Tạng Luật
Vinaya Pitaka
Tiểu Phẩm
Cullavagga
Tỳ kheo Indachanda Nguyệt Thiêndịch
----oOo----
VI. Chương Sàng tọa (Senāsanakkhandhakaṃ)
[Theo chú giải của Kinh Trường Bộ, Senāsana được phân làm bốn loại: loại thứ nhất vihārasenāsana gồm có năm loại chỗ trú ngụ - xem [200] (trong bản dịch sẽ dùng từ "chỗ trú ngụ" cho loại này); loại thứ nhì mañcapīthasenāsana là giường, ghế, nệm, gối (trong bản dịch sẽ giữ nguyên từ "sàng tọa" cho loại này); loại thứ ba santhatasenāsana là các loại thảm; loại thứ tư okāsasenāsana được giải thích là nơi mà vị tỷ-kheo sẽ trở lại.]
1. Tụng Phẩm thứ nhất:
[198] Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Rājagaha, Trúc Lâm (Veluvana), chỗ nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn chưa quy định cho các tỷ-kheo về vấn đề chỗ trú ngụ. Và các tỷ-kheo đã cư ngụ ở nơi này nơi khác: trong rừng rậm, ở gốc cây, nơi sườn núi, nơi thung lũng, trong hang núi, nơi bãi tha ma, trong khu rừng thưa, ở đồng trống, nơi đống rơm. Các vị ấy, vào lúc sáng sớm, đã đi ra từ nhiều nơi khác nhau: từ trong rừng rậm, từ gốc cây, từ sườn núi, từ thung lũng, từ trong hang núi, từ bãi tha ma, từ khu rừng thưa, từ đồng trống, từ nơi đống rơm với nét tươi tỉnh khi đi tới đi lui, khi nhìn qua nhìn lại, khi co duỗi (tay chân), với đôi mắt nhìn xuống, nghiêm chỉnh trong các oai nghi.
[199] Vào lúc ấy, có nhà đại phú ở thành Vương Xá (Rājagaha) đi đến công viên vào lúc sáng sớm. Nhà đại phú dân thành Rājagaha đã thấy các tỷ-kheo vào lúc sáng sớm đi ra từ nhiều nơi khác nhau: từ trong rừng rậm, từ gốc cây, từ sườn núi, từ thung lũng, từ trong hang núi, từ bãi tha ma, từ khu rừng thưa, từ đồng trống, từ nơi đống rơm với nét tươi tỉnh khi đi tới đi lui, khi nhìn qua nhìn lại, khi co duỗi (tay chân), với đôi mắt nhìn xuống, nghiêm chỉnh trong các oai nghi. Thấy thế, tâm của vị ấy sanh khởi đức tin. Rồi nhà đại phú ở thành Rājagaha đã đi đến gặp các tỷ-kheo, đến rồi đã nói với các tỷ-kheo điều này:
- Bạch các ngài, nếu tôi cho xây dựng các trú xá, các ngài có thể cư ngụ trong các trú xá của tôi không?
- Này gia chủ, các trú xá chưa được đức Thế tôn cho phép.
- Bạch các ngài, nếu vậy xin các ngài hỏi ý kiến đức Thế Tôn rồi báo cho tôi hay.
- Được rồi, này gia chủ.
Rồi các tỷ-kheo ấy nghe lời nhà đại phú ở thành Rājagaha đã đi đến gặp đức Thế tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, các tỷ-kheo ấy đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, nhà đại phú ở thành Rājagaha muốn cho xây dựng các trú xá. Bạch ngài, chúng con nên tiến hành như thế nào đây?
[200] Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép năm loại chỗ trú ngụ: trú xá (vihāraṃ), nhà một mái (addhayogaṃ), toà nhà dài (pāsādaṃ), khu nhà lớn (hammiyaṃ), hang động (guhaṃ).
[201] Rồi các tỷ-kheo ấy đã đi đến gặp nhà đại phú ở thành Rājagaha, đến rồi đã nói với nhà đại phú ở thành Rājagaha rằng:
- Này gia chủ, các trú xá đã được đức Thế Tôn cho phép. Gia chủ biết bây giờ là thời điểm của việc gì rồi.
Sau đó, nhà đại phú ở thành Rājagaha đã cho thiết lập sáu mươi trú xá chỉ trong một ngày. Sau khi hoàn tất sáu mươi trú xá, nhà đại phú ở thành Rājagaha đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, nhà đại phú ở thành Rājagaha đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn cùng với hội chúng Tỷ-kheo chấp nhận bữa trai phạn của con vào ngày mai.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, nhà đại phú ở thành Rājagaha sau khi biết được sự nhận lời của đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, và ra đi.
Rồi khi trải qua đêm ấy, nhà đại phú ở thành Rājagaha sau khi cho người chuẩn bị thức ăn thượng hạng cứng mềm đã sai người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
- Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
[202] Khi ấy, đức Thế Tôn vào buổi sáng đã mặc y, cầm y bát, đi đến tư gia của nhà đại phú ở thành Rājagaha, đến rồi đã ngồi xuống chỗ ngồi đã được sắp đặt cùng với hội chúng tỷ-kheo. Rồi nhà đại phú ở thành Rājagaha đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỷ-kheo có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng cứng mềm, rồi đã (đến) ngồi xuống một bên đức Thế Tôn khi ấy đã thọ thực xong, bàn tay và bình bát đã được rửa. Khi đã ngồi xuống một bên, nhà đại phú ở thành Rājagaha đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, sáu mươi trú xá này do con cho người xây dựng vì mục đích phước báu, vì mục đích cõi trời. Bạch ngài, con nên thực hành như thế nào với những trú xá này?
- Này gia chủ, như vậy ngươi hãy cho thiết lập sáu mươi trú xá này dành cho hội chúng tứ phương hiện tại và vị lai.
- Xin vâng, bạch ngài.
Khi ấy, nhà đại phú ở thành Rājagaha nghe theo lời đức Thế Tôn đã thiết lập sáu mươi trú xá ấy dành cho hội chúng tứ phương hiện tại và vị lai. Sau đó, đức Thế Tôn đã tùy hỷ với nhà đại phú ở thành Rājagaha bằng những lời kệ này:
[203]
Chúng ngăn ngừa nóng lạnh
và các loài thú dữ
các loài rắn muỗi mòng
luôn các cơn mưa lạnh (từ nơi ấy).
Cơn gió nóng dữ dội
sanh lên bị dội lại (từ nơi ấy).
Sự bố thí trú xá
đến hội chúng để hành
thiền định và minh sát
đem lại sự nương náu
đem lại sự an lạc
đã được chư Phật Đà
ngợi khen là tối thắng.
Vì thế người trí tuệ
thấy lợi ích cho mình
cho xây trú xá đẹp
để các bậc đa văn
có thể ngụ nơi ấy.
Nên cúng dường cơm nước
y áo, chỗ trú ngụ
đến các chân tu ấy
có tâm tư thanh tịnh.
Các vị thuyết đến người
pháp xua mọi khổ đau
người thấy pháp đời này
không còn ô nhiễm nữa
và chứng ngộ Niết Bàn.
Khi ấy, sau khi nói lời tùy hỷ bằng những lời kệ ấy xong, đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
[204] Dân chúng đã nghe rằng: "Nghe nói các trú xá đã được đức Thế Tôn cho phép" nên đã nỗ lực cho xây dựng các trú xá. Các trú xá ấy không có cửa nên các con rắn, bọ cạp, và rết đã bò vào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) cửa.
Sau khi đục lỗ ở tường, họ đã buộc cái cửa bằng dây leo và dây thừng. Các con chuột và mối đã gặm nhấm (dây buộc). Các cánh cửa buộc dây bị gặm nhấm đã rơi xuống. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) trụ cửa, rãnh xoay, và chốt xoay.
Các cánh cửa không sử dụng được. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) lỗ để luồn và dây thừng để luồn qua.
Các cánh cửa không đóng kín được. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) tay nắm, chốt gài, đinh khoá chốt, chốt phụ.
[205] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo không thể mở cánh cửa được. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) lỗ khoá. Có ba loại khoá: khoá bằng đồng, khoá bằng gỗ, khoá bằng sừng.
Khi các vị mở cửa đi vào trong, các trú xá không được an toàn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) then cài, đinh khoá chốt.
[206] Vào lúc bấy giờ, các trú xá được lợp cỏ, nên lạnh lẽo khi trời lạnh, nóng nực khi trời nóng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và tô vữa ở trong và ở ngoài.
[207] Vào lúc bấy giờ, các trú xá không có cửa sổ nên không tốt cho mắt và có mùi hôi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cửa sổ: cửa sổ chấn song, cửa sổ gắn lưới, cửa sổ lá sách.
Các con sóc và dơi đi vào do các khe hở ở giữa cửa sổ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) màn che cửa sổ.
Các con sóc và dơi đi vào do các khe hở của màn che. ...(như trên)...
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) cánh cửa sổ và màn sáo chắn cửa sổ.
[208] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ngủ ở trên đất. Cơ thể và y phục bị bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) thảm trải bằng cỏ.
Thảm trải bằng cỏ bị các con chuột và mối ăn. ...(như trên)...
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) bệ cứng.
Nằm trên bệ cứng, cơ thể bị ê ẩm. ...(như trên)...
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) giường vạt tre.
[209] Vào lúc bấy giờ, một cái giường dài làm bằng ván khiêng xác chết đã phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) giường loại dài.
Một cái ghế loại dài đã phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế loại dài.
[210] Vào lúc bấy giờ, một cái giường làm bằng ván ghép lại dùng để khiêng xác chết đã phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) giường làm bằng ván ghép lại.
Một cái ghế làm bằng ván ghép lại đã phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế làm bằng ván ghép lại.
[211] Vào lúc bấy giờ, một cái giường có chân đẽo cong dùng để khiêng xác chết phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) giường có chân đẽo cong.
Một cái ghế có chân đẽo cong đã phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế có chân đẽo cong.
