Kinh Di Giáo lược giải
Phần 2- Nội Dung Kinh Di Giáo
Nguồn: Thích Viên Giác Sài gòn 1997
A. Lời Mở Đầu Của Kinh Di Giáo
Vài lời ngắn gọn nhưng lời mở đầu đã khái quát cuộc đời của Đức Phật từ lúc thuyết pháp lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển cho 5 anh em Kiều Trần Như, cho đến lần thuyết pháp sau cùng độ cho Tu bạt đà la. Rồi dạy những lời di huấn cho đệ tử dưới cây Sa La trong hơi thở cuối cùng. Hình ảnh ấy qua lời mở đầu đã nói lên sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh vĩ đại của một bậc đạo sư.
Ý tứ lời mở đầu là:
1. Giới thiệu tổng quát cuộc đời thuyết pháp độ sinh của Đức Phật từ lúc khởi đầu cho đến lúc kết thúc. Coi trọng công cuộc độ sanh tức là nhấn mạnh mặt tích cực, mặt lợi ích mà đức Phật đã cống hiến cho cuộc đời.Thường thì khi giới thiệu đức Phật, người ta thường bắt đầu khi Ngài sinh ra, lớn lên xuất gia tu học...cho đến nhập diệt. Nhưng ở đây muốn nhấn mạnh cuộc đời độ sinh hơn.
2. Cuộc đời độ sinh của Ngài, hạnh nguyện của Ngài đến đây đã viên mãn như kinh thường nói: Tự giác, Giác tha, Giác hạnh viên mãn. Nhưng những gì cần làm đã làm xong, những người có thể độ đã hóa độ tất cả. Điều này cũng nói lên sự hoàn thiện, vi diệu của giáo pháp,nhờ vậy mà đạt được những thành quả lớn lao.
3. Những lời Di giáo sắp nói đây là những điều cốt yếu của giáo pháp.Giáo pháp đức Phật đã giảng dạy suốt cuộc đời rất rộng rãi bao la khó lĩnh hội hết được. Cuối cùng,lúc sắp nhập Niết bàn Ngài đã tóm tắt những điều cốt lõi thiết yếu nhất để cho đệ tử nuơng vào đó mà tu học, khỏi bị bơ vơ lạc lối.
B. Giới Học
I. Xác Định Giới Luật Là Đạo Sư.
Từ "Nhữ đẳng tỳ kheo... vô dị thử giả": Kinh văn nói rất rõ rằng sau khi đức Phật diệt độ thì phải tôn trọng quí kính tịnh giới,như người mù được mắt sáng thì phải giữ gìn con mắt đó, như người nghèo mà được vàng ngọc thì phải bảo vệ nó. Phải biết rằng tịnh giới là đức thầy cao cả chẳng khác nào đức Phật còn tại thế.
Trong giới bổn tỳ kheo cũng nói tương tự về sự giá trị của giới:
"Giới như biển cả
không có bờ mé
lại như ngọc báu
cầu hoài không chán"
và:
"Như Lai đã khéo
nói ra giới kinh
Như Lai lại khéo
Nói ra giới pháp
Dầu rằng Như Lai
Nhập vào Niết bàn
Chư vị hãy coi
Giới ấy như Phật" (Tỳ kheo giới, Trí Quang dịch 1994)
Tôn trọng giới luật có nghĩa là tôn trọng con đường đưa đến giải thoát, bởi lẽ giới là nền tảng cho định tuệ. Cũng có nghĩa là tôn trọng giữ gìn điều thiện điều tốt, biểu hiện tâm hướng thượng của người Phật tử vì đặc tính của giáo pháp là có khả năng hướng thượng.
Sau cùng, tôn trọng giới luật. Coi giới luật như Phật là thể hiện trách nhiệm đối với sự tồn vong của Phật pháp, như giới kinh đã dạy:
"Giới kinh tồn tại
lâu dài trong đời
thì pháp của Phật
sẽ được hưng thịnh" (Tỳ Kheo giới, Trí Quang dịch)
II. Những Giới Điều Tiêu Biểu
Từ "Giữ tịnh giới... không nên tích trữ "
1- Đoạn này nêu lên một số giới điều tiêu biểu nhưng rất cụ thể – Những giới điều này phù hợp với một số giới điều trong giới bổn và một số thì trong các kinh.
Trong 30 giới xả đọa của tỳ kheo giới, giới thứ 19 nói: "Nếu tỳ kheo mà đổi chác các thứ tiền và của báu thì phạm ni tát kỳ ba dật đề". Giới 20 nói: "Nếu tỳ kheo mà mua rẻ bán đắt mọi thứ thì phạm ni tát kỳ ba dật đề" (Tỳ kheo giới Trí Quang dịch). Những giới điều đó tương đương với lời Phật dạy trong đoạn này: "Các thầy không được buôn bán, đổi chác, sắm sửa đấùt nhà,nuôi người tôi tớ và súc vật, lo việc gieo trồng, kinh doanh tài bảo.
Trong 90 giới Ba dật đề, giới thứ 10 nói:" Nếu tỳ kheo tự tay đào đất hay bảo người đào đất thì phạm Ba dật đề". Giới thứ 11 nói: "Nếu tỳ kheo chặt phá cây cối thì phạm Ba dật đề". Kinh Di giáo nói gọn hơn:"Kể cả việc chặt phá cây cỏ và đào cuốc đất đai
Những điều như:"chế thuốùc thang, coi thiên văn, đoán thời tiết, tính lịch số...không tham dự thế sự, lãûnh sứ mạng liên lạc, chú thuật, thuốc tiên, giao hảo kẻ quyền quý..." đều có ở trong các giới bổn như điều 18 trong 24 thiên oai nghi, giới thứ 29 của Bồ tát giới.
2. Đoạn này trình bày một số giới điều, dù không đủ như giới bổn, nhưng rất rõ là thiết lập giới theo công thức giới trong bát chánh đạo: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
a) Chánh ngữ: là ngôn ngữ chân chánh, nghĩa là không tà ngữ, theo HT Trí Quang thì: "Tà ngữ theo tà pháp và tà ngữ theo tà nhân. Tà ngữ theo tà pháp là tà thuật như đọc chú thuật. Tà ngữ theo tà nhân là giao hảo với quyền quý, nên nói năng với họ một cách hèn hạ, thân thiết với họ rồi ăn nói với người khác một cách ngạo mạn (Trí Quang giải).
b) Chánh nghiệp: Hành vi chân chánh, trái lại là tà nghiệp , gồm tiết chế cơ thể, ăn đúng thì giờ, sống bằng cách sống trong sạch, không tham dự thế sự, lãnh sứ mạng liên lạc...
c) Chánh mạng: phương tiện sinh sống chân chánh, traí lại là tà mạng, gồm: "buôn bán đổi chác, sắm sửa đất nhà, nuôi người tôi tớ và sú2c vật, lo việc gieo trồng, kinh doanh vàng bạc, điều chế thuốc thang, coi bói tướng, coi thiên văn, đoán thời tiết , tính lịch số đều không thích hợp.
Như vậy giới được trình bày là những điều kiện bảo đảm cho hành vi đạo đức gồm hành vi ngôn ngữ, phương tiện sinh sống, ngăn ngừa thân khẩu ý đi vào con đường sai lầm và tội lỗi. Mặt khác ngăn ngừa những trường hợp thế tục hóa hàng ngũ xuất gia. Đó là thể hiện tinh thần của giới bổn và biểu hiện hành tướng của người xuất gia như đức Phật thường dạy: "Sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ oai nghi và chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt." (Trung bộ kinh III).
