Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển thứ năm

15/05/201314:25(Xem: 9830)
Quyển thứ năm

Kinh Bát Nhã Ba La Mật Sao

Quyển thứ năm

Thích Nữ Tâm Thường

Nguồn: Thích Nữ Tâm Thường

Phẩm thứ mười: Thủ không

Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Thế nào là không? Không tham nơi hành động? Thế nào là thủ không tức là tam muội?

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Đại Bồ tát thực hành Trí độ, quán sắc không, quán thọ, tưởng, hành, thức không. Người quán như vậy là nhứt tâm. Như chỗ đã quán, đối với pháp cũng không thấy, ngay nơi pháp nhưng không chấp vào sự chứng đắc.

Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Phật đã dạy không dùng “không” để chấp vào sự chứng đắc. Vậy thế nào là Đại Bồ tát ngay nơi tam muội không dùng không để chấp vào sự chứng đắc?

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Đại Bồ tát này quán tất cả sắc có ra đều là không, cũng không chấp vào sự chứng đắc. Người quán như vậy là không chấp vào sự chứng đắc, không chấp vào sự chứng đắc tức là không tham. Vậy nên quán do không tham đó tức là quán. Khi muốn hướng đến việc này nhưng không chấp vào sự chứng đắc, không tham, lúc đó tâm không nghĩ đến nhơn duyên tam muội. Như vậy là nghĩ. Bấy giờ vì không mất pháp gốc của Bồ tát, không chứng đắc giữa đường. Vì sao? - Vì pháp công đức đã tạo rất thậm thâm. Ngay khi ấy không tham nên không chấp vào sự chứng đắc, do được thủ hộ từ Trí tuệ độ. Ví như có người hoặc mạnh mẽ bạo dạn có thể đẩy lui quân địch, là người đoan chánh khỏe mạnh, làm được tất cả mọi việc, biết tất cả sáu mươi bốn cách biến đổi của binh pháp, hiểu rõ tất cả năm sách lược về binh, được mọi người cung kính. Ngay nơi chỗ ở hay đi đến chỗ nào đều lợi ích cho tất cả. Từ chỗ sở đắc này lần lượt phân chia cho mọi người. Người có tâm như vậy được mọi người hoan hỷ. Nếu có những sự việc khác cùng cha mẹ, vợ con trải qua tai nạn rất nguy kịch, người đó liền trấn an cha mẹ, vợ con mình rằng: “Chớ có sợ hãi, khủng khiếp! Hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau ra khỏi nạn này”. Nếu ngay trong chỗ đó, quân lính oan gia đến, người này thông tuệ nên ngay khi đó đưa cha mẹ, vợ con mình trở về quê quán được hoàn toàn an ổn, không gặp điều chẳng lành, và đối với oan gia cũng không gây thương tổn. Vì sao? - Vì nhờ hiểu biết tất cả. Người này dõng mãnh biến hóa hơn oan gia, oan gia thấy người này rất sợ hãi và đều bỏ chạy. Cha mẹ vợ con người này được ra khỏi chỗ tai nạn, trở về quê quán của mình, tất cả đều rất hoan hỷ.

Như vậy, Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát đối với tất cả mọi người có lòng thương rất lớn. Bấy giờ Đại Bồ tát đem tâm từ ban bố cho tất cả mọi người vượt qua các bè đảng nhơ nhớp của ma, lại vượt lên trên địa vị Thanh văn, Bích Chi Phật đạo, Bồ tát an trú ổn định trong tam muội nhưng không có chỗ tận cùng. Nhờ Trí tuệ độ nên đối với “không” không tham.

Khi làm việc như vậy, Đại Bồ tát này là người thực hành tam muội không, hướng đến pháp môn giải thoát. Cũng không dùng hữu tướng, không dùng vô tướng, nên không chấp vào sự chứng đắc, giống như chim bay.

Tu Bồ Đề! Chim bay giữa hư không không hề chướng ngại. Đại Bồ tát này là người thực hành “không“, đạt đến “không”; hướng “vô tướng”, đạt đến “vô tướng”; hướng “vô nguyện”, đạt đến “vô nguyện”, không bị không, vô tướng, vô nguyện làm thối đọa nên sẽ được đầy đủ tất cả các pháp của chư Phật.

Tu Bồ Đề! Ví như người thợ bắn, bắn lên hư không, mũi tên này ở giữa hư không. Lại lấy mũi tên thứ hai bắn trúng mũi tên trước. Sau lại lấy mũi tên thứ ba bắn trúng mũi tên giữa. Cả ba mũi tên đều trúng nhau nhưng không rơi xuống đất. Người này muốn làm cho mũi tên trước rơi xuống thì cả ba mũi mới rơi. Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát thực hành Trí tuệ độ vì được phương tiện quyền xảo hộ trì, tự mình đối với cứu cánh không chấp vào sự chứng đắc giữa đường, công đức này thành tựu viên mãn, mong cho tất cả đạt được Vô thượng Chánh giác. Ngay nơi công đức đã thành tựu viên mãn, được thành Phật, có thể chứng đắc cứu cánh. Đại Bồ tát này là người thực hành Trí độ, là pháp ngay nơi pháp có sanh.

Tu Bồ Đề bạch Phật :

- Đại Bồ tát thật khổ nhọc học pháp học này nhưng không chấp vào sự chứng đắc giữa đường. Thật lành thay! Kính bạch Thiên Trung Thiên, từ hạnh gốc là an ổn tự mình đạt thành Phật.

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Đại Bồ tát muốn cứu giúp tất cả mọi người, đây là đạt đến cứu cánh luôn cứu giúp tất cả để được độ thoát, đây là thủ tam muội “không”, hướng đến môn giải thoát với tâm niệm phân biệt.

Những gì là phân biệt? - Thủ không tam muội là phân biệt. Vô tướng tam muội là phân biệt. Vô nguyện tam muội là phân biệt, nhưng không chấp vào sự chứng đắc giữa đường cho là cứu cánh. Vì sao? - Vì được sự thủ hộ của phương tiện quyền xảo. Khi mới phát tâm nghĩ muốn thủ hộ tất cả nên nhờ ý nghĩ này được nhập phương tiện quyền xảo, nên không chấp vào sự chứng đắc giữa đường.