[212] Vào lúc bấy giờ, một cái giường có chân tháo rời được dùng để khiêng xác chết phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) giường có chân tháo rời được.
Một cái ghế có chân tháo rời được đã phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế có chân tháo rời được.
[213] Vào lúc bấy giờ, một cái ghế vuông đã phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế vuông.
Một cái ghế vuông cao đã phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế vuông cao.
Một ghế trường kỷ (sattaṅgo) đã phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế trường kỷ.
Một ghế trường kỷ cao đã phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế trường kỷ cao.
Một ghế làm bằng các thanh ráp lại (bhaddapīthaṃ) đã phát sanh. ...(như trên)...
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế làm bằng các thanh ráp lại.
Một ghế lót vải (pīthikā) đã phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế lót vải.
Một ghế có chỗ gác chân (elakapādakam- pīthaṃ) đã phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế có chỗ gác chân.
Một ghế có nhiều chân (āmalakavattikam- pīthaṃ) đã phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế có nhiều chân.
Một tấm phản (phalakaṃ) đã phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) tấm phản.
Một ghế mây (kocchaṃ) đã phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế mây.
Một ghế lót rơm (palālapīthaṃ) đã phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ghế lót rơm.
[214] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư nằm trên giường cao. Dân chúng đến trú xá đi dạo quanh thấy vậy nên phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- ...(như trên)... giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên nằm giường cao. Vị nào nằm thì phạm tội tác ác (dukkata).
[215] Vào lúc bấy giờ, có một vị tỷ-kheo trong khi nằm ở trên giường thấp đã bị rắn cắn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) chân kê giường (mañcapatipādakaṃ).
[216] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng chân kê giường loại cao. Các vị đu đưa tới lui với các chân kê giường loại cao. Dân chúng đến trú xá đi dạo quanh thấy vậy nên phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- ...(như trên)... giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng chân kê giường loại cao. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép chân kê giường cao tối đa tám ngón tay.
[217] Vào lúc bấy giờ, chỉ sợi phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dệt chỉ ở giường.
Các góc tốn nhiều chỉ. ...(như trên)...
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xuyên qua ở các góc và dệt chéo qua lại.
Một mảnh vải (colakaṃ) được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dùng làm thảm lót.
Một đệm bông gòn(tūlikā) được phát sanh. ...(như trên)...
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép tháo ra dùng làm gối. Có ba loại bông gòn: bông gòn từ cây gòn, bông gòn từ dây leo, bông gòn từ cỏ.
[218] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng gối dài nữa thân người. Dân chúng đến trú xá đi dạo quanh thấy vậy nên phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- ...(như trên)... giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
...(như trên)... Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng gối dài nữa thân người. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép sử dụng gối tương đương với cái đầu.
[219] Vào lúc bấy giờ, có một lễ hội trên đỉnh núi ở Rājagaha. Dân chúng chuẩn bị nhiều nệm để phục vụ các quan đại thần: nệm len, nệm bông gòn, nệm cỏ, nệm lá. Khi lễ hội đã xong, họ tháo lấy các bao nệm rồi đem đi. Các tỷ-kheo đã thấy tại chỗ lễ hội nhiều sợi len, bông gòn, sợi từ vỏ cây, cỏ, và lá bị quăng bỏ. Thấy vậy, các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép năm loại nệm: nệm len, nệm bông gòn, nệm sợi vỏ cây, nệm cỏ, nệm lá.
[220] Vào lúc bấy giờ, vải phụ tùng của giường ghế phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng để) bọc nệm.
[221] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo trải nệm dùng ở giường trên ghế, trải nệm dùng ở ghế trên giường. Các nệm bị rách lủng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) giường có bọc nệm (onaddhamañcaṃ), ghế có bọc nệm (onaddhapīthaṃ).
Các vị bọc lại nhưng không không làm tấm lót nên đã bị rơi ra từ bên dưới. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm tấm lót phủ lên trước khi bọc nệm.
Họ tháo lấy các bao nệm rồi đem đi. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép trải đều ra (phosituṃ).
Họ lại đem đi. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc chia đều ra (bhittikammaṃ).
Họ lại đem đi. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép các mảnh bằng nắm tay (hatthabhittiṃ).
[222]. Vào lúc bấy giờ, các chỗ nằm của các ngoại đạo có màu trắng, nền được làm màu đen, tường được sơn màu đỏ. Số đông dân chúng đi đến để ngắm chỗ nằm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép sơn màu trắng, màu đen, và màu đỏ ở trú xá.
[223] Vào lúc bấy giờ, màu trắng không dính được trên tường bị lồi lõm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dùng các nắm vỏ trấu lấy tay chà láng, rồi bôi màu trắng lên.
Màu trắng không thể dính chặt vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dùng đất sét nhuyễn lấy tay chà láng, rồi bôi màu trắng lên.
Màu trắng không thể dính chặt vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dùng nhựa cây hoặc bột nghiền nát.
[224] Vào lúc bấy giờ, màu đỏ không dính được trên tường bị lồi lõm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dùng các nắm vỏ trấu lấy tay chà láng, rồi bôi màu đỏ lên.
Màu đỏ không thể dính chặt vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dùng đất sét trộn với vỏ trấu, lấy tay chà láng, rồi bôi màu đỏ lên.
Màu đỏ không thể dính chặt vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dùng bột trái mù tạt (sāsapakuttaṃ) hoặc dầu sáp ong.
Chất ấy bị đóng thành từng cục. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dùng miếng giẻ để chùi.
[225] Vào lúc bấy giờ, màu đen không dính được trên tường bị lồi lõm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dùng các nắm vỏ trấu lấy tay chà láng, rồi bôi màu đen lên.
Màu đen không thể dính chặt vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dùng đất sét trộn với phân trùn, lấy tay chà láng, rồi bôi màu đen lên.
Màu đen không thể dính chặt vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dùng nhựa cây và chất làm đông (kasāvaṃ).
[226] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục sư bảo thực hiện hình ảnh gợi cảm trong trú xá: hình ảnh người nữ, hình ảnh người nam. Dân chúng viếng trú xá dạo quanh thấy thế mới phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên bảo thực hiện hình ảnh gợi cảm trong trú xá: hình ảnh người nữ, hình ảnh người nam. Vị nào bảo làm thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại.
[227] Vào lúc bấy giờ, các trú xá có nền thấp nên bị ngập nước. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên cầu thang. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
[228] Vào lúc bấy giờ, các trú xá có đông đảo người (đến). Các tỷ-kheo ái ngại khi nằm xuống. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) màn che.
Họ vén màn che lên nhìn vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) tường thấp chỉ bằng một nửa.
Họ nhìn vào từ phía trên của bức tường. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) ba loại phòng: phòng vuông, phòng chữ nhật, phòng ở trên gác xép.
[229] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo làm phòng ngay chính giữa một trú xá nhỏ. Lối vào không có. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) phòng ở một bên trong trú xá nhỏ, ngay chính giữa trong trú xá lớn.
[230] Vào lúc bấy giờ, chân tường bị hư hỏng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) cây gỗ niềng lại ở chỗ chân tường.
Tường của trú xá bị thấm nước mưa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) tấm chắn bảo vệ hoặc dùng vữa hồ.
[Buddhaghosa giải thích vữa hồ được làm bằng đất sét trộn với tro và phân bò.]
[231] Vào lúc bấy giờ, rắn từ mái cỏ rơi xuống trên vai của một vị tỷ-kheo nọ. Hoảng sợ, vị ấy la lớn. Các tỷ-kheo chạy lại hỏi vị tỷ-kheo ấy rằng:
- Này sư đệ, vì sao sư đệ la lớn vậy?
Khi đó, vị ấy đã kể lại sự việc ấy đến các tỷ-kheo. Các tỷ-kheo đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) vòm che ở mái.
[232] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo treo các túi ở chân giường và chân ghế. Chúng đã bị các con chuột và mối nhấm. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) chốt đinh gắn ở tường hoặc móc ngà voi.
[233] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo để y ở trên giường, ở trên ghế. Y bị rách thành miếng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) sào máng y, dây treo y ở trú xá.
[234] Vào lúc bấy giờ, các trú xá không có các mái hiên nên không che chắn (ánh nắng) được. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) mái hiên, sân có mái che, sân ở phía trong, hàng hiên có mái che.
Các mái hiên trở thành nơi công cộng. Các tỷ-kheo ái ngại khi nằm xuống. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) màn che di chuyển bằng bánh xe, hoặc màn che có thể di chuyển được.
[235] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo trong khi tiến hành việc phân phối bữa ăn ở ngoài trời đã bị khó chịu vì lạnh, vì nóng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (xây dựng) hội trường.
Hội trường có nền thấp nên bị ngập nước. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên cầu thang. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong hội trường. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và làm (các công việc sau): tô vữa ở trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
[236] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo phơi y trên nền đất ở ngoài trời. Y bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) sào máng y, dây treo y ở ngoài trời.
Nước uống bị sưởi ấm. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) nhà nước uống (pānīyasālaṃ) hoặc mái che chỗ nước uống (pānīyaman-dapaṃ).
Nhà nước uống có nền thấp nên bị ngập nước. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên cầu thang. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Rác cỏ rơi vào trong nhà nước uống. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và làm (các công việc sau): tô vữa ở trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
Tô uống nước không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) vỏ sò để uống nước, cốc để uống nước.
[237] Vào lúc bấy giờ, các trú xá không được rào lại. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép rào quanh bằng ba loại hàng rào: hàng rào bằng gạch, hàng rào bằng đá, và hàng rào bằng gỗ.
Cổng ra vào không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép cổng ra vào.
Cổng ra vào có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Cổng ra vào không có cửa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khoá chốt, chốt phụ, lỗ khoá, lỗ để xỏ dây, dây thừng để luồn qua.
Rác cỏ rơi ở nơi cổng ra vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và làm (các công việc sau): tô vữa ở trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại.