III Tác Dụng Của Giới
Từ: "Đó là Như Lai nói tóm tắt... trú ẩn cho mọi thứ công đức". Thuyết minh tác dụng của giới có 3:
1). Giới đưa đến giải thoát: "Giới thì chính thuận với căn bản giải thoát nên Như Lai mệnh danh là Ba-La-Đề-Mộc-Xoa. Nhờ giới mà phát sinh thiền định và trí tuệ có năng lực hủy diệt thống khổ".
Ba-la-đề-mộc-xoa: một danh từ để gọi giới luật, dịch là biệt giải thoát. Tác dụng của giới là giải thoát, đoạn trừ những bất thiện của thân khẩu ý. Nguồn gốc của đau khổ là sự trói buộc của phiền não. Giới là đình chỉ ác nghiệp nên có tác dụng đưa đến giải thoát. Mặt khác giới phát sinh thiền định và trí tuệ nên có năng lực hủy diệt thống khổ. Vì vậy khi một người thọ trì giới mà cảm thấy gò bó, sinh nhiều phiền não, không thư thái thanh thản thì phải xem lại nội dung và phương pháp hành trì. Giới bao giờ cũng đưa đến sự thanh thản thân tâm.
2). Giới duy trì thiện pháp: "Ai giữ giới thì người đó có thiện pháp", có một định nghĩa về giới nữa là tác thiện. Làm điều thiện là một hình thức giữ giới. Hơn nữa khi đình chỉ điều ác, ngăn ngừa điều ác thì bao hàm nghĩa tác thiện. Về mặt tâm lý khi khởi tâm không làm điều ác nghĩa là tâm đang hướng thượng, hướng thiện, những thiện chưa sinh sẽ sinh, thiện pháp đã sinh được tăng trưởng. Thiện pháp bao gồm ý niệm hướng thượng và hành vi, ngôn ngữ dẫn đến lợi ích an vui.
3) Giới thành tựu công đức: "không có tịnh giới thì mọi thứ công đức không thể phát sinh". Công đức ở đây có nghĩa là những thành quả do tu tập mà có. Những thành quả ấy gồm các cấp độ thiền định như sơ thiền cho đến diệt thọ tưởng định, hoặc đến chứng tam minh
Từ căn bản là giới con đường tu tập đưọc thiết lập, nhưng giới không phải chỉ là tuân thủ các giới điều mà còn bao gồm công phu tu tập, kiểm soát các nhiễm ô của tâm lý, thành tựu công đức là thực hiện viên mãn các bước tiếp theo. Kinh toán số Mục Kiền Liên (Trung A-hàm 144) và kinh Ganaka Moggallana (Trung bộ kinh 107) đưa ra đạo lộ tuần tự tu tập như sau:
a) Thầy tỳ kheo giữ gìn giới hạnh, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn, có oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và học tập các học giới.
b) Thầy tỳ kheo hộ trì các căn, khi mắt thấy sắc không nắm giữ tướng riêng, không nắm giữ tướng chung, những nguyên nhân gì làm cho tham ái, ưu bi khởi lên thì chế ngự đoạn trừ nguyên nhân ấy , thinh, hương...cũng vậy.
c) Thầy tỳ kheo tiết độ trong ăn uống, chân chánh quan sát ăn không để vui đùa, đam mê, trang sức cho thân mà chỉ để khỏi tổn hại thân, để giữ gìn phạm hạnh...
d) Thầy tỳ kheo được huấn luyện chú tâm cảnh giác ban ngày cũng như ban đêm, trong các hành động gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp.
e) Thầy tỳ kheo được huấn luyện chánh niệm tỉnh giác trong mọi động tác của thân thể khi đi đứng nằm ngồi...đều ý thức việc mình đang làm.
g) Thầy tỳ kheo được huấn luyện ngồi thiền ở một noi thanh vắng, kiết già lưng thẳng, an trú niệm trước mặt, gột sạch tâm trí khỏi 5 triền cái...chứng sơ thiền cho đến tứ thiền...
Trong 6 bước đi truyền thống gọi là đạo lộ tuần tự tu tập 4 bước đầu được coi là bước giới luật, từ giới luật ấy công đức được phát sinh tức là thiền và tuệ sinh.
IV. Chế ngự các giác quan
Từ "các thầy tỳ kheo đã ở trong tịnh giới... tàn diệt tất cả ": Đây là bước đi thứ hai trong đạo lộ tuần tự tu tập mà đức Phâït đã dạy, gọi là hộ trì các căn. Hộ trì và bảo vệ giữ gìn các căn là các giác quan, nghĩa là đừng để cho 5 giác quan bị các đối tượng của nó dắt dẫn sai khiến. Kinh văn dạy: "đã ở trong tịnh giới thì phải chế ngự 5 thứ gíac quan". Vậy giữ giới với chế ngự các giác quan là một. Đối tượng của 5 giác quan có 5 thứ: sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon và xúc êm dịu. Đây là các đối tượng hấp dẫn gọi là 5 dục lạc, các đối tượng này làm thỏa mãn lạc thọ của giác quan, đó là những gì mà chúng sinh tìm kiếm hướng đến. Khi đã tham đắm dục lạc rồi thì tâm mình không còn là của mình nữa, nó lệ thuộc vào thói quen hưởng thụ, khó có thể cất bước lên cao được.
Giữ gìn giới bổn mà cứ để cho 5 giác quan tự do dong ruổi theo trần cảnh thì khả năng giữ giới rất mong manh, và tâm thức không dừng lại ở phạm vi hưởng thụ dục lạc mà còn dẫn đến vô số tội lỗi, tác họa vô cùng, khó mà dừng lại được, ví như con ngựa hung hãn mà không có dây cương thì rất nguy hiểm. Hộ trì các căn trong kinh tạng Nikàya nói khá rõ: "khi mắt thấy sắc không nắm giữ tuớng riêng, không nắm giữ tuớng chung, những nguyên nhân gì làm cho tham ái, ưu bi khởi lên thì chế ngự và đoạn trừ nguyên nhân ấy. Đối với các đối tượng thinh, hương, vị, xúc cũng như vậy".
Kinh văn lấy ví dụ minh họa cho việc giữ gìn giác quan như "Như kẻ chăn trâu cầm gậy mà coi giữ không cho (trâu) phóng túng phạm vào lúa má của người. Hình ảnh thí dụ này rất hay, giữ gìn giác quan ví như người chăn trâu, sự cảnh giác cao độ ấy làm cho giác quan dần dần yên tỉnh. Thí dụ này có thể đã gợi hứng cho các thiền gia sáng tác 10 bức tranh chăn trâu nổi tiếng về sau.
Với cách thức cảnh giác giữ gìn các giác quan như vậy, giác quan sẽ thuần thục không có cơ hội để phóng túng chạy theo các đối tượng dục lạc. Nếu có lúc phóng túng đi nữa thì với sự hộ trì ấy sẽ làm cho giác quan trở lại thanh thản không lạc lối lâu, như kinh văn nói: "Giả sử có phóng túng 5 giác quan thì cũng không bao lâu ta sẽ thấy chúng tàn diệt tất cả".
Bước thứ hai này rất quan trọng, tập dừng lại các thói quen thuộc bản chất hay hiện tượng. Trước hết về mặt oai nghi tế hạnh sau đi dần vào tâm thức nội tại. Người xuất gia sẽ có phong cách ổn định, tinh thần vững chãi, tâm lực được củng cố. Do vậy tác dụng của giới được sâu sắc hơn. Vị tỳ kheo đi tới mục tiêu tối hậu của mình không có con đường nào khác là hộ trì các giác quan. Đức Phật dạy rõ trong kinh Pháp cú:
360: "Lành thay phòng hộ mắt
Lành thay phòng hộ tai
Lành thay phòng hộ mũi
Lành thay phòng hộ lưỡi"
361: "Lành thay phòng hộ thân
Lành thay phòng hộ lời
Lành thay phòng hộ ý
Lành thay phòng hộ tất cả
Tỳ kheo phòng tất cả
Thoát được mọi khổ đau ".
V. Chế Ngự Tâm Ý
Từ "Năm thứ giác quan... chiết phục tâm mình": Đoạn này nói về chế ngự tâm ý, năm thứ giác quan do tâm chủ động, giác quan tự nó không có lỗi. Phần này vẫn là bước thứ hai của hộ trì các căn, mối liên hệ giữa giác quan và tâm ý chỉ là một mà thôi. Đây là điểm đặc biệt của Phật giáo. Trong kinh Căn Tu Tập đức Phật đã bác bỏ quan điểm của Bà la môn Pasarìya, ông ta chủ trương rằng tu tập gíac quan là không nên thấy sắc với mắt, không nên nghe tiếng với tai. Đúc Phật cho rằng như vậy là người mù người điếc sẽ đạt kết quả tu tập giác quan. Quan điểm của Phật là:" Này Anan, tỳ kheo khi mắt thấy sắc khởi lên vừa ý, khởi lên không vừa ý, khởi lên vừa ý và không vừa ý, chúng khởi lên như vậy vì chúng thuộc hữu vi nên thô trọng. Nếu chúng không khởi lên như vậy thì đó là cái an tịnh, cái thù diệu tức là xã tâm. Cho nên khi tâm khởi lên vừa ý, không vừa ý hay vừa ý và không vừa ý đều được đoạn diệt chỉ có xả tâm là tồn tại..." (TBK IV căn tu tập 152).
Đức Phật muốn nói rằng khi mắt thấy đối tượng là sắc đẹp, tai nghe tiếng hay...thì tâm sẽ khởi lên 3 thái độ nhận thức: Một là vừa ý, hai là không vừa ý, ba là cũng vừa ý mà cũng không vừa ý(có cả hai). Khi tâm khởi lên như vậy đối với đối tượng là sắc hay thinh thì ta phải quán chiếu rằng sự khởi lên 3 thái độ ấy là không đúng, là sự vọng động, là sự thô trọng phàm phu. Nên quán chiếu để thấy rằng nếu tâm không khởi lên 3 thái độ như trên thì tâm an tĩnh thù diệu, cái đó là tâm xả. Nhờ quán chiếu như vậy nên khi các niệm về 3 thái độ khởi lên thì sẽ bị đoạn diệt ngay. Tu tập giác quan khác nhau là chỗ đó. Khi mới tu tập phải ngăn ngừa các giác quan đi theo thói quen thường tình là hướng đến các đối tượng lạc thú, tránh xa các đối tượng không lạc thú. Khi tu tập giác quan thuần thục rồi tức là phần thô hết, rồi phải tiếp tục cảnh giác chế ngự tâm ý vi tế đối với các đối tượng lạc thúù, phải biết rằng tâm mới là chủ nhân của mọi thứ. Có người chủ quan cho rằng tu tâm mới quan trọng còn giác quan không cần bận tâm, rồi họ mặc cho giác quan nhìn ngắm, nghe ngóng, thưởng thức làm vỡ thành trì của tâm. Tuy nhiên nếu chỉ lo chế ngự giác quan mà quên rằng tâm mới là chủ thì trở nên thiển cận cố chấp, tác dụng để sinh bị hạn chế.
Lúc Phật sắp Niết bàn ngài Anan hỏi một số vấn đề cần thiết, trong đó có vấn đề đối xử với phụ nữ phải như thế nào. Anan hỏi:
- Bạch đức Thế Tôn chúng con phải cư xử với phái nữ như thế nào?
- Này Anan chớ có nhìn họ
- Bạch Thế Tôn nếu phải nhìn họ thì phải làm như thế nào?
- Này Anan, chớ có nói chuyện với họ
- Bạch Thế Tôn, nếu phải nói chuyện với họ thì làm như thế nào?
- Này Anan, phải an trú chánh niệm -- (Kinh ĐBNB. 644)
Đức Phật dạy đừng nhìn, đừng nói là để hộ trì giác quan đối với những đệ tử sơ cơ, tâm lý chưa vững chãi, tu tập chưa thuần thục, dễ bị ngoại cảnh thu hút. Đức Phật dạy: phải an trú chánh niệm chính là chế ngự tâm ý, tâm ý được chế ngự thì việc nhìn hay nói với phụ nữ không có gì phải lo.
Kinh văn đưa ra một loạt ví dụ để nhấn mạnh đến cái tai họa của buông thả tâm ý và sự quan trọng của chế ngự tâm ý như: "Tâm còn đáng sợ hơn cả rắn độc, thú dữ, giặc thù, lửa dữ bùng cháy tràn lan, cũng chưa đủ để ví dụ cho tâm".
Tóm lại nhấn mạnh chế ngự tâm ý là vì:
- Tâm ý làm chủ của các giác quan, chế ngự giác quan đi đôi với chế ngự tâm ý thì mới có kết qủa.
- Tâm ý nếu không được chế ngự thì sẽ tạo tác ác nghiệp "không khác gì voi điên mà không có móc sắt, vượn khỉ mà được cây rừng".
- Tâm ý được chế ngự thì có sức mạnh để thành tựu các công đức . Kinh văn nói:"chế ngự tâm ý lại một chỗ thì không việc gì không thành".
Tu tập chế ngự tâm ý là một quá trình nỗ lực, tự mình điều phục tâm ý như kinh Pháp cú Phật dạy:
"Nỗ lực không phóng dật
Tự điều khéo điều ngự
Bậc trí xây hòn đảo
Nước lụt khó ngập tràn "
(Tâm không phóng dật - 25)
VI. Tiết Chế Ăn Uống
Từ "Các thầy tỳ kheo thọ dụng đồ ăn thức uống... đến nỗi kiệt sức": Tiết độ ăn uống là bước thứ 3 trong 6 bước tu tập, vậy vấn đề ăn uống, dù rất bình thường nhưng được coi là khó tu tập. Ăn uống là nhu cầu căn bản của chúng sinh, không ăn hoặc ăn uống không hợp lý sẽ đưa đến bệnh tật và chướng ngại tu tập. Đối với vấn đề ăn uống thường có hai thái độ:
1) Coi trọng ăn uống là quan trọng, lấy ăn uống làm lạc thú và bị trói buộc bởi ăn uống.
2) Coi ăn uống là tầm thường, từ bỏ ăn uống hoặc như khổ hạnh ép xác, làm thân thể hao mòn bệnh tật cũng đưa đến nguy hiểm.
Đức Phật dạy trong kinh văn: "Thọ dụng đồ ăn thức uống, hãy coi như việc uống thuốc, ngon không ham, dở không bỏ, vừa đủ duy trì cơ thể khỏi đói khát". Coi ăn uống như là thuốc trị bệnh là đúng cả nghĩa đen của nó, ăn uống để nuôi dưỡng cơ thể, chữa bệnh đói khát. Ngon không ham, dở không bỏ tức là đạt được khả năng hộ trì các căn, tâm không bị ngon dở làm chi phối, giao động. Kinh Ganaka Moggalla, Phật dạy :"Thầy tỳ kheo tiết độ trong ăn uống, chân chánh quán sát ăn không để vui đùa, đam mê, trang sức cho thân thể mà chỉ để khỏi tổn hại thân, để giữ gìn phạm hạnh, ăn để diệt trừ cảm thọ cũ, không cho cảm thọ mới khởi lên, nhờ đó màsống không phạm lỗi lầm và sống an ổn."(Trung bộ kinh). Thái độ của người xuất gia đối với ăn uống rất rõ là ăn uống vừa phải để khỏi hại thân và để tu tập phạm hạnh, không vì ăn uống mà tham sân si khởi, chướng ngại sự tu tập.
Để thực tập chế độ ăn uống, luật tỳ ni nhật dụng đưa ra 5 điều quán niệm trước khi ăn như sau:
1) Xét kể công lao nhiều ít và ước lượng lý do của thực phẩm.
2) Nghĩ kỹ đức hạnh của mình đủ hay thiếu để ứng thọ sự cúng dường ấy.
3) Đề phòng tâm lý, tránh những tội lỗi mà tham sân si vẫn là chủ yếu.
4) Chính vì lấy thực phâûm làm dược phẩm tốt để trị liệu thân hình khô yếu
5) Vì thành đạo nghiệp mà ứng thọ thực phẩm ấy.
Tu tập tiết độ trong ăn uống không chỉ ngăn ngừa những phiền não và chướng ngại cho bản thân mình mà còn vì lợi ích và niềm tin của quần chúng đối với Giáo hội và Phật Pháp. Kinh văn Đức Phật dạy: "Như ong lấy hoa, chỉ lấy mùi vị mà không tổn hương sắc...thọ dụng cúng phẩm của người vừa khỏi đói khát, không được ham cầu nhiều, phá vỡ thiện niệm của họ". Làm "tổn hương sắc" hay "phá vỡ thiện niệm của họ" nghĩa là:
1) Do mình nhu cầu nhiều, thí chủ phải cúng dường nhiều, làm thiệt hại tài sản của họ, họ bị kiệt sức.
2) Vì đáp ứng nhu cầu của mình, hạnh phúc gia đình bị tổn thương do bất đồng quan điểm trong gia đình.
3) Do mình trở thành gánh nặng dần dần họ mất niềm tin đối với đạo pháp qua tư cách của thầy tỳ kheo.
Vì vậy kinh văn đưa ra thêm một thí dụ: "phải biết lượng sức con trâu của mình chịu đựng nhiều ít không dùng quá sức đến nỗi kiệt lực". Đồng nghĩa với đừng để thương tổn sắc hương của hoa, tương đương ví dụ như ong lấy hoa, kinh Pháp Cú Đức Phật dạy:
"Như ong đến với hoa
Không hoại sắc và hương
Che chở hoa lấy nhụy
Bậc thánh đi vào làng -- (kệ 49, Thích Minh Châu dịch)
Vấn đề ăn uống từ xưa đến nay luôn là điều tạo nên phiền toái và ác nghiệp. Người ta có thể vì ăn uống mà không từ một thủ đoạn nào, có thể chà đạp lên hạnh phúc của kẻ khác để thỏa mãn nhu cầu ăn uống của mình. Tục ngữù nói: "Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất đi một miếng lộn gan lên đầu" đó là lẽ thường tình của cuộc đời.
Người xuất gia với mục đích giải thoát không thể vướng bận vấn đề ăn uống làm cho tham đắm hay làm cho chướng ngại sự nghiệp của mình, việc ăn uống là nhu cầu như hít thở, nó đeo đuổi suốt cuộc đời của mình, cho nên xử sự việc ăn uống cho hợp đạo lý là giải quyết được một phần trong công phu tu tập.
VII. Chú Tâm Cảnh Giác
Từ "Các thầy tỳ kheo, ban ngày thì nỗ lực... không khác gì cầm thú ": Chú tâm cảnh giác là bước thứ 4 trong 6 bước tu tập của đạo lộ tuần tự, sau khi có khả năng hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống , tâm đạt được sự cảnh giác cao, cần nỗ lực để tiếp tục duy trì sự cảnh giác ấy. Kinh văn dạy: "ban ngày thì nỗ lực thực tập thiện pháp, không để thì giờ lướt mất, đầu đêm cuối đêm cũng đừng phế bỏ, giữa đêm lại phải tụng niệm để tự tiêu trừ điều ác, sinh trưởng điều thiện". Sự cảnh giác chú tâm như vậy là khá chặt chẽ. Tâm thức chúng ta đã tích lũy biết bao là phiền não, ô nhiễm từ nhiều kiếp về trước, trí tuệ thì yếu ớt, không thể một sớm một chiều mà có thể thanh tịnh được. Những gì mà chúng ta được học qua kinh luận, qua truyền đạt của các bậc giáo sư, qua đời sống thực tế, chỉ mới tạo nên một thế lực nhỏ bé, giới hạn, làm sao đủ sức ngăn ngừa được dòng chảy mạnh mẽ của nghiệp lực vốn có từ xưa, làm sao mà nhanh chóng đoạn trừ các tập khí tiềm ẩn vốn không có hình tướng, khó thấy, khó nhận. Do đó để tạo cho mình một sức mạnh tương đương với lực của phiền não, chúng ta phải tập trung tu tập chú tâm cảnh giác thường xuyên ngày đêm. Tu hành giống như chèo thuyền ngược dòng nước, không tiến ắt phải lùi. Đừng tạo cơ hội cho bất thiện pháp xuất hiện thì chỉ có cách là nỗ lực mà thôi. Trong một ngày 24 giờ nếu ta chỉ tu tập vài giờ như tụng kinh 2 thời, công phu, ngồi thiền 30 phút hoặc 1 giờ trước khi đi ngủ và sáng sớm thức dậy thì không đủ sức đoạn trừ phiền não. Kinh văn dạy rõ: ban ngày thì nỗ lực (suốt ngày), ban đêm thì đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm cũng đừng phế bỏ, nghĩa là tu hành thì đừng lo ngủ, ngủ vừa phải và ít thôi. Kinh Tăng Chi đức Phật có đề cập đến 5 hạng người ngủ ít thức nhiều trong đó hạng thứ 5 là: "vị tỳ kheo thao thức đến ly hệ phược (visamyogàdhippàyo) ban đêm ngủ ít thức nhiều " (Tăng chi II.Tr.164). Thao thức đến ly hệ phược tức là chú tâm cảnh gíác để đoạn trừ các lậu hoặc.
Dựa trên cơ sở kinh Di Giáo và một số kinh khác mà các tổ sư về sau đã chia thời khóa tu tập thành 6 thời gọi là "trú dạ lục thời" gồm ban ngày: buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều ; ban đêm gồm đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm. Ngài Trần Thái Tông cũng dựa vào 6 thời này mà soạn nghi thức tu tập sám hối lục căn trong tác phẩm Khóa Hư Lục rất có giá trị về mặt tu tập.
Bước tu tập này kinh Ganaka Moggallana dạy: "Thầy tỳ kheo được huấn luyện chú tâm cảnh giác ban ngày cũng như ban đêm, trong các hành động gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp". Kinh Pháp Cú kệ 297 cũng dạy:
" Đệ tử Gotama
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm
Thường tưởng niệm chánh pháp"
Thường tưởng niệm chánh pháp là làm cho tà pháp không có cơ hội phát triển, thường tưởng niệm thì phải ít ngủ nghỉ, dành thì giờ nhiều hơn để tu tập, kinh văn dạy: "phiền não ngủ trong tâm như rắn hổ mang ngủ trong nhà, phải lo dùng móc sắc giữ giới cấp tốc kéo nó ra, rắn ngủ ra rồi mới nên yên tâm ngủ nghỉ. Phiền não ngủ trong tâm là những phiền não tùy miên rất khó đoạn trừ vì đó là tập khí tiềm ẩn huân tập lâu đời, vi tế khó biết. Nhờ giữ giới tức là nhờ chú tâm cảnh giác ngày cũng như đêm mà kéo những phiền não ấy ra khỏi tâm thức.
Vị tỳ kheo luôn luôn tự xét mình có xứng đáng là tỳ kheo hay không bằng cách quán sát phiền não cấu uế còn nhiều hay ít. Nếu thấy còn nhiều thì phải biết hổ thẹn, tự giác và nỗ lực hơn không thể yên tâm ham ngủ nghỉ hoặc lười biếng qua ngày. Nếu biết tự giác hổ thẹn như vậy thì mới đủ năng lực duy trì và tăng trưởng thiện pháp, tâm lý hổ thẹn là một loại tâm lý thiện có tác dụng kích thích sự nỗ lực nên kinh văn nói: "có hổ thẹn là có thiện pháp".
Tóm lại chú tâm cảnh giác là sự cảnh giác thường xuyên đối với hoạt động của thân khẩu ý, ngăn ngừa các bất thiện pháp, chế ngự sự vọng động ô nhiễm của tâm lý. Đến trình độ này tâm thức khá thuần thục, chúng vẫn ở trong phạm vi ảnh hưởng và tác dụng của giới, bắt đầu đi sâu hơn vào tâm lý ô nhiễm vi tế để dọn đường cho định tuệ sinh khởi.
VIII. Tu Tập Hạnh Nhẫn Nhục
Từ "Các thầy tỳ kheo nếu ai cắt xả thân thể... là điều không thích hợp": Đoạn này kinh dạy tu tập hạnh nhẫn nhục đối với nghịch cảnh nghịch ý. Tu tập nhẫn nhục là để đoạn trừ sự bộc phát sân tâm, cảnh giác ngăn ngừa tội lỗi khổ thọ và giao động của tâm làm tán thất công phu tu tập. Mặt khác luyện cho tâm trầm tĩnh vững chãi, và cũng để tu tập từ, bi, hỷ, xả, chuẩn bị tâm đi vào định tuệ, sự tu tập nhẫn nhục theo yêu cầu của kinh rất cao, Phật dạy: "nếu ai cắt xả các thầy ra từng đốt, các thầy cũng phải tự kiềm chế thân mình đừng cho giận dữ, lại phải giữ lấy miệng lưỡi đừng để phát ra lời tiếng không tốt. Tâm giận giữ nổi lên là tự hại đaọ nghiệp" (kinh Di giáo). Sự nhẫn nhục như vậy là biểu hiện sức mạnh chế ngự nội tâm của người tu tập theo giáo pháp của Đức Phật. Tương tự kinh ví dụ cái cưa trong Trung Bộ kinh I, cũng dạy: "Như những kẻ đạo tặc dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay cưa chân, dầu vậy nếu một ai ở đây khởi ý nhiễm loạn, người ấy không phải là người thực hành giáo pháp của ta. Các ông phải học tập như sau: chúng ta sẽ giữ tâm chúng ta không biêùn nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. "Thông thường chúng ta sống theo phản ứng tự nhiên (phản ứng động vật) ai mắng ta ta mắng lại, ai đánh ta ta đánh lại, do đó cuộc đời của ta luôn luôn sống trong trạng thái ba động của đấu tranh, của khốn khổ. Một người có trí tuệ sẽ chọn cách sống có kiềm chế, tự chủ hơn và trầm tĩnh hơn. Có người nghĩ rằng nhẫn nhục là thái độ hèn nhát nhưng theo qui luật tâm lý thì ngược lại hèn nhát, thiếu bản lĩnh mới manh động không nhẫn nhục nổi. Nhẫn nhục biểu hiện sức mạnh của ý chí, sự vững chắc của nội tâm, đó cũng là đức tính của một sa môn. Kinh văn dạy: "Thực hành đức nhẫn mới được mệnh danh là bậc thượng nhân có sức mạnh". Kinh Tăng Chi khi nói đến sức mạnh có 8 loại:
1) sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc
2) sức mạnh của đàn bà là phẫn nộ
3) sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí
4) sức mạnh của vua chúa là quyền uy
5) sức mạnh của kẻ ngu si là áp đảo
6) sức mạnh của bật hiền trí là cảm hóa
7) sức mạnh của ngưòi đa văn là thẩm sát
8) sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục
Sự nóng giận bao giờ cũng đưa đến tai hại cho thân vật lý, tâm lý, tình cảm và hại cho xã hội. Một xã hội mà con người không được giáo dục và rèn luyện tính nhẫn nhục, sức tự chủ yếu dễ dần đến phạm tội, người ta có thể giết nhau, hãm hại nhau, phản bội nhau vì những lý do rất nhỏ bé, như một lời nói xúc phạm chẳng hạn. Tu tập hạnh nhẫn nhục không những chỉ kiềm chế giữ gìn tâm thức không cho khởi lên sân hận khi bị người chỉ trích hay chửi mắng mà còn tu tập tâm bất động khi người ta làm tổn thương đến thân thể của mình. Đó không phải là điều dễ làm vì vậy mà nói nhẫn nhục là sức mạnh.
Tâm sân hận rất nguy hiểm, nó có sức mạnh tàn phá tất cả mọi thiện pháp, nó vượt qua mọi giới hạn như khi lòng sân khởi lên con có thể giết cha, trò có thể hại thầy, vì vậy mà kinh văn đã nói: "giặc cướp công đức không gì hơn giận dữ". Và cổ đức cũng đã nói: "một niệm sân khởi lên là trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở. Vì vậy mà công hạnh tu tập nhẫn nhục được coi là đệ nhất đối với các công hạnh khác, vào chùa đầu tiên là phải biết tu tập kham nhẫn đối với hoàn cảnh vật chất và tình cảm thiếu thốn, rồi phải kham nhẫn đối với những răn đe, chỉ trích oan uổng...dần dần người xuất gia trở nên vững vàng để tiến xa hơn, cho nên giới kinh dạy
"Đức tính nhẫn nhục là đạo bậc nhất
Phật nói vô vi là pháp tối thượng
Là người xuất gia mà bức não người
Thì không được gọi là bậc sa môn" -- (Tỳ kheo giới, Trí Quang dịch)
Để giữ gìn tâm niệm khỏi bị quấy động và ô nhiễm cũng như giữ gìn phong cách của một người xuất gia, khá nhiều điều giới được đặt ra để đối phó với tâm sân hận thiếu sự tự chủ kiềm chế. Trong tỳ kheo giới, 13 giới tăng tàng có 2 giới là thứ 8 và thứ 9 vì giận mà vu khống và phỉ báng, vì giận mà xuyên tạc phỉ báng. 90 giới Ba dật đề có 8 giới như điều thứ 2 chửi mắng các thành phần xã hội, giới 13 ghét mắng tri sự, giới 17 vì giận giữ lôi tỳ kheo khác ra khỏi phòng, giới 78, 79 vì giận giữ mà đánh và tát người khác, giới 80 vì giận mà vu khống. Trong 100 pháp chúng học cũng nêu lên hàng loạt ngăn ngừa tương tự.
Như vâïy tu tập nhẫn nhục vẫn nằm trong phần giới, theo tôi thuộc về đạo lộ tu tập tuần tự thứ 4 là chú tâm cảnh giác.
Tu tập hạnh nhẫn nhục như kinh văn dạy là hoàn hảo mà thuật ngữ trong lục độ gọi là nhẫn nhục Ba la mật. Chúng ta không chỉ không giận tức người chửi mắng hãm hại mình mà còn phải tu tập để đạt được trình độ hoàn hảo hơn là tiếp nhận sự chỉ trích chửi mắng của người khác một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ: "kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ kẻ ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí" (Kinh Di Giáo).
Sự tu tập hay công phu tu hành nhiều hay ít, cao hay thấp của người xuất gia và những người tu tập theo con đường của đạo Phật được đánh giá qua trình độ kham nhẫn này. Nhẫn nhục là đức hạnh tiêu biểu của người xuât gia, nếu không có hạnh nhẫn nhục, phẩm hạnh của người xuất gia không gọi là vẹn toàn, như lời kinh kết thúc phần nhẫn nhục như sau:
"Người thế gian hưởng thụ dục lạc, không phải là kẻ hành đạo, không có phương pháp để tự kiềm chế, nên họ giận dữ thì còn có thể tha thứ được. Người xuất gia hành đạo là kẻ loại bỏ dục vọng vậy mà giận dữ thì thật không đáng có, không khác gì giữa bầu trời mây trong mát mà sấm sét lóe lửa là điều không thích hợp".
Lời dạy thiết tha và chí lý vô cùng!
IX. Đoạn Trừ Tâm Lý Kiêu Ngạo và Dua Nịnh
Từ "Các thầy tỳ kheo hãy tự xoa đầu lấy chất trực làm căn bản": Đoạn kinh này về tu tập đoạn trừ tâm lý kiêu ngạo và dua nịnh. Đây là những loại tâm lý làm ô nhiễm tâm và chướng ngại cho lộ trình tu tập:
1. Tâm kiêu ngạo: là tâm lý phiền não phụ thuộc của tâm lý mạn, là tâm lý thường tình của con người. Đối với người xuất gia, nó là một chướng ngại lớn. Kinh văn dạy: "các thầy tỳ kheo, hãy tự xoa đầu mình, đã bỏ sự trang sức và đồ tốt đẹp, mình mặc áo hoại sắc, tay cầm đồ thích ứng, khất thực để sống, tự thấy như vậy mà kiêu ngạo còn nổi lên thì phải cấp tốc tỏa chiết". Người đời thường có tâm lý kiêu ngạo khi họ giàu có về vật chất, hoặc họ có địa vị cao trong xã hội, hoặc họ là người có nhan sắc đẹp đẽ. Trong khi đó người xuất gia từ bỏ tất cả tiền tài, danh vọng, sắc đẹp...đáng lẽ ra không có gì để kiêu ngạo. Kinh dạy "tự xoa đầu mình" là để ý thức điều đó, là người đã buông xả những gì thuộc về thế tục, mặc áo hoại sắc, xin thực phẩm mà sống, mà tu có gì đáng kiêu ngạo đâu ?! Tuy nhiên thực tế nhiều người xuất gia cũng có điều kiện để kiêu ngạo:
a) Người xuất gia nhờ phước báu được quần chúng ái mộ nên cúng dường vật chất đầy đủ, ăn mặc, phương tiện đi lại, nhà ở...nên ỷ lại vật chất mà sinh kiêu ngạo.
b) Người xuất gia vì được quần chúng tôn kính coi là bậc đạo sư, là Tăng bảo nên họ luôn luôn cung kính nghe lời, nên sinh tâm kiêu ngạo.
c) Người xuất gia có học, có trí thức có bằng cấp cao viết sách hay, thuyết pháp giỏi, chức vị lớn trong giáo hội, được nổi tiếng...nên sinh tâm kiêu ngạo.
d) Người xuất gia có tu tập, có chút sở đắc, có chút ít công phu sinh khen mình chê người mà kiêu ngạo.
Nếu không cảnh giác chú tâm ngăn ngừa tâm bất thiện khởi lên thì đôi khi chỉ một lý do nhỏ nhặt cũng dễ khởi tâm kiêu ngạo (chẳng hạn đẹp trai một chút ). Người tu hành đã dựa vào một thế lực nào đó; tiền tài, danh vọng, tài năng...thì sẽ vướng vào kiêu ngạo. Có người sự kiêu ngạo bộc lộ một cách rõ rệt, có người thì kiêu ngạo hoạt động thầm kín hơn, tất cả đều đem đến ô nhiễm tâm và chướng ngại con đường giải thoát. Kinh Pháp Cú đức Phật dạy:
"Việc đáng làm không làm
Không đáng làm lại làm
Người ngạo mạn phóng dật
Lậu hoặc ắt tăng trưởng (PC kệ 292)
Phải chú tâm cảmh giác chế ngự tâm kiêu ngạo đường đạo mới khai thông, ngược lại tâm kiêu ngạo là khiêm tốn, đó là tâm người tu hành. Người đời họ có đủ các điều kiện để kiêu ngạo, nếu họ giữ tâm kiêu ngạo thì sự nghiệp của họ không thể lâu bền, phải biết khiêm tốn thì mới tồn tại lâu dài. Huống gì người xuất gia với mục đích giải thoát, về mặt thế tục đã xả bỏ không có vật gì đáng kể, về mặt tâm linh phải vượt thoát phiền não, mà mang nặng tâm kiêu ngạo thì thật không đáng.
2. Tâm dua nịnh: là tâm lý phiền não phụ thuộc của tham và si, là loại tâm lý ô nhiễm làm tâm hồn xu hướng thế tục. Tâm dua nịnh, một khía cạnh nào đó thì đi đôi với tâm kiêu ngạo, người kiêu ngạo với kẻ ngang hay dưới mình thì sẽ dua nịnh người trên mình, người hơn mình. Người có tâm dua nịnh thì nói hay làm chiều theo ý người khác, tâng bốc họ quá đáng để mưu cầu lợi lộc nào đó, với tâm dua nịnh họ không nói thật, nói thẳng mà nói quanh co xoa dịu bản ngã kẻ khác. Kinh văn Phật dạy: "tâm lý dua nịnh quanh co trái ngược đạo pháp, thế nên các thầy phải chất trực tâm mình. Phải ý thức dua nịnh quanh co chỉ để dối trá, mà người nhập đạo thì không thể như vậy." Dua nịnh khác với ca ngợi tán dương người khác, trong khi ca ngợi tán dương một sự thật ưu việt của ai đó thì dua nịnh là những lời tâng bốc láo tóet có mục đích mờ ám. Đó không phải là đức tính tốt của người xuất gia. Kinh Tăng Chi Đức Phật dạy:"Mục đích của đời sống phạm hạnh không phải vì lừa dối quần chúng, mơn trớn quần chúng, không vì mục đích lợi dưỡng, danh vọng, cung kính...mà vì mục đích chế ngự, đoạn tận, ly tham, đoạn diệt..."(Tăng chi I Tr. 377).
Để giữ cho tâm mình được thanh thoát, thẳng thắn phù hợp với đức tính giải thoát, và cũng để giữ gìn tư cách của một vị tỳ kheo thì phải như kinh dạy: "ngay thẳng tâm mình, lấy đức tính chất trực làm căn bản" và trong Trung Bộ kinh, định nghĩa về Tăng rằng: "Đệ tử của Thế Tôn đủ các đức tính diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh và chánh hạnh" (kinh Ví dụ tấm vải).
Tóm lại kiêu ngạo và dua nịnh là những tâm lý ô nhiễm đều có tác dụng làm cho tâm hoen ố, rối loạn, chướng ngại con đường giải thoát, không xứng đáng cho tư cách phẩm chất của một vị tỳ kheo.
X. Tu Tập Hạnh Ít Ham Muốn và Biết Vừa Đủ
Từ "Các thầy tỳ kheo, phải biết kẻ ham muốn nhiều... đó là hạnh biết vừa đủ": Đoạn này nói về tu tập hạnh ít ham muốn và biết vừa đủ, cả hai đức tính này có liên quan với nhau, cái này hỗ trợ cho cái kia.
Người xuất gia phải đoạn trừ nguyên nhân của đau khổ, nguyên nhân căn bản chính là tham sân si. Đó là những phiền não tùy miên rất khó nắm bắt mà đoạn diệt. Tuy nhiên những biểu hiện trên mặt tâm lý thì khá rõ, có thể hạn chế và đoạn trừ chúng , những ham muốn, những dục vọng luôn luôn khuấy động tâm tư, làm ô nhiễm tâm và chướng ngại sự tu tập. Vì vậy tu tập hạnh ít ham muốn và biết vừa đủ là để giảm dần tác dụng của tham tùy miên, sân tùy miên và si tùy miên.
1) Hạnh ít ham muốn
Kinh văn dạy: "các thầy tỳ kheo, phải biết kẻ ham muốn nhiều, thì nhiều sự cầu lợi nên khổ não cũng nhiều". Ham muốn nhiều tức là lòng tham tăng trưởng, ham muốn nhiều thì khổ não cũng nhiều, điều này rất thực tế. Đối tượng của ham muốn là 5 dục: sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon và xúc êm dịu. Đây là những đối tượng mong cầu của thế tục, những ham muốn lạc thúù luôn đi kèm với đau khổ.
Kinh Đại Khổ Uẩn Đức Phật dạy: đối với các dục phải biết rõ 3 khía cạnh của nó: vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly. Vị ngọt là dựa vào 5 dục sự khoái cảm, thích thú khởi lên, sự nguy hiểm là mặt trái của sự khoái cảm, thích thú ấy gồm có:
1. Muốn có 5 dục phải tìm kiếm, lao động vất vả phải đấu tranh với con người đồng loại và thiên nhiên, đôi khi bị bệnh hoạn, thương tật và chết chóc.
2. Vất vả như vậy mà không phải lúc nào cũng toại nguyện, có khi chỉ gánh lấy đau khổ mà không chút lợi lộc nào.
3. Nếu có tìm kiếm được đi nữa thì phải lo giữ gìn, nó trở thành đầu mối của tranh chấp, tranh đoạt giữa cha con, anh em, vợ chồng, tình cảm đạo lý tan tác.
4. Rồi bị trộm cắp, cướp giật, lường gạt, hãm hại...
Sự xuất ly là nhiếp phục được tham ái đối với các dục, là sự giải thoát khỏi sự trói buộc của các dục.
Có ai hưởng thụ 5 dục mà chỉ thuần sung sướng, không có đau khổ đâu?! Điều tất yếu là càng ham muốn nhiều càng khổ nhiều. Do vậy Phật dạy:
"Dục ái sinh sầu ưu
Dục ái sinh sợ hãi
Ai thoát khỏi ái dục
Không sầu đâu sợ hãi" (PC kệ 215)
Sự khổ của ham muốn là không bao giờ thỏa mãn càng có nhiều càng ham muốn nhiều, tục ngữ có nói:"lòng tham không đáy". Sự khao khát sẽ không cùng tận, sẽ dẫn dắt chúng ta đi vào hố thẳm khổ đau. Lòng ham muốn được kiềm chế, tâm hồn sẽ thanh thản và giải thoát. Khi con người bị nô lệ cho lạc thú giác quan thì các thiện pháp không thể tăng trưởng, những tiến bộ tâm linh sẽ bị dừng lại, tâm thức mờ tối, cho nên hộ trì các căn, chú tâm cảnh giác, là pháp tu tập để ngăn ngừa và đoạn trừ tâm lý ham muốn nhiều, kinh văn dạy: "Sự ít ham muốn cũng đã phải thực tập, huống chi sự ấy còn đem lại đủ các công đức".
Người tu tập hạnh ít ham muốn là đạt được sự bình an thanh thản, dễ dàng đạt được ly tham, đoạn diệt, Niết bàn như kinh dạy: "thực hành đức tính ít ham muốn thì lòng bình thản, không lo sợ, gặp cảnh ngộ nào cũng thấy thư thái, không bao giờ có cảm giác thiếu thốn, có ít ham muốn là có Niết bàn."
2) Hạnh biết vừa đủ:
Sự khác nhau giữa hạnh ít ham muốn và hạnh biết vừa đủ ở chỗ: "ít ham muốn là siêu thoát cái chưa phải của mình, biết vừa đủ là siêu thoát đối với cái đã là của mình" (Trí Quang, dịch giải kinh Di Giáo)
Kinh văn Phật dạy: "Các thầy tỳ kheo, muốn giải thoát khổ não thì các thầy hãy cứu xét sự biết vừa đủ, chính sự biết vừa đủ là giàu sang, vui thú và yên ổn". Thông thưòng nhu cầu con người có 2 loại: nhu cầu sinh tồn và nhu cầu hưởng thụ. Nhu cầu sinh tồn là những nhu cầu thiết yếu như ăn, mặc, ngủ nghỉ. Nhu cầu hưởng thụ làtìm kiếm lạc thú. Đối tượng của nhu cầu hưởng thụ là 5 dục lạc như đã nói ở phần ít ham muốn. Ơû đây đề cập đến nhu cầu sinh tồn mình cần phải biết vừa đủ.
Người xuất gia có nhu cầu thực phẩm, y áo, sàng tọa và dược phẩm để sống mà tu tập phạm hạnh, không phải để thỏa mãn dục vọng. Đối với các nhu cầu sinh tồn này nếu người xuất gia không chú tâm cảnh giác thì có khả năng biến thành nhu cầu hưởng thụ như muốn ăn nhiều, ăn ngon, muốn mặc sang, mặc đẹp...Tâm lý biết đủ là thỏa mãn với cái đang có không mong cầu gì hơn, cái khổ bao giờ cũng gắn liền với cảm giác không thỏa mãn, không vừa ý. Nếu ta thỏa mãn ta vừa ý thì hết khổ. Như kinh văn Phật dạy: "Biết vừa đủ thì nằm trên đất cũng thấy vui thích, không biết vừa đủ dù ở thiên đường cũng không vừa ý". Người không biết đủ thì có bao nhiêu cũng cho là thiếu nên kinh gọi là "tuy giàu mà nghèo". Ngược lại thì "tuy nghèo mà giàu", nghèo vì cảm giác thiếu thốn, giàu vì cảm giác thỏa mãn, vừa ý. Nguyễn Công Trứ, một nhà nho cũng nói: "biết đủ là đủ, đợi đủ bao giờ mới đủ".
Kinh Tăng Chi đức Phật dạy: "Này các tỳ kheo, người biết đủ với các loại (y phục, thực phẩm, sàng tọa, dược phẩm) ta tuyên bố rằng đây là một trong những phần của sa môn hạnh"(TC I Tr. 397).
"Này các tỳ kheo có 4 truyền thống là tỳ kheo biết đủ với bất cứ loại y nào, biết đủ với bất cứ đồ ăn khất thực nào, biết đủ với bất cứ loại sàng tọa nào, tỳ kheo ưa thích tu tập, ưa thích đoạn tận...đối với các nhu cầu y phục, thực phẩm, sàng tọa...nếu không có được thì không có lo âu tiếc nuối, nếu có được thì không tham đắm. Thấy sự nguy hiểm và với trí tuệ thấy sự xuất ly...đây gọi là tỳ kheo đứng trên thánh truyền thống kỳ cựu "được nhận biết là tối sơ" (TC I Tr. 380).
Ngày nay nhu cầu của người xuất gia không chỉ 4 thứ y phục, thực phẩm, sàng tọa và dược phẩm như xưa, có nhiều nhu cầu hiện đại hơn như nhà ở phương tiện đi lại máy móc phục vụ nhu cầu tri thức... nhưng vẫn trên cơ sở là nhu cầu thiết yếu và cần phải tu tập hạnh biết đủ, có không tham đắm, không có không lo âu tiếc nuối. Như vậy người xuất gia mới có thể giữ tâm an ổn, thanh thản và giải thoát, như đức Phật dạy trong kinh pháp cú:
"Không bệnh lợi tối thượng
Biết đủ tiền tối thượng
Thành kính đối với nhau là bà con tối thượng
Niết bàn lạc tối thượng" (PC. Kệ 204)
XI. Tu Tập Hạnh Viễn Ly
Từ "Các thầy tỳ kheo, muốn cầu yên tĩnh... đó là hạnh viễn ly": Đoạn này nói về tu tập hạnh viễn ly, nghĩa là xa lánh nơi ồn ào, náo động để chuyên tâm tu tập mới mong đạt được giải thoát. Kinh văn Đức Phật dạy: "muốn cầu yên tỉnh vô vi và an lạc, thì các thầy phải thoát ly mọi sự ồn ào và bối rối, ở đơn độc và ở một cách thư thái".
Đời sống của người xuất gia thoát ly thế tục rất cần sự yên tỉnh và ít công việc, dành thì giờ tu tập và quán chiếu tự tâm, thấu suốt bản chất cuộc sống. Vì vậy thường ở nơi núi non thanh vắng, gần gũi với thiên nhiên, cách ly xóm làng rất phù hợp với đời sống xuất gia.
Người xuất gia mà bị ngoại cảnh chi phối thì khó chú tâm tu tập, môi trường yên tĩnh của núi rừng, khung cảnh thanh vắng hổ trợ rất nhiều cho người chuyên tâm tu niệm, tuy nhiên nếu đồ chúng đông đảo thì cũng có những phiền não hệ lụy đến công việc, bởi sự sống chung và va chạm. Như vậy nơi yên tĩnh mà vẫn chưa yên ổn, vì vậy kinh văn dạy: "các thầy hãy thoát ly đồ chúng của mình và đồ chúng của người, ở đơn độc, thư thái và thanh vắng, dùng tư duy tu mà cắt đứt gốc rễ của đau khổ". Dùng tư duy hướng đến đoạn trừ phiền não thì phải có đời sống độc cư, hoặc dành nhiều thì giờ cho riêng mình để tư duy tu. Đồ chúng nhiều thì bị ảnh hưởng bởi cái vui cái buồn của đồ chúng không dễ gì mà không động tâm, như kinh dạy: "Nếu thích đồ chúng thì sẽ bị đồ chúng quấy phá như cây đại thọ mà cả bầy chim chóc tập hợp lại thì vẫn bị cái họa khô gãy".
Tu tập hạnh viễn ly, mới nhìn qua có vẻ như trốn đời tiêu cực, lo cho mình, thật ra, đối với một người xuất gia tâm lực, trí lực còn yếu thì phải lo tu tập để tăng trưởng đạo lực, nếu chưa đủ năng lực mà lo lăng xăng cứu độ chúng sinh hay hoạt động Phật sự, bề ngoài thì có vẻ tích cực nhưng nội dung thì rối loạn nhiều hơn. Chúng sinh đau khổ không phải vì thiếu các bậc đạo sư, mà vì quá nhiều đạo sư chưa đủ năng lực, khả năng tu tập còn kém, phiền não còn nhiều mà sống xô bồ, đồ chúng đông đảo, công việc bề bộn, không còn thì giờ để tu niệm nên phiền não tăng trưởng, mục đích của mình không đạt. Bề ngoài là một tỳ kheo mà bên trong thì trống rỗng hoang vu, không có chất liệu của một tỳ kheo. Để giải quyết việc tu song hành với hoạt động Phật sự, các thầy thời nay tổ chức nhập thất có thời hạn hay định kỳ để nuôi dưỡng đạo lực là một giải quyết tạm ổn. Giải quyết tận gốc rễ vẫn là bớt việc, dành nhiều thời gian sống viễn ly, tu tập thiền qúan, và chánh niệm trong công việc hằng ngày. Nếu người xuất gia tu tập mà không nếm được vị ngọt của chánh pháp thường được gọi là pháp vị hay pháp hỷ, pháp lạc thì chắc chắn sẽ thoái thất công đức. Kinh Pháp Cú Đức Phật dạy:
"Đã nếm vị độc cư
Được hưởng vị nhàn tịnh
Không sợ hãi không ác
Nếm được vị pháp hỷ" (PC. Kệ 205)
Có người thích đông đảo quần chúng, đông đảo đệ tử coi như đó là thành công trong sự nghiệp tu hành của mình. Đông đảo quần chúng và đệ tử cũng có 2 mặt lợi và hại, cái mặt lợi là tác dụng độ sinh của mình sẽ đem đến lợi ích cho nhiều người, nếu mình đủ đức độ và tài năng, mình có khả năng giải thoát tự tại trong lòng cuộc đơì, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn như hoa sen, hoặc như Phật dạy:
"Vui thay chúng ta sống
Không rộn giữa rộn ràng
Giữa những người rộn ràng
Ta sống không rộn ràng" (PC. Kệ 199)
Còn mặt tai hại thì như kinh văn đã nói: "Như cây đại thọ mà có bầy chim chóc tập hợp lại thì vẫn bị cái họa khô gãy". Có những hội chúng tốt đẹp giúp ta tu tập thẳng tiến, có những hội chúng kém cỏi làm cho ta thoái tâm Bồ đề. Đức Phật dạy: "Này các tỳ kheo, có những hội chúng nông nổi, hội chúng đấu tranh, hội chúng không thù thắng, hội chúng cặn bã...nhưng cũng có những hội chúng thâm sâu, hội chúng hòa hợp, hội chúng thù thắng và hội chúng tinh hoa" (TC I Tr. 84).
Sống độc cư cũng có mặt trái của nó, nếu thầy tỳ kheo không nhiệt tâm tinh cần tu tập đoạn trừ lậu hoặc, không sử dụng khả năng "tư duy tu" mà cắt đức gốc rể khổ đau thì sống độc cư là môi trường tốt cho sự sa đọa vì không ai kiểm soát, kiềm chế để thúc liểm thân tâm.
Trong thế giới hiện đại chúng ta không thể ẩn tu trong rừng sâu hoặc đóng cửa không liên hệ với thế giới bên ngoài. Điều cần thiết là viễn ly tâm lý ham thích quần chúng, ham thích đệ tử, phải biết rõ sự phiền toái và chướng ngại của đồ chúng đối với con đường tu tập, sống trong đồ chúng mà thoát ly đồ chúng, có vậy mới có thể thành đạt những gì cần thành đạt. Đức Phật dạy: "Này các tỳ kheo, tỳ kheo nào ưa thích hội chúng, ưa thích đồ chúng thì tỳ kheo ấy sẽ không hoan hỷ để sống một mình, sống viễn ly. Do vậy vị ấy không nắm giữ tướng của tâm, sẽ không làm viên mãn chánh kiến, không làm viên mãn chánh định, sẽ không từ bỏ các kiết sử và sẽ không chứng ngộ niết bàn". (TC II Tr. 408).
Tóm lại sống viễn ly và tu tập hạnh viễn ly là giới hạn sự tác động của hoàn cảnh làm bất lợi và chướng ngại cho sự tu tập đoạn trừ phiền não, lậu hoặc. Mục đích là để hỗ trợ cho công phu tu tập và để sớm hoàn thành chí nguyện xuất gia.
Tổng kết phần giới học đến đây là hoàn tất. Như vậy giới có 4 bước: thọ trì giới bổn, hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống và chú tâm cảnh giác. Tác dụng của giới như vậy là rất căn bản cho tu tập thiền định và phát triển trí tuệ. Phần thọ trì giới bổn là phần bề ngoài, tác dụng chủ yếu của giới là ngăn ngừa tội lỗi và nhiễm ô tâm thức, huấn luyện thân và tâm trở nên thuần thục, trong sạch, nhu nhuyến là phần cốt lõi của giới. Vậy trong giới đã có tiềm tàng định và tuệ. Đức Phật dạy: "Này các tỳ kheo, thực hành con đường không có lỗi lầm và để có căn bản thẳng tấn để đoạn diệt các lậu hoặc. Con đường đó là hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống, chú tâm cảnh giác" (TC I Tr. 125).
Kinh Di Giáo đã xây dựng phần giới phù hợp với truyền thống và phù hợp với lộ trình tu tập tuần tự của tâm lý và khách quan. Chúng ta sẽ nghiên cứu những bước tiếp theo để thấy rõ hơn mối liên hệ Giới, Định, Tuệ và mục tiêu giải thoát.