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát nào thâm nhập vào chỗ giải thoát hoặc Không tam muội hướng đến thoát môn, Vô tướng tam muội hướng đến thoát môn, Vô nguyện tam muội hướng đến thoát môn, dựa vào đó mà phân biệt, người này đến nay đã trồng nhơn ấy rất lâu xa, thì biết rằng việc làm này làm cho bỏ nhơn đã gây. Đó là pháp Vô thượng Chánh giác đã thuyết. Đây là thủ Không tam muội hướng đến thoát môn, thủ Vô tướng tam muội hướng đến thoát môn, thủ Vô nguyện tam muội hướng đến thoát môn. Đây là vô nguyện tam muội hướng đến thoát môn, tâm người đó đã phát nhờ phương tiện quyền xảo, không chấp vào sự chứng đắc giữa đường làm cứu cánh. Đây là đối với lòng từ không tổn giảm. Đây là tam muội từ bi hỷ xả. Vì sao? - Vì nhờ phương tiện quyền xảo, Đại Bồ tát này được pháp làm lợi ích nên liền được nhiều trí tuệ, thành tựu khả năng biết hết tất cả.

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát nghĩ: “Người này từ lâu xa đến nay đã được pháp làm cho được lợi ích, đạt được trí tuệ, thành tựu khả năng hiểu biết hết tất cả.

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Đó là Đại Bồ tát nghĩ biết người từ xưa đến nay có tưởng có thức, nên cho rằng có ngã. Khi tu Vô thượng chánh giác, nhờ tất cả mọi người nên vì họ thuyết pháp, đó là làm cho họ tạo nên tam muội vô tướng, phát tâm nghĩ hướng đến thoát môn. Đây là phương tiện quyền xảo. Nhờ đây nên không chấp vào sự chứng đắc giữa đường làm cứu cánh. Đây là đối với lòng từ không tổn giảm. Đây là tam muội từ bi hỷ xả. Đây là Đại Bồ tát được pháp làm lợi ích, đạt được sự hiểu biết, thành tựu khả năng hiểu biết hết tất cả.

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát này nghĩ: “Con người từ lâu xa đến nay tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng không, tưởng hiện tại, Bồ tát nghĩ: khi ta đạt được Vô thượng Chánh giác là nhờ tất cả mọi người nên ta vì họ thuyết pháp. Vô thường là từ lạc, không là từ hữu, vô ngã là từ ngã”. Nhờ nghĩ như vậy nên đắc phương tiện quyền xảo. Đây là hành Trí độ, biết Phật không tam muội mà ngồi tam muội, chỉ muốn đầy đủ các pháp của chư Phật. Đó là vô nguyện hướng đến thoát môn, nhưng không chấp vào sự chứng đắc.

Đại Bồ tát nên biết như vậy. Làm như thế nào để biết? Dựa vào đâu để phát tâm Vô thượng Chánh giác. Người đã phát tâm là người từ lâu xa đến nay chỗ làm của người đó là không làm. Có hành tưởng mà không hành tưởng. Có mong cầu hành tưởngmà không hành tưởng. Có hành tưởng tụ mà không hành tưởng tụ. Cóhành hữu mà không hành sở hữu. Tuy rằng có làm việc bấât chánh nhưng không có ý nghĩ bất chánh. Làm cho tất cả mọi người đều được “không”. Đại Bồ tát này khi nghĩ như vậy là do sáng suốt đối với tất cả mọi người. Khi nghĩ như vậy là phương tiện quyền xảo, đó là vi diệu thậm thâm để thấy được pháp ấy. Vậy nên đó tức là “không”, tức là vô tướng, vô nguyện. Đó là vô sanh tử, tức là vô sở sanh, là vô sở hữu. Vậy nên Tu Bồ Đề là Đại Bồ tát có pháp Trí tuệ, là “vô sở sanh”. Người này ở trong ba cõi nhưng có những người không biết, đến hỏi: “Đại Bồ tát này muốn thành tựu Vô thượng Chánh giác, do đó nên muốn biết pháp này. Sẽ làm thế nào để phát tâm trân bảo? “. Đối với Đại Bồ tát không lấy “không” để chấp vào sự chứng đắc, cũng không lấy vô tướng, vô nguyện, vô sanh tử, vô sở sanh, cũng không dùng vô niệm chứng đắc. Đó là niệm Trí độ.

Vậy nên, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát đã được thọ ký, sự suy nghĩ như không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh tử, vô sở sanh. Nghĩ như không có, nó vốn là không. Người không phát thiện tâm không thể biết được việc này. Người có thể hiểu đó là Đại Bồ tát, là người từ nơi Phật quá khứ được nghe việc Vô thượng Chánh giác, tâm người đó do không thay đổi. Vì sao? - Vì lại co đại Bồ tát nghĩ đến pháp nhưng không thể sáng suốt. Có người hỏi cũng không thể giải thích cho họ biết. Đây là người chưa ở địa vị Bồ tát đạo, người không ở cảnh giới ấy thì chưa đạt được Bất thối.

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Nếu không nghe Trí độ dạy, có người nghe hoặc không nghe, có thể giải thích về Trí tuệ này, đại Bồ tát này là Bất thối.

Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Bồ tát như đây rất nhiều, kính bạch Thiên Trung Thiên. Ít người có thể hiểu được.

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Ít có Bồ tát ở địa vị Trí tuệ Bất thối hiểu được, mà người được thọ ký mới có thể hiểu được. Đại Bồ tát này có công đức rất lớn, không phải là chư thiên, nhơn, A tu luân ở thế gian hiểu biết được.

Phẩm thứ mười một: Viễn ly

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Thật ra đại Bồ tát trong giấc mộng không nhập vào địa vị Thanh văn, Bích Chi Phật đạo. Đối với ba cõi không nghĩ đến việc mong cầu, cũng không ở trong đó tìm tòi. Thấy các pháp như mộng, không ở trong đó chấp vào sự chứng đắc. Vậy nên, này Tu Bồ Đề! Nên biết đó là tướng Bất thối của đại Bồ tát.

