- Phần mở đầu
- Đại cương kinh Pháp Hoa
- Nội dung 28 phẩm kinh Pháp Hoa
- Đại thừa Diệu pháp Liên Hoa Kinh
- Vị trí kinh Pháp Hoa theo cách phán giáo của Ngài Thiên Thai
- Kinh Pháp Hoa giữa các kinh Đại Thừa
- Hình tượng Hoa sen trong kinh Pháp Hoa
- Nhất thừa đạo
- Nhà Như Lai, Áo Như Lai, Tòa Như Lai
- Kinh Pháp Hoa với lời thệ nguyện "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ"
- Điều kiện đến với kinh Pháp Hoa
- Bồ-tát Thường Bất Khinh
- Nhĩ căn viên thông hay là pháp môn Quán Âm
- Giải thích Phẩm Tựa: a) Bố cục
- Giải thích Phẩm Tựa: b) Kinh văn
- Phân tích Phẩm Phương tiện: a)
- Phân tích Phẩm Phương tiện: b)
- Phân tích Phẩm Phương tiện: c)
- Phân tích Phẩm Phương tiện: d) (Thiếu nội dung)
Kinh Pháp Hoa Lược Giải
Giải thích Phẩm Tựa: a) Bố cục
Nguồn: Hòa thượng Thích Thiện Siêu
I. PHẦN BỐ CỤC
Phẩm đầu tiên của kinh Pháp Hoa là phẩm Tựa. Trong các kinh phần nhiều đều chia ra ba phần:
. Phần Tựa
. Phần Chánh tông
. Phần Lưu thông
Phần Tựa phần nhiều chỉ một đoạn ngắn, riêng kinh Pháp Hoa phần Tựa chiếm trọn một phẩm. Vì vậy cho nên trong phẩm Tựa bao hàm nghĩa lý được coi như một phần khai thị giáo nghĩa ở phần Chánh tông. Phẩm Tựa được chia đại cương như sau:
I. Thông tựa: Như thị ngã văn...
II. Biệt tựa: Gồm có 5 phần:
A. Tập chúng.
B. Hiện thụy: Hiện điềm lành.
Hiện 6 điềm lành ở cõi này như: Hiện ra sự thuyết pháp, nhập định, mưa hoa, đất rung động, chúng hoan hỶ, phóng hòa quang.
Hiện 6 điềm lành ở cõi khác như: Thấy lục thú chúng sanh, thấy Phật ra đời, nghe Phật thuyết pháp, bốn chúng tu hành đắc đạo, hàng Bồ-tát tu hành, Phật Niết-bàn xây tháp cúng dường.
C. Nghi niệm:
Di Lặc nghi không biết Phật hiện ra những điềm lành để làm gì?
Đại chúng nghi không biết Phật hiện ra những điềm lành để làm gì?
D. Di Lặc hỏi Văn Thù: Di Lặc thuật lại:
Sáu điềm lành đã trông thấy ở cõi này để hỏi.
Sáu điềm lành đã trông thấy ở cõi khác để hỏi.
E. Văn Thù đáp:
Trù Lượng đáp: Văn Thù trả lời theo chổ Bồ-tát suy nghĩ.
Dẫn chuyện xưa sánh chuyện nay đáp:
Dẫn Phật pháp của đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh tối sơ.
Dẫn Phật pháp của hai vạn đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh kế tiếp.
Dẫn Phật pháp của đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh sau cùng.
c1. Đức Phật này từng hiện đủ 6 điềm lành như đức Phật Thích Ca hôm nay: Thuyết Pháp, nhập định, mưa hoa, đất rung động, chúng hoan hỶ, phóng hào quang.
c2. Khi xuất định liền giảng kinh Pháp Hoa cho Diệu Quang Bồ-tát.
c3. Trước khi Niết-bàn thọ ký cho Đức Tạng.
c4. Nhập Niết-bàn Diệu Quang trì kinh.
Kết đáp: Văn Thù đáp, quá khứ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh sau khi hiện 6 điềm lành, xuất định liền giảng kinh Pháp Hoa, nên biết hôm nay đức Thích Ca cũng hiện 6 điềm lành, như vậy sau khi xuất định Ngài cũng giảng kinh Pháp Hoa. Cuối cùng là bài kệ trùng tuyên lờI đáp của Văn Thù.
II. PHẦN KINH VĂN
Kinh văn: Như vậy tôi nghe.
Một thời đức Phật ở núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vương Xá, cùng chúng đại Tỳ-kheo một vạn hai ngàn người đều đông đủ. Đều là những bậc A-la-hán các lậu đã hết, không còn phiền não, đã được lợi mình, hết các kiết sử, tâm được tự tại, tên là A-nhã Kiều-Trần-Như, Ma-Ha-Ca-Diếp... các vị đại A-la-hán như vậy là những vị chúng đều biết.
Giải thích: Như thị ngã văn.
Pàli dùng chữ evam me suttam. Evam có nghĩa là như vậy, bao hàm ý nghĩa tin thuận. Nếu như thị có nghĩa là như thật, như như thì Phạn âm là tathata chứ không dùng chữ evam. Bởi khi Tôn giả A-nan kết tập đầu tiên để chữ Như thị có nghĩa rằng điều tôi nghe đây là đúng như vậy. Phật nói như vậy tôi nghe đúng như vậy, mà nghe đúng như vậy với lòng tin thuận theo lời Phật nói. Nếu như nghe mà không tin thuận theo thì không gọi là như vậy. Tin thuận theo lời Phật dạy, nghe lời Phật dạy, Ngài nói như thế nào, bây giờ thuật lại đúng như thế đó, không thêm không bớt, và trực tiếp nghe Phật nói, chứ không phải nghe từ một người khác nói lại nên gọi như vậy. Do lẽ chính từ Tôn giả A-nan tín thuận chắc chắn như vậy, nên gây được lòng tin cho người đọc kinh sau này tin chắc lời đó là Phật nói. Cho nên đầu tiên vào kinh để Như Thị ngã văn là lý do đó.
Bấy giờ đức Phật trú tại núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vương Xá cùng với chúng Tỳ-kheo như vậy... Các vị ấy đều là bậc đại A-la-hán, các lậu đã dứt. Thế nào gọi là các lậu? Lậu có nghĩa là lọt, rơi, rớt, rỉ, đó là một tên khác của phiền não, của kiết sử. Lậu có ba ý nghĩa:
1. Tiết lậu lục căn môn: Phiền não tham sân uế trược rỉ ra ở saú căn.
2. Lậu thất chánh đạo: Làm lọt mất chánh đạo.
3. Lậu lạc tam giới: Bị trôi lăn trong ba cõi.
Các lậu là: Dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Ba thứ này làm triền phược chúng sanh trong tam giới mà các bậc A-la-hán đã dứt sạch những thứ đó, ra khỏi ba cõi nên gọi là vô sanh không còn phiền não không còn kiết sử, tâm được tự tại, nên gọi "chư lậu dĩ tận". Các vị tâm được tự tại thành bậc A-la-hán rất nhiều, như Tôn giả Xá-Lợi-Phất: Trí tuệ đệ nhất, Tôn giả Mục-Kiền-Liên: Thần thông đệ nhất...mỗi vị mỗi hạnh. Người thì chuyên tu đầu đà, người thì chuyên tu mật hạnh, và có vị thì chuyên tu hạnh thiểu dục tri túc như Ngài Bạc-Câu-La. Trong A Dục Vương truyện có kể rằng: Sau khi Vua A-Dục hồi đầu theo Phật, hông ăn năn hối cải tội ác, nên hết lòng phát huy đạo pháp, cất chùa xây tháp, cúng dường Xá-Lợi..., Một hôm nhà vua đi chiêm bái tháp Phật và Thánh Tăng, mỗi tháp nhà vua đều cúng dường lễ lạy và mỗi tháp nhà vua đều hỏi lại công đức tu hành của các ngài, ngài nào cũng có công hạnh to lớn, nhưng khi đến tháp ngài Bạc-Câu-La thì biết ngài chẳng có công hạnh gì cả, duy chỉ có hạnh thiểu dục tri túc mà thôi, cho nên vua A-Dục chỉ cúng dường một đồng tiền. Nhưng lạ thay, khi nhà vua về đến cung điện thì một đồng tiền cúng dường nơi tháp ngài Bạc-Câu-La lại được hoàn trả lại. Bấy giờ vua A-Dục mới càng kính phục hạnh thiểu dục tri túc của Ngài.
Kinh văn: Lại có hàng Hữu học và Vô học hai ngàn người. Lại có Ma-ha Ba-xà-ba-đề Tỳ-kheo-ni và quyến thuộc sáu ngàn người đông đủ. Mẹ của La-Hầu-La là Da-Du-Đà-La Tỳ-kheo-ni cùng với quyến thuộc đông đủ.
Bồ-tát Ma-ha-tát, tám vạn người đều là những vị không thối chuyển vô thượng chánh đẳng Bồ-đề, chứng được pháp Đà-la-ni, lạc thuyết biện tài.
Giải thích: Đà-la-ni gọi là tổng trì. Tổng trì có bốn nghĩa: Văn tự tổng trì, Pháp tổng trì, Hành tổng trì, Giải tổng trì. Sự hiểu biết được giữ gìn chặt chẽ, đối với pháp hiểu biết trọn vẹn... cũng gọi là Đà-la-ni.
Lạc thuyết biện tài, đây là một trong bốn món vô ngại biện. Nói về vô ngại biện, tức là đứng về mặt ứng dụng. Còn về mặt hiểu biết thì gọi là bốn vô ngại giải, đó là: Pháp vô ngại giải, nghĩa vô ngại giải, từ vô ngại giải và lạc thuyết vô ngại giải.
Bốn vô ngại biện gồm có:
1. Pháp vô ngại biện: Đối với Tam tạng kinh điển, hiểu biết trên phương diện ngôn thuyết năng thuyên.
2. Nghĩa vô ngại biện: Biết được trên phương diện lý nghĩa sở thuyên.
Thuyên: Nói. Năng thuyên: Hay nói. Sở thuyên: Được nói. Ngôn giáo là năng thuyên, lý nghĩa là sở thuyên. Hiểu như thế để đừng kẹt mắc vào ngôn giáo, lấy ngôn giáo làm lý nghĩa tức là y nghĩa bất y ngữ. Pháp vô ngại biện chỉ về mặt năng thuyên: Ngôn giáo. Nghĩa vô ngại biện chỉ về mặt sở thuyên: Nghĩa lý.
3. Từ vô ngại biện: Sự vận dụng ngôn từ, cú pháp, văn phạm, rành rẽ, mạch lạc.
4. Lạc thuyết vô ngại biện:
a) Vui vẽ đem giáo pháp Phật ra truyền bá.
b) Trong sự truyền bá gây được niềm vui cho người nghe.
Trong bốn vô ngại biện được đúc kết thành hai chữ như trong kinh Lăng Già:
-Tông thông (gồm pháp và nghĩa): Thông suốt về mặt tôn chỉ giáo nghĩa.
-Thuyết thông (từ và lạc): Thông suốt về phương diện trình bày diễn tả.
Kinh văn: Chuyển pháp luân bất thối, cúng dường vô lượng trăm ngàn các đức Phật, đối với chư Phật, gieo các gốc lành, thường được các đức Phật tán thán. Những vị này lấy từ bi đề tu thân, khéo đi vào trí tuệ Phật, thông đạt đại trí, đến bờ bên kia. Những vị đó danh tiếng khắp cả vô lượng thế giới hay độ vô số trăm ngàn chúng sanh.
Giải thích: Dĩ từ tu thân thiện nhập Phật tuệ. Dĩ từ tu thân: Tức đem thân hành động theo những pháp lành, lợi lạc. Thiện nhập Phật tuệ: Là đi vào trí tuệ Phật. Tam tạng giáo điển là cửa ngỏ đi vào trí tuệ Phật, tu hành quán niêm là cửa ngõ đi vào trí tuệ Phật. Nhưng nếu không khéo đi thì cũng không vào được nên trong kinh dùng chữ "Thiện"
Kinh văn: Những vị đó tên là Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-tát, Quán-Thế-Âm Bồ-tát...Các vị đại Bồ-tát như vậy gồm có tám vạn người đông đủ.
Bấy giờ Thích-đề-hoàn-nhơn cùng với quyến thuộc hai vạn thiên tử đông đủ.
Lại có Minh nguyệt thiên tử...và tứ đại Thiên Vương cùng với quyến thuộc một vạn thiên tử câu hội. Với Tự tại thiên tử, đại Tự tại thiên tử, cùng với quyến thuộc ba vạn thiên tử đông đủ.
Giải thích: Đây là những vị trời ở Lục dục giới, gồm có: Tứ thiên vương, Đao-Lợi thiên, Dạ-ma thiên, Đâu-suất-đà thiên, Hóa-lạc thiên, Tha-hóa-tự-tại thiên.
Kinh văn: Bấy giờ Ta-bà thế giới chủ đại Phạm thiên vương...cùng với hai vạn quyến thuộc đông đủ.
Giải thích: Ta-bà thế giới chủ hay Tam thiên đại thiên thế giới. Hai danh từ đó trên phương diện thể cách giống nhau.
Tam thiên đại thiên có hai thuyết khác nhau:
1. Tứ châu, Tứ ác thú, Lục dục Tinh Phạm thiên: Tứ Châu, Tứ ác thú, Lục dục, Phạm thiên, như thế gọi là một thế giới thuộc một thái dương hệ. Một ngàn thế giới như vậy gọi là một tiểu thiên thế giới. Một ngàn lần tiểu thiên thế giới gọi là một trung thiên thế giới. Một ngàn lần trung thiên thế giới gọi là một đại thên thế giới, tức thế giới ba lần ngàn. Nhưng Tam thiên đại thiên thế giới như vậy là chỉ ngang Sơ thiền trở xuống.
2. Tứ châu, Tứ ác thú, Lục dục Tinh Phạm thiên: Đó là một tiểu thế giới. Một ngàn lần Phạm thiên như vậy bằng một nhị thiền thiên; một ngàn nhị thiền thiên bằng một tam thiền thiên; một ngàn tam thiền thiên bằng một tứ thiền thiên, hay tam thiên đại thiên thế giới. Tam thiên đại thiên thế giới này lên đến cõi Tứ thiền. Đây là cõi sở hóa của đức Phật Thích Ca. Cõi này còn được gọi là Sách-ha thế giới hay Ta-bà thế giới, nghĩa là thế giới cam chịu mọi thống khổ.
Kinh văn: Có tám Long vương, Nan-đà long vương...đều cùng với bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đông đủ.
Lại có bốn Khẩn-na-la vương (Ca thần)... cùng với bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đông đủ.
Lại có bốn Càn-thát-bà vương (Nhạc thần)... cùng với bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đông đủ.
Lại có bốn A-tu-la vương... cùng với bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đông đủ.
Lại có bốn Ca-lầu-la vương (Kim sí điểu)... cùng với bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đông đủ.
Và con bà Vi-đề-hy, là vua A-xà-thế cùng với bao nhiêu trăm ngàn quyến thuộc đông đủ.
Mỗi mỗi lễ Phật xong, lui ngồi một bên.
Giải thích: Từ đây trở về trước là chúng hội trong hội Pháp Hoa. Trong hội này có vua A-xà-thế, đó là một ông vua có vị trí rất lớn trong Phật giáo và có một lịch sở kỳ lạ nhất:
Ông là bạn thân của Đề-bà-đạt-đa (khi ông chưa theo Phật) cùng Đề-bà-đạt-đa hại Phật, nhưng chính ông cũng là người ngoại hộ đặc biệt nhất trong Đại hội Kiết tập lần thứ nhất sau khi Phật Niết-bàn. Đó là bản thân ông đối với Phật giáo. Còn con người và cuộc đời ông thì sao?
Hoàng tử A-xà-thế (Vị sanh oán hay chiết chỉ) con Bình-sa vương và bà Vi-đề-hy. Một hôm, A-xà-thế bị Đề-bà-đạt-đa xúi dục giết cha để cướp ngôi, rủi thay âm mưu bị bại lộ, bị bắt quả tang. Đáng lẽ bị trừng trị, nhưng vì thương con, Bình-sa vương nhường ngôi cho ông.
Đã không biết ơn, A-xà-thế lại còn hạ ngục vua cha và ra lệnh bỏ đói cho cha chết lần chết mòn; chỉ một mình hoàng thái hậu được phép vào thăm. Mỗi khi đi, bà giấu đồ ăn trong áo đem cho chồng. A-xà-thế hay được quở trách mẹ. Lần sau bà giấu thức ăn trong búi tóc, A-xà-thế cũng biết được. Cùng đường bà tắm rửa sạch sẽ rồi thoa vào mình một thứ đồ ăn làm bằng mật ong, đường và sữa. Vua gạt lấy món ăn cho đở đói, nhưng A-xà-thế cũng biết được và ông ra lệnh cấm hẳn mẹ không cho vào thăm nữa.
Lúc ấy Bình-sa vương cam chịu đói nhưng lòng không oán trách con, vua cho đó là oan nghiệp tiền khiên có vay phải có trả, nên cố gắng Tham thiền và đắc quả Tu-đà-hoàn. Thấy cha vẫn vui tươi nên A-xà-thế quyết giết cha cho khuất mắt. Ông hạ lịnh cho người thợ cạo vào ngục lấy dao bén gọt gót chân, lấy dầu và muối xát vào rồi hơ trên lửa cho chết.
Khi người cha bất hạnh thấy thợ cạo đến thì mừng thầm, ngở rằng con mình đã ăn năn hối cải nên cho người đền cạo râu tóc cho mình để rướt về cung. Vua đâu ngờ chính anh thợ cạo đến để đem lại cho vua một cái chết thê thảm.
Cùng ngày ấy, vợ A-xà-thế vừa hạ sanh một hoàng nam. Hay tin chánh hậu hạ sanh một hoàng nam, nổi vui mừng của A-xà-thế không sao tả được; tình thương người cha lần đầu tiên chớm nở trong lòng; mặn nồng sâu sắc. Đứa con đầu lòng là một nguồn hạnh phúc cho cha mẹ. Chính đứa con đã đem đến tình yêu thương mới mẻ, đậm đà vô cùng trong sạch, khiến họ có cảm tưởng rằng máu huyết của mình đã nhỏ giọt ra để nối tiếp mình.
Vừa lúc ấy A-xà-thế sực nhớ đến cha, bổng nhiên ông đứng phắt dậy kêu lên như điên: "Hãy mau lên, thả ra lập tức người cha yêu quý của Trẩm". Nhưng than ôi! Người cha yêu quý ấy đã ra người thiên cổ.
Khi hay tin cha chết, Vua hối hận đi tìm mẹ và hỏi: "Thưa mẫu hậu khi con còn nhỏ, phụ hoàng có thương con không?
- Hoàng nhi ơi! cho đến giờ này con mới hỏi thì đã muộn rồi! Mẹ tưởng trên thế gian này không tìm đâu cho ra một người cha hiền lành như cha của con. Để mẹ kể lại cho con nghe: Lúc mẹ còn mang con trong bụng, một ngày kia mẹ nghe thèm lạ lùng một món kỳ quái, mẹ thèm nút vài giọt máu trong bàn tay mặt của cha con. Mẹ đâu dám nói ra. Rồi càng ngày càng xanh xao và cuối cùng phải nói thật với cha con. Khi nghe vậy cha con vui vẻ lấy dao rạch tay cho mẹ nút máu. Lúc ấy các nhà chiêm tinh trong triều đình tiên tri rằng, con sẽ là người thù của cha con. Do đó, con có tên là A-xa-thế (Vị sanh oán: Kẻ thù chưa sanh). Mẹ có ý định phá thai nhưng cha con không cho. Khi sanh ra con, mẹ nhớ đến lời tiên tri nên một lần nữa muốn giết con và lần nầy cha con cũng cản mẹ. Một hôm, con có một mụn nhọt trên đầu ngón tay, đau nhứt vô cùng, khóc suốt ngày đêm không ai vỗ con ngủ được. Cha con đang thiết triều, nghe vậy cầm lòng không đậu, bế con trong lòng và không ngần ngại ngậm ngón tay con trong miệng nhè nhẹ nút cho con đở đau. Gớm thay, mụt nhọt vở, máu mủ tuôn ra trong miệng cha con, và sợ lấy ngón tay ra con đau nên cha con nuốt luôn cả máu lẫn mủ... Càng nghe mẹ kể, A-xà-thế vô cùng hối hận ăn năn.
Đó là cuộc đời và con người của A-xa-thế. Nhưng rồi sau đó ông hồi tâm theo Phật xin sám hối, và chính ông là người ngoại hộ đắc lực nhất trong thời Phật và trong kỳ đại hội Kiết tập lần đầu.
Trong phần kinh văn có mô tả số chúng hội: Nào là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Bồ-tát, Thiên, Long...Số nào cũng là trăm ngàn vạn ức chứ không phải chỉ có 1250 vị như thường nghe. Đó là điểm đặc biệt của kinh văn Đại thừa, khác với kinh văn Tiểu thừa. Vì sao? Vì bởi kinh điển Đại thừa đứng trên quan điểm: Tất cả chúng sanh đều thành Phật; đứng trên quan điểm: Bồ-tát hạnh, lấy "sự" để truyền "tâm" (dĩ tướng hiển tánh, chỉ vật truyền tâm chỉ thị từ tâm biến vật). Với tinh thần rộng lớn như vậy, cho nên đồ chúng rộng lớn, không gian rộng lớn. Ở đây, ý niệm không gian thời gian theo thường tình bị xem nhẹ. Thời gian không gian không cố định, không ranh giới, vượt biên cương. Cho nên hội chúng của kinh Đại thừa rất đông, không phải 1250 vị mà là trăm ngàn vạn ức, cũng như Phật thuyết kinh Pháp Hoa không phải một hai tuần... mà là 60 tiểu kiếp. Vì với tâm Bồ-tát đã đứng trên pháp tánh mà nhìn nên không bị cục hạn ở tướng, thân tâm và cảnh giới đã vượt ngoài tướng. Do đó, quan niệm về không gian, thời gian ở kinh Đại thừa có tánh cách rộng lớn bao la, không có biên giới, ít và nhiều không quan trọng, dài và ngắn không có định mức. Bởi vì không gian tự nó không thật thể, thời gian tự nó không thật thể. Hội chúng đông là một cách phá bỏ ý niệm chấp trước không gian cố định. Phật thuyết kinh trong 60 tiểu kiếp cũng là một cách phá bỏ ý niệm thởi gian cố định. Vì vậy mà chúng hội đông nhưng chỗ không thấy chật, 60 tiểu tiếp mà như trong khoảng một bữa ăn.
Lại trong kinh Đại thừa thường hay có lẫn lộn hai lối thuyết pháp của Phật là hiển thuyết và mật thuyết. Phật phóng quang, nhập định, thuyết pháp... xen lẫn nhau. Phật phóng quang và nhập định là mật thuyết mà Phật thuyết pháp đôi khi cũng là mật thuyết. Xin kể một ví dụ để rõ thêm nghĩa hiển thuyết và mật thuyết:
Đời Đường tại Hàn Châu có thiền sư tên Hàn Văn HỶ hiệu Vô Trước, xuất gia lúc 7 tuổi. Lớn lên, quyết một lần đến Ngũ Đài sơn với ý nguyện là được lễ bái Văn-Thù-Sư-Lợi Bồ-tát. Khi ngài đến giữa núi thì gặp một ông già dắt trâu, ông già ấy mời ngài về nhà và hỏi:
- Sư từ đâu đến?
- Từ phương nam đến. Ngài Vô Trước đáp.
- Phật pháp phương Nam trụ trì thế nào?
- Gặp thời mạt pháp, tuy nhiên những người kính thuận giới luật cũng nhiều.
- Nhiều bao nhiêu?
- Năm bảy trăm
Ngài Vô Trước lại hỏi ông già:
- Còn ở đây Phật pháp trụ trì thế nào?
- Long xà hổn tạp phàm thánh đông cư. Ông già đáp.
Ngài Vô Trước không hiểu nên hỏi:
- Vậy là bao nhiêu?
- Tiền tam tam hậu tam tam. Ông già đáp.
(Nói mà như không nói, thuyết mà thành mật thuyết).
Ông già sai đệ tử Huân Đề rót nước mời ngài Vô Trước uống và ngài từ tạ ra về, đồng tử đưa xuống núi. Ngài Vô Trước quay lại hỏi đồng tử:
- Khi nãy ông già nói: "Tiền tam tam hậu tam tam" là bao nhiêu thế? Đồng tử kêu:
- Đại đức. Ngài Vô Trước:
- Hử. Đồng tử hỏi:
- Thế là bao nhiêu thế?
Khi đó ngài Vô trước liền hay ông già ấy chính là ngài Văn Thù vậy.
Cũng chừng ấy mà chúng hội trong các kinh thì khác mà hội chúng trong kinh Pháp Hoa lại càng khác.
Từ đây về trước là phần Tựa chung (Thông tự), và từ đây về sau là phần Tựa riêng (Biệt tự).
Trong kinh PHáp Hoa, phần Tựa riêng là phần đi sát đề, đi thẳng vào duyên khởi chính của kinh. Các kinh khác phần tựa riêng này chỉ có một đoạn, nhưng kinh Pháp Hoa chiếm trọn một phẩm (Phẩm tự). Bởi phẩm này mang tánh cách đặc biệt là Phật nêu lên thật nghĩa chung mà Ngài sẽ dạy về sau. Ngài nêu một cách gián tiếp qua các việc hiển thụy, trong ấy tiêu biểu một ý nghĩa mà đức Phật sẽ chỉ bày trong các phẩm sau.
Kinh văn: Lúc bấy giờ Thế Tôn được bốn chúng vây quanh, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán.
Giải thích: Đây là phần tập chúng. Tứ chúng, thường hiểu gồm có: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Tứ chúng cũng còn có nghĩa nữa là trong hội pháp của Phật có bốn hạng, tùy theo căn cơ trình độ hiểu biết khác nhau:
1. Chúng khải thỉnh: Đây là những vị có đủ khả năng trình độ hiểu biết, đặt vấn đề thưa hỏi Phật.
2. Chúng đương cơ: Là hàng căn cơ trình độ đúng với hội pháp đương thuyết.
3. Chúng tán trợ (hay chúng ảnh hưởng): Những vị đã chứng ngộ rồi nhưng vẫn còn ngồi trong pháp hội để tán dương công đức thuyết pháp của Phật, đồng thời cũng tán trợ chúng đương cơ đang nghe lúc đó.
4. Chúng kết duyên: Hạng người không đủ trình độ, không đúng căn cơ để nghe pháp, nhưng cũng dự trong chúng hội để kết duyên về sau.
Kinh văn: Phật vì hàng Bồ-tát thuyết kinh Đại thừa tên Vô lương nghĩa là pháp giáo hóa hàng Bồ-tát được các đức Phật hộ niệm.
Giải thích: Trong khi đại chúng vây quanh, đức Phật vì hàng Bồ-tát mà nói kinh Đại thừa tên Vô lượng nghĩa, là pháp giáo hóa hàng Bồ-tát được chư Phật hộ niệm. Phật thuyết kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa. Thế nào là Vô lương nghĩa?
1. Chỉ về thật tướng vô tướng. Vì thật tướng vô tướng cho nên nó thành nhất thiết tướng, mà nhất thiết tướng tức là nhất thiết nghĩa. Mỗi tướng như vậy là mỗi tánh cách của các pháp. Chữ Nghĩa: Là tánh cách. Ví dụ nói cái này là viên phấn, ai cũng nói và ai cũng công nhận nó là viên phấn. Nhưng ta thử hỏi: Viên phấn vốn là cái gì? Vốn là! Vốn là cái của nó. Khi nói vốn là thì viên phấn lại có một ý nghĩa khác, viên phấn trở thành mong manh, trở thành một tướng giả tạm, chứ không phải nó vốn là, có ai nói viên phấn này vốn là viên phấn? Cho nên khi muốn nói viên phấn ấy vốn là, là ta muốn tìm hiểu thật tướng của viên phấn là gì? Khi nói viên phấn vốn là tức sẽ nói viên phấn vốn là đất. Ta tạm dừng lại và tạm chấp nhận đất vốn là của viên phấn. Hay nói cách khác, đất là thật tướng của viên phấn mà đất là thật tướng của viên phấn thì đất không phải chỉ làm ra viên phấn thôi, mà đất có thể làm ra cái chén, cái nồi... đất có thể làm đủ thứ, đủ vạn nghĩa, đủ vạn tướng. Vậy thì thật tướng đất đó không phải là tướng phấn mà thành tướng phấn, không phải là tưóng nồi mà thành tướng nồi... Như vậy nó vốn vô tướng mà thành vô lượng tướng (nhưng nên nhớ khi ta nói đất là thật tướng, đó là đứng trên mặt hiện tượng ta dừng lại và chấp nhận như vậy chứ thật tướng còn đi xa hơn nữa. Nếu hỏi đất vốn là gì? Như vậy là đặt thêm một vấn đề nữa, đó là vấn đề khác, ở đây ta tạm ngừng lại đó và tạm chấp nhận để hiểu) mà thành nhất thiết tướng. Vô lượng tướng tức vô lượng nghĩa. Nói cái chén là một nghĩa, nói cái bình, cái nồi.... là một nghĩa... và trở thành vô lượng nghĩa.
2. Đức Phật đã ngộ nhập được thật tướng của vạn pháp là vô tướng cho nên Ngài tùy theo vô lượng căn cơ của chúng sanh mà thuyết giáo, thành ra giáo pháp của Phật cũng là vô lượng nghĩa. Chúng sanh vô lượng, có tâm tư vô lượng, dục lạc vô lượng, Phật tùy theo vô lượng tâm tư thuyết vô lượng pháp thành pháp đó gọi là vô lượng.
3. Vô lượng nghĩa lại cũng có nghĩa là không thể đo lường được, đem cái ý thức phân biệt không thể đo lường được nên gọi là vô lượng nghĩa. Với thật tướng vô tướng như vậy mà ta đem cái ý thức phân biệt, bảo là như thế này, là như thế kia... Tất cả những tưóng đó chẳng qua là tướng giả tướng do ý thức phân biệt có ra mà thôi. Cho nên nếu đem ý thức mà bảo, đem ý thức mà phân biệt nọ kia thì không bao giờ phân biệt được, không bao giờ trắc lượng được nên gọi là vô lượng.
Mới bắt đầu vào kinh, Phật thuyết kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa. Có ý rằng những pháp mà Phật dạy trong những thời trước, nhất là dạy cho hàng Nhị thừa là những pháp còn có thể lường, còn có thể đem ý thức mà phân biệt. Trong hội Pháp Hoa Phật nói pháp không thể bằng vào ý thức phân biệt trắc lường tới được mà chỉ bằng vào chân thật trí mới có thể ngộ nhập được.
Pháp nói cho hàng Nhị thừa không khác nào như khi nói cần uống nước thì liền đưa cho chén nước, không cần hỏi chén nước vốn là gì. Vì trước đó đối với hàng Nhị thừa cần thoát ly sanh tử, đức Phật nói pháp để diệt khổ, không cần hỏi thật tướng làm gì, cũng như cần chén nước đưa chén nước uống không cần hỏi vốn là gì. Bây giờ trong hội Pháp Hoa, mới nói vốn là gì để đi vào thật tướng của những lời pháp mà đức Phật nói từ trước nên gọi là Vô lượng nghĩa. Pháp đó là pháp giáo hóa cho hàng Bồ-tát, chứ hàng Nhị thừa đem thức tâm phân biệt thì không thể phân biệt được và pháp đó đã là pháp cao siêu tuyệt đối, cho nên luôn luôn được chư Phật hộ niệm nên gọi là Phật sở hộ niệm.
Kinh văn: Phật nói kinh này rồi ngồi kiết già, nhập vào định Vô lượng nghĩa xứ, thân tâm không lay động, đoạn này ý nói:
Giải thích: Sau khi đức Phật nói kinh vô lượng nghĩa rồi, Phật ngồi kiết già nhập vào định Vô lượng nghĩa xứ, thân tâm không lay động, đọan này ý nói:
1. Thuyết pháp rồi nhập định, có nghĩa là không có định thì không có tuệ, không có tuệ thì không có định. Thuyết pháp là tuệ, nhập định là định. Có tuệ mới có định, có định mới có tuệ, tịch chiếu song song mới thành được giáo pháp viên mãn.
2. Nhập định gọi là định Vô lượng nghĩa tức muốn hiểu kinh vô lượng nghĩa thì phải ở trong định Vô lượng nghĩa mới hiểu được kinh, tức là phải ở trong định xa rời sự phân biệt trắc lường của ý thức, mới có thể hiểu được, ngộ được kinh vô lượng nghĩa.
3. Để làm mô thức cho những người thuyết pháp (giáo), khi muốn thuyết pháp cho đúng thì luôn luôn tâm phải ở trong định. Nhập định đó có hai tác dụng:
a) Tâm không rời pháp thật tướng.
b) Quán căn cơ chúng sanh rồi mới thuyết pháp.
Khi đức Phật nhập định thì cả thân và tâm không lay động. Ở trong định cả thân và tâm. Ngồi không phải là định mà phải cả thân và tâm không lay động mới là định.
Kinh văn: Lúc bấy giờ trời mưa hoa Mạn-đà-la, (hoa thích ý vừa lòng) hoa Ma-ha Mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa (hoa nhu nhuyết) hoa Ma-ha Mạn-thù-sa, mà rải trên Phật và đại chúng, khắp cả thế giới Phật đều có 6 cách rung động.
Giải thích: Trước đức Phật nhập định, đến đây là trời mưa hoa. Sự nhập định của Phật, sự thuyết pháp của Phật, có sức rung động đến cả hàng chư thiên, có sức rung động đến quả đất. Bời vì các pháp vô thượng vì diệu nên Phật nói ra làm rung động khắp cõi Ta-bà.
Việc cõi đất sáu cách rung động... nếu không khéo suy nghĩ thì cơ hồ như là một chuyện hoang đường không thật. Nhưng phải chăng sự Thành Đạo của đức Phật đã không làm rung động đến ta ngày hôm nay đó sao? Sự Thành Đạo của đức Phật dưới cội cây Bồ-đề đã rung động hơn hai ngàn năm trăm năm nay, mà không những chỉ rung động riêng xứ Ấn Độ huyền bí mà còn rung động cả nhân loại trên thế giới! Một người thường khởi lên ác tâm hoặc câu nói độc còn có thể làm chuyển động cả hoàn cầu khiến bao nhiêu triệu người chết, ruộng đồng thành hoang địa, huống chi một vị đại Giác ngộ, đại Từ bi lại không thể làm quả đất rung động, lòng người rung động quay về đường giác, được an lạc?
Rung động sáu cách:
- Ba cách về hình: Động: Rung; Dõng: Lồi lên lõm xuống; Khởi: Vụt đưa lên.
- Ba cách về thanh: Chấn: Tiếng rung; Hẩu: Tiếng gầm gừ; Kinh: Tiếng hét to.
Kinh văn: Bấy giờ trong chúng hội, hàng Tý-kheo, Tỳ-kheo-ni... được điều chưa từng có, hoan hỶ chấp tay nhất tâm ngưỡng xem Phật.
Giải thích: Qua những sự hiện điềm lành đó, bây giờ bốn chúng thấy việc chưa từng có nên ai cũng vui mừng hớn hở chấp tay nhất tâm xem Phật. Chấp tay là nói về thân; nhất tâm là nói về tâm. Chấp tay là để chứng tỏ thân hướng về nơi Phật chứ không đâu khác. Nhất tâm cũng là để chứng tỏ tâm hướng về Phật.
Kinh văn: Lúc bấy giờ Phật phóng hào quang từ tướng lông trắng ở giữa chân mày, chiếu về phương Đông, một vạn tám ngàn thế giới đều khắp cả, dưới từ địa ngục A-tỳ, trên đến A-ca-nị-sắc-thiên.
Giải thích: Bấy giờ đức Phật phóng hào quang từ tướng lông trắng ở giữa chân mày và chiếu về phương Đông... Hào quang đức Phật chiếu từ tướng lông trắng ở giữa chân mày cũng để tiêu biểu ý nghĩa trung đạo thật tướng, cũng để tiêu biểu ý nghĩa rằng trong kinh Pháp Hoa, đức Phật cốt khai thị ngộ nhập tri kiến Phật. Tri kiến đó tức là trung đạo thật tướng, ly hết tướng nhị biên, cho nên ở giữa chân mày Phật phóng ra hào quang và chiếu về phương Đông. Vì sao lại chiếu về phương Đông? Bởi phương Đông là gốc của ánh sáng, mặt trời mọc từ phương Đông. Như vậy, phương Đông đây cũng để tiêu biểu cho thật tướng. Thật tướng cũng là gốc của thất cả tướng. Phật phóng hào quang về phương Đông tức trí tuệ tri kiến Phật chiếu vào thật tướng.
Tóm lại, đoạn trên đây ta thấy Phật thuyết pháp, nhập định, phóng hào quang, đó là ba hình thức thuyết pháp, ba hình thức giáo hóa bằng khẩu, bằng thân, bằng tâm.
Thuyết pháp là khẩu nghiệp, nhập định là ý nghiệp, phóng quang là thân nghiệp. Ba phương pháp đó đều nhằm vào sự lợi lạc chúng sanh. Đó gọi là tam mật lợi ích. Để hiểu ý nghĩa biểu trưng trong kinh điển Đại thừa, ta hiểu xuyên qua câu nói của ngài Lâm Tế. Ngài Lâm Tế có lối truyền thuyền đặc biệt, đó là lối Bổng hát.
Bổng là cây sào và có nghĩa là đánh. Hát là hét. Nếu có ai đến vấn, ngài hỏi một câu là phải trả lởi ngay không được do dự suy nghĩ. Nếu dụ dự suy nghĩ không đáp ngay là ngài hét rầm lên hoặc đánh cho một gậy.
Để hiểu hào quang của Phật xuyên qua cách nói của ngài Lâm Tế. Trong tiếng Hát ngài Lâm Tế có nói:
- Hữu thời nhất hát như Kim cang vương bảo kiếm.
- Hữu thời nhất hát như cứ địa Kim mao sư tử.
- Hữu thời nhất hát như thám can ảnh thảo.
- Hữu thời nhất hát bất tác nhất hát dụng.
Nghĩa là:
- Có lúc tiếng hét này như gươm báu của Kim cang vương.
- Có lúc tiếng hét này như Sư tử lông vàng ngồi chổm.
- Có lúc tiếng hét này như cây sào quơ trên ngọn cỏ.
- Có lúc tiếng hét này như không có tác dụng gì hết.
Xuyên qua ý nghĩa tiếng hét của Lâm Tế mà ta hiểu hào quang của Phật. Cho nên nói hào quang không chỉ giới hạn trong hào quang, cũng như tiếng hét không phải chỉ là tiếng hét mà là tiếng gươm báu của Kim cang vương, có nghĩa là tất cả bị nó phứt hết. Tất cả tâm niệm phân biệt, suy lường đều bị phứt hết. Hoặc tiếng hét đó như Sư tử lông vàng ngồi chổm, uy nghiêm vô cùng, thấy nó là khiếp đảm. Hoặc tiếng hét đó như cây sào quơ trên ngọn cỏ, đó là tiếng hét dò xem căn cơ người học đạo mà có khi tiếng hét không có tác dụng gì hết. Xuyên qua đó ta hiểu ý nghĩa hào quang của đức Phật. Hào quang của Phật phóng ra đó là tiêu biểu trung đạo thật tướng, tiêu biểu Phật tri kiến phát hiện mà đức Phật đã thành tựu.
Để nói lên kiến tánh đó, trung đạo thật tướng đó chúng sanh đều có. Nhưng vì chúng sanh mê mờ không nhận biết được mà phải bằng vào lời dạy (Thánh giáo lượng) của Phật mà hiểu. Thánh giáo lượng tức cảnh giới ta không thể đạt được mà phải bằng vào cái lượng của Thánh giáo, lấy sự chỉ bày của Thánh giáo làm thước đo. Nhưng hiểu lời Phật dạy có ba:
1. Bằng vào Thánh giáo lượng, đức Phật dạy như vậy, tin vào lời dạy về sự giác ngộ độ sanh của Phật.
2. Phải giàu lòng tưởng tượng, so sánh, tỶ lượng.
3. Nhưng cứu cánh nhất là phải hiểu được rằng pháp môn Phật nói ra nhằm gạt bỏ bao nhiêu nếp phân biệt suy tư cố hữu theo vọng tưởng của chúng sanh để đưa chúng sanh nhập bào cảnh giới viên dung vô ngại, như cảnh giới Phật đã chứng thành, tức là hiểu bằng hiện lượng thật chứng.
Kinh văn: Ở tại thế giới này mà thấy khắp lục thú chúng sanh ở cõi nước đó. Lại thấy và nghe các đức Phật hiện tại ở các cõi đó thuyết pháp, thấy các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắt, Ưu-bà-di những người tu hành đắc đạo ở cõi kia. Lại thấy các đại Bồ-tát hành đạo Bồ-tát, tùy từng nhân duyên, theo từng chỗ tín giải, theo từng tướng mạo của mỗi người. Lại thấy các đức Phật nhập Niết-bàn. Lại thấy sau khi các đức Phật nhập Niết-bàn rồi xây tháp bảy báu cúng dường Xá-lợi Phật.
Giải thích: Hào quang của Phật phóng ra thế giới nào thì ở thế giới đó đều hiện rõ trước mắt đại chúng, nhờ đó đại chúng thấy cả lục đạo chúng sanh ở trong đó, tạo nghiệp nhân phiền não như thế nào, chịu kết quả như thế nào ở các thú. Đó là thấy về mặt nhiểm ô. Lại còn thấy về những điều thanh tịnh như thấy đức Phật hiện tại nơi cõi kia và nghe được pháp đức Phật nói.
Mỗi vị tu hành như thế nào thì đắc đạo như thế đó, mà không những thấy hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni thôi, mà còn thấy các hàng Bồ-tát, đại Bồ-tát với từng nhân duyên mỗi người đều khác nhau, tín giải mỗi người đều khác nhau, tướng mạo mỗi người đều khác nhau mà thực hành hạnh Bồ-tát.
Nhân duyên (cách thức) khác nhau, mỗi người đi tu như chúng ta mỗi người có mỗi nhân duyên khác nhau. Nhân là gì? Là thiện căn có sẳn của mỗi người gọi là nhân; duyên mỗi người đi tu cũng khác. Người thì gặp thầy mến thầy rồi đi tu, người nghe thích tiếng tụng kinh rồi đi tu, người thì gặp đạo lý mà đi tu; tức mỗi người đều có các thứ nhân duyên và các thứ tín giải. Khi đi tu như vậy mỗi người có lòng tin, mức độ tin khác nhau, mỗi người có trình độ hiểu biết khác nhau. Người độn căn thì thiên về lòng tin, người lợi căn thì thiên về hiểu biết. Và các thứ tướng mạo, do trình độ tin tưởng, hiểu biết khác nhau cho nên trong sự tu hành mỗi người lại hiện ra tướng mạo dáng dấp khác nhau. Có người hành Bồ-tát đạo bằng cách tụng kinh thuyết pháp; có người hành Bồ-tát đạo bằng cách bửa củi, gánh nước... nghĩa là trong việc làm với tâm niệm thượng cầu hạ hóa đều gọi là hành Bồ-tát đạo, đó là những tướng mạo hiện ra bên ngoài.
Thấy đức Phật Niết-bàn, và thấy sau khi đức Phật Niết-bàn, Xá-lợi được dựng tháp cúng dường. Chừng ấy câu mà ta thấy trong kinh đã diễn tả trọn cả một thời giáo hóa của đức Phật, thấy cả y báo chánh báo của cả lục phàm, tứ thánh.
Từ lúc còn là một chúng sanh, ra đời, tu hành thành Phật, thuyết pháp... đến khi Phật Niết-bàn..., tức cả một dòng thời gian dài, nhờ hào quang của đức Phật mà thấy suốt tất cả. Việc đó nói lên rằng chính ngay trong hào quang trung đạo thật tướng, hiện đủ tất cả các tướng nhiểm và tịnh của chúng sanh và chư Phật một cách bình đẳng. Từ chúng sanh... đến chư Phật Niết-bàn cùng ở trong hào quang đó, ý nói rằng trong tự tánh thanh tịnh tâm bình đẳng cũng hiện đủ tất cả các việc nhiểm tịnh như vậy.
Kinh văn: Lúc bấy giờ Di Lặc Bồ-tát nghĩ rằng, nay đây, đức Thế Tôn hiện tướng thần biến như vậy, vì nhân duyên gì mà có điềm lành tốt đó? Đức Thế Tôn nay vào nơi Tam-muộI, việc bất khả tư nghì hy hữu hiện ra đó, sẽ hỏi ai đây, ai hay đáp được việc này?
Giải thích: Đây là đoạn ngài Di Lặc nghi, thấy những cảnh như vậy, ngài Di Lặc không biết vì nhân duyên gì mà đức Phật hiện ra các điềm lành hy hữu như vậy và ai là người có thể giải quyết mối nghi ấy? Đức Phật nhập định Tam-muội rồi thì làm sao mà hỏi? Không thể hỏi Phật, vậy sẽ hỏi ai? Ngài Di Lặc đang băn khoăn trong tâm.
Kinh văn: Lại nghĩ rằng Văn-thù-sư-lợi là vị pháp vương tử đã từng thân cận cúng dường vô lượng các đức Phật quá khứ, chắc đã thấy được tướng hy hữu này, vậy ta nay nên đến hỏi Văn-thù.
Giải thích: Di Lặc là một vị Bồ-tát, Văn-thù cũng là một vị Bồ-tát. Văn-thù là tiêu biểu cho đại trí, căn bản trí. Còn Di Lặc đang dùng Duy thức quán phân biệt mà tu hành. Cảnh giới ngài Di Lặc đang đối diện đây phải dùng đại trí, căn bản trí như Văn Thù mới chứng nhập được, đem phân biệt trí như Di Lặc thì không thể hiểu.
Di Lặc là biểu thị cho tâm tư phân biệt, ý thức phân biệt, đang còn thức chứ chưa phải trí. Bởi Di Lặc còn tu Duy thức quán mà cảnh giới này không thể dùng thức để vào được và Di Lặc chỉ có thể hỏi Văn Thù chỗ nghi của mình.
Kinh văn: Lúc bấy giờ các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắt, Ưu-bà-di và các hàng thiên long quỶ thần... đều nghĩ rằng tướng hào quang thần thông quang minh đức Phật phóng ra đó, nay sẽ hỏi ai đây ?
Giải thích: Đây là đoạn đại chúng nghi. Ngài Di Lặc mà còn nghi huống hồ tứ chúng Tỳ-kheo... làm sao không nghi được!
Phật từ Tam-muội, thân tâm bất động mà phóng ra hào quang, là cốt khiến cho chúng sanh bỏ vọng về chơn, chuyển thức thành trí. Ngặt vì hàng nhị thừa còn mang bệnh chấp chặt tam thừa là thật, chưa tin nỗi đạo lý tam thừa là quyền mà nhất thừa mới thật, nên Phật phóng hào quang làm phát khởi tâm nghi rồi Di Lặc mới hỏi, nhờ Văn Thù giải quyết.
Kinh Văn: Lúc bấy giờ Di Lặc Bồ-tát muốn tự quyết nghi, lại quán xét tâm niệm của bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắt, Ưu-bà-di, và các hàng trời rồng, quỉ thần... mà hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng: Vì nhân duyên gì mà có tướng lành thần thông này? Phật phóng ánh sáng lớn soi khắp một vạn tám ngàn cõi ở phương Đông, khiến chúng đều thấy quốc độ trang nghiêm của các đức Phật?
Bấy giờ Di Lặc Bồ-tát muốn lặp lại nghĩa này mà dùng kệ hỏi rằng: Văn-thù-sư-lợi đấng Đạo sư, vì cớ gì mà hào quang lớn từ lông trắng ở giữa chân mày chiếu khắp? Trời mưa hoa Mạn-đà, hoa Mạn-thù-sa, gió thơm mùi chiên đàn, làm vui đẹp lòng của chúng hội. Do nhân duyên đó, quả đất đều nghiêm tịnh mà thế giới này có sáu cách rung động. Bấy giờ bốn bộ chúng, thảy đều vui mừng, thân ý thơ thới được việc chưa từng có. Ánh sáng giữa chân mày, chiếu suốt thẳng phương đông, một vạn tám ngàn cõi, thảy đều trở thành ra sắc vàng, từ A-tỳ địa ngục đến Hữu-đảnh thiên. Trong các thế giới đó, lục đạo chúng sanh sanh tử đến nơi này nơi kia và các nghiệp duyên thiện ác của họ và quả báo họ chịu hoặc tốt hoặc xấu, thảy đều trông được cả. Lại thấy các đức Phật, Thánh chúa sư tử diễn nói kinh điển vi diệu đệ nhất. Tiếng các Ngài trong trẻo, buông ra những lời rất dịu ngọt, dạy vô số vạn ức các Bồ-tát, phạm âm thâm diệu, khiến người vui nghe, đều ở nơi các thế giới diễn nói chánh pháp, với nhiều nhân duyên và vô lượng thí dụ, để soi sáng Phật pháp, khai ngộ cho chúng sanh. Nếu người vì gặp khổ, nhàm chán sự già bệnh chết, thời ngài vì họ nói cảnh Niết-bàn, để dứt hết các khổ.
Giải thích: Đức Phật dùng nhiều nhân duyên để giáo hóa. Đối với người nào gặp khổ, nhàm chán sanh lão bệnh tử thì Ngài nói cảnh giới Niết-bàn an lạc cho họ. Đây là cảnh giới của hàng Thanh Văn. Hàng Thanh Văn tu hành mong cầu thoát ly sanh lão bệnh tử, cho nên đức Phật nói pháp Niết-bàn để họ tu hành dứt hết các khổ.
Kinh văn: Còn nếu người có chút phước, từng cúng dường đức Phật, chí cầu thắng pháp, thì Ngài nói pháp Duyên Giác.
Giải thích: Hàng Thanh Văn quán về Khổ đế, trước hết dùng Khổ đế làm đối tượng quán để tu hành giải thoát, cho nên Thanh Văn thừa bằng vào sự nhàm chán sanh lão bệnh tử mà tu. Còn duyên Giác thừa, duyên vào Đạo đế để tu, bởi Duyên Giác thừa không bằng vào sự nhàm chán sanh lão bệnh tử mà bằng vào lý nhân duyên của vạn pháp. Thí dụ: Thấy một ngọn lá rơi, một dòng nước chảy, một ánh sao băng... mà biết rằng tất cả sự vật là vô thường là nhân duyên sanh mà ngộ đạo.
Kinh văn: Hoặc có hàng Phật tử, tu bao nhiêu hạnh để cầu vô thượng huệ thì Ngài sẽ nói Thanh tịnh đạo.
Giải thích: Hàng Thanh Văn và Duyên Giác chỉ nhằm vào mục đích hoặc là quán Khổ đế hoặc là quán Đạo đế mà tu hành. Bồ-tát thì đa hạnh nên trong kinh gọi là chủng chủng (các thứ) hạnh. Hàng Bồ-tát cầu vô thượng huệ, cho nên đức Phật nói về Thanh tịnh đạo. Bởi vì đạo Bồ-tát so với đạo Thanh Văn là thanh tịnh, nên gọi là Thanh tịnh đạo.