Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần II: Xưng tán - kỷ niệm

10/05/201318:24(Xem: 11293)
Phần II: Xưng tán - kỷ niệm

Tuyển tập các bài sám văn - Tập V: 55 Bài sám văn kết tập

Phần II: Xưng tán - kỷ niệm

Thích Đồng Bổn sưu tập

Nguồn: Thích Đồng Bổn sưu tập

234. VĂN TÁN DƯƠNG TAM BẢO
(Sám tán Bổn Sư 4)


Hòa Thượng Trí Hải
Ðấng Như Lai vẹn đầy phúc tuệ,
Ðức mênh mông như bể khôn lường,
Ðộ cho khắp cả mười phương,
Thoát vòng khổ não lên đường tiêu dao.
Ðạo mầu nhiệm núi cao khôn sánh,
Khắp muôn đời phàm Thánh qui y,
Lòng đầy hỷ xả, từ bi,
Lấp bằng bể khổ sông mê chẳng còn.
Thành phiền não cùng non ngã mạn,
Phá tan tành từ ngọn đến chân,
Lòng không vướng chút bụi trần,
Pháp thân tự tại muôn phần yên vui.
Báo thân hưởng đời đời sung túc,
Hóa thân ra muôn ức nhẹ nhàng,
Hào quang soi khắp mười phương,
Phá tan tành hết mọi đường tối tăm.
Dung nhan đẹp đủ băm hai tướng,
Sức oai thiêng vô lượng vô biên,
Cho bao loài được như nguyền,
Một lòng bình đẳng chẳng thiên vị gì.
Coi kẻ oán cũng như ruột thịt,
Thả bè từ vớt hết trầm luân,
Chúng con mừng có thiện nhân,
Ðược làm người lại được gần Như Lai.
Dốc lòng lạy xin ngài soi xét,
Nguyện đời đời sạch hết nghiệp duyên.
Chẳng còn vướng chút lo phiền,
Tiêu dao tự tại chứng lên Bồ đề.
Án phạ nhật ra vật (3 lần)
——————————
— Trích trong “Nghi thức tụng niệm hằng ngày toàn tiếng Việt”, Sa môn Thích Trí Hải diễn nghĩa, Chùa Quán Sứ, Hà Nội, 1958.

235. SÁM VĂN PHỔ HIỀN ÐẠI NGUYỆN


(Sám tụng chư Bồ Tát 7)
Hòa Thượng Huệ Ðăng
Như vậy thảy toàn cầu chư Phật,
Cõi phàm trần thường trụ độ sanh,
Các ngôi Phật ấy chí linh,
Xét soi rõ thấu tánh tình chúng con.
Hoặc đời này hoặc hồi tiền thế,
Cùng vị lai vô thủy tử sanh,
Tự mình làm việc chẳng lành,
Hoặc là xúi giục, thấy mình hân hoan.
Hoặc của chùa hoặc phần Tăng chúng,
Của tứ phương phụng cúng chư Tăng,
Mình tham hoặc xúi người gian,
Hoặc là thấy lấy mà hoan hỷ tình.
Năm tội trọng tự mình tạo lấy,
Hoặc biểu người, hoặc thấy vui mừng,
Mười điều ác nghiệp tự hành,
Hoặc mình sai khiến, thấy mình hân hoan.
Tạo tội chướng hoặc toan muốn giấu,
Hoặc cung trần sự xấu ấy ra,
Ứng đày địa ngục xấu xa,
Hoặc đày ngạ quỷ, cùng là súc sanh.
Hoặc phải đọa sài lang ác thú,
Hạ tiện nhơn cư trú biên quan,
Hoặc đày vào chỗ uế hoang,
Hoặc là vào chốn mọi đàng hiểm nguy.
Những tội chướng trước khi lầm lỗi,
Nay con nguyền sám hối ăn năn,
Ngày nay chư Phật mười phương,
Chứng tri ghi nhớ tỏ tường việc con.
Trước Phật đài cho con trần thuyết,
Hoặc đời này hoặc kiếp đã qua,
Thương người thường bố thí ra,
Hoặc gìn giới cấm hoặc là trì trai.
Dẫu cho đến cơm ăn một vắt,
Chẩn cấp cho những các súc sanh,
Hoặc nhờ thiện nghiệp tu hành,
Chúng sanh thành tựu căn lành tạo nhơn.
Bồ đề đạo thiện căn sở hữu,
Trí vô thượng đầy đủ hoàn toàn,
Căn lành trước đặng đoan trang,
Nay dồn nhau lại đo cân tính lường.
Xin hồi hướng đến đường chánh giác,
Ðạo Bồ đề chứng quả viên dung,
Y theo tam thế, Thế Tôn,
Cách nào hồi hướng con đồng noi theo.
Các tội lỗi thảy đều sám hối,
Các phước lành tùy hỷ khâm tuân,
Thỉnh Phật công đức huy hoàng,
Nguyện thành thượng trí hoàn toàn chẳng sai.
Ba đời Phật, khứ, lai, hiện tại,
Gốc chúng sanh tu tập thành công,
Công đức như biển vô cùng,
Chúng con qui mạng một lòng tán dương.
Trong thế giới mười phương sẵn có,
Các đức Phật ở đó ba đời,
Thân con và ý và lời,
Giữ gìn thành tín lễ mười phương Thiên.
Oai thần lực Phổ Hiền hạnh nguyện,
Hiện khắp ra nhứt thiết năng nhơn,
Một thân hóa hiện nhiều thân,
Phân thân khắp lạy các trần Như Lai.
Số chư Phật sánh tày số cát,
Hiệp các hàng Bồ Tát rất đông,
Mảy trần pháp giới vô cùng,
Tín thâm chư Phật đủ dùng ở trong.
Vọng âm thanh trầm trầm như biển,
Tiếng dịu dàng thuyết biện pháp mầu,
Ðến cùng cả thảy kiếp sau,
Khen công đức Phật thâm sâu khôn lường.
Tràng hoa Mạn, tỏ tường quí trọng,
Kỹ nhạc cùng dù lọng đồ hương,
Trang nghiêm tốt đẹp phi thường,
Con xin trân trọng cúng dường Thế Tôn.
Y phục tốt, hoa thơm cũng tốt,
Hương đốt nghiền, đèn đốt sáng trưng,
Chất chồng món món cổ từng,
Con xin trân trọng cúng dường Thế Tôn.
Tâm quảng đại của con chơn thật,
Tin ba đời có Phật tự nhiên,
Thảy đem hạnh nguyện Phổ Hiền,
Khắp duyên cúng đủ các duyên Phật đà.
Từ vô thủy tạo ra ác nghiệp,
Bởi tại vì tam độc sân si,
Gốc do thân ngữ ý này,
Nay con sám hối bất kỳ trọng khinh.
Mười phương có chúng sanh cư trú,
Với Nhị thừa, phải học cùng không,
Như Lai Bồ Tát thảy đồng,
Ðủ phần công đức, dày công tu hành.
Khắp mười phương hiện đèn soi thấu,
Ðộ sơ cơ thành tựu Bồ đề,
Nay con kính thỉnh quí vì,
Chuyển pháp vô thượng độ bầy chúng sanh.
Như chư Phật, Niết bàn dục nhập,
Con chí thành cần cấp thỉnh khuyên,
Cầu xin cửu trụ trần duyên,
An vui cho cả Nhơn Thiên mọi đường.
Ðủ lễ nghi cúng dường nghiêm chỉnh,
Thỉnh Thế Tôn trụ chuyển pháp luân,
Tùy hỉ sám hối thiện căn,
Chúng sanh hồi hướng đến chơn Bồ đề.
Công đức trọng đem về một mối,
Nguyện xoay về pháp giới viên dung,
Tánh tình Tam Bảo khôn cùng,
Ấn Tam muội đủ thông dùng tục, chơn.
Công đức này vô lượng như biển,
Nay con nguyền phụng hiến trọn phần.
Nghiệp thân khẩu ý chúng sanh,
Cùng là thấy pháp, oai thần nhạo chê.
Và cả thảy tiền khiên nghiệp chướng,
Nguyện tiêu trừ không vướng món chi.
Tứ không pháp giới năng tri,
Ðộ toàn quần chúng, chẳng hề trở ngăn.
Chốn hư không thế gian kia hết,
Nghiệp não phiền muôn việc đều tiêu,
Mênh mông bốn pháp bao nhiêu,
Con xin hồi hướng cũng đều như nhau.
Nam Mô Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát.
———————————
— Trích xuất từ “Kinh Tam Bảo diễn nghĩa” do Tổ Huệ Ðăng diễn nghĩa – Tổ đình Thiên Thai Bà Rịa ấn hành –Thành Hội Phật Giáo TP HCM xuất bản, 1994
— Thể loại Sám tụng – Dùng trong nghi Sám Hối hồng danh mỗi kỳ sóc vọng – Tụng sau khi lễ sám lạy Phật. Ðây là bài diễn nghĩa rất hay, có thể thay thế bài âm Hán.