[238] Vào lúc bấy giờ, có một phòng bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép rải cát.
Các vị làm không có kết quả. …(như trên)…
-Này các tỷ-kheo, ta cho phép trải đá phiến.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (đào) rãnh thoát nước.
[239] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đốt lửa đó đây trong căn phòng. Căn phòng ở trở nên rác rưởi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (xây dựng) nhà để đốt lửa ở một bên góc.
Nhà để đốt lửa có nền thấp nên bị ngập nước. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên cầu thang. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Nhà để đốt lửa không có cửa. …(như trên)…
-Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khoá chốt, chốt phụ, lỗ khoá, lỗ để xỏ dây, dây thừng để luồn qua.
Rác cỏ rơi vào trong nhà để đốt lửa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và làm (các công việc sau): tô vữa ở trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
Vào lúc bấy giờ, tu viện không được rào lại. Các con dê và súc vật phá hoại cây cối. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép bao bọc quanh bằng ba loại hàng rào: hàng rào bằng tre, hàng rào bằng cây gai, và hào rãnh.
Cổng ra vào không có. Chính vì như thế, các con dê và súc vật lại vào phá hoại cây cối. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép cổng ra vào, hai cánh cửa kết lại bằng gỗ và cây gai, vòm cổng, và móc khoá.
Rác cỏ rơi ở nơi cổng ra vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và làm (các công việc sau): tô vữa ở trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại.
Tu viện bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép rải cát.
Các vị làm không có kết quả. …(như trên)…
-Này các tỷ-kheo, ta cho phép trải đá phiến.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (đào) rãnh thoát nước.
[240] Vào lúc bấy giờ, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Māgadha có ước muốn xây dựng một toà nhà dài có tô vữa đất sét. Khi ấy, các tỷ-kheo khởi ý rằng: "Mái che loại nào đã được đức Thế Tôn cho phép, loại nào không được cho phép." Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép năm loại mái che: loại mái che lợp ngói, loại mái che lợp đá phiến, loại mái che bằng vữa, loại mái lợp cỏ, loại mái che lợp lá.
Dứt Tụng Phẩm thứ nhất.
[241] Vào lúc bấy giờ, gia chủ Anāthapin-dika có người vợ là em gái của một nhà đại phú ở thành Rājagaha. Lúc đó, gia chủ Anāthapin-dika đi đến thành Rājagaha có công việc cần thiết.
[242] Vào lúc bấy giờ, nhà đại phú ở thành Rājagaha có thỉnh mời hội chúng có đức Phật đứng đầu vào ngày hôm sau. Khi ấy, nhà đại phú ở thành Rājagaha đã sai bảo đám tôi tớ và các người làm công rằng:
- Này các người, như vậy phải thức dậy thật sớm, nấu cơm, nấu thức ăn, chuẩn bị các món canh, chuẩn bị các món đặc biệt.
[243] Khi ấy, gia chủ Anāthapin-dika nghĩ đến điều này: "Trước đây, mỗi khi ta đến, gia chủ này bỏ hết mọi công việc và chỉ việc trò chuyện với ta thôi. Sao hôm nay, ông ta có vẻ khẩn trương sai bảo đám tôi tớ và các người làm công: "Này các người, như vậy phải thức dậy thật sớm, nấu cơm, nấu thức ăn, chuẩn bị các món canh, chuẩn bị các món đặc biệt." Không lẽ gia chủ này vào ngày mai có đám rước dâu, hay là có đám đưa dâu, hay là chuẩn bị cho buổi đại lễ cúng tế, hay là có mời thỉnh vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha cùng với đội quân lính?"
[244] Lúc đó, sau khi sai bảo đám tôi tớ và các người làm công xong, nhà đại phú ở thành Rājagaha đã đi đến gặp gia chủ Anāthapin-dika, sau khi đến đã chào hỏi với gia chủ Anāthapin-dika rồi ngồi xuống một bên. Khi đó, gia chủ Anāthapin-dika đã nói với nhà đại phú ở thành Rājagaha đang ngồi ở một bên điều này:
- Này gia chủ, trước đây mỗi khi ta đến, ông bỏ hết mọi công việc và chỉ việc trò chuyện với ta thôi. Sao hôm nay, ông lại có vẻ khẩn trương sai bảo đám tôi tớ và các người làm công rằng: "Này các người, như vậy phải thức dậy thật sớm, nấu cơm, nấu thức ăn, chuẩn bị các món canh, chuẩn bị các món đặc biệt." Không lẽ vào ngày mai gia chủ có đám rước dâu, hay là có đám đưa dâu, hay là chuẩn bị cho buổi đại lễ cúng tế, hay là có mời thỉnh vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha cùng với đội quân lính?
- Này gia chủ, không phải tôi có đám rước dâu, cũng không có đám đưa dâu, cũng không có mời thỉnh vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha là cùng với đội quân lính, nhưng mà tôi chuẩn bị cho buổi đại lễ cúng dường hội chúng có đức Phật đứng đầu đã được thỉnh đến vào ngày mai.
- Này gia chủ, có phải ngươi nói: "Đức Phật"?
- Ồ gia chủ, tôi nói là: "Đức Phật."
- Này gia chủ, có phải ngươi nói: "Đức Phật"?
- Ồ gia chủ, tôi nói là: "Đức Phật."
- Này gia chủ, có phải ngươi nói: "Đức Phật"?
- Ồ gia chủ, tôi nói là: "Đức Phật."
- Này gia chủ, cái âm này thật khó được nghe ở thế gian, tức là từ: "Đức Phật, Đức Phật." Này gia chủ, vào giờ này, ta có thể đi đến để diện kiến đức Thế Tôn ấy là bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác không vậy?
- Ồ gia chủ, không phải lúc rồi, giờ này không thể đi đến để diện kiến đức Thế Tôn ấy là bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác đâu. Để đến sáng sớm ngày mai, dượng sẽ đi đến để diện kiến đức Thế Tôn ấy là bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác vậy.
[245] Khi ấy, gia chủ Anāthapin-dika (nghĩ rằng): "Sáng sớm ngày mai, ta sẽ đi đến để diện kiến đức Thế Tôn ấy là bậc A La Hán, Chánh Đẳng Giác vậy," nên khi đi ngủ luôn tưởng niệm về đức Phật và đã thức giấc ba lần trong đêm, nghĩ rằng trời đã sáng. Sau đó, gia chủ Anāthapin-dika đã đi đến cửa thành dẫn đến khu rừng Sīta. Chư thiên đã mở cửa thành. Sau khi rời thành ra đi thì ánh sáng không còn và bóng đêm bao phủ khiến gia chủ Anāthapin-dika lo sợ, run rẩy, lông tóc dựng đứng lên, cho nên có ý muốn quay ngược trở về.
[246] Khi ấy, dạ xoa Sīvaka không có hiện hình và nói tiếng người rằng:
Trăm voi( và) trăm ngựa,
trăm xe kéo bởi lừa,
trăm ngàn cô thiếu nữ
điểm trang ngọc, hoa tai,
mười sáu lần như thế
không bằng một bước đi.
Này gia chủ hãy bước tới, này gia chủ hãy bước tới, việc bước tới thì tốt đẹp cho người, không có việc quay lui.
[247] Khi ấy, bóng đêm biến mất và ánh sáng hiện ra cho gia chủ Anāthapin-dika. Sự lo sợ, run rẩy, lông tóc dựng đứng lên không còn nữa. Đến lần thứ nhì, …như trên… Đến lần thứ ba, ánh sáng không còn và bóng đêm bao phủ khiến gia chủ Anāthapin-dika lo sợ, run rẩy, lông tóc dựng đứng lên, cho nên có ý muốn quay ngược trở về. Đến lần thứ ba, dạ xoa Sīvaka không có hiện hình và nói tiếng người rằng:
Trăm voi( và) trăm ngựa,
trăm xe kéo bởi lừa,
trăm ngàn cô thiếu nữ
điểm trang ngọc, hoa tai,
mười sáu lần như thế
không bằng một bước đi.
Này gia chủ hãy bước tới, này gia chủ hãy bước tới, việc bước tới thì tốt đẹp cho người, không có việc quay lui.
Cho đến lần thứ ba, bóng đêm biến mất và ánh sáng hiện ra cho gia chủ Anāthapin-dika. Sự lo sợ, run rẩy, lông tóc dựng đứng lên không còn nữa. Khi ấy, gia chủ Anāthapin-dika đã đi đến khu rừng Sīta.
[248] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đã thức dậy vào canh cuối của đêm và đi kinh hành ở ngoài trời. Khi ấy, đức Thế Tôn đã thấy gia chủ Anāthapin-dika từ đàng xa đang đi lại. Thấy vậy, đức Thế Tôn đã rời đường kinh hành đi đến ngồi ở chỗ ngồi đã được sắp đặt sẳn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã nói với gia chủ Anāthapin-dika rằng:
- Này Sudatta, hãy lại đây.
Khi ấy, gia chủ Anāthapin-dika (nghĩ rằng): "Đức Thế Tôn gọi ta bằng tên," nên đã mừng rỡ, hớn hở đi đến gần đức Thế Tôn, đến rồi đã quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế tôn và bạch với đức Thế Tôn rằng:
- Bạch Thế Tôn, chắc rằng ngài nghỉ ngơi được thoải mái?
[249]
Đúng thế, kẻ phạm hạnh
đã chứng ngộ Niết Bàn
luôn nghỉ ngơi thoải mái.
Người không vấy tình dục
bình thản, không chấp thủ.
Khi đoạn lìa các dục
vị ấy điều phục được
các nỗi khổ trong tâm
tĩnh lặng, nằm thoải mái
tâm chứng đạt Niết Bàn.
[250] Sau đó, đức Thế Tôn đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến gia chủ Anāthapin-dika như là: thuyết về bố thí, thuyết về giới cấm, thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt đầy tội lỗi của các dục, và ngài đã chỉ rõ lợi ích của việc xuất gia. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của gia chủ Anāthapin-dika đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày cho ông ta Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như một tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; cũng như vậy, ngay tại chỗ ngồi ấy, Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến gia chủ Anāthapin-dika: "Điều gì có bản tánh được sanh lên thì toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt."