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát trong giấc mộng cùng vô số trăm ngàn ức đệ tử cùng nhóm họp ngồi một chỗ thuyết pháp cho các Tỳ kheo Tăng, như Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh giác thuyết pháp. Vậy nên Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát Bất thối sẽ biết đây là tướng bất thối.

Lại nữa Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát trong giấc mộng thấy bay lên ngồi ở giữa hư không thuyết pháp cho các Tỳ kheo Tăng, tự nơi mình thấy có hào quang bảy thước, biến hóa tự tại. Những việc Bồ tát làm ở chỗ khác giống như pháp Phật đã thuyết. Người này trong giấc mộng thấy như vậy nên biết đó là tướng bất thối của Đại Bồ tát.

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát trong giấc mộng không sợ hãi, không tai nạn khủng bố, hoặc thấy ở chỗ quận huyện binh lính nổi lên lần lượt chém giết nhau, hoặc là lửa cháy bùng lên, hoặc thấy sư tử, hổ lang và các loài thú khác, hoặc thấy chặt đầu người và các việc tai biến khác đau khổ kịch liệt, rất khốn đốn, hoặc là đói khát... Thấy những ách nạn như vậy, trong tâm không sợ hãi, khủng khiếp, giao động. Những gì thấy trong giấc mộng ban đêm, thức dậy, ngồi ngay thẳng nghĩ: “Những gì có ra trên thế gian đều giống như trong giấc mộng. Khi ta thành Phật thuyết pháp để chỉ dạy cho khắp tất cả, nên biết đây là tướng bất thối của đại Bồ tát”.

Lại nữa Tu Bồ Đề! Làm sao để biết được đại Bồ tát này sẽ đắc Vô thượng Chánh giác? - Khi thành bậc Chánh giác, trong cảnh giới của các Ngài không có tất cả những việc xấu. Chính đó là đại Bồ tát.

Tu Bồ Đề! Trong giấc mộng, nếu thấy chúng sanh ăn nuốt lẫn nhau, nhơn dân bệnh tật, người đó luôn luôn nghĩ: “Nguyện khi ta thành Phật làm cho trong cảnh giới của ta không có tất cả những việc xấu”. Nhờ đây nên biết đó là tướng thanh tịnh, nên biết đó là tướng của Đại Bồ tát Bất thối.

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát ngay trong giấc mộng biết được hoặc thấy tai nạn bị lửa đốt cháy, liền nghĩ: “ Những điều đã thấy trong giấc mộng, tâm ta không thay đổi”. Người có đầy đủ tướng như vậy, biết đây là Đại Bồ tát Bất thối. Nếu đại Bồ tát nghĩ: “Như ta suy nghĩ việc cần phải làm nên làm, đúng như đã nói không thay đổi. Nay thành quách này bị lửa đốt cháy, ta sẽ làm cho dập tắt hết”.

Phật dạy:

- Nếu lửa được dập tắt hết không còn, biết đây là đại Bồ tát đã được các đức Như Lai A-la-hán Đẳng chánh giác quá khứ thọ ký thành Vô thượng Chánh giác, biết đây là Bất thối. Làm cho lửa không tắt thì biết đây là chưa được thọ ký. Giả sử lửa đốt cháy một nhà đến một nhà, lại cháy lan qua một làng đến một làng. Như vậy, này Tu Bồ Đề nên biết, người ở nhà nào trong đời trước vì mắc tội đoạn pháp nên đưa đến như vậy, biết việc làm của bọn người này đều là do đời trước. Nghĩ xong, ngay hiện tại những ác đã tạo liền được trừ hết. Những tai nạn về đoạn pháp ở chỗ đó nhơn đây được dứt hết. Nhờ vậy, nên này Tu Bồ Đề! Biết đây là đại Bồ tát, tức Bất thối Vô thượng Bồ đề.

Lại nữa Tu Bồ Đề! Người với đầy đủ hành tướng như vậy, biết đó là Đại Bồ tát như Bất thối. Do đây nên nói: với hành tướng như vậy sẽ biết được người này.

Tu Bồ Đề! Hoặc khi nam tử, nữ nhơn bị quỷ thần đến chỗ ở hoặc là bắt, Bồ tát kia nghĩ: “Giả sử ta đã được Như Lai A-la-hán Đẳng chánh giác quá khứ thọ ký ta thành Vô thượng Bồ đề, thật khổ nhọc không khác, sẽ đắc Vô thượng Bồ đề. Người đối với ý nghĩ về Vô thượng Bồ đề đều thanh tịnh thì từ bỏ tâm La-hán, Bích Chi Phật. Giả sử đã bỏ tâm La-hán, Bích Chi Phật, chắc chắn sẽ thành Vô thượng Bồ đề. Không đắc, không thành, tự đạt đến bất thối. Nếu sẽ được thành Phật Vô thượng Chánh giác, vô lượng vô số cõi nước chư Phật hiện tại thấy tất cả, chứng tất cả. Nay Như Lai A-la-hán Đẳng chánh giác biết hết ý nghĩ của ta không khác. Ta thành Vô thượng Chánh giác, thành bậc Chánh giác, chắc chắn như lời ta nói, quỷ thần lập tức sẽ rút lui”, liền bảo rằng: “Thiện nam tử, thiện nữ nhơn bị quỷ thần nào bắt?”. Quỷ thần nghe lời nói liền rút lui. Khi nói lời như vậy, giả sử quỷ thần không rút lui thì Bồ tát này là người chưa được Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh giác quá khứ thọ ký, chưa trao Vô thượng Bồ đề. Nếu nói lời này, tà ma liền rút lui thì biết đây là Bồ tát đã được Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh giác quá khứ thọ ký, trao cho Vô thượng Bồ đề.