236. SÁM PHỔ ÐÀ
(Sám tụng chư Bồ Tát 8)


Phụng Tây Trúc, Phổ Ðà lạc đạo,
Ngự non châu, cửu khúc trùng trùng,
Thủy giang tân, cúc nở nhụy bông,
Ve réo rắt, đàn ngâm suối đá.
Quan Âm Phật ngự non cung giá,
Ðộng Phổ Ðà hữu cảnh vô biên,
Trên thông reo gió mát tự nhiên,
Dưới khe nước rồng chầu phụng múa.
Am mây ửng áng hồng lồ lộ,
Mấy thứ lá, nhụy nở hây hây,
Ðào đơm bông, cúc trổ thơm cây,
Nghe văng vẳng tiếng người qua lại.
Trên đức Phật từ bi quảng đại,
Dưới rồng chầu phụng múa tiêu thiều,
Non thiên thai, vàng chuộng báu yêu,
Cõi Tây Trúc, Long ly chầu chực.
Lấy san hô làm cột,
Dựng hổ phách làm sườn,
Lược đồi mồi làm ngói che sương,
Bông sen nở làm thuyền Bát nhã.
Kết hoa nọ xây cầu bỉ ngạn,
Bình tịnh thủy rưới hoa Tây Hớn,
Nước cam lồ dùng để cứu dân,
Máy thiên địa giao lân,
Trời có sanh có dưỡng.
Chuông Linh Sơn, khai ngục thành Tây.
Trống Bát Nhã, tựu đề phóng xả,
Ðiểm thất tinh như Càn Long mã,
Hỗn độn khai nhị thất tam cung,
Phân Bát quái, lập đàn tứ trụ.
Án Dà Ra Ðế Hồng Rị toá ha.
Thỉnh đức Quan Âm, đức Phật Thích Ca
Án hồng rị thông hành tóa ha.
Nam Mô Cứu khổ cứu nạn Linh cảm Ðại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.
———————————
— Bản chép năm Kỷ Dậu (1969) của chùa Nhất Nguyên Bửu Tự (Lái Thiêu) và Long Sơn Tự (Tân Ban, Tân Uyên) của bà Nguyễn Thị Ní, PD Diệu Tâm lưu giữ. Tủ sách Giáo Ðạo Như Tâm tàng bản, Sài Gòn, 1996
— Ðối chiếu bổ sung với bản in trong “Kinh Nhật Tụng” Chùa Ðại Giác ấn hành, Sài Gòn, 1974
— Chưa biết rõ xuất xứ.