[251] Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc đạo sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, gia chủ Anāthapin-dika đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, thắp sáng cây đèn dầu ở trong bóng tối cho những ai có mắt thấy được các hình dạng; cũng như thế ấy, Pháp đã được đức Thế Tôn chỉ rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, đích thân con xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỷ-kheo. Xin đức Thế Tôn chấp nhận con là cận sự nam đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn và hội chúng tỷ-kheo nhận lời bữa trai phạn của con vào ngày mai.
Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng.
Sau đó, gia chủ Anāthapin-dika biết được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
[252] Và nhà đại phú ở thành Rājagaha đã nghe rằng: "Nghe nói gia chủ Anāthapin-dika đã thỉnh mời hội chúng với đức Phật đứng đầu vào ngày mai." Khi ấy, nhà đại phú ở thành Rājagaha đã nói với gia chủ Anāthapin-dika rằng:
- Này gia chủ, nghe nói dượng đã thỉnh mời hội chúng có đức Phật đứng đầu vào ngày mai và dượng chỉ là khách vãng lai. Này gia chủ, ta sẽ giúp cho dượng tài chánh để thực hiện buổi trai phạn dâng đến hội chúng có đức Phật đứng đầu.
- Này gia chủ, tôi có đủ tài chánh và với số tài chánh ấy sẽ thực hiện buổi trai phạn dâng đến hội chúng có đức Phật đứng đầu.
[253] Một chức sắc ở thành Rājagaha đã nghe rằng: "Nghe nói gia chủ Anāthapin-dika đã thỉnh mời hội chúng có đức Phật đứng đầu vào ngày mai." Khi ấy, vị chức sắc ở thành Rājagaha đã nói với gia chủ Anāthapin-dika rằng:
- Này gia chủ, nghe nói ông đã thỉnh mời hội chúng có đức Phật đứng đầu vào ngày mai và ông chỉ là khách vãng lai. Này gia chủ, ta sẽ giúp cho ông tài chánh để thực hiện buổi trai phạn dâng đến hội chúng có đức Phật đứng đầu.
- Thưa ngài, tôi có đủ tài chánh và với số tài chánh ấy sẽ thực hiện buổi trai phạn dâng đến hội chúng có đức Phật đứng đầu.
[254] Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Māgadha đã nghe rằng: "Nghe nói gia chủ Anāthapin-dika đã thỉnh mời hội chúng có đức Phật đứng đầu vào ngày mai." Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Māgadha đã nói với gia chủ Anāthapin-dika rằng:
- Này gia chủ, nghe nói ngươi đã thỉnh mời hội chúng có đức Phật đứng đầu vào ngày mai và ngươi chỉ là khách vãng lai. Này gia chủ, trẫm sẽ giúp cho ngươi tài chánh để thực hiện buổi trai phạn dâng đến hội chúng có đức Phật đứng đầu.
- Tâu bệ hạ, thần có đủ tài chánh và với số tài chánh ấy sẽ thực hiện buổi trai phạn dâng đến hội chúng có đức Phật đứng đầu.
[255] Sau khi trải qua đêm ấy, gia chủ Anāthapin-dika đã cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng cứng mềm tại tư gia của nhà đại phú ở thành Rājagaha rồi cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
- Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy, đức Thế Tôn vào buổi sáng sau khi mặc y cầm y bát đã đi đến tư gia của nhà đại phú ở thành Rājagaha, đến rồi đã ngồi xuống chỗ ngồi đã được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỷ-kheo. Và gia chủ Anāthapin-dika sau khi đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỷ-kheo có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng cứng mềm rồi đã (đến) ngồi xuống một bên đức Thế Tôn khi ấy đã thọ thực xong, bàn tay và bình bát đã được rửa. Khi đã ngồi xuống một bên, gia chủ Anāthapin-dika đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời với con về việc an cư mùa mưa tại thành Sāvatthi cùng với hội chúng tỷ-kheo.
- Này gia chủ, các đấng Như Lai chỉ thỏa thích ở trú xứ thanh vắng.
- Bạch Thế Tôn, con đã biết rõ. Bạch Thiện Thệ, con đã biết rõ.
Rồi đức Thế Tôn, sau khi chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho gia chủ Anāthapin-dika bằng bài Pháp thoại, đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
[256] Vào lúc bấy giờ, gia chủ Anāthapin-dika có nhiều bạn bè,có nhiều cộng sự, và có lời nói uy tín. Khi ấy, gia chủ Anāthapin-dika sau khi hoàn tất công việc cần thiết ấy ở Rājagaha đã ra đi trở về Sāvatthi. Và trên đường đi, gia chủ Anāthapin-dika đã bảo với dân chúng rằng:
- Quý vị ơi, hãy xây dựng tu viện, hãy sắp đặt trú xá, hãy chuẩn bị vật cúng dường. Đức Phật đã xuất hiện ở trên đời. Và đức Thế Tôn ấy đã được tôi thỉnh mời và sẽ đi đến bằng con đường này.
Khi đó, đám người ấy được cổ vũ bởi gia chủ Anāthapin-dika đã xây dựng tu viện, đã cho thiết lập trú xá, và chuẩn bị vật cúng dường.
Sau khi về đến Sāvatthi, gia chủ Anāthapin-dika đã suy nghĩ rằng: "Đức Thế Tôn nên ngụ ở nơi nào đây? Đối với ngài, chỗ ấy không nên xa làng mạc lắm cũng không quá gần, thuận tiện cho việc tới lui, dân chúng có thể đi đến khi nào có ước muốn, ban ngày không đông đảo, ban đêm ít tiếng động, không nhiều gió, tách biệt với dân chúng, thích hợp cho việc thiền tịnh." Gia chủ Anāthapin-dika nhận thấy khu vườn của vương tử Jeta là không xa làng mạc lắm cũng không quá gần, thuận tiện cho việc tới lui, dân chúng có thể đi đến khi nào có ước muốn, ban ngày không đông đảo, ban đêm ít tiếng động, không nhiều gió, tách biệt với dân chúng, thích hợp cho việc thiền tịnh. Thấy vậy, gia chủ liền đi đến gặp vương tử Jeta, đến rồi đã nói với vương tử Jeta điều này:
- Thưa công tử, hãy cho tôi khu vườn để xây dựng tu viện.
- Này gia chủ, khu vườn không thể cho được cho dù với giá mười triệu.
- Thưa công tử, khu vườn đã được bán.
- Này gia chủ, khu vườn không có bán.
Họ đã hỏi ý các viên đại thần lo việc xử án rằng:
- (Khu vườn) đã được bán hay chưa được bán?
Các viên quan đại thần đã nói rằng:
- Thưa công tử, bởi vì giá cả đã được ngài quy định nên khu vườn đã được bán.
Sau đó, gia chủ Anāthapin-dika đã bảo chở tiền vàng lại bằng các xe kéo và cho trải mười triệu tiền vàng ở khu rừng Jeta. Tiền vàng chở lại lần ấy còn thiếu cho một khoảnh nhỏ xung quanh cổng ra vào. Khi ấy, gia chủ Anāthapin-dika mới bảo dân chúng rằng:
- Quý vị, hãy đem tiền vàng lại để trải lên khoảng trống này.
Lúc bấy giờ, vương tử Jeta khởi ý rằng: "Theo như cách vị gia chủ này hy sinh nhiều tiền vàng đến thế này thì việc này không có tầm thường đâu," nên đã nói với gia chủ Anāthapin-dika rằng:
- Này gia chủ, được rồi, không cần phải trải lên khoảng trống này nữa. Hãy cho ta khoảng trống đó. Ta sẽ làm việc phước đó.
Sau đó, gia chủ Anāthapin-dika (nghĩ rằng): "Vương tử Jeta này thông minh, nhiều người biết tiếng, thật là một lợi ích lớn lao khi những người có danh tiếng như vầy có được niềm tin trong Pháp và Luật này!" nên đã nhường khoảng trống đó cho vương tử Jeta. Sau đó, vương tử Jeta đã cho dựng lên một cổng ra vào ở khoảng trống đó.
Khi ấy, gia chủ Anāthapin-dika đã cho xây dựng trong khu rừng của Jeta các trú xá, các phòng ở, các cổng ra vào, các nhà phục vụ, các nhà để đốt lửa, các kho chứa đồ, các nhà vệ sinh, các đường kinh hành, các gian nhà ở đường kinh hành, các giếng nước, các gian nhà ở giếng nước, các phòng tắm hơi, các gian nhà ở phòng tắm hơi, các hồ trữ nước, các mái che.
[257] Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi ngự tại Rājagaha theo như ý thích đã lên đường đi về phía Vesālī. Tuần tự du hành ngài đã ngự đến Vesālī. Tại nơi ấy, ở Vesālī, đức Thế Tôn ngự tại Đại Lâm, giảng đường Kūtāgāra.
[258] Vào lúc bấy giờ, dân chúng làm công trình mới một cách cẩn thận. Các tỷ-kheo tham gia vào công trình mới cũng được phục vụ một cách chu đáo với y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh.
[259] Khi ấy, có một người thợ may nghèo khởi ý rằng: "Sự việc này không phải là tầm thường, như là việc những người này đang làm công trình mới một cách cẩn thận; hay là ta cũng nên làm công trình mới vậy?" Sau đó, người thợ may nghèo này đích thân trộn hồ, gom góp một số gạch, và dựng lên một bức tường. Do ông ta không khéo xếp gạch nên bức tường bị cong rồi đổ xuống. Đến lần thứ nhì, …(như trên)… Đến lần thứ ba, người thợ may nghèo này đích thân trộn hồ, gom góp một số gạch, và dựng lên một bức tường. Do ông ta không khéo xếp gạch nên bức tường bị cong rồi đổ xuống. Khi đó, người thợ may nghèo ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Người ta cúng dường y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh đến các sa-môn Thích tử này, nên các vị chỉ bảo, hướng dẫn họ, và tham gia vào công trình mới của họ. Trái lại, tôi thì nghèo nên không ai chỉ bảo, hay hướng dẫn tôi, hay tham gia vào công trình mới của tôi cả.
Các tỷ-kheo đã nghe được người thợ may nghèo ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Rồi các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép cúng dường công trình mới. Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo là vị phụ trách công trình mới cần gắn bó một cách tích cực (suy nghĩ rằng): "Có cách gì để trú xá được hoàn thành nhanh chóng?" và sẽ sửa chữa những chỗ bị hư hỏng. Và này các tỷ-kheo, nên giao cho như vầy: Trước hết, vị tỷ-kheo cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giao công trình mới là trú xá của gia chủ tên (như vầy) cho tỷ-kheo tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng giao công trình mới là trú xá của gia chủ tên (như vầy) cho tỷ-kheo tên (như vầy). Đại đức nào thỏa thuận với việc giao công trình mới là trú xá của gia chủ tên (như vầy) cho tỷ-kheo tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Công trình mới là trú xá của gia chủ tên (như vầy) đã được giao cho tỷ-kheo tên (như vầy). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[260] Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn sau khi ngự tại Vesālī theo như ý thích đã lên đường đi về Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đệ tử của các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đi xa lên phía trước hội chúng có đức Phật dẫn đầu rồi giành phần các trú xá và giành phần các chỗ nằm: "Chỗ này sẽ dành cho hoà thượng của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho giáo thọ của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho chúng ta."
Khi ấy, đại đức Sāriputta đi phía sau xa hội chúng có đức Phật dẫn đầu, vì các trú xá đã bị giành phần và các chỗ nghỉ đã bị giành phần, nên không có chỗ nằm đành ngồi xuống ở một gốc cây. Sau đó, đức Thế Tôn đã thức dậy vào canh cuối của đêm và đã đằng hắng. Đại đức Sāriputta cũng đã đằng hắng lại.
- Ai ở đàng kia vậy?
- Bạch Thế Tôn, con là Sāriputta.
- Này Sāriputta, vì sao ngươi lại ngồi ở đây?
Khi ấy, đại đức Sāriputta đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[261] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo lại và hỏi các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo đệ tử của các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đi xa lên phía trước hội chúng có đức Phật dẫn đầu rồi đã giành phần các trú xá và giành phần các chỗ nằm: "Chỗ này sẽ dành cho hoà thượng của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho giáo thọ của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho chúng ta," có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, vì sao những kẻ rồ dại này lại đi xa lên phía trước hội chúng có đức Phật dẫn đầu rồi đã giành phần các trú xá và giành phần các chỗ nằm: "Chỗ này sẽ dành cho hoà thượng của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho giáo thọ của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho chúng ta." Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và hỏi các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, vị nào xứng đáng với chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất?
Một số tỷ-kheo đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào xuất gia có giòng dõi vua chúa thì xứng đáng với chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỷ-kheo đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào xuất gia có giòng dõi Bà La Môn thì xứng đáng với chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỷ-kheo đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào xuất gia có giòng dõi là gia chủ thì xứng đáng với chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỷ-kheo đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào trì Kinh thì xứng đáng với chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỷ-kheo đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào duy trì Luật thì xứng đáng với chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỷ-kheo đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào là Pháp sư thì xứng đáng với chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỷ-kheo đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào đã chứng đạt sơ thiền thì xứng đáng với chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỷ-kheo đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào đã chứng đạt nhị thiền thì xứng đáng với chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỷ-kheo đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào đã chứng đạt tam thiền thì xứng đáng với chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỷ-kheo đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào đã chứng đạt tứ thiền thì xứng đáng với chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỷ-kheo đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào là bậc Nhập Lưu (Sotāpanna) thì xứng đáng với chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỷ-kheo đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào là bậc Nhất Lai (Sakadāgāmī) …(như trên)…
- Bạch Thế Tôn, vị nào là bậc Bất Lai (Anāgāmī) …(như trên)…
- Bạch Thế Tôn, vị nào là bậc A La Hán (Arahanta) thì xứng đáng với chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỷ-kheo đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào là bậc Tam Minh (Tevijjā) thì xứng đáng với chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
Một số tỷ-kheo đáp như vầy:
- Bạch Thế Tôn, vị nào là bậc Lục Thông (Chalabhiññā) thì xứng đáng với chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất.
[262] Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, trước đây, ở vùng Hy Mã Lạp Sơn có một cây si cổ thụ. Có ba bạn hữu sinh sống nương tựa vào cây ấy: một con chim đa đa, một con khỉ, và một con voi lớn. Chúng sinh sống không có sự kính trọng, không phục tùng, không có thái độ quan tâm lẫn nhau. Lúc bấy giờ, này các tỷ-kheo, ba bạn hữu ấy đã khởi ý rằng: "Này, chúng ta cần phải biết ai trong chúng ta là lớn nhất tính theo sự sinh ra để chúng ta tôn trọng, kính nể, quý mến, phục vụ vị ấy, và chúng ta có thể tồn tại trong sự giáo huấn của vị ấy."
Sau đó, này các tỷ kheo, con chim đa đa và con khỉ đã hỏi con voi lớn rằng:
- Này bạn, bạn nhớ gì về thời xa xưa?
- Hai bạn à, khi tôi còn nhỏ, tôi thường để cây si này ở giữa hai chân khi đi ngang qua, ngọn cây chỉ đụng tới bụng tôi. Đó là điều tôi nhớ được về thời xa xưa, hai bạn à.
Sau đó, này các tỷ kheo, con chim đa đa và con voi lớn đã hỏi con khỉ rằng:
- Này bạn, bạn nhớ gì về thời xa xưa?
- Hai bạn à, khi tôi còn nhỏ, tôi thường ngồi trên đất ăn đọt non của cây si này. Đó là điều tôi nhớ được về thời xa xưa, hai bạn à.
Sau đó, này các tỷ kheo, con khỉ và con voi lớn đã hỏi con chim đa đa rằng:
- Này bạn, bạn nhớ gì về thời xa xưa?
- Hai bạn à, ở một khu vực nào đó có một cây si cổ thụ. Tại đó, tôi thường ăn trái cây rồi đại tiện ở chỗ này, cây si này mọc lên từ chỗ đó. Như thế, tính theo sự sinh ra thì tôi là lớn nhất, hai bạn à.
Sau đó, này các tỷ-kheo, con khỉ, con voi lớn đã nói với con chim đa đa rằng:
- Bạn à, bạn là lớn nhất tính theo sự sinh ra. chúng tôi sẽ tôn trọng, kính nể, quý mến, phục vụ bạn, và chúng tôi sẽ tồn tại trong sự giáo huấn của bạn.
Sau đó, này các tỷ-kheo, con chim đa đa đã cho con khỉ và con voi lớn thọ trì năm giới, và bản thân nó cũng thực hành theo năm giới đã thọ trì. Chúng sinh sống có sự kính trọng, phục tùng, có thái độ quan tâm lẫn nhau, đến khi hoại rã thân này chết đi, chúng đã sanh về cõi trời là chốn an vui. Này các tỷ-kheo, như vậy con chim đa đa ấy nổi danh là bậc hành phạm hạnh.
[263]
Những người trọng bậc lớn
rành rẽ pháp kỹ cương
kiếp này được khen ngợi
kiếp sau sanh thiên giới.
Này các tỷ-kheo, ngay cả các chúng sanh là các con thú ấy còn sinh sống có sự kính trọng, phục tùng, và có thái độ quan tâm lẫn nhau. Ở đây, này các tỷ-kheo, các ngươi hãy làm rạng rỡ việc các ngươi xuất gia làm sa-môn trong Pháp và Luật được khéo thuyết giảng như vầy, tại sao các ngươi lại có thể sinh sống không có sự kính trọng, không phục tùng, và không có thái độ quan tâm lẫn nhau? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi thuyết Pháp thoại, ngài đã bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy chào, việc chắp tay, sự kính trọng, chỗ ngồi tốt nhất, nước uống tốt nhất, vật thực tốt nhất tính theo thâm niên. Này các tỷ-kheo, đồ vật thuộc về hội chúng tính theo thâm niên là điều không được phủ nhận. Vị nào phủ nhận thì phạm tội tác ác (dukkata).
[264] Này các tỷ-kheo, đây là mười hạng người không nên được đảnh lễ: vị tu lên bực trên sau không nên được đảnh lễ bởi vị tu lên bậc trên trước, vị chưa tu lên bậc trên không nên được đảnh lễ, vị thâm niên hơn thuộc nhóm khác nói sai Pháp không nên được đảnh lễ, phụ nữ không nên được đảnh lễ, vị đã bị thiến không nên được đảnh lễ, vị bị hành phạt parivāsakhông nên được đảnh lễ, vị xứng đáng bị phạt (thực hành) trở lại từ đầu (mūlāyapatikassanāraho) không nên được đảnh lễ, vị xứng đáng hành phạt mānatta không nên được đảnh lễ, vị thực hành hành phạt mānatta không nên được đảnh lễ, vị chưa được giải tội không nên được đảnh lễ. Này các tỷ-kheo, đây là mười trường hợp không nên được đảnh lễ.
Này các tỷ-kheo, đây là ba hạng người nên được đảnh lễ: vị tu lên bực trên trước nên được đảnh lễ bởi vị tu lên bậc trên sau; vị thâm niên hơn thuộc nhóm khác nói đúng Pháp nên được đảnh lễ; này các tỷ-kheo, trong thế gian với chư thiên, ma vương, phạm thiên, đức Như Lai, bậc A La Hán, đấng Chánh Đẳng Giác nên được đảnh lễ bởi các chúng sanh gồm có sa-môn, Bà La Môn, chư thiên, và nhân loại. Này các tỷ-kheo, đây là ba trường hợp nên được đảnh lễ.
[265] Vào lúc bấy giờ, dân chúng chuẩn bị mái che, chuẩn bị nệm trải, chuẩn bị chỗ trống dành riêng cho hội chúng. Các tỷ-kheo đệ tử của các tỷ-kheo nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): "Chỉ có những gì của hội chúng mới tính theo thâm niên là điều đã được đức Thế Tôn quy định, chứ không phải việc làm để dành riêng (cho hội chúng)," nên đã đi xa lên phía trước hội chúng có đức Phật dẫn đầu rồi giành phần các mái che, giành phần các nệm trải, giành phần các chỗ trống: "Chỗ này sẽ dành cho hoà thượng của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho giáo thọ của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho chúng ta."
Khi ấy, đại đức Sāriputta đi phía sau xa hội chúng có đức Phật dẫn đầu, vì các mái che đã bị giành phần, các nệm trải đã bị giành phần, các chỗ trống đã bị giành phần, nên không có một chỗ trống đành ngồi xuống ở một gốc cây. Sau đó, đức Thế Tôn khi thức dậy vào canh cuối của đêm đã đằng hắng. Đại đức Sāriputta cũng đã đằng hắng lại.
- Ai ở đàng kia vậy?
- Bạch Thế Tôn, con là Sāriputta.
- Này Sāriputta, vì sao ngươi lại ngồi ở đây?
Khi ấy, đại đức Sāriputta đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[266] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo lại và hỏi các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo đệ tử của các tỷ-kheo nhóm Lục Sư (nghĩ rằng): "Chỉ có những gì của hội chúng mới tính theo thâm niên là điều đã được đức Thế Tôn quy định, không phải là việc làm để dành riêng (cho hội chúng)," nên đã đi xa lên phía trước hội chúng có đức Phật dẫn đầu và giành phần các mái che, giành phần các nệm trải, giành phần các chỗ trống: "Chỗ này sẽ dành cho hoà thượng của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho giáo thọ của chúng ta, chỗ này sẽ dành cho chúng ta," có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, đồ vật được làm đã được chỉ định tính theo thâm niên là điều không được xâm phạm. Vị nào xâm phạm thì phạm tội tác ác (dukkata).
[267] Vào lúc bấy giờ, dân chúng sắp xếp ở trong phòng ăn, ở trong nhà chỗ ngồi cao, chỗ ngồi rộng như là: ghế nằm, ghế trường kỷ, thảm lông cừu, thảm nhiều màu, thảm màu trắng, thảm thêu bông hoa, thảm bông gòn, thảm dệt có nhiều hình vẽ, thảm lông rái cá, thảm có lông một góc, tấm lụa có kết ngọc quý, thảm lụa, thảm lớn để nhảy múa, thảm da voi, thảm da ngựa, thảm lót xe, thảm da báo, thảm da nai giống quý, thảm có che phủ ở trên, thảm có màu đỏ ở cả hai đầu. Các tỷ-kheo ngại ngùng đã không ngồi lên. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ngồi lên chỗ đã được sắp xếp bởi gia chủ nhưng không được nằm lên trừ ra ba thứ: ghế nằm, trường kỷ, giường nệm.
[268] Vào lúc bấy giờ, dân chúng sắp xếp ở trong phòng ăn, ở trong nhà loại giường và ghế có phủ nệm. Các tỷ-kheo ngại ngùng đã không ngồi lên. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ngồi lên chỗ đã được sắp xếp bởi gia chủ, nhưng không được nằm lên.
[269] Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn tuần tự du hành đã ngự đến Sāvatthi. Nơi đó, ở Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự ở Jetavana, trong tu viện của ông Cấp Cô Độc (Anāthapin-dika). Khi ấy, gia chủ Anāthapin-dika đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, gia chủ Anāthapin-dika đã bạch với đức Thế Tôn rằng:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn và hội chúng tỷ-kheo nhận lời bữa trai phạn vào ngày mai.
Đức Thế tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, gia chủ Anāthapin-dika sau khi biết được sự nhận lời của đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
[270] Sau khi trải qua đêm ấy, gia chủ Anāthapin-dika sau khi cho chuẩn bị sẵn sàng thức ăn thượng hạng cứng mềm rồi đã cho người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:
- Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.
Khi ấy, đức Thế Tôn vào buổi sáng sau khi mặc y cầm y bát đã đi đến tư gia của gia chủ Anāthapin-dika, đến rồi đã ngồi xuống chỗ ngồi đã được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỷ-kheo. Sau đó, gia chủ Anāthapin-dika đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỷ-kheo có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng cứng mềm rồi đã đi (đến) ngồi xuống một bên đức Thế Tôn khi ấy thọ thực xong, bàn tay và bình bát đã được rửa. Khi đã ngồi xuống một bên, gia chủ Anāthapin-dika đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, con nên thực hành như thế nào đối với Kỳ Viên (Jetavana)?
- Này gia chủ, như vầy người hãy cho thiết lập Kỳ Viên (Jetavana) là của hội chúng tứ phương hiện tại và vị lai.
- Xin vâng, bạch ngài.
Rồi gia chủ Anāthapin-dika nghe lời đức Thế Tôn đã thiết lập Kỳ Viên (Jetavana) là của hội chúng tứ phương hiện tại và vị lai. Sau đó, đức Thế Tôn đã tùy hỷ với gia chủ Anāthapin-dika bằng những lời kệ này:
[271]
Chúng ngăn ngừa nóng lạnh
và các loài thú dữ
các loài rắn muỗi mòng
luôn các cơn mưa lạnh (từ nơi ấy).
Cơn gió nóng dữ dội
sanh lên bị dội lại (từ nơi ấy).
Sự bố thí trú xá
đến hội chúng để hành
thiền định và minh sát
đem lại sự nương náu
đem lại sự an lạc
đã được chư Phật Đà
ngợi khen là tối thắng.
Vì thế người trí tuệ
thấy lợi ích cho mình
cho xây trú xá đẹp
để các bậc đa văn
có thể ngụ nơi ấy.
Nên cúng dường cơm nước
y áo và chỗ trú ngụ
đến các chân tu ấy
có tâm tư thanh tịnh.
Các vị thuyết đến người
Pháp xua mọi khổ đau
người thấy Pháp đời này
không còn ô nhiễm nữa
và chứng ngộ Niết Bàn.
Sau khi đã tùy hỷ với gia chủ Anāthapin-dika bằng những lời kệ ấy, đức Thế Tôn đã rời chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
[272] Vào lúc bấy giờ, có một quan đại thần là đệ tử đạo Lõa Thể đã dâng bữa trai phạn đến hội chúng. Đại đức Upanananda con trai giòng Sākya đến trễ lúc bữa trai phạn chưa chấm dứt và đã làm cho vị tỷ-kheo ngồi kế bên chưa ăn xong phải đứng dậy gây nên cảnh ồn ào trong nhà ăn. Khi ấy, vị quan đại thần đã phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích tử đã đến trễ còn làm cho vị tỷ-kheo ngồi kế bên chưa ăn xong phải đứng dậy gây nên cảnh ồn ào trong nhà ăn. Không lẽ chỉ có chỗ ngồi này thì mới có thể ăn được thoải mái hay sao?
Các tỷ-kheo đã nghe vị quan đại thần phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy đã phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda đã đến trễ còn làm cho vị tỷ-kheo ngồi kế bên chưa ăn xong phải đứng dậy gây nên cảnh ồn ào trong nhà ăn?
Sau đó, các tỷ-kheo đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này Upananda, nghe nói ngươi đã đến trễ còn làm cho vị tỷ-kheo ngồi kế bên chưa ăn xong phải đứng dậy gây nên cảnh ồn ào trong nhà ăn, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại kia, vì sao ngươi đến đã trễ lại còn cho vị tỷ-kheo ngồi kế bên chưa ăn xong phải đứng dậy gây nên cảnh ồn ào trong nhà ăn? Này kẻ rồ dại kia, việc ấy không đem lại niềm tin cho những ai chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, khi bữa ăn chưa chấm dứt, không nên làm cho (vị khác) kế bên phải đứng dậy; vị nào làm cho (vị khác) đứng dậy thì phạm tội tác ác (dukkata). Nếu làm cho (vị khác) đứng dậy và được (vị ấy) mời thỉnh thì nên nói rằng: "Hãy đi lấy nước đem lại." Nếu việc ấy đạt được như vậy thì điều ấy là điều tốt đẹp. Nếu không đạt được như vậy thì (vị đang ăn) nên nuốt xuống nắm cơm một cách khéo léo rồi nhường chỗ ngồi cho vị tỷ-kheo thâm niên hơn. Này các tỷ-kheo, ta nói rằng: "Không vì bất cứ trường hợp nào mà chỗ ngồi của vị tỷ-kheo thâm niên hơn lại bị xâm phạm." Vị nào xâm phạm thì phạm tội tác ác (dukkata).
[273] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư bảo các tỷ-kheo bệnh phải đứng dậy. Các vị bệnh nói như vầy:
- Này các đại đức, chúng tôi không thể đứng dậy, chúng tôi bị bệnh.
- Chúng tôi sẽ làm cho các đại đức đứng dậy.
Rồi họ đã nắm lấy, lôi đứng dậy, và buông ra để cho các vị ấy đứng. Các vị bị bệnh khi được buông ra đã té xuống. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên làm cho các vị bệnh phải đứng dậy, vị nào làm đứng dậy thì phạm tội tác ác (dukkata).
[274] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư (bảo rằng): "Chúng tôi bị bệnh, không nên bảo chúng tôi đứng dậy," rồi chiếm chỗ nằm tốt nhất. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép nhường chỗ nằm thích hợp cho vị bị bệnh.
[275] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư dùng thủ thuật khéo léo xâm chiếm các chỗ trú ngụ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên dùng thủ thuật khéo léo xâm chiếm các chỗ trú ngụ. Vị nào xâm chiếm thì phạm tội tác ác (dukkata).
[276] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Mười Bảy Sư đang sửa chữa một trú xá lớn ở vùng biên địa (nghĩ rằng): "Chúng ta sẽ an cư mùa mưa ở đây." Các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã thấy các tỷ-kheo nhóm Mười Bảy Sư đang sửa chữa ngôi trú xá. Thấy rồi, họ đã nói như vầy:
- Này các vị, các tỷ-kheo nhóm Mười Bảy Sư này đang sửa chữa một trú xá. Giờ chúng ta hãy bảo họ rút đi.
Một số vị nói như vầy:
- Này các đệ, hãy chờ đợi trong khi họ đang sửa chữa. Cho đến khi nào họ sửa chữa xong thì chúng ta hãy bảo họ rút đi.
Sau đó, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã nói với các tỷ-kheo nhóm Mười Bảy Sư rằng:
- Này các đại đức, hãy đi đi, trú xá thuộc về chúng tôi.
- Này các đại đức, sao lại không nói cho biết trước, chúng tôi đã có thể sửa chữa một cái khác.
- Này các đại đức, không phải trú xá thuộc về hội chúng hay sao?
- Này các đại đức, đúng vậy, trú xá thuộc về hội chúng.
- Này các đại đức, hãy đi đi, trú xá thuộc về chúng tôi.
- Này các đại đức, trú xá thì lớn, các vị ở được, thì chúng tôi cũng sẽ ở được.
- Này các đại đức, hãy đi đi, trú xá thuộc về chúng tôi.
Rồi các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã nổi giận, bất bình nắm (các vị ấy) ở cổ lôi ra ngòai. Các vị bị lôi ra ngoài đã khóc lóc. Các tỷ-kheo đã nói như vầy:
- Này các đại đức, vì sao các vị khóc vậy?
- Bạch chư đại đức, những tỷ-kheo nhóm Lục Sư này đã nổi giận, bất bình lôi chúng tôi ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng.
Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy đã phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Lục Sư này đã nổi giận, bất bình lôi các tỷ-kheo ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng?
Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các ngươi đã nổi giận, bất bình lôi các tỷ-kheo ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng, có đúng không vậy?
- Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên vì nổi giận, bất bình rồi lôi tỷ-kheo ra khỏi trú xá thuộc về hội chúng. Vị nào lôi ra thì sẽ xử lý đúng theo Pháp. Này các tỷ-kheo, ta cho phép phân phối chỗ trú ngụ.
[277] Khi ấy, các tỷ-kheo đã khởi ý rằng: "Chỗ trú ngụ nên được phân phối bởi vị nào?" Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép chỉ định vị phân phối chỗ trú ngụ là vị tỷ-kheo có được năm điều: là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích; là vị không thể bị chi phối bởi sự sân hận; là vị không thể bị chi phối bởi sự si mê; là vị không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi; là vị biết vật được phân phối và không được phân phối.
[278] Và này các tỷ-kheo, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỷ-kheo cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị phân phối chỗ trú ngụ. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị phân phối chỗ trú ngụ. Đại đức nào thỏa thuận với việc chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị phân phối chỗ trú ngụ, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Vị tỷ-kheo tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị phân phối chỗ trú ngụ. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[279] Khi ấy, các tỷ-kheo là vị phân phối chỗ trú ngụ đã khởi ý rằng: "Chỗ trú ngụ nên được phân phối như thế nào?" Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép trước tiên đếm số lượng tỷ-kheo; sau khi đếm số lượng tỷ-kheo đếm số lượng chỗ nằm; sau khi đếm số lượng chỗ nằm thì phân phối theo chỗ nằm.
Trong khi phân phối theo chỗ nằm, chỗ nằm được thừa ra. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép phân phối theo trú xá.
Trong khi phân phối theo trú xá, trú xá được thừa ra. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép phân phối theo phòng ở.
Trong khi phân phối theo phòng ở, phòng ở được thừa ra. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép phân phối luôn phần còn lại. Khi phần còn lại đã được nhận, có vị tỷ-kheo khác đi đến, nếu (các vị) không sẵn lòng thì không cần phải cho (na akāmā dātabbo).
[280] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo phân phối sàng tọa cho một vị ngụ ở ngoài ranh giới. Các vị đã trình sự việc ấy đến đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên phân phối sàng tọa cho vị ngụ ở ngoài ranh giới. Vị nào phân phối thì phạm tội tác ác (dukkata).
[281] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo sau khi nhận chỗ trú ngụ đã chiếm giữ luôn. Các vị đã trình sự việc ấy đến đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, sau khi nhận chỗ trú ngụ không nên chiếm giữ luôn. Vị nào chiếm giữ thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép chiếm giữ trong ba tháng mùa mưa, mùa khác không được chiếm giữ.
[282] Khi ấy, các tỷ-kheo đã khởi ý rằng: "Có bao nhiêu thời điểm để phân phối chỗ trú ngụ?" Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, có ba thời điểm phân phối chỗ trú ngụ: thời điểm trước, thời điểm sau, thời điểm trung gian. Ngày kế ngày rằm của tháng Āsālhā [tương đương ngày 16 tháng sáu âm lịch, tức là ngày đầu tiên của mùa an cư mùa mưa đợt đầu]. là thời điểm trước nên phân phối, một tháng kế sau ngày rằm của tháng Āsālhā là thời điểm sau nên phân phối, một ngày sau lễ Tự Tứ (Pavāran-ā) cho đến lần an cư mùa mưa kế là thời điểm trung gian nên phân phối. Này các tỷ-kheo, đây là ba thời điểm để phân phối chỗ trú ngụ.
Dứt Tụng Phẩm thứ nhì.
[283] Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai giòng Thích Ca sau khi được phân phối một chỗ trú ngụ ở Sāvatthi đã đi đến trú ngụ ở một làng khác. Ở đó, vị ấy lại được phân phối một chỗ trú ngụ nữa. Lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ấy đã khởi ý rằng: "Này các vị, đại đức Upananda con trai giòng Thích Ca này là vị thường gây nên các sự xung đột, cãi cọ, tranh luận, nói chuyện nhảm nhí, và bất hoà trong hội chúng. Nếu vị ấy mà an cư mùa mưa ở đây thì tất cả chúng ta sẽ không được an lạc. Vậy chúng ta hãy đến hỏi vị ấy đi." Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã nói với đại đức Upananda con trai giòng Thích Ca điều này:
- Này đại đức Upananda, hình như đại đức đã được phân phối chỗ trú ngụ ở Sāvatthi rồi phải không?
- Đúng thế, các vị.
- Này đại đức Upananda, tại sao đại đức chỉ là một lại chiếm giữ đến hai?
- Các vị, giờ tôi bỏ cái ở đây, giữ lại cái đàng kia.
Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao đại đức Upananda con trai giòng Thích Ca chỉ là một lại chiếm giữ đến hai?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này Upananda, nghe nói ngươi chỉ là một lại chiếm giữ đến hai, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này kẻ rồ dại kia, vì sao ngươi chỉ là một lại chiếm giữ đến hai? Này kẻ rồ dại kia, ở đàng kia ngươi giữ lại, ở đây ngươi bỏ; ở đây ngươi giữ lại, ở đàng kia ngươi bỏ. Như thế, này kẻ rồ dại kia, cả hai đều bị khước từ. Này kẻ rồ dại kia, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, một người không nên chiếm giữ hai (chỗ trú ngụ), vị nào chiếm giữ thì phạm tội tác ác (dukkata).
[284] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bằng nhiều phương tiện đã thuyết giảng về Luật (Vinaya), đã ngợi khen về Luật, đã ngợi khen về sự nghiên cứu Luật, đã ngợi khen đại đức Upāli như thế này như thế khác cho các tỷ-kheo nghe. Các tỷ-kheo đã khởi ý rằng: "Đức Thế Tôn bằng nhiều phương tiện đã thuyết giảng về Luật, đã ngợi khen về Luật, đã ngợi khen về sự nghiên cứu Luật, đã ngợi khen đại đức Upāli như thế này như thế khác. Này các vị, vậy chúng ta hãy học thành thạo về Luật từ đại đức Upāli." Và các vị ấy gồm nhiều tỷ-kheo thượng tọa, tân thọ, và trung niên đã học thành thạo về Luật từ đại đức Upāli. Đại đức Upāli vì tôn trọng các tỷ-kheo thượng tọa đã phải đứng để giảng giải. Các tỷ-kheo thượng tọa vì tôn trọng Giáo Pháp cũng đã đứng để nghe giảng. Trong trường hợp đó, chính các tỷ-kheo thượng tọa bị mệt mỏi và đại đức Upāli cũng bị mệt mỏi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép vị tỷ-kheo tân thọ trong khi giảng giải được ngồi chỗ ngồi ngang bằng hoặc chỗ ngồi cao hơn vì tôn trọng Giáo Pháp; vị tỷ-kheo thượng tọa trong khi nghe giảng được ngồi chỗ ngồi ngang bằng hoặc chỗ thấp hơn vì tôn trọng Giáo Pháp.
[285] Vào lúc bấy giờ, có nhiều tỷ-kheo đứng gần đại đức Upāli chờ đợi bài giảng bị mệt mỏi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ngồi (chung) với những vị có đồng đẳng cấp.
[286] Khi ấy, các tỷ-kheo đã khởi ý rằng: "Giới hạn đến đâu gọi là có đồng đẳng cấp?" Các vị đã trình sự việc ấy đến đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép cùng ngồi với sự cách biệt ba năm tu.
[287] Vào lúc bấy giờ, có nhiều tỷ-kheo có đồng đẳng cấp đã cùng ngồi trên một giường khiến giường bị gãy, đã cùng ngồi trên một ghế khiến ghế bị gãy. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép giường với nhóm ba vị, ghế với nhóm ba vị.
Nhóm ba vị cùng ngồi trên một giường khiến giường bị gãy, cùng ngồi trên một ghế khiến ghế bị gãy. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép giường với nhóm hai vị, ghế với nhóm hai vị.
[288] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đã ngần ngại không dám cùng ngồi với những vị không đồng đẳng cấp trên một ghế dài. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép cùng ngồi với những vị không đồng đẳng cấp trên một ghế dài ngoại trừ người bị thiến, phụ nữ, lưỡng tính.
[289] Khi ấy, các tỷ-kheo đã khởi ý rằng: "Ghế dài tối đa là bao nhiêu?" Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ghế dài có chiều dài tối đa là đủ chỗ cho ba người.
[290] Vào lúc bấy giờ, bà Visākhā mẹ của Migāra có ý muốn cho người xây dựng một tòa nhà dài trang trí hình đầu voi (hatthinakhakaṃ) vì sự lợi ích của hội chúng. Khi ấy, các vị tỷ-kheo đã khởi ý rằng: "Các công trình phụ nào của một tòa nhà dài được đức Thế Tôn cho phép, cái nào không được cho phép?" Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép tất cả các công trình phụ của tòa nhà lớn.
[291] Vào lúc bấy giờ, bà nội của vua Pasenadi xứ Kosala từ trần. Khi bà ta từ trần, nhiều vật dụng không được phép dùng đã phát sanh đến hội chúng như là: ghế nằm, ghế trường kỷ, thảm lông cừu, thảm nhiều màu, thảm màu trắng, thảm thêu bông hoa, thảm bông gòn, thảm dệt có nhiều hình vẽ, thảm lông rái cá, thảm có lông một góc, tấm lụa có kết ngọc quý, thảm lụa, thảm lớn để nhảy múa, thảm da voi, thảm da ngựa, thảm lót xe, thảm da báo, thảm da nai giống quý, thảm có che phủ ở trên, thảm có màu đỏ ở cả hai đầu. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép sau khi đã cắt ngắn bớt chân của các ghế nằm thì được sử dụng, sau khi đã hủy đi lông ở ghế trường kỷ thì được sử dụng, sau khi tháo gở thảm bông gòn dùng làm gối, các vật còn lại dùng làm thảm lót trên nền đất.
[292] Vào lúc bấy giờ, trong một ngôi làng nọ không xa Sāvatthi các tỷ-kheo thường trú đang bận rộn chuẩn bị chỗ trú ngụ cho các tỷ-kheo vãng lai đi đến. Lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ấy đã khởi ý rằng: "Này các sư đệ, hiện nay chúng ta phải bận rộn chuẩn bị chỗ trú ngụ cho các tỷ-kheo vãng lai đi đến. Này các sư đệ, giờ chúng ta cho tất cả sàng tọa thuộc về hội chúng đến một vị và chúng ta sẽ sử dụng đồ đạc của vị ấy." Họ đã cho tất cả sàng tọa thuộc về hội chúng đến một vị. Các tỷ-kheo vãng lai đã nói với các tỷ-kheo thường trú ấy rằng:
- Này các đại đức, hãy xếp đặt sàng tọa cho chúng tôi.
- Này các đại đức, sàng tọa thuộc về hội chúng không có, chúng tôi đã cho tất cả đến một vị.
- Này các đại đức, có phải các vị phân tán sàng tọa thuộc về hội chúng?
- Này các đại đức, đúng vậy.
Các vị tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo lại phân tán sàng tọa thuộc về hội chúng?
Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo phân tán sàng tọa thuộc về hội chúng, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các tỷ-kheo, vì sao các kẻ rồ dại này lại phân tán sàng tọa thuộc về hội chúng? Này các tỷ-kheo, việc ấy không đem lại niềm tin cho những ai chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, đây là năm vật không thể phân tán, không nên được phân tán bởi hội chúng, bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cản hững vật đã được phân tán là không được phân tán. Vị nào phân tán thì phạm trọng tội (thullaccaya). Năm vật ấy là gì?
Tu viện (ārāmo) và đất của tu viện (ārāmavatthu); đây là vật thứ nhất không thể phân tán, không nên được phân tán bởi hội chúng, bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân tán là không được phân tán. Vị nào phân tán thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Trú xá (vihāro) và khu đất của trú xá (vihāravatthu); đây là vật thứ hai không thể phân tán, không nên được phân tán bởi hội chúng, bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân tán là không được phân tán. Vị nào phân tán thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Giường, ghế, nệm, gối; đây là vật thứ ba không thể phân tán, không nên được phân tán bởi hội chúng, bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân tán là không được phân tán. Vị nào phân tán thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Chum bằng kim loại, vại bằng kim loại, hũ bằng kim loại, bình bằng kim loại, dao, rìu, búa, cuốc, xẻng; đây là vật thứ tư không thể phân tán, không nên được phân tán bởi hội chúng, bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân tán là không được phân tán. Vị nào phân tán thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Dây thừng, tre, cỏ thô, tranh, cỏ dại, đất sét, vật làm bằng gỗ, vật làm bằng đất sét; đây là vật thứ năm không thể phân tán, không nên được phân tán bởi hội chúng, bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã được phân tán là không được phân tán. Vị nào phân tán thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Này các tỷ-kheo, năm vật này không thể phân tán, không nên được phân tán bởi hội chúng, bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Những Ngay cả vật đã được phân tán là không được phân tán. Vị nào phân tán thì phạm trọng tội (thullaccaya).
[293] Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn sau khi đã ngự tại Sāvatthi theo như ý thích đã lên đường du hành đi đến Kitāgiri cùng với đại chúng tỷ-kheo gồm năm trăm vị tỷ-kheo luôn cả Sāriputta và Moggallāna. Các tỷ-kheo nhóm Assaji và Punabbasuka đã nghe tin (liền khởi ý rằng): "Nghe nói đức Thế Tôn đang đi đến Kitāgiri cùng với đại chúng tỷ-kheo gồm năm trăm vị tỷ-kheo luôn cả Sāriputta và Moggallāna. Này các vị, vậy chúng ta hãy phân chia tất cả sàng tọa thuộc về hội chúng. Sāriputta và Moggallāna có lòng tham muốn sái quấy, bị chi phối bởi lòng tham muốn sái quấy, chúng ta sẽ không sắp đặt chỗ trú ngụ cho họ;" rồi các vị ấy đã phân chia tất cả sàng tọa thuộc về hội chúng. Khi ấy, đức Thế Tôn tuần tự du hành đã ngự đến Kitāgiri. Rồi đức Thế Tôn đã bảo nhiều tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, các ngươi hãy đi (trước). Khi gặp các tỷ-kheo nhóm Assaji và Punabbasuka, các ngươi hãy nói như vầy: "Này các vị, đức Thế Tôn đi đến cùng với đại chúng tỷ-kheo gồm năm trăm vị tỷ-kheo luôn cả Sāriputta và Moggallāna. Và này các vị, hãy sắp đặt chỗ trú ngụ cho đức Thế Tôn cùng hội chúng tỷ-kheo luôn cả Sāriputta và Moggallāna."
- Thưa vâng, bạch ngài.
Rồi các tỷ-kheo ấy nghe lời đức Thế Tôn đi đến gặp các tỷ-kheo nhóm Assaji và Punabbasuka, đến rồi đã nói với các tỷ-kheo nhóm Assaji và Punabbasuka rằng:
- Này các vị, đức Thế Tôn đi đến cùng với đại chúng tỷ-kheo gồm năm trăm vị tỷ-kheo luôn cả Sāriputta và Moggallāna. Và này các vị, hãy sắp đặt chỗ trú ngụ cho đức Thế Tôn cùng hội chúng tỷ-kheo luôn cả Sāriputta và Moggallāna.
- Này các vị, sàng tọa thuộc về hội chúng không có. Tất cả đã được chúng tôi chia nhau. Này các vị, hoan nghênh đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thích trú xá nào thì ngài sẽ ngự ở trú xá ấy. Sāriputta và Moggallāna có lòng tham muốn sái quấy, bị chi phối bởi lòng tham muốn sái quấy, chúng tôi sẽ không sắp đặt chỗ trú ngụ cho họ.
- Này các vị, có phải các vị đã chia nhau sàng tọa thuộc về hội chúng?
- Này các vị, đúng vậy.
Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Assaji và Punabbasuka lại chia nhau sàng tọa thuộc về hội chúng?
Sau đó, các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo nhóm Assaji và Punabbasuka chia nhau sàng tọa thuộc về hội chúng, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, vì sao những kẻ rồ dại này lại chia nhau sàng tọa thuộc về hội chúng? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, đây là năm vật không thể phân chia; không được phân chia bởi hội chúng, bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả những vật đã phân chia rồi vẫn là không phân chia. Vị nào phân chia thì phạm trọng tội (thullaccaya). Năm vật ấy là gì?
Tu viện (ārāmo) và khoảnh đất tu viện (ārāmavatthu); đây là vật thứ nhất không thể phân chia, không được phân chia bởi hội chúng, nhóm, hay cá nhân. Ngay cả vật đã phân chia rồi vẫn là không phân chia. Vị nào phân chia thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Trú xá (vihāro) và khu đất của trú xá; đây là vật thứ hai không thể phân chia, không được phân chia bởi hội chúng, bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã phân chia rồi vẫn là không phân chia. Vị nào phân chia thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Giường, ghế, nệm, gối; đây là vật thứ ba không thể phân chia, không được phân chia bởi hội chúng, bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã phân chia rồi vẫn là không phân chia. Vị nào phân chia thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Chum bằng kim loại, vại bằng kim loại, hũ bằng kim loại, bình bằng kim loại, dao, rìu, búa, cuốc, xẻng; đây là vật thứ tư không thể phân chia không được phân chia bởi hội chúng, bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã phân chia rồi vẫn là không phân chia. Vị nào phân chia thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Dây thừng, tre, cỏ thô, tranh, cỏ dại, đất sét, vật làm bằng gỗ, vật làm bằng đất sét; đây là vật thứ năm không thể phân chia, không được phân chia bởi hội chúng, bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã phân chia rồi vẫn là không phân chia. Vị nào phân chia thì phạm trọng tội (thullaccaya).
Này các tỷ-kheo, năm vật này không thể phân chia; không được phân chia bởi hội chúng, bởi nhóm, hoