- Tựa
- Chương 1: Học đạo cần phải sanh lòng tin quyết định
- Chương 2: Học đạo cần phải tin được sanh tử là việc lớn
- Chương 3: Chẳng phạm phép tắc Phật Tổ
- Chương 4: Lòng hổ thẹn
- Chương 5: Chọn Thầy Lựa Bạn
- Chương 6: Tin Nhận Đúng Như Thật
- Chương 7: Học Ngôn Hạnh Người Xưa
- Chương 8: Dụng Tâm Trong Lúc Bệnh
- Chương 9: Phân Biện Tà Chánh
- Chương 10: Học Giải Là Bệnh
- Chương 11: Tu Tập Tọa Thiền
- Chương 12: Kiến Tánh Minh Tâm
- Chương 13: Công Phu Thoại Đầu Làm Chủ Yếu
- Chương 14: Tham Thẳng Tắt Một Đường
- Chương 15: Phương Tiện Tổ Sư Từ Bi Chỉ Dạy
- Chương 16: Con Đường Hướng Thượng
- Chương 17: Lãnh Hội Chỗ Tâm Yếu
- Chương 18: Kiến Địa Cạn Sâu
- Chương 19: Ngộ Bất Tất Hiềm Tri Giải
- Chương 20: Biện Câu Khách Chủ
- Chương 21: Công Phu Thực Tiễn
- Chương 22: Nơi Hoàn Toàn Thôi Nghỉ
Kho báu nhà Thiền
Chương 9: Phân biện tà chánh
Nguồn: Thiền sư Văn Thủ, Dịch giả: Ðịnh Huệ
Văn Khuyến Tham Thiền nói:
Giải phải viên giải rồi trở lại làm Tông sư mắt sáng cho người, tu phải viên tu để chỉ dạy bạn đồng tham. Kẻ sơ tâm bạc phước chẳng khéo gần gũi nương tựa bậc Minh sư nên kiến giải thiên khô, tu hành biếng nhác, hoặc suy tôn cảnh thánh, cô phụ tánh linh của mình, chỉ biết đức tướng thần thông, không tin phàm phu ngộ đạo. Hoặc tự thị ỷ vào tánh thiên chân bác không nhân quả, chỉ nhằm hông ngực mà lưu xuất mà không theo địa vị tu hành. Do đó, nếu pháp sư hiểu cạn không thông giáo pháp, thiền khách rỗng đầu chẳng quý hạnh môn thì đều phạm vào cái lỗi thiên khô nầy vậy.
Thiền sư Hoài Hải ở núi Bá Trượng nói:
Ta thường khuyên các ông nên sợ pháp trần phiền não như sợ tam đồ thì mới có phần độc lập. Giả sử có một pháp vượt hơn cả Niết bàn cũng không sanh chút lòng quý trọng thì người này mỗi bước đi đều là Phật. nếu chấp cái thanh tịnh giải thoát mình vốn sẵn có đó cho là Phật, cho là Thiền, người có kiến giải như thế là thuộc phái ngoại đạo tự nhiên. Nếu người chấp nhân duyên, có tu hành chứng đắc thì thuộc về phái ngoại đạo nhân duyên. Chấp có, tức là thuộc phái ngoại đạo thường kiến. Chấp không, tức là thuộc phái ngoại đạo đoạn kiến. Chấp cũng có cũng không tức là thuộc phái ngoại đạo biên kiến. Chấp chẳng phải có chẳng phải không tức là thưộc phái ngoại đạo không kiến.
Hiện tại chỉ cần đừng thấy có Phật, có Niết bàn…và không có tất cả những cái thấy có, thấy không…, và cũng không thất cả cái thấy có, thấy không thì mới được gọi là chánh kiến (cái thấy đúng đắn); không hết thảy cái nghe cà cũng không cả cái nghe không thì mới được gọi là chánh văn (cái nghe đúng đắn), ấy gọi là hàng phục ngoại đạo.
Thiền sư Vạn Am Nhan nói:
Tòng lâm đã đến lúc tà thuyết nổi lên mạnh mẽ, họ nói giới luật chẳng cần giữ, định huệ chẳng cần tập, đạo đức chẳng cần tu, thị dục chẳng cần bỏ, lại dẫn Kinh Duy Ma, Viên Giác để làm chứng, ngợi khen tham, sân, si, sát sanh, trộm cướp, dâm dục là phạm hạnh. Than ôi! Những lời ấy đâu riêng chỉ làm tai hại cho tòng lâm đương thời, mà còn đi hại cho pháp môn chân chánh.
Hạng phàm phu ngu tối tham, sân, ái dục, nhân ngã, vô minh, niệm niệm phan duyên như nước sôi sùng sục trong nồi phải nhờ cách chi mà được trong mát? Bậc thánh xưa nghĩ đến việc lớn ấy, bèn lập ra ba môn học giới, định, huệ để ngăn ngừa ngõ hầu có thể chuyển vọng thành chân được. Ngày nay, đàn hậu tấn giới luật chẳng giữ, định huệ chẳng tập, đạo đức chẳng tu, duyên lấy sự học rộng luận giỏi để làm lung lạc kẻ ngu si, muốn dẫn dắt họ trở lại cũng chẳng được. Tôi đoan chắc rằng những lời nói ấy làm lại đến muôn đời.
Nói là hại đến muôn đời vì hiện nay có thể thấy nhan nhãn ở chốn Thiền lâm.
Thiền sư Trí Giác nói:
Gần đời mạt pháp, có kẻ điên rồ nói một thứ thiền chỉ học ngoài môi, hoàn toàn không thật ngộ, mỗi hành vi đều ở trong có, mỗi lời nói đều nói không, tự chẳng trách mình bị nghiệp lực lôi kéo, lại dạy người bác không nhân quả, bèn nói uống rượu ăn thịt chẳng chướng Bồ Ðề; trộm cắp, dâm dục chẳng ngại Bát Nhã. Bọn này lúc còn sống bị nhà nước xử phạt, sau khi chết rồi bị đọa vào ngục A tỳ.
Nước ta, (Nhật bản) phép tắc sơ sài, tông phong mỗi ngày một đổ nát, dị kiến đua nhau nỗi dậy. Có nhiều kẻ ham làm thầy người, giáo hóa rộng rãi, đề xướng thạnh hành một loại thiền sai lạc huyễn hoặc kẻ hậu học, cơ hồ đã hơn một trăm năm nay. Hiện giờ ảnh hưởng vẫn còn tiếp tục lan tràn khắp thiên hạ, tưởng chừng như là đến lúc "quyến thuộc của thiên ma trộm y phục Như Lai, phá hoại giáo pháp Như Lai". Xét về bọn quý tộc thì bên trong thường đam mê tửu sắc, bên ngoài ưa thích săn bắn, trong các việc làm phần nhiều thường lấy việc ác làm vui, chẳng thích làm lành, đó cũng là phận thường của kẻ phú quý ở chốn tòng lâm. Thế nên, họ thường ái mộ thuyết không nhân không quả và họ cũng chẳng thích nghe nói đến nghiệp báo ba đời. Họ nói: "Lão Cù Ðàm nêu bày phương tiện ác". Họ vừa tựu chức Trụ trì chùa lớn, làm bậc Trưởng lão cao niên, hằng ngày có người lén đến trình kiến giải điên cuồn. Trưởng lão liền mời vào thất kín nói là để trao truyền tâm ấn, lại dẫn ra bao nhiêu cổ tắc, niêm đề hướng thượng để làm chứng. Hàng sĩ phu lúc đó được gãi trúng chỗ ngứa, đến chết cũng chẳng nghi, hạnh lành mỗi ngày một bê trễ, nghiệp ác càng ngày càng tăng thêm, chẳng đợi chết mới vào ngục A tỳ mà ngay lúc còn sống đã bị một đời tủi nhục. Ðáng sợ thay! Phật nói: "Chẳng phải chúng sanh lỗi mà lỗi của tà sư" là cái nghĩa này vậy.
Hòa thượng Tâm Văn Bí nói:
Tăng sĩ nhân tham thiền mà đến nỗi mắc bệnh quá nhiều. Có người mắc bệnh nơi tai mắt, lấy sự nhướng mày trợn mắt, nghiêng tai gật đầu làm thiền. Có người mắc bệnh ở miệng lưỡi, dùng lời nói điên đảo, hét loạn quát càn làm thiền. Có người mắc bệnh ở tay chân, lấy việc tiến trước lùi sau, chỉ đông trỏ tây làm thiền. Có người mắc bệnh ở tâm phúc, lấy sự tột cùng huyền diệu siêu tình ly kiến làm thiền. Căn cứ vào sự thật mà luận thì đều là bệnh. Duy có bậc Tông sư đầy đủ bản sắc mới quan sát thấu đáo đến chổ vi tế, xem qua liền biết được sự lãnh hội hay chưa lãnh hội của họ. Khi họ vừa bước vào cửa, các ngài liền biết chỗ chưa đến đích của họ, rồi sau đó, các ngài mới dùng một chùy một trát để lột trần sự khuất tất nhỏ nhiệm, phá tan chỗ ngưng trệ, nghiệm xét chỗ chân giả, định sự thật hư mà không chấp chặt một phương tiện để làm mờ tối chỗ biến thông, khiến cho người bước tới cảnh an lạc vô sự rồi sau đó mới thôi.
Ngày nay, tìm người mắc bệnh nầy cũng không có được nhiều, đủ biết đạo của Tổ sư suy vi đến bậc nào!
Thiền sư Ðại Huệ nói:
Phật pháp lúc gần đây thật thảm, kẻ làm thầy của người trước tiên đem sự huyền diệu kỳ đặc chứa trong hông ngực ra dạy bảo cho nhau, trao truyền bằng miệng nói tai nghe rồi cho đó là tông chỉ. Hạng người ấy bị tà độc nhập tâm, không thể chữa trị được. Cổ đức gọi đó là người phỉ báng Bát Nhả, ngàn Phật ra đời cũng không sám hối được.
Lúc gần đây, các loại thiền chuyên môn truyền cho nhau một cách kín đáo chẳng ra ngoài loại này. Vả lại, đem sự huyền diệu kỳ đặc cho nhau thì có thể được, còn như cổ tắc của Thiền sư ở các nơi mà thiển cận truyền như vậy thì thật đáng tức cười!
Thiền sư Vô Học Tổ Nguyên nói:
Tôi thấy các huynh đệ Nhật Bản, số người một đời được ngộ không nhiều, là phong tục xứ này chỉ quý tài trí mà không cầu ngộ giải. Thế nên, giả sử có người căn cơ linh lợi thì cũng chỉ lo học rộng các sách vở trong ngoài, ưa thích văn chương xảo ngụy mà chẳng lo tham cứu việc nầy để đến mỗi một đời luống qua trong mê, thật đáng thương xót!
Hoặc có một hạng người tự xưng là đạo nhân mà phần nhiều là người khí lượng chẳng kham học rộng nhớ nhiều, cố lấy việc ngồi thiền làm công nghiệp mà chẳng phân biện được tâm chân thật hướng về đạo, loại người nầy cũng chẳng phải một đời nầy có thể khai ngộ.
Ðến nay đã hơn ba trăm năm mà vẫn thường thấy hai loại bệnh nầy, thật lời của người đạt đạo nói không sai. Than ôi! Phong tục nước ta quen theo thói tệ như thế, đáng buồn thay!
Quốc sư Vô Nghiệp nói:
Thiên hạ ngày nay hiểu thiền hiểu đạo như số cát sông Hằng, nói Phật nói tâm có trăm nghìn vạn ức mà mảy trần chẳng bỏ thì chưa khỏi luân hồi, ý nghĩ chẳng dứt thì đều phải bị chìm đắm trong sanh tử. Những người như thế, nghiệp quả của chính họ, họ còn không tự biết mà tự dối là tự lợi, lợi tha, tự bảo là bậc thượng lưu ngang hàng với tiên đức. Dẫu cho nói: Việc chạm vào mắt không gì chẳng Phật sự, chỗ bước chân đi đều là đạo tràng. Nhưng tập quán của những người ấy chẳng bằng một kẻ phàm phu ngũ giới, thập thiện, mà lời của người đó nói ra chê cả hàng Nhị thừa và Bồ Tát Thập Ðịa. Món thượng vị đề hồ là món trân kỳ của thế gian gặp những hạng người nầy nó trở thành thuốc độc.
Ngày gần đây, cái tệ của người học thiền là lấy sự nương vào thức tình để biết làm tỏ ngộ, lấy sự xuyên tạc cơ duyên truyền trao làm tham học, lấy ngôn ngữ bí hiểm kỳ quái làm đề xướng, lấy sự phá hoại luật nghi làm giải thoát, lấy sự kết giao với nhà quyền quý, đút lót để được chức vị làm phương tiện xuất thế.
Trung Phong Quảng Lục
Thuở xưa có cái tệ nầy, thời gian gần đây cũng giống như thế. Than ôi! Muốn làm cho thuyết ma lui mất, đạo Tổ trở lại lưu hành cũng chẳng thể được. Thảm thay!
Có vị Ðại đức hỏi Thiền sư Ðại Châu Huệ Hải:
- Thái hư hay sanh linh trí chăng? Chân tâm duyên nơi thiện ác chăng? Người tham dục là đạo chăng? Người chấp phải chấp quấy về sau tâm được thông chăng? Người gặp cảnh sanh tâm có định chăng? Người an trụ tịch mặc có huệ chăng? Người ôm lòng ngạo vật có ngã chăng? Người chấp có chấp không có trí chăng? Người tầm văn thủ chứng, người khổ hạnh cầu Phật, người lìa tâm cầu Phật, người chấp tâm là Phật, trí này có xứng với đạo chăng? Xin Thiền sư mỗi mội hãy giải đáp cho.
Sư đáp:
- Thái hư chẳng sanh linh trí. Chân tâm chẳng duyên thiện ác. Người thị dục sâu thì căn cơ cạn. Người phải quấy giao tranh thì tâm chưa thông. Người gặp cảnh sanh tâm thì ít định. Người tịch mặc quên cơ là huệ chìm. Người tâm cao ngạo vật thì ngã lớn. Người chấp không chấp có thì đều là người ngu. Người tầm văn thủ chứng thì càng mắc kẹt. Người lìa tâm cầu Phật là ngoại đạo. Người chấp tâm là Phật ấy là ma.
Ðại đức thưa:
- Nếu như vậy thì cứu cánh không có gì cả sao?
Sư bảo:
- Cứu cánh là đại đức; chứ không phải cứu cánh là không có gì cả.
Hòa thượng Chân Tịnh Văn nói:
Người đoạn kiến thì đoạn diệt mất tự tâm vốn là tự tánh sáng suốt nhiệm mầu, luôn luôn ngoài tâm chấp không, kẹt vào thiền tịch mặc. Người thường kiến thì chẳng ngộ hết thảy pháp không, chấp trước các pháp hữu vi thế gian cho là cứu cánh.
Tông Cảnh Lục chép:
Thấy duyên mà chẳng thấy thể là thường kiến. Thấy thể mà chẳng thấy duyên là đoạn kiến. Nay từ nhân duyên mà thấy tánh thì chẳng sa vào thường, ở trong chân tánh mà duyên khởi thì chẳng rơi vào đoạn, đó gọi là tri kiến chân chánh.
Ðại sư Lâm Tế nói:
Phàm người xuất gia cần phải phân biện cho được kiến giải bình thường chân chánh, biện Phật, biện ma, biện chân, biện ngụy, biện phàm, biện thánh. Nếu biện được như thế mới gọi là chân thật xuất gia.
Tuy nhiên gác cũ an nhàn
Về đến đó rồi mới nghỉ an.
Thế mà nay, chủ tớ chẳng phân, Phật ma chẳng biện, mang sự tối tăm tự cho là đủ, rồi tự bảo: "Ðây là chỗ an nhàn, đây là chỗ ruộng đất nghỉ ngơi", thì người đó chẳng phải là người chân thật xuất gia mà chỉ dung dưỡng phàm phu thôi.
Nếu cầu cho đúng thì trong lúc tâm ý thức chết lặng cần phải có đủ con mắt chánh pháp mới được.
Thiền sư Huyền Sa Bị nói:
Có một bọn hòa thượng ngồi thiền sàng tự xưng là thiện tri thức, khi được hỏi đến, liền lắc mình, động tay, mở mắt, le lưỡi nhìn sững.
Lại có một bọn nữa nói: Linh đài trí tánh sáng suốt linh diệu hay thấy hay nghe, hướng vào trong thân năm uẩn làm chủ tể.
Bọn người như thế mà xưng là thiện thi thức, thật là dối gạt người.