vào chân Ngài, khóc lóc rơi lệ nói rằng:

–Đức Phật nhờ chân này mà đến dưới gốc cây hàng phục ma quân; rồi lên đến cõi trời thú ba mươi ba thuyết pháp cho mẹ Ngài. Thân của đức Thế Tôn là Kim Cương, do nhân duyên gì mà một cây giáo nhỏ lại làm hại Ngài được?!

Đức Phật bảo tôn giả A Nan:

–Thôi đi, chớ có buồn rầu khóc lóc nữa! Vì nhân duyên của thế gian nên bị luân chuyển sanh tử, mới có khổ hoạn này.

Tôn giả A Nan hỏi đức Phật:

–Nay cái vết thương này gây nên đau nhức, nó sẽ phát triển hay sẽ bớt dần?

Đức Phật bảo tôn giả A Nan:

–Dần dần sẽ bớt.

Khi ấy, tôn giả Xá Lợi Phất dẫn các Tỳ kheo Tăng đến chỗ đức Phật, cúi lạy dưới chân Ngài, rồi đứng qua một bên. Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi đức Phật:

–Không biết sự đau nhức của vết thương này của Thế Tôn sẽ phát triển hay bớt dần?

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Sự đau nhức của vết thương sẽ dần dần bớt.

Bấy giờ trong chúng Tỳ kheo có vị lậu chưa tận, thấy vết thương ấy kêu khóc bi ai, rơi lệ than rằng:

–Đức Thế Tôn đại từ bi, không có vật nào mà không tế độ, nhưng vì sao lại bị sự đau đớn này?!

Đức Phật bảo các vị ấy rằng:

–Thôi đi, đừng khóc! Đời trước tự ta đã tạo ra việc này, nên phải gánh lấy, không thế trốn tránh ở đâu được. Nó cũng không phải do cha tạo ra, cũng không phải do mẹ tạo ra, cũng không phải do vua tạo ra, cũng không phải do trời tạo ra, cũng không phải do Sa môn, Bà la môn tạo ra. Chính ta đã tạo thì nay ta Phải gánh lấy.

Các vị lậu tận, thần thông, đều im lặng suy nghĩ: “Ngày trước đức Phật đã từng nói kệ:

Người đời đã tạo tác
Hoặc làm thiện hay ác
Việc ấy trở lại mình
Không mất, không hư nát.

Bấy giờ Kỳ Bà nghe đức Phật bị cây giáo đâm chân, khóc lóc đi đến chỗ vua A Xà Thế.

Vua A Xà Thế hỏi:

–Vì sao khanh khóc?

Kỳ Bà đáp:

–Tôi nghe đức Phật bị cây giáo đâm chân, nên tôi khóc.

Vua A Xà Thế nghe lời nói ấy xong, từ trên giường chết ngất, rơi xuống đất, giây lâu mới tỉnh. Khi ấy, toàn cung điện trong và ngoài đều kinh hoàng, sợ hãi.

Nhà vua đứng dậy, rơi nước mắt, ra lệnh quần thần:

–Hãy mau chuẩn bị xe cộ, ta muốn đến chỗ đức Phật.

Quần thần vâng lệnh, chuẩn bị xe cộ xong tâu vua:

–Xe cộ đã chuẩn bị xong.

Nhà vua liền lên xa, đi ra khỏi thành. Bốn tộc tánh trong thành, thanh tín nữ, nghe đức Phật bị cây thương đâm vào chân, vì vậy nhà vua cùng em là Kỳ Bà, với dân chúng tong thành có cả trăm ngàn người vây quanh, cùng đi đến chỗ đức Phật. Vua xuống xe, cởi mũ, bỏ kiếm, cất lộng, đi bộ đến chỗ đức Phật. Lúc ấy đức Phật đang nằm bên hông Phải.

Nhà vua đảnh lễ đức Phật xong, lấy tay nắm chân đức Phật, xoa nén, miệng thì tự xưng quốc hiệu, tên họ rằng:

–Con là A Xà Thế, vua nước Ma Kiệt, thăm hỏi đức Thế Tôn : “Sự đau nhức của vết thương có giảm chút nào chăng?”.

Đức Phật trả lời vua A Xà Thế:

–Mong Đại vương thường được an ổn, trường thọ, không bệnh, vua nên lấy pháp trị dân, đừng hành động phi pháp.

Đức Phật bảo nhà vua ngồi xuống. Nhà vua liền ngồi. Nhà vua hỏi đức Phật:

–Con theo đức Như Lai được nghe rằng: “Thân của Phật là Kim Cang, không thể huỷ hoại được. Không rõ vì sao bây giờ lại bị cây giáo bằng gỗ đâm vào chân?

Đức Phật bảo nhà vua:

–Tất cả các pháp đều do nhân duyên mà huỷ hoại. Thân của ta tuy là Kim Cương, gương giáo không thể phá hoại được, nhưng do nhân duyên kiếp trước huỷ hoại.

Bấy giờ đức Thế Tôn liền nói bài tụng:

Người đời đã tạo tác
Liền tự thấy hành động.
Làm thiện được báo thiện
Làm các bị báo ác.

Cho nên này Đại vương! Cần phải học bỏ điều ác, theo đều thiện. Những kẻ ác độc ngu si không học vấn chưa biết chơn đạo, đùa giỡn, coi thường việc tạo tội, về sau phải khóc lóc mà lãnh thọ. Cho nên, này Đại vương! Không nên vì đùa giỡn mà tạo tội. Vua nên học như vậy!

Nhà vua bảo Kà Bà:

–Ngươi hoà hiệp các thứ thuốc thật tốt rửa vết thương, chữa trị và chú nguyên làm cho vết thương của đức Phật mau lành!

Kà Bà thưa:

–Xin vâng!

Kỳ Bà liền đảnh lễ đức Phật, rửa chân Ngài, rồi đắp thuốc để sanh da, sau đó đọc lời cầu nguyện để khỏi đau. Kỳ Bà bỏ ra trăm ngàn tiền để mua giạ đắp lên chân đức Phật; lấy tay xoa bớp chân Ngài, dùng miệng chú nguyện: “Mong đức Phật sống lâu, mong tai hoạn này chóng tiêu trừ, mong cho tất cả chúng sanh được vĩnh viễn thoát khỏi cái khổ”. Ông liền đứng lên đảnh lễ đức Phật, rồi đứng qua một bên.

Bấy giờ đức Phật vì vua A Xà Thế, tất cả mọi người trong hội, nói Pháp Tứ Đế. Sao gọi là Tứ Đế? Đó là khổ đế, khổ tập đế, khổ tận đế, khổ tận đạo đế. Đó là Tứ Đế.

Khi đức Phật thuyết như vậy, sáu mươi Tỳ kheo, được lậu tận, ý khai mở. Môït vạn một ngàn người, được Pháp nhãn tịnh.

Bấy giờ nhà vua cáo từ thưa rằng:

–Vì việc nước đa đoan, con xin cáo từ ra về.

Đức Phật bảo:

–Phải nên biết thời.

Vua liền đứng dậy đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi trở về. Mọi người cũng đảnh lễ đức Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi trở về.

Bấy giờ vào lúc nửa đêm, có bảy vị thiên nhân, mỗi vị có thể phát ra trăm thứ âm nhạc, đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, nhiễu quanh sàn toạ một vòng rồi đứng. Khi ấy có một vị trời bạch đức Phật:

–Sa môn Cù Đàm như sư tử bị thương, có thể nhẫn nhục chịu sự khổ thống không bảo cho người khác biết.

Lại có một vị trời nói:

–Sa môn Cù Đàm như voi bị thương, có thể nhẫn nhục chịu sự khổ thống không bảo cho người khác biết.

Có một vị trời lại nói:

–Sa môn Cù Đàm như Lê Ngưu biết thời, cũng không biết sự khổ thống.

Một vị trời lại nói:

–Sa môn Cù Đàm như Thuỷ Ngưu, bất giác bị khổ thống.

Một vị trời lại nói:

–Sa môn Cù Đàm như Thiên Vương Tám Tay bị thương, có thể chịu đựng sự thống khổ.

Một vị trời lại nói:

–Sa môn Cù Đàm như ngựa báu, bất giác bị khổ thống.

Một vị trời khác lại nói:

–Sa môn Cù Đàm quán xét chơn lý, thanh tịnh, bất giác bị khổ thống.

Một vị trời nói:

–Đức Phật là sư tử trong loài người, voi trong loài người, Lê Ngưu trong loài người, Thuỷ Ngưu trong loài người, Thiên Vương Tám Tay trong loài người, ngựa báu trong loài người, bậc rõ chơn đế, thanh tịnh trong loài người. Đức Thế Tôn như những ví dụ ấy, có thể chịu đựng sự thống khổ. Bọn ngu si nhẫn chịu sự thống khổ, nhưng đức Thế Tôn dùng trí tuệ để nhẫn chịu, không như ngoại học Phạm chí, vì họ quá trung niên, vứt bỏ tất cả để lấy vợ, mà mong được thoát khổ, làm sao được đắc độ? Vì sao? Vì không thể rốt ráo ậy. Trong pháp của đùức Như Lai, thanh tịnh rốt ráo, đoạn các ái dục, được đến Niết Bàn. Như vậy mới có thể vượt qua cái biển hôi thối của ba cõi. Vì sao? Vì tâm ý họ được chánh định, từ Tứ Đế mà cầu Niết Bàn.

Vị trời nói kệ rằng:
Hung dữ khó hàng phục,
Si, nghi, không định trí
Chí mê, ở rừng rú
Không thoát hố sanh tử
Định trí, trừ hung ngu,
Luyện ý, mở trói buộc.
Chí tịnh, không mê hoặc
Là vượt biển sanh tử.

Bấy giờ, vị trời nói kệ xong, đức Phật im lặng chấp nhận. Các vị trời thấy đức Phật im lặng, biết Ngài bằng lòng, liền cúi lạy dưới chân Phật, nhiễu quanh ba vòng, bỗng nhiên biến mất. Đến sáng, đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngày xưa, vô số A tăng kỳ kiếp về trước, bấy giờ có hai đội khách buôn. Mỗi đội có năm trăm người, tại Ba La Nại, họ đều bỏ chung tiền của, muốn dóng thuyền đi biển, công việc đã xong, mở neo, trương buồm, xuất hành. Gió thổi đưa đi, liền đến bãi biển ngọc quý. Trên bãi thấy có sự giàu có, nào là y phục, đồ ăn thức uống, giường nằm, toạ cụ và các cô gái xinh đẹp, đủ loại châu báu, chẳng thiếu thứ gì.

Bấy giờ người chủ của một đội khách buôn bảo mọi người rằng:

–Chúng ta vì của cải nên mới khổ sở đến đây. Nay điều mong ước đã đạt được, vậy nên ở lại đây, lấy năm điều vui thích để tự vui chơi.

Còn người chủ của đội thứ hai là Tát Bạt, bảo nhóm ông rằng:

–Ở đây tuy giàu có, các chân báu, ngũ dục, thể nữ, y thực không thiếu thứ gì, nhưng không nên ở đây lâu.

Bấy giờ ở trên hư không có vị Thiên nữ, thương yêu đoàn khách buôn này, muốn khiến cho họ mong gì được nấy, có nhiều của cải, trở về an toàn, nên ở trên hư không bảo các khách buôn rằng:

–Ở đây tuy có của cải, ngũ dục, thể nữ, y phục, đồ ẩm thực, nhưng không nên ở lâu, phải sớm trở về. Vì sao? Vì sau bảy ngày nữa, vùng đất này sẽ bị chìm dưới nước.

Vị ấy noi xong, biến mất.

Lại có Thiên Ma Nữ, ý muốn khiến cho các khác buôn này bị chết hết tại đây, không thể trở về, bấy giờ ở trên không trung, bảo rằng:

–Các ngươi không nên chuẩn bị ghe thuyền trở về làm gì, vì ở đây rất khoái lạc, hết sức vui sướng. Mặt đất tại đây, ban đầu không có nước đến, cho dù có nước đến đây đi nữa, thì tại đây sẵn có châu báu, đồ ẩm thực, y phục, các gái đẹp, ngũ dục đầy đủ. Do đâu mà có? Vì vị trời trước đã nói: “Nước sẽ ngập chìm vùng này”. Đó là lời hư vọng, không đủ để tin tưởng.

Nói vậy xong, biến mất.

Bấy giờ người chủ của đoàn thứ nhất là Tát Bạt, nghe Thiên nữ nói xong, bảo mọi người rằng:

–Các bạn chớ có chuẩn bị thuyền bè để trở về làm gì; chớ có tin vào lời vị trời trước nói. Đó là hư vọng mà thôi. Ở đây khoái lạc, ngũ dục đầy đủ; vì ở Diêm Phù khổ sở, chính là muốn cầu đến đây. Nay đã đến được rồi sau lại bỏ mà đi?!

Người chủ Tát Bạt thứ hai lại bảo mọi người trong nhóm:

–Các bạn chớ tham ngũ dục mà ở đây lâu. Sau bảy ngày nửa nước sẽ dâng lên phủ bằng nơi đây, phải mau mua bán, chuẩn bị tu sửa ghe thuyền, vì vị trời trước đã nói lời chí thành, chớ không phải hư dối. Giả sử nếu bảy ngày mà không có nước dâng, chúng ta vẫn phải sửa lại ghe thuyền để trở về kia mà; há chúng ta có thể bỏ cha mẹ vợ con ở quê nhà sao? Còn nếu sau bảy ngày, nước không đến đây, chúng ta sẽ ở đây, lấy ngũ dục để vui chơi, sau đó từ từ sẽ trở về. Nếu nước tràn ngập như vị trời trước đã nói, thì chúng ta vẫn chuẩn bị xong, đi trở lại nào có khó gì.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Sau đó bảy ngày, như lời vị trời trước đã nói, nước phủ bằng mặt đất; đoàn Tát Bạt thứ hai, khi ấy trước đã chuẩn bị xong rồi, ngày nước dâng lên tất cả đều được lên thuyền. Còn đoàn Tát Bạt thứ nhất, vì trước đó không sửa soạn, chuẩn bị, nên ngày nước dâng lên họ giành thuyền của đoàn đã chuẩn bị xong. Thuyền chủ vì muốn sống còn, không để họ đi trước, mới mặc áo giáp, cầm gậy để đánh nhau. Vị Tát Bạt thứ nhì ở trên thuyền dùng mâu kích đâm Tát Bạt thứ nhất làm cho y gãy chân rồi mạng chung.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Người có biết người Tát Bạt thứ nhất là ai chăng? Đó là Đề Bà Đạt Đa. Còn người Tát Bạt thứ hai dùng mâu kích để đâm Tát Bạt thứ nhất đó chính là thân ta. Bấy giờ đoàn khách buôn năm trăm người đoàn khách buôn thứ nhất thì nay là đệ tử của Đề Bà Đạt Đa; còn năm trăm người khách buôn của đoàn thứ hai lúc đó thì nay là năm trăm vị La hán vậy. Vị Thiên nữ lúc ấy, nay chính là Xá Lợi Phất. Thiên nữ thứ hai lúc ấy thì nay là đệ tử Bà la môn của Tỳ kheo Mãn Nguyện vậy.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Đời trước ta làm Tát Bạt, tham của sợ chết, vượt biển, cùng tranh thuyền với chủ ghe thứ nhất, lấy mâu kích đâm vào chân y. Do nhân duyên đó, trong vô số ngàn năm, mãi chịu khổ trong địa ngục, ở trong địa ngục vô số ngàn năm, bị mâu kích đâm chém, vô số ngàn năm đọa trong loài súc sanh, bị người săn bắn, trong vô số ngàn năm ở trong loài ngạ quỷ, bị chuỳ sắt đánh. Nay tuy được thân Kim Cang của Như Lai rồi, nhưng do dư ương đời trước còn sót lại, nay mới bị cây giáo đâm chân.

Bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ túc duyên:

Đời trước là Tát Bạt
Lên thuyền đi ra biển
Hai người cùng tranh thuyền
Lấy mâu đâm kẻ ấy
Vì do nhân duyên ấy
Mãi chịu khổ địa ngục
Làm súc sanh bị bắn
Ngạ quỷ, trên cây chuỳ
Nay đã thành Phật đạo
Vì thương xót chúng sanh
Tuy được thân Kim Cang
Không tránh khỏi giáo nhọn
Nhân duyên trọn chẳng mất
Cũng không thành hư không
Phải giữ ba nhân duyên
Đừng phạm thân, khẩu, ý.
Ta nay thành Tôn Phật
Được làm tướng ba cõi
Trong suối lớn A Nậu
Tự nói duyên kiếp trước.

Đức Phật bảo tôn giả Xá Lợi Phất:

–Ngươi xem đức Như Lai các điều ác đã hết, các điều thiện đầy đủ, với chư Trời, Rồng, Quỷ thần, vua Trời Đế Thích, quần thần và nhân dân, tất cả chúng sanh đều muốn cho họ được độ thoát, mà còn không thoát khỏi sự báo ứng này. Huống chi bọn ngu si, tăm tối chưa thấy đạo?!

Cho nên, này Xá Lợi Phất! Phải giữ gìn thân, khẩu, ý, đừng phạm ba thứ ấy.

Này Xá Lợi Phất! Các ngươi nên học như vậý

Đức Phật thuyết như vậy xong, tôn giả Xá Lợi Phất hoan hỷ phụng hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com