237. SÁM ÐỊA TẠNG
(Sám tụng chư Bồ Tát 9)


Chúng con nay dốc lòng thiền,
Lễ ngài Ðịa Tạng hóa duyên Diêm phù.
Trung Ngươn tháng bảy mùa thu,
Chúng con nam nữ đồng tu cúng dường.
Cầu ngài Ðịa Tạng Minh Vương,
Cứu độ đệ tử xót thương cửu huyền.
Cùng là phụ mẫu hiện tiền,
Sống đặng khỏe mạnh, thác liền liên sanh.
Chúng con một dạ chí thành,
Tụng kinh lễ Phật, niệm danh hiệu ngài.
Nguyện khi bỏ báo thân này,
Chẳng sa ác đạo, bản lai tỏ tường.
Nam Mô Ðịa Tạng Minh Vương,
Ðại nguyện Bồ Tát xót thương tam đồ.
Chúng sanh chìm đắm huyết hồ,
Xin ngài cứu độ, phát lồ ăn năn.
Xả trừ nghiệp ác tiền căn,
Minh châu, tích trượng phá tan ngục hình.
Ðộ ra khỏi chốn u minh,
Khuyên hồn niệm Phật tử sinh khỏi nàn.
Khỏi nơi địa ngục khóc than,
Về nơi Cực lạc sen vàng hóa thân.
Chúng con sớm tối ân cần,
Lo tu đền đáp bốn ân hiện tiền.
Ngày đêm niệm Phật kết duyên,
Cầu cho Thất tổ, cửu huyền siêu thăng.
Nguyện cầu Ðịa Tạng phóng quang,
Từ tâm dẫn lối cứu đoàn tội nhân.
Thoát ra xa lánh dương trần,
Quy y đầu Phật chuyên cần kệ kinh.
Tiêu tan nghiệp chướng tiền khiên,
Hóa sanh nước Phật nhơn thiên vui vầy.
Từ bi đức quảng cao dày,
Tam đồ bát nạn cầu ngài cứu cho.
Hễ còn điạ ngục, còn lo,
Tội nhơn chưa hết còn đò trợ duyên.
Ðại nguyện Bồ tát vô biên,
Tam đồ chưa hết chưa riêng Niết bàn.
Nhân mùa xá tội vong nhân,
Chúng con cầu nguyện lục thân trượng thừa.
Oai thần Ðịa Tạng dẫn đưa,
Về nơi nẻo đạo sớm trưa tu hành.
Con nay đảnh lễ chí thành,
Ngưỡng mong Ðịa Tạng lòng lành chứng minh.
Cúi xin Ðại Thánh oai linh,
Hộ trì đệ tử tâm bình an vui.
———————————
— Bài soạn lại trong bài “Cầu siêu độ tháng bảy” của phẩm 13 Kinh Ðịa Tạng diễn nghĩa – Kinh Nhật Tụng chùa Ðại Giác ấn hành, Sài Gòn, 1974

238. SÁM THẬP BÁT QUAN ÂM
(Sám tụng chư Bồ Tát 10)


Quan Âm Bồ Tát đại từ bi,
Cứu độ chúng sanh vô thượng kỳ,
Tả thủ đề hồ cam lồ thủy,
Hữu thủ cử thanh dương liễu chi.
Ðảnh thượng tải my Mâu Ni Phật,
Khẩu trung thường niệm Ðà La Ni,
Hữu nhơn niệm đắc Quan Âm chú,
Hỏa khanh hóa khán thanh lương trì.
Triêu niệm Quan Thế Âm,
Mộ niệm Quan Thế Âm,
Niệm niệm tùng tâm khởi,
Niệm Phật bất ly tâm.
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm,
Hương Sơn Hội Thượng Quan Thế Âm,
Thiên Trúc Linh Sơn Quan Thế Âm,
Phổ Ðà Sơn Thượng Quan Thế Âm,
Triều Vân Ðộng Lý Quan Thế Âm,
Nam Hải Ngạn Biên Quan Thế Âm,
Bắc Hải Hà Ðầu Quan Thế Âm,
Tọa Liên Tương Tử Quan Thế Âm,
Phong Ba Lãng Tử Quan Thế Âm,
Bổn Thảo Linh Sơn Quan Thế Âm,
Hoa Hóa Ngư Long Quan Thế Âm,
Bạch Y Tố Hiện Quan Thế Âm,
Tăng Phước Minh Vương Quan Thế Âm,
Ngũ Luân Pháp Thủy Quan Thế Âm,
Ngũ Thập Tam Tham Quan Thế Âm,
Thất Thập Nhị Nguyện Quan Thế Âm,
Tam Thập Lục Nguyện Quan Thế Âm,
Tằêng Tằêng Ðạm Ðạm Quan Thế Âm.
Hoặc thị hạ giới cứu lương dân,
Hoặc thị hư không vân lý hiện,
Hoặc thị ngục trung cứu tội nhơn,
Hoặc thị giang hà cứu tai nạn,
Hoặc thị âm ty độ quỷ hồn,
Hoặc thị phòng trung cứu sanh sản.
Tam tai bát nạn câu ly khổ,
Tứ sanh lục độ tức siêu sanh,
Thiên La Thần, Ðịa La Thần,
Nhơn ly nạn, nạn ly thân,
Nhứt thiết tai ương hóa vi trần.
Hỏa lâm thân, hỏa bất năng thiêu,
Thủy lâm thân, thủy bất năng tiêu,
Hữu nhơn đọc tụng Quan Âm chú,
Giáng phước Diên thọ vĩnh mật miên.
– Tam tai bát nạn nhứt tề tiêu,
Ðại Bi phổ thí, hóa thành vô lượng số,
Thất liệp biến hà sa, tề biến mãn địa,
Phổ thí thượng sơn, kỉnh đại bi đô cầu ẩm.
– Ngã Phật khởi lai phát Quan Âm,
Thiên ngôn vạn ngữ khuyến nhơn tâm,
Nhơn tâm khuyến thượng thông thiên bửu.
Tiền thế oan nghiệp tốc hội vô.
Chúng sanh chỉ vọng thanh vân lộ,
Tiếp dẫn chúng sanh xuất thế trần.
– Niệm Phật tảo trần ai,
Tâm hoa tự nhiên thai,
Bạch vân phân tán tân,
Nhật nguyệt chiếu trung đài.
Nam Mô Thập Bát Quan Thế Âm Bồ
Tát Ma Ha Tát.
———————————
— Trích trong “Nghi thức tụng niệm” Chùa Ðại Giác ấn hành – Sài Gòn, 1974
— Không rõ trước tác.

239. SÁM GIÀ LAM
(Sám tụng chư Bồ Tát 11)


Ðức Già Lam đắc thành chánh quả,
Tiếng trung cang thấu cả tam thiên,
Làm người trung nghĩa nhân hiền,
Gồm đủ trí dũng tự nhiên tánh trời.
Ngài sanh ra nhằm đời Tam Quốc,
Ngụy, Thục, Ngô phân cuộc tranh hùng,
Quyết lòng dẹp kẻ bất trung,
Lưu, Trương kết nghĩa tại trong vườn đào.
Tôn Lưu Bị đứng vào huynh trưởng,
Trương Phi ba thứ nhượng cho ngài,
Lòng trung nghĩa có một không hai,
Tánh danh Quan Võ, tự khai Vân Trường.
Dẹp Huỳnh Cân, thần thương hiển lộng,
Oai tam anh chấn động biên cương,
Trải bao năm tháng chiến trường,
Một lòng trung nghĩa vấn vương Lưu Hoàng.
Phò nhị tẩu chạy sang nước Ngụy,
Tào A Man lập trí thử ngài,
Ngày thường ba bữa yến bày,
Ðêm thời để ở cùng hai chị hiền.
Khí trung nghĩa kiền khôn bao khắp,
Cứ mỗi đêm ngài thắp đại đăng,
Trước sân thường giữ nghĩa hằng,
Quì hầu hai chị nói năng đàng hoàng.
Biết lòng ngài đoan trang đáng quí,
Nên Tào Man trọng ý, phục ngài,
Nghe tin Hoàng Thúc an bài,
Không kịp từ giã, thưa hai chị tường.
Phò nhị tẩu lên đường theo chúa,
Quá ngũ quan giết thửa tướng Tào,
Sáu viên đại tướng anh hào,
Long đao thử sức máu trào hồn qui.
Tiếng anh hùng truyền đi khắp xứ,
Hớn Ðình Hầu dũng tựa thiên thần,
Lập đoan trấn giữ Hoa Dung,
Liều thân trả nghĩa Tào Công những ngày.
Lúc ở Ngụy, Tháo bày ân trọng,
Khi ra đi chẳng động, bào dâng,
Trọn đời trung nghĩa chánh chơn,
Tới khi mạt vận, công phần Lữ Mông.
Ngài hiển thần thong dong khắp chốn,
Kêu hoàn đầu thương tổn lại ta,
Gặp Sư Phổ Tịnh phân hòa,
Ðem thuyết nhân quả giải qua cho ngài.
Khuyên mau mau kim giai quy Phật,
Về Niết bàn mới thật thảnh thơi,
Tỉnh tâm ngài liền nghe lời,
Ở luôn trên núi quyết thời lo tu.
Chẳng bao lâu công phu viên mãn,
Ðức Ngọc Hoàng truyền phán phong ngài,
Quan Thánh Ðế Quân thiên nhai,
Già Lam Thánh chúng phẩm bài Phật gia.
Trung nghĩa vốn sẵn là bổn tánh,
Thường thẳng ngay phò chánh diệt tà,
Vân du khắp cõi Ta bà,
Ai hành Thập thiện tức là độ ngay.
Cứu chúng sanh hằng ngày tu tập,
Hộ Già Lam độ khắp chùa chiền,
Công đầy, quả đủ nhơn duyên,
Phò trì chánh pháp cửa thiền Già Lam.
Nam Mô Già Lam Thánh Chúng Bồ Tát.
—————————————
— Trích từ “Nghi Thức Tụng Niệm”, Tr. 360-362, Niết Bàn Tịnh Xá ấn hành, Vũng Tàu, 1974
— Ðây chỉ là một trong những thuyết về các vị Hộ Pháp Già Lam. Bài đây ứng dụng cho những người có thờ thêm Quan Thánh Ðế Quân lẫn thờ Phật, theo Tam Giáo của Trung Quốc đọc tụng chúc tán mỗi nửa tháng theo nghi thức chúc Thánh.
— Có nơi thờ Già Lam Hộ Pháp là ngài Vi Công hay Vi Ðà Thiên, ở miền Bắc Việt Nam thì lại thờ Hộ Pháp là Chúa Trịnh Sâm (chú thích của người biên soạn).

240. SÁM VĂN KỶ NIỆM PHẬT XUẤT GIA
(Sám tụng Phật xuất gia II)


Chiêu Ðề
Ðêm nay mồng tám tháng hai,
Chúng con kính nguyện trước đài Liên hoa.
Nhớ về ngày Phật xuất gia,
Bước chân thoát tục thăng hoa cõi trần.
Thuở còn Thái tử cung son,
Bốn mùa hoa đẹp quả ngon quanh mình.
Nhưng vì muốn hiểu sự tình,
Ngài cùng Xa Nặc dạo nhìn thế gian.
Thì ra muôn khổ ngập tràn,
Ngoại thành bốn cửa bàng hoàng tâm tư.
Kiếp người lão bệnh nào từ,
Tử sanh nào thoát, huyễn hư cuộc đời.
Thấy người đạo sĩ thảnh thơi,
Ngài nhìn phong cách thoát đời hiện ra.
Chợt trong tiềm thức sâu xa,
Nở bừng ý nghĩ xuất gia học cầu.
Quay về trầm mặc canh thâu,
Cảm thương nhân thế khổ sầu trầm luân.
Bèn đem chí nguyện xuất trần,
Tâu cùng vương phụ con đường quyết đi.
Phụ hoàng nào nỡ chia ly,
Giang sơn cung các ai thì nối ngôi?
Ép ngài cưới vợ thuận đời,
Gia Du công chúa vẹn mười sắc son,
Những đem hạnh phúc vuông tròn,
Mong cho Thái tử không còn sầu ưu.
Nghĩ câu hiếu thuận làm đầu,
Thế tình sinh hạ La Hầu giữ ngôi.
Quyết lòng giác ngộ mà thôi,
Chờ nhân duyên đủ đến hồi ra đi.
Một đêm trăng khuyết canh nhì,
Quan quân say giấc thành trì vắng im.
Vợ con mê ngủ đắm chìm,
Lặng nhìn từ giã im lìm ra đi.
Lên đường với vó ngựa phi,
Vượt thành, Kiền Trắc xá chi đêm trường.
Chư Thiên dẫn lối cầm cương,
Quốc thành dần khuất chẳng vương vấn lòng.
Ánh trăng vằng vặc trên không,
Soi hình Thái tử băng sông vượt ngàn.
A Nô Ma sóng cuộn tràn,
Tiễn chân Thái tử xuất trần đi tu.
Bình minh còn đẫm sương mù,
Dừng chân xuống ngựa bên bờ suối quanh.
Rút gươm cắt mái tóc xanh,
Trao cho Xa Nặc dặn rành tâu vua.
Ta xin lỗi đạo kế thừa,
Ði tìm chân lý gió mưa không sờn.
Rừng sâu chiếc bóng đơn phương,
Thợ săn đổi áo, con đường viễn du.
Học cầu bao bạn đồng tu,
Hành thân ép xác dãi dầu tháng năm.
Vẫn không sáng tỏ mê lầm,
Làm sao giải thoát thăng trầm chúng sanh?
Ngài bèn bỏ hạnh khổ mình,
Giã từ năm bạn đồng hành đi riêng.
Ðến sông tên gọi Ni Liên,
Tắm xong, thọ bát sữa chiên mục đồng.
Sắc thân trí lực sáng bừng,
Bồ đề trải cỏ bên sông phát thề.
Nếu không chứng đạo giác mê,
Sẽ không rời gốc Bồ đề một phân!
Chúng con Phật tử trong trần,
Hôm nay nhắc tích bội phần cảm cung.
Xuất gia sử Phật bi hùng,
Ðã là con Phật phải cùng nhớ ghi
Học đòi giác ngộ từ bi,
Ðể mong giải thoát tham si não phiền.
Trước đài kính tỏ niềm riêng,
Tinh cần niệm Phật, tham thiền, tụng kinh.
Ước mong nguyện lực độ sinh,
Gia trì đệ tử vô minh sớm trừ.
Noi theo pháp hạnh Phật từ,
Ðời đời nguyện lấy chân như làm nhà.
Nhớ ngày vía Phật xuất gia,
Chúng con đảnh lễ Thích Ca cha lành.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (10 lần).
———————————
— Bài do Chiêu Ðề Tăng biên soạn nhân ngày kỷ niệm Phật xuất gia PL 2541, chùa Xá Lợi, Tp. HCM, 1998

241. SÁM VĂN KỶ NIỆM PHẬT THÀNH ÐẠO
(Sám tụng Phật thành đạo 3)


Thấu chân tướng huyền vi tạo hóa,
Ngộ lẽ đời đắc quả đạo vàng,
Bừng lên ánh sáng dương quang,
Ðuổi mây sinh tử, vẹt màn vô minh.
Thuyền đại ngộ cứu tinh phàm tục,
Ðưa nhơn sanh khỏi khúc sông mê,
Hôm nay kỷ niệm nhớ về,
Mừng ngày Thành Ðạo Bồ Ðề nhớ ơn.
Người Ðại Sĩ Tuyết Sơn khai sáng,
Ðạo chân như chói rạng độ đời,
Rừng già tu luyện làm nơi,
Sáu năm tìm đạo lắm hồi gian truân.
Sương tuyết gội lạnh lùng lao khổ,
Mè bắp ăn tạm đỡ nuôi thân,
Ngày kia sức lực suy dần,
Nghĩ rằng ta phải uống ăn đủ đầy.
Và bỗng thấy có người thí chủ,
Su Già Ta dâng sữa cúng dường,
Ngài liền thọ dụng đỡ lòng,
Rồi ra tắm gội nơi sông Liên Thiền.
Nhờ thọ thực Ngài liền hồi sức,
Cội Bồ đề thệ quyết khắc ghi,
Nếu không đắc đạo thời này,
Nơi đây ta nguyện chẳng khi nào rời.
Bồ đề tòa là nơi nhập định,
Suốt thời gian bốn chín ngày đêm,
Giặc đâu đủ thứ tràn lên,
Nội tâm phiền não, tham, sân khôn lường.
Ngoại cảnh có ma vương quấy nhiễu,
Ma nữ bày vũ điệu nguyệt hoa,
Ngài dùng định huệ bao la,
Ðánh tan các giặc ác tà khen thay!
Rồi tháng chạp rạng ngày mồng tám,
Khi nền trời ló rạng sao mai,
Tam minh pháp tánh hiện bày,
Lạ thay Phật tại tâm đây rành rành!
Bậc chánh giác quần sanh độ khắp,
Thương muôn loài diệu pháp truyền ban,
Sáu đường ba cõi thoát nàn,
Nhờ từ quang Phật huy hoàng khắp nơi.
Thích Ca Thành Ðạo độ đời,
Chúng con kỷ niệm một thời sám văn.
———————————
— Trích soạn lại từ bài “Ánh Quang Minh ngày Thành Ðạo”, tác giả Diệu Tâm, đăng trong Ðặêc San Hoằng Pháp số 6, tr.82, PL 2518-1974 do Tổng vụ Hoằng Pháp chùa Ấn Quang ấn hành.

242. SÁM TÒNG LÂM
(Sách tấn tu tập 11)


Trước Tam Bảo cúi đầu khẩn nguyện,
Mộng tòng lâm nung luyện mơ màng,
Chúng con trì giới tịnh an,
Nương nhờ công đức đạo tràng chỉnh tu.
Khắp một vòng ngao du cõi Thánh,
Nét đơn thành như sách như in,
Tòng lâm cảnh giới đẹp xinh,
Hợp thành một vẻ lung linh nhiệm mầu.
Giọng thanh âm mấy câu vận chuyển,
Tiếng chuông vàng như nguyện như thâu,
Ðưa người vượt cảnh khổ sầu,
Thẳng lên bờ giác qua cầu tịnh thanh.
Mong ơn Phật lòng lành tiếp độ,
Khiến lòng con giác ngộ uyên thâm,
Rừng thiền cổ thụ ngàn năm,
Cội to, tán rộng, bóng thâm đượm nhuần.
Hoa trái nọ tượng trưng nhơn quả,
Nghiệp duyên kia vay trả khôn lường,
Tòng Lâm một cảnh chủ trương,
Nhân tài lão luyện cùng đường thanh tu.
Theo thứ bậc, cần cù luân chuyển,
Thẳng qua đò tiến triển nhiều năm,
Lần lên cảnh giới thậm thâm,
Chúng con một dạ một tâm chí thành.
Dầu bao độ biến sanh chơn vọng,
Mầm Bồ đề hạt giống còn tươi,
Vẹn tròn đạo quả mấy mươi,
Chúng con hết nghiệp, mỉm cười thảnh thơi.
Thung dung chí cả độ đời,
Tòng lâm ban rãi cho người tình thương.
Nguyện cùng chư Phật mười phương,
Chứng minh đệ tử thừa đương hành trì.
Trải lòng mở đạo từ bi,
Chỉ cho nhân thế đường đi về nguồn.
———————————
— Trích soạn theo bài sám cùng tên của Sa Môn Thích Thiện Huê, chùa Ðại Giác ấn hành, Sài Gòn, 1974

243. SÁM KHỂ THỦ QUI Y PHỔ AM SƯ
(Sám tụng chư Bồ Tát 12)


Nam Hải Quan Âm hóa hiện thân,
Long Thọ đắc đạo truyền chánh pháp,
Thiên Long nham nội giảng Hoa Nghiêm,
Ðịnh quan sát tiên truyền mật ngữ.
Từ hóa khai sơn cứu độ nhơn,
Khẩn Na La vương hiện thần thông,
Hổ Giá La vương trấn oai linh,
Ngũ thông đắc đạo thần tiên chúng.
Thích Chi, La Hớn tổng lai lâm,
Thiên Bồng, Thiên Hiến đại nguyên soái,
Tâm Ðàn hốt hoả đại tướng quân,
Tứ thiên môn vương, tứ yết đế.
Nhị thập tứ vị chư thiên binh,
Vô số Thiên Long, Bát bộ chúng,
Bá vạn quá thử Kim Cang thần,
Ðô Thiên lục tý Tôn vương Phật.
An ninh Ðức thắng đại chơn quân,
Hộ Pháp, Quan Thánh đại thiền sư,
Long Hổ nhị thiên tả hữu phân,
Lăng Nghiêm hội thượng Phật Bồ Tát.
Ðại bi, Lăng Nghiêm, Dược xoa thần,
Phục quỉ thâu ma chư thiên tướng,
Tác hải vi sơn tứ mục quan,
Tiên truyền hậu giáo chư Phật Tổ.
Ðiển mẫu, Lôi công thích lịch thần,
Thiên, Long nham nội hàng ma tướng,
Tế thế tham trì nhứt bộ hành,
Trì xa kình sử đà thiết tả.
Tràng phan sanh tuyết chỉnh như vân.
Ðộng diệu, Kim Linh sơn nhạc chấn,
Tận giai vân tập sào yên khí,
Chư quỉ hiện hình đầu phấn tý.
Hắc thinh biến hóa nhập vi trần,
Chư thượng thiện nhơn cư vân tập,
Tiên truyền hậu quá cập tiền thân,
Văn kinh phúng tụng thích đàm chương.
Vũ ủng Vân phi giáng đạo trường,
Chí tâm xưng niệm vô tà tưởng,
Thiên hạ tà thân bất cảm đương,
Hoặc dạ hành hề, hoặc tảo khứ.
Sơn Lâm vọng lượng hữu tinh mị,
Chí tâm qui y Phổ Am sư,
Tứ hải Long thần lai hộ vệ,
Hổ lang văn tri bôn cao sơn.
Long ngư, thính trước qui hải thủy,
Phá tháp miễu đàn vô đạo nhơn,
Khê động nham thai thạch ải quỉ,
Xà thương hổ giảo trùng độc hại.
Lạc thủy đọa thai tinh tự ái,
Ỷ thảo phụ thọ mộc thạch tinh,
Bất chánh tà thần nan hồi tỵ,
Nhược bất thuận ngộ đại đạo tâm.
Thiên Long Thích Lịch dữ phấn tý,
Năng cứu nhơn gian bát nạn khổ,
Năng giải nhơn gian sanh tử uế,
Thập sanh cửu hữu bệnh nhơn hôn.
Năng niệm chơn ngôn trì tịnh thủy,
Ðà La Ni chú giải oan gia,
Ðại bi thần chú năng an húy,
Thành Hoàng xả lịnh Thổ địa thần.
Ủng hộ tham trì thính như sử,
Ngũ phương tà khí tận tiêu trừ,
Tử giả hoàn hồn tăng phước huệ,
Thần hôn phúng tụng thích đàm chương.
Phật đạo quan việt an thần vị,
Gia đường trừ táo tất an ninh,
Thổ địa Long thần vô cấm kỵ,
Tổ tiên tam đại cập nhơn thân.
Văn thinh tân đắc siêu thăng lộ,
Thiên tinh địa vị các hội cung,
Tiêu tai giáng phước bất tư nghì,
Duy nguyện Cổ Phật giáng lai lâm.
Tức thuyết thích đàm chơn cứu khổ,
Phổ Am Ðại đức Thiền sư chơn chú.
Nam Mô Phổ Am Tổ Sư Bồ Tát Ma Ha Tát.
———————————
— Trích xuất từ “Nghi Thức Tụng Niệm” tr.334-338, chùa Niệm Phật, Bình Dương, 1974
— Ðây là bài sám tụng tán thán chú Phổ Am, tụng trước khi vào chú, giống như chú Lăng Nghiêm, cũng có bài sám thỉnh và năm đệ chú, ít phổ biến trong Phật tử. Bài nầy chỉ dùng cho các đàn tràng, lễ hội trai đàn có lễ sái đàn, do các chư Tăng chuyên gia trì, hoặc các vị bên ứng phú đạo tràng (thầy cúng) dùng làm nghi sái đàn cho thanh tịnh trước khi gia trì tụng niệm.
— Ðây là bài theo thể loại sám tụng và sám tán, vì khi sử dụng có cả lễ nhạc hòa theo. Nếu là ở đàn tràng bình thường không có lễ nhạc thì sám tụng chậm rãi theo nhịp mõ hòa chúng.
— Sao lục bài sám này, người biên tập chỉ có mục đích làm tư liệu tham khảo trong nhóm sám văn âm chữ Hán. Vì bài chỉ sử dụng cho những vị hành nghi mà thôi, không phải là bài sám phổ biến rộng rãi cho cư sĩ Phật tử đọc tụng.
— Nguyên tác của Ngài Phổ Am Tổ sư, một vị Mật Giáo Bồ Tát ở Tây Tạng hay Trung Quốc chưa rõ xuất xứ. Chú Phổ Am theo chân các vị sư Trung Quốc du nhập vào Việt Nam khoảng thế kỷ XVI.

244. SÁM VĂN THÍ PHÁT XUẤT GIA (II)
(Sám phát nguyện 29)


Lễ thí phát xuất gia cắt tóc,
Ra khỏi vòng lăn lóc trần gian,
Nương về theo ánh đạo vàng,
Lo tu giải thoát khỏi đàng trần ai.
Cảnh trần thế hết vay rồi trả,
Trả rồi vay nhân quả luân hồi,
Bánh xe cứ mãi lăn nhồi,
Trầm luân biển nghiệp hụp trồi khổ đau.
Nay thức tỉnh mau mau trở lại,
Tìm con đường chánh đại mà đi,
Noi gương các đấng Từ bi,
Xả thân cầu đạo chẳng vì tiếc tham.
Tóc phủi sạch không làm ác nữa,
Bợn nhơ lòng quyết rửa từ nay,
Tam tâm, tứ tướng diệt ngay,
Thất tình, lục dục hôm nay quyết chừa.
Ngày một ngọ muối dưa đạm bạc,
Chỉ tam y nhứt bát tuỳ thân,
Ðói no, cực khổ chẳng cần,
Miễn sao tâm trí được phần cao siêu.
Tóc đoạn phủi dứt tiêu oan nghiệp,
Kể từ nay thoát kiếp đoạ đày,
Nương về cõi Phật cao ngai,
Noi theo đuốc tuệ của ngài Thích Ca.
Gương thuở trước ngài ra tầm đạo,
Tự cầm gươm phủi cạo tóc xanh,
Con thơ vợ đẹp cam đành,
Ðại hùng gươm tuệ tơ mành đoạn xong.
Cắt tóc rồi hư không nhắm liệng,
Ngài phát lời thệ nguyện như vầy:
“Dầu cho rã nát thân này,
Nếu chưa thành đạo chưa quay trở về!”
Tâm đại lực Bồ đề kiên cố,
Chí đại hùng nguyện độ chúng sanh,
Sáu năm khổ hạnh tu hành,
Thoát ra khỏi chốn tử sanh luân hồi.
Tu đắc quả vào ngôi chánh giác,
Chỉ con đường giải thoát cho ta,
Noi gương hạnh nguyện Thích Ca,
Dầu cho gặp phải oan gia chớ sờn.
Thà chết sạch còn hơn sống đục,
Mê mết chi chui rúc trong trần,
Làm sao tránh khỏi tử thần,
Làm sao tránh khỏi xoay vần oan khiên.
Nay hữu phước đa duyên hội ngộ,
Gặp thuyền từ tế độ đưa sang,
Lên bờ bỉ ngạn Tây phang,
Tiêu diêu tự tại thanh nhàn vĩnh miên.
Nay giới tử Phật tiền thí phát,
Nguyện một lòng dầu thác chẳng phai.
Ðời đời kiếp kiếp hậu lai,
Noi gương theo dấu của ngài Thích Ca.
Tu giải thoát xa lìa cảnh tục,
Diệt hết tiêu lòng dục, tánh phàm,
Những điều ưa chuộng mến ham,
Thân tâm rửa sạch, già lam dựa kề.
Tu chứng đắc Bồ đề Phật quả,
Y theo đà đức cả Như Lai,
Hôm nay thiết lập đàn trai,
Lễ nầy thí phát cũng ngày ly thân,
Nhờ Tam Bảo ban ân nhỏ phúc,
Những người tu thoát tục ly trần,
Tu cho trọn vẻ muôn phần,
Tây phương cõi Phật kề gần Thích Ca.
———————————
— Trích “Kinh Nhật Tụng” Hệ phái Khất sĩ, Thành Hội Phật Giáo Tp. HCM ấn hành, 1984
— Bài sử dụng cho lễ thí phát của người xuất gia tu hành dứt khoát không để tóc lại.

245. UY NGHI TẠI GIA
(Sách tấn tu tập 12)


Tổ Tuệ Tạng
Uy nghi phép dạy nhiệm mầu,
Trong kinh lược chép mấy câu để truyền.
Tại gia những bậc người hiền,
Ðã quy Tam Bảo phải chuyên giữ mà.
Một là hiếu thuận ở nhà,
Tổ tiên, cha mẹ, ông bà mọi ngôi.
Hiện còn hiếu thảo dưỡng nuôi,
Sáng thăm tối định, vâng lời thừa hoan.
Ở sao đạo hiếu hoàn toàn,
Ấy là chư Phật hỷ hoan hộ trì.
Hoặc khi người đã mất đi,
Dốc thành tôn kính tụng trì kệ kinh.
Mong cho sớm được siêu sinh,
Báo đền tính chút công trình dưỡng nuôi.
Kìa ai sẵn có hai ngôi,
Ở nhà cha mẹ đôi người rất thân.
Ðấy là vị Phật riêng phần,
Ai mà thờ được ắt gần Như Lai.
Ðây là lời Phật dạy đời,
Trong nhà sẵn có hai ngôi Phật đà.
Ai hay thờ đó được a,
Cũng là Di Lặc, Thích Ca khác nào!
Ði về kính cẩn hỏi chào,
Của ngon vật lạ tơ hào dâng thân.
Phải coi hơn bậc Thánh Thần,
Mới là trọn đạo nhân luân ở đời.
Cô, dì, bác, chú mọi người,
Chồng cô, cậu, mợ cùng nơi chồng dì.
Cũng đều tôn trọnh kính vì,
Không nên sếch mếch thất nghi kia mà.
Anh, em, trai rể một nhà,
Gái, dâu, em, chị cùng là họ đương.
Phải nên trên kính dưới nhường,
Lại còn con cháu thương yêu chẳng nề.
Cho ăn cho mặc vỗ về,
Bảo ban dạy dỗ mọi nghề cho hay.
Lại còn tin kính bạn thầy,
Láng giềng, làng nước hết nay trung thành.
Ruộng làm bờ phải nhượng canh,
Ðường đi tránh bước để dành người đi.
Ấy là cõi tục uy nghi,
Thứ hai lại tỏ phụng trì Tam tôn.
Ở nhà chu đáo mọi môn,
Chánh tín Tam Bảo để vun gốc lành.
Tới chùa lễ Phật nghe kinh,
Chào Sư hỏi bạn để sinh phúc dầy.
Hương hoa nến sáp dâng nay,
Cùng là quả phẩm kính bầy trang nghiêm.
Còn như vàng mã đừng đem,
Các đồ rượu thịt chớ kèm lẫn đưa.
Tỏi hành kia cũng phải chừa,
Thức gì Hiền Thánh không ưa chớ dùng.
Áo xiêm nghiêm chỉnh thung dung,
Dép giày không sạch chớ xông bước vào.
Lễ thời nên tránh tòa cao,
Những nơi Tăng lễ đừng trèo lễ chung.
Thắp hương đừng có quá xông,
Một ba năm nén đủ dùng tôn nghiêm.
Lễ là trọng đức Thánh hiền,
Lễ xa thêm phúc đừng nên chen người.
Nón gậy xe đạp mọi loài,
Tường chùa điện Phật chớ bầy dựa kia.
Tinh thành lòng giữ chớ lìa,
Chuyện trò nhảm nhí mọi bề phải im.
Chu chuân thành kính một niềm,
Ăn trầu nhổ bã phải tìm nơi xa.
Không nên vứt bỏ rác ra,
Kẻo mà tổn phúc nữa đà người chê.
Lại còn lễ bái một khi,
Chiếu mình tự trải, chớ hề sai ai.
Lễ xong thu cất hẳn hoi,
Ðấy là công đức trau giồi phần ta.
Những người đệ tử Phật đà,
Tăng Ni khi gặp trước ta phải chào.
A Di Ðà Phật một điều,
Chắp tay một vái tỏ nêu kính thành.
Hoặc khi hỏi đạo tu hành,
Cúi đầu một lễ tùy tình chiềng thưa.
Rạch ròi bầy tỏ mối ngờ,
Hễ người chỉ bảo lặng tờ lòng nghe.
Phép mầu ghi nhớ mọi bề,
Nghe xong niệm Phật chào về đoan trang.
Hoặc khi xin lễ cầu an,
Hay là siêu tiến trai đàn mọi nghi.
Tùy tình lượng sức của gì
Không nên đo đắn như nghề bán buôn.
Lại thêm gây mối tội nguồn,
Phúc kia đâu hưởng vạ luôn chịu liền.
Chỉ nên thành kính một nguyền,
Lượng nghi lễ đó bao tiền đủ xong.
Kính tin Tam Bảo một lòng,
Phóng sanh, bố thí bao dong việc lành.
Của dâng Phật, cúng vong linh,
Trai nghi lễ phẩm tinh thành mới hay.
Ðã vì vong giả làm chay,
Ðừng dùng rượu thịt thức này thức kia.
Kẻo mà tội lỗi khó lìa,
Lại thêm bận đến vong kia đó mà.
Lại còn cúng thí Tăng già,
Phải nên định trước của là bao nhiêu.
Tùy lòng cúng được ít nhiều,
Không nên xong việc tạ theo lối đời.
Rành rành Phật đã dạy lời,
Vì người thuyết pháp sau rồi mới cho.
Không nên nhận của đó ư,
Nhận là bán Phật tội trừ được đâu.
Người cho người lấy của nhau,
Của kia tà mệnh lại hầu lỗi thêm.
Chỉ nên chánh tín một niềm,
Ðều vì vong giả làm duyên phúc lành.
Lại còn những sự phải minh,
Ta là đệ tử trung thành Phật gia.
Phải là cẩn thận nết na,
Ðem gương năm giới để mà noi theo.
Không nên tin nhảm những điều,
Ông đồng bà cốt nói liều nói quanh.
Lại còn kẻ giả tu hành,
Mượn mầu Phật pháp mưu sinh đó mà.
Người kia ta phải tránh xa,
Ðừng nên thân cận nữa đà uổng công.
Còn người rượu thịt nói dông,
Thuốc phiện, cờ bạc, đắm vòng trần duyên.
Làm cho nhục nhã cửa thuyền,
Thấy ai ta phải can liền mới hay.
Ðã là chung học một thầy;
Người kia đã dở ta nay vui nào?
Ðừng nên theo ý xui vào,
Ðừng nên cho của thêm trao tội tình.
Ðừng nên thấy sự làm thinh,
Phải đem chân chính lòng thành khuyên ngăn.
Ðể chung hưởng phúc biền-trăn,
Khắp nguyền ai cũng thiện căn dồi dào.
Cùng lên chính giác ngàn cao,
Cùng thành Phật đạo cùng vào chân như.
———————————
— Bài sám tụng này của Tổ Tuệ Tạng, Chùa Vọng Cung soạn năm Quí Tỵ 1958–PL.2497. In trong quyển “Phật tử tại gia tu hành thường thức” – Nhà in Ðuốc Tuệ. Hà Nội, 1958.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567