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Người này rất chí thành. Ác ma đi đến chỗ đại Bồ tát, nếu Bồ tát nói ta chí thành và đã được thọ ký thành Vô thượng Bồ đề rồi, ác ma quỷ thần sẽ bỏ đi. Ác ma do đây nên phát tâm tốt, giáo hóa làm cho ác ma quỷ thần đó lui hết. Vì sao? - Vì ác ma có oai thần rất lớn nên các quỷ thần không dám chống lại, đều tránh xa oai thần của ma. Nhờ đây nên trừ được tất cả. Nếu Bồ tát nào tự nghĩ đó là nhờ oai thần của ta nên sanh cống cao khinh dễ, tự cho mình biết đúng, do đây cống cao, chế diễu người khác, nhưng không tự xét mà nói với mọi người rằng: “Ta đã được các đức Như Lai A-la-hán Đẳng chánh giác quá khứ thọ ký, còn những người khác đều chưa được thọ ký thành Vô thượng Bồ đề”. Do đây nên cống cao, sân giận càng tăng, liền xa lìa Nhất thiết trí rất xa, mất trí tuệ Vô thượng Chánh giác, biết hạng Bồ tát này không có phương tiện quyền xảo mà tự cống cao, liền rơi vào địa vị Thanh văn, Bích Chi Phật đạo.

Những Bồ tát này, này Tu Bồ Đề, chưa thành cho là thành, không biết ma cho nên bỏ thầy tốt mà đi, không phụng thờ, không noi theo, do đây nên bị ma làm cho khốn đốn. Đại Bồ tát này sẽ biết rõ ma và lấy gì để biết? Ma đến trước Bồ tát biến hóa và mặc y phục khác, nói rằng: Đại Bồ tát nếu được Như Lai A-la-hán Đẳng chánh giác quá khứ thọ ký thành Vô thượng Bồ đề hoặc tên mình là..., tên mẹ là..., tên cha là..., tên anh chị em là..., bạn bè thân hữu tri thức tên là.... Hoặc anh của cha tên..., Tổ phụ bảy đời tên..., dòng họ ngoại của mẹ tên..., dòng họ ngoại của cha tên.... Hoặc sanh ra ở thành nào, sanh ở nước nào, ở quận gì? huyện gì? làng gì? Hoặc thường nói lời dịu dàng, hoặc nay nói lời như vậy đều là do đời trước đưa đến cũng lại nói lời dịu dàng. Hoặc gặp lúc người có tài thì cũng theo hình dáng đó mà nói. Hoặc đời trước cũng tài cao thông minh, thấy mình tự giữ gìn, hoặc thấy khất thực ngay bữa ăn hay lúc sắp đến bữa ăn, hoặc trước đó ăn trái cây, rau quả, không ăn cơm. Hoặc ở nơi gò mã, ở chỗ đồng không vắng vẻ, ở dưới gốc cây; khi nhận lời thọ thỉnh, lúc không nhận lời thọ thỉnh, tự biết đủ nơi vật thực có được lúc ở một chỗ. Không xoa thân bằng dầu mè, tiếng nói thanh tao và lưu loát. Vì lẽ gì ma lại bảo nhân duyên này do đức đời trước nên được như vậy? Người này lúc ở đời trước, con nhà nào? Hoặc dòng Sát đế lợi, tên là gì?. Đời trước có đức này nên được như vậy. Bồ tát kia nghĩ rằng ta cũng như vậy.

Ác ma lại nói:

- Nếu đã được các đức Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh giác quá khứ thọ ký Vô thượng Bồ đề, nhờ nhơn duyên công đức này nên được bất thối.

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Ta nói Đại Bồ tát Bất thối không như vậy. Đem sự việc này xét, như ta đã nói không được đầy đủ mà cho là đầy đủ. Nên biết hạng Bồ tát này hoàn toàn không thành tựu, bị ma phá hoại. Vì sao? - Vì thấy người có đầy đủ hành tướng như vậy, biết đó chẳng phải là Bồ tát Bất thối, chắc chắn không có ý này. Hạng Bồ tát này nghe ma mới nói đến tên nên rất vui mừng, tự cho mình biết đúng nên ngã mạn, cống cao, chê bai những người khác, khinh chê bạn đồng học và cho mình là đúng. Hạng Bồ tát này, này Tu Bồ Đề! Vì chấp nhận tên đó nên mất thệ nguyện của mình, liền rơi vào lưới ma.

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Vì chấp nhận tên nên Đại Bồ tát này không biết ma làm hại, lại nói đắc Vô thượng Bồ đề. Ma lại nói: “Ai sẽ trở thành Vô thượng Bồ đề thì khi thành Phật sẽ có tên đó”. Bồ tát này nghe tên này nghĩ: “Ta sẽ đắc không sai. Ta lúc trước cũng nghĩ như vậy”.

Phật dạy:

- Bồ tát này hiểu biết rất kém, không có phương tiện quyền xảo, lại nghĩ mong cầu danh hiệu, tự cho mình thành Vô thượng Bồ đề với danh hiệu như vậy.

Phật dạy:

- Như lời ma dạy và làm theo lời ma thì nay làm Tỳ kheo bị ma mê hoặc, tự nghĩ là ta đã đạt đến bổn nguyện của mình, nay được tên này, đúng như lời nói. Như Lai A-la-hán Đẳng chánh giác quá khứ đã thọ ký cho ta thành Vô thượng Bồ đề.

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Ta đã thuyết về Đại Bồ tát Bất thối, dựa vào những hình tướng đó mà không làm theo, ngược lại ỷ vào danh hiệu của mình, khinh chê các đại Bồ tát khác. Do sự khinh chê này nên lìa trí tuệ Nhứt thiết trí Vô thượng Bồ đề, xa phương tiện quyền xảo. Vì lìa Trí tuệ độ, lìa thầy tốt, gặp thầy xấu, nên Bồ tát này bị rơi vào hai đường là: Thanh văn hay Bích Chi Phật đạo. Từ rất lâu xa siêng năng khổ nhọc cho mãi về sau mới cầu thành Phật, nhờ ơn Trí tuệ độ sẽ đắc Vô thượng Bồ đề, thành bậc Chánh giác.

Phật dạy:

- Khi có ý chấp nhận danh hiệu không mau giác ngộ sửa đổi, như vậy sẽ rơi vào địa vị Thanh văn, Bích Chi Phật đạo.

Phật dạy:

- Tỳ kheo có bốn giới trọng. Người nào hủy phạm vào những việc đó, không còn là Sa môn, không còn là đệ tử Phật. Tội người phá hoại Bồ tát nặng hơn bốn giới trọng của Tỳ kheo.

Bồ tát nói: Tôi tên đó..., sanh ở nước đó..., nghĩ tội này nặng hơn bốn giới trọng, lại hơn tội ngũ nghịch. Đã bị tội nặng sao lại nhận danh hiệu? Vì lẽ không biết việc của ma rất là vi diệu.

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát có đức viễn ly thì ác ma lại đến trước nói: “Pháp viễn ly đúng là được Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh giác khen ngợi “.

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Ta không nói rằng dạy cho các Đại Bồ tát nên viễn ly, ở một mình nơi rừng cây vắng vẻ.

Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Thế nào, kính bạch Thiên Trung Thiên! Đại Bồ tát có viễn ly khác chăng?

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Giả sử Đại Bồ tát nghĩ sợ hãi thì đây là ý nghĩ của Thanh văn. Người còn ý nghĩ lo sợ là ý nghĩ của Bích Chi Phật. Người hành động gấp gáp thì đó là Đại Bồ tát tuy sống ở thành phố vẫn tu hạnh viễn ly bằng những hành động gấp gáp, đó là Đại Bồ tát bị chi phối bởi các pháp ác. Làm nhiều công việc gấp gáp như vậy thì đó là Đại Bồ tát thực hành gấp gáp. Hoặc ở riêng một mình dưới rừng cây vắng vẻ thì đó là Đại Bồ tát vẫn thực hành viễn ly. Vậy nên ta khuyến khích Đại Bồ tát tu hạnh viễn ly này và ngày đêm nên ghi nhớ. Đó là Bồ tát tu hạnh viễn ly.

Đại Bồ tát thực hành viễn ly tuy ở thành phố vẫn sợ hãi thì riêng ở dưới rừng cây cũng vẫn sợ hãi. Bồ tát nào riêng ở dưới rừng cây vắng vẻ thực hành sợ hãi mà Đại Bồ tát này nghĩ rằng ta đã biết rõ viễn ly. Bấy giờ ác ma đến dạy Bồ tát đó thực hành viễn ly rằng: “Nên ở một mình dưới rừng cây và thực hành như vậy”. Đó là Bồ tát theo lời chỉ dạy của ma, quên mất viễn ly.

Ma lại bảo:

- Đường bao gồm cả Thanh văn, Bích Chi Phật đạo đều suy nghĩ thế này: đừng làm khác đi, mà là đầy đủ Trí tuệ độ và nên thực hành như vậy.

Phật dạy:

- Pháp theo ý nghĩ của Đại Bồ tát này chẳng thanh tịnh, vậy mà còn làm theo và khinh chê các Bồ tát khác. Tự nghĩ ai có thể hơn ta. Khinh chê Bồ tát ở thành phố nhưng thanh tịnh và tâm không có ý nghĩ rơi vào pháp Thanh văn, Bích Chi Phật. Có tâm xấu không chấp nhận thiền duyệt tam muội và tam ma địa, chắc chắn đạt được sở nguyện và đầy đủ các độ.

Phật dạy:

- Hạng Bồ tát khinh chê như vậy là không có phương tiện quyền xảo. Giả như ở trong chốn đồng không vắng vẻ bốn ngàn dặm, chỗ cầm thú không đi đến, giặc cướp không đến, La sát không đến. Tuy ở trong chỗ đó một năm, trăm năm, ngàn năm, trăm ngàn năm, trăm ngàn vạn năm, trăm ngàn vạn ức năm, giả sử lại hơn số này mà cũng không biết viễn ly thì không ích lợi gì cả và cũng chẳng thành tựu được gì cả.

Còn đại Bồ tát viễn ly và cho rằng: “Ta đã đắc tất cả rồi, rõ tất cả rồi”. Ác ma liền bay lên giữa hư không nói: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử này là chơn thật viễn ly, đúng như Như Lai A-la-hán Đẳng chánh giác đã dạy và nên tùy thuận theo đó để viễn ly và như vậy thì mau đắc Vô thượng Chánh giác”. Đại Bồ tát này nghe như vậy, liền từ bỏ viễn ly, đi đến chỗ Bồ tát viễn ly ở thành phố. Nếu Tỳ kheo thành tựu về đạo nhưng cống cao, nói những lời khinh chê, nếu ra làm Phật sự sẽ vấp lỗi.

Phật dạy:

- Những người theo hành động vô thường thì đối với hành động đúng của Bồ tát cho là sai, và ngược lại, hành động sai lại cho là đúng. Người không đáng kính thì lại kính, còn người đáng kính thì lại không kính. Nói ta đã thực hành viễn ly, đo đó nên có phi nhơn đến nói với ta rằng: “Lành thay! Lành thay! Nếu hành đúng là viễn ly, nếu ở thành phố thực hành thì ai sẽ đến nói, ai sẽ đến báo cho vị ấy?”

Phật dạy:

- Bồ tát này là người có đức nhưng lại khinh họ. Như vậy, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát nên biết người này giống như người khiêng thây chết, không đúng một tí nào, lại nói Bồ Tát có lỗi, đây là oan gia của Bồ Tát, vì hiềm thù Bồ Tát nên họ là kẻ giặc lớn trên trời và trong nhân gian. Giả sử người này có mặc áo Sa môn cũng chỉ là kẻ giặc. Đối với hạng Bồ Tát có đức, hạng người này cũng là kẻ giặc. Bọn này, này Tu Bồ Đề! Không nên cùng cộng tác với họ, không nên cùng chuyện trò, cũng không nên cung kính, gần gũi họ. Vì sao? - Nên biết bọn người này nhiều sân giận nổi lên làm bại hoại tâm tốt của người.

Tu Bồ Đề! Bồ tát như thế nào là không bỏ Nhứt thiết trí? Người không bỏ Vô thượng Bồ đề là Bồ tát không bỏ Nhứt thiết trí. Thế nên Vô thượng Bồ đề làm chỗ nương tựa cho tất cả mọi người. Hạng Bồ tát này không nên cùng với bọn người phá hoại kia cùng làm việc, không nên cung kính họ, không nên cùng hội họp với họ để hộ pháp, chỉ biết giữ gìn về chánh niệm của mình, thường sợ hãi những nơi sanh tử khổ nên không chịu vào trong đó, không qua lại với ba cõi. Người phá hoại Bồ tát như vậy ở chỗ nào thường nên từ tâm thương xót giúp đỡ họ, tự nghĩ làm cho ta không được sanh. Tâm xấu ác như vậy thật đáng thương xót. Giả sử có điều không tốt, mau làm cho ta xả bỏ chúng, nên học tập như vậy. Vậy nên, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát là người hiểu biết trên hết.

Phẩm thứ mười hai: Thiện tri thức

Lại nữa, Tu Bồ Đề! Các Đại Bồ tát này muốn đắc Vô thượng Bồ đề nên gần gũi thầy tốt, cung kính vâng theo lời chỉ dạy và cùng làm việc.

Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Kính bạch Thiên Trung Thiên! thầy tốt của Bồ tát ở chỗ nào và làm sao để biết?

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Thiên Trung Thiên là thầy tốt của Bồ tát. Có thuyết giảng Trí độ, theo đó được nghe Trí độ, đây là vượt qua. Dạy người thâm nhập vào trong đó, nên biết như vậy là thầy tốt của Bồ tát. Lục ba la mật là Thắng trí thiện xảo, là đường đi, là trừ tối tăm, là nhà cao tột, là sáng suốt. Như Lai A-la-hán Đẳng chánh giác quá khứ đều từ Lục ba la mật mà ra. Các đức Như Lai A-la-hán Đẳng chánh giác vị lai đều từ Lục ba la mật mà ra, và các đức Như Lai A-la-hán Đẳng chánh giác trong vô lượng vô số các cõi nước hiện tại cũng đều từ Lục ba la mật mà ra, mà thành Nhứt thiết trí, đều từ sự bố thí tứ sự cho người:

1- Bố thí

2- Hoan hỷ

3- Lợi ích

4- Bình đẳng giúp cho tất cả.

Vậy nên, này Tu Bồ Đề! Thắng trí thiện xảo của Bồ tát là mẹ, là cha, là nhà, là nhà cao tột, là hộ trì, là nương tựa, là dẫn đường, đều là Lục ba la mật, là lợi ích cho tất cả mọi người. Đại Bồ tát Lục ba la mật là không giới hạn, muốn cắt đứt sự nghi ngờ của người, do vậy nên phải học Trí độ.

Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Kính bạch Thiên Trung Thiên! Tướng của Trí độ ở chỗ nào?

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Không ngăn ngại là tướng của Trí độ.

Tu Bồ Đề thưa:

- Như Thiên Trung Thiên đã dạy: đây là thật tướng của Trí độ, tướng như vậy là đắc các pháp.

Phật dạy:

- Đúng như vậy Tu Bồ Đề! Tướng như vậy là đắc Trí tuệ độ, tướng như vậy là đắc các pháp. Vì sao? - Này Tu Bồ Đề ! Vì các pháp đều vô thường, các pháp đều là Không.

Do vậy, nên này Tu Bồ Đề! Vô thường cùng không là tướng Trí độ. Tướng các pháp cũng vô thường, là không, là vô thường.

Tu Bồ Đề thưa:

- Thiên Trung Thiên thuyết các pháp đều vô thường, là không. Vì sao như thế? Con người muốn có sanh mà không muốn có chết, sự vô thường nên không có dục, vô thường nên không sanh. Không là không dục, không là không sanh. Vô thường cũng nói không, không phải Vô thượng Bồ đề, cũng không từ nơi pháp khác. Vô thường không đắc Vô thượng Bồ đề. Thế nào, kính bạch Thiên Trung Thiên! Có thể biết được điều Ngài đã dạy.

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Từ xa xưa người ta nghĩ rằng: là ngã sở hay chẳng phải ngã sở. Do như vậy nên đưa đến như vậy.

Tu Bồ Đề thưa:

- Đúng như vậy! Kính bạch Thiên Trung Thiên! Ngài đã dạy chính từ xa xưa con người nghĩ rằng là ngã sở hay chẳng phải là ngã sở.

Phật dạy:

- Thế nào Tu Bồ Đề! Là ngã sở hay là không phải?

Tu Bồ Đề thưa:

- Đúng là không. Kính bạch Thiên Trung Thiên.

Phật dạy:

- Thế nào Tu Bồ Đề! Chẳng phải ngã sở là không phải không?

Tu Bồ Đề thưa:

- Đúng là không, kính bạch Thiên Trung Thiên.

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Con người do đây nên nghĩ là ngã sở hay không là ngã sở. Do đây nên ở mãi trong sanh tử không lúc nào ra khỏi.

Tu Bồ Đề thưa:

- Đúng như vậy, kính bạch Thiên Trung Thiên. Con người do đây nên ở mãi trong sanh tử không lúc nào ra khỏi.

Phật dạy:

- Vậy nên này Tu Bồ Đề! Con người do dục nên chấp trước vào con người, nên biết như vậy, không có mong cầu nên không chấp trước. Thật ra, này Tu Bồ Đề! Có lợi ích thì không nên nghĩ đó là ngã sở hay không phải là ngã sở. Như vậy là thực hành Trí tuệ độ.

Do đó, này Tu Bồ Đề! Điều đã sanh sau đó không sanh nữa. Đại Bồ tát này là người thực hành Trí tuệ độ.

Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Kính bạch Thiên Trung Thiên! Người thực hành như vậy là không hành sắc, không hành thọ tưởng hành thức. Người thực hành như vậy, kính bạch Thiên Trung Thiên, đại Bồ tát nghĩ là thực hành theo thế tục, đó là Đại Bồ tát hành.

Kính bạch Thiên Trung Thiên, không sánh bằng. Việc vị ấy làm vượt qua rất xa. Thanh văn, Bích Chi Phật và tất cả mọi người không sánh bằng chỗ sở đắc của vị ấy. Đó là chỗ cùng tột của đại Bồ tát.

Kính bạch Thiên Trung Thiên! Người nghĩ như vậy là Trí độ. Đại Bồ tát ngày đêm thực hành như vậy, như chỗ đã thực hành mau được gần Vô thượng Chánh giác.

Phật dạy:

- Thế nào, Tu Bồ Đề! Người trong Diêm Phù Lợi và tất cả Bồ tát đều làm người, đều thực hành Vô thượng Bồ đề, phát tâm cầu thành Phật. Mỗi người trọn đời làm việc bố thí, đem việc bố thí này hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? Đại Bồ tát này làm việc bố thí như vậy, phước đó có nhiều không?

Tu Bồ Đề thưa:

- Rất nhiều! Rất nhiều! Kính bạch Thiên Trung Thiên.

Phật dạy:

- Không bằng Đại Bồ tát chuyên nghĩ đến Trí tuệ độ và thực hành trong một ngày, phước của người này nhiều hơn phước của người trên kia. Hoặc Bồ tát luôn nghĩ đến Trí tuệ độ, thực hành theo đó. Người như vậy là người rất tôn quý trong chúng. Vì sao? - Vì người khác không có lòng từ này. Trừ chư Phật, không có đại Bồ tát hữu học nào bằng, chỗ thâm nhập của thiện nam tử này rất là thậm thâm, hiểu rõ tất cả tri kiến ở thế gian. Người này rất thương xót, nhìn thấy thấu suốt tất cả mọi người không phân biệt. Muốn thấy tất cả, không khi nào bỏ qua. Nghĩ đến tất cả mọi người nhưng không phát khởi tưởng, cũng không khác.

Do đó, này Tu Bồ Đề! Đó là sáng suốt của Đại Bồ tát. Tuy chưa thành Vô thượng Chánh giác nhưng người này đã làm việc làm rất tôn quý, vượt lên trên thế gian, đối với Vô thượng Chánh giác chắc chắn không còn thối lui. Nhận đầy đủ tất cả y phục, ẩm thực, giường nằm, thuốc thang, tuy thế nhưng vẫn trụ vào Trí tuệ độ, vẫn thanh tịnh, nhờ phước đức đã tạo làm cho được gần Nhứt thiết trí.

Vậy nên, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát có ăn uống cũng không có lỗi, vì muốn làm lợi ích cho tất cả mọi người, muốn chỉ dạy đạo pháp cho tất cả mọi người. Người đó có sự sáng suốt, muốn làm việc cứu hộ rộng lớn không bờ bến, muốn độ thoát hết những người trong lao ngục, muốn làm cho mắt của tất cả mọi người đều thanh tịnh. Đó là ý niệm theo Trí tuệ độ. Người thực hành theo lời chỉ dạy nghĩ đến Trí tuệ độ, có như vậy tức là không thay đổi. Vì sao? - Vì người thay đổi nghĩ rằng có “tưởng”, liền trái với Trí tuệ độ. Như vậy là trái với sự hộ trì, nên làm như Trí tuệ độ, ngày đêm thực hành và nghĩ đến.

Tu Bồ Đề! Ví như có kẻ nam tử ngọc ma-ni để ngay trước mặt nhưng không biết, sau nhận được vui mừng hớn hở. Nhưng khi được ngọc ma-ni rồi lại quên ngọc, quên dùng, nên lại rất lo buồn sầu khổ, đứng ngồi không yên nhưng không hiểu.

Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát muốn cầu trân bảo luôn luôn giữ tâm vững chãi, không được làm mất niệm Nhứt thiết trí.

Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Tất cả việc nghĩ đều là lìa tự nhiên. Thế nào là Đại Bồ tát niệm Nhứt thiết trí không lìa niệm?

Phật bảo Tu Bồ Đề :

- Giả sử Đại Bồ tát biết như vậy là không mất Trí độ. Vì sao? - Này Tu Bồ Đề! Vì Trí độ là không, không tăng không giảm.

Tu Bồ Đề thưa:

- Trí độ, kính bạch Thiên Trung Thiên! Chính thật là không, vì sao Đại Bồ tát đối với Trí tuệ độ thành tựu hạnh được gần Vô thượng Chánh giác?

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Đại Bồ tát cũng không tăng, cũng không giảm, khi thuyết thì không sợ hãi, nên biết thiện nam tử này là người đã thực hành Trí tuệ độ.

Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Kính bạch Thế tôn! Hành Trí tuệ độ là hành không phải không?

Đáp:

- Này Tu Bồ Đề! Không phải vậy.

- Kính bạch Thế tôn! Hay có không nào khác để hành Trí tuệ độ?

- Này Tu Bồ Đề! Không phải.

- Đây là sắc hành?

- Tu Bồ Đề! Không phải.

- Đây là thọ - tưởng - hành - thức hành?

- Tu Bồ Đề! Không phải.

- Hay có hành theo sắc khác?

- Tu Bồ Đề! Không phải.

- Hay có hành theo thọ, tưởng hành, thức hành khác?

- Tu Bồ Đề! Không phải.

- Vì sao, kính bạch Thiên Trung Thiên, gọi là Đại Bồ tát hành Trí tuệ độ?

Phật dạy:

- Thế nào, Tu Bồ Đề! Vì thấy có pháp thực hành pháp Trí tuệ độ phải không?

Tu Bồ Đề thưa:

- Không thấy, kính bạch Thiên Trung Thiên!

Phật dạy:

- Thế nào, Tu Bồ Đề! Đại Bồ tát có thấy mình luôn thực hành Trí tuệ độ không?

Tu Bồ Đề thưa:

- Không thấy, kính bạch Thiên Trung Thiên!

Phật dạy:

- Thế nào Tu Bồ Đề! Có thể thấy có chỗ sanh ra pháp không?

Tu Bồ Đề thưa:

- Thưa không thấy, kính bạch Thiên Trung Thiên.

Phật bảo Tu Bồ Đề :

- Đó là Vô sanh pháp nhẫn của Đại Bồ tát. Người như vậy là được thọ ký Vô thượng Chánh giác, được Vô sở úy của Như Lai A-la-hán Đẳng Chánh giác. Hành động của Đại Bồ tát đó là do lực này được đạt đến Trí tuệ Phật, là trí tuệ rộng lớn, là trí tuệ tự tại, là trí tuệ Nhứt thiết trí, là Trí tuệ Như Lai. Người ấy làm tất cả việc gì mình muốn.

Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Các pháp do thọ ký mà được Vô thượng chánh đẳng chánh giác phải không?

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Không phải.

Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Vậy thì vì lẽ gì Thiên Trung Thiên thọ ký cho Bồ tát đắc Vô thượng Chánh giác?

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Có thể thấy pháp trao thọ ký thành Vô thượng Chánh giác không?

Tu Bồ Đề thưa:

- Con không thấy có pháp sẽ tạo thành Vô thượng Chánh giác.

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Các pháp không thể đắc. Người nghĩ như vậy là thành tựu pháp Chánh giác. Người không nghĩ như vậy không tự đạt đến Chánh giác.

Phẩm thứ mười ba: Thích Đề Hoàn Nhơn

Thích Đề Hoàn Nhơn ngay trong chúng hội bạch Phật:

- Kính bạch Thiên Trung Thiên! Trítuệ độ thậm thâm, thậm thâm. Đó là việc Bồ tát khó hiểu rõ. Người có đức nghe Trí tuệ độ liền biên chép, học tập, thọ trì, phước của người đó không ít.

Phật bảo Câu Dực:

- Nếu người ở Diêm Phù Lợi đều thọ trì Thập thiện, công đức đó gấp trăm lần, ngàn lần, vạn lần, ức lần, cự ức lần. Nếu lại có người bố thí hơn đây cũng không bằng thiện nam tử, thiện nữ nhơn nghe Trí tuệ độ biên chép, học tập, thọ trì.

Trong đại hội có một Tỳ kheo bảo với Thích Đề Hoàn Nhơn:

- Đây là người đã vượt lên trên Câu Dực.

Thích Đề Hoàn Nhơn thưa với Tỳ kheo:

- Người biết hồi tâm nghĩ đúng là đã hơn ta, huống là nghe Trí tuệ độ rồi biên chép, học tập, thọ trì, nghe theo, thực hành theo như trong đó đã dạy, sẽ vượt lên trên tất cả chư Thiên, A tu luân và người đời. Nếu Đại Bồ tát thực hành Trí tuệ độ không riêng gì vượt lên trên chư Thiên, A tu luân, người đời cho đến Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích Chi Phật, người đó cũng đều vượt qua. Nếu Đại Bồ tát nào thực hành Trí tuệ độ không riêng gì vượt lên trên Bích Chi Phật mà cũng vượt lên trên Bồ tát thực hành Bố thí Ba la mật không có phương tiện quyền xảo.

Đại Bồ tát thực hành Trí tuệ độ không riêng gì vượt qua Bố thí Ba la mật, mà cũng vượt qua thực hành Trì giới Ba la mật, Tinh tấn Ba la mật, Thiền định Ba la mật không phương tiện quyền xảo.

Đại Bồ tát nào đọc tụng thực hành Trí tuệ độ, chư Thiên, A tu luân, người đời, hoàn toàn không thể hơn.

Đại Bồ tát thực hành Trí tuệ độ vì đây rất là tôn quý.

Gần gũi Trí tuệ độ nên Đại Bồ tát này thực hành theo Nhứt thiết trí. Lời nói không bị gián đoạn. Đại Bồ tát này không lìa danh hiệu Như Lai. Đây là Đại Bồ tát không xa rời Phật. Đại Bồ tát này không còn sanh giải đãi. Sự học của Đại Bồ tát này là rất tôn quý. Không học Thanh văn, Bích Chi Phật là học về Bồ tát. Tứ Thiên vương sẽ đến thưa hỏi, làm cho ưa thích, được học mau lẹ sự học này, sẽ ngồi chỗ ngồi của Phật, đạt đến Vô thượng Bồ đề, sẽ độ bốn bộ đệ tử. Đại Bồ tát nên học như vậy. Tứ Thiên vương sẽ đến thưa hỏi, huống là các thiên tử khác.

Đại Bồ tát thực hành Trí độ thường được Như Lai A-la-hán Đẳng chánh giác nghĩ đến. Trí tuệ độ là hạnh của Bồ tát. Nếu ở thế gian có những điều khổ cực thì ngay thân này không còn những điều ác, đó là chỗ đạt đến của Đại Bồ tát hành Trí tuệ độ, liền được phước hiện tiền.

A-Nan nghĩ: “Thích Đề Hoàn Nhơn từ trí tuệ mình thuyết hay là nhờ oai thần của Phật để thuyết?”

Thích Đề Hoàn Nhơn biết ý nghĩ của A-Nan liền thưa với tôn giả A-Nan:

- Những điều tôi thuyết là nhờ oai thần của Phật .

Phật dạy:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! A-Nan, Thích Đề Hoàn Nhơn thuyết đều là nhờ oai thần của Phật. A-Nan! Hoặc khi Đại Bồ tát ngay niệm sâu xa này thực hành Trí tuệ độ, liền nghĩ học tập Trí tuệ độ.

Bấy giờ trong ba ngàn đại thiên quốc độ, tất cả ác ma đều buồn rầu, bực bội, muốn làm cho Đại Bồ tát ở giữa chừng chứng đắc cứu cánh Thanh văn, Bích Chi Phật đạo, nhưng lại làm cho những người muốn chứng Vô thượng Bồ đề lại mau thành Vô thượng Bồ đề.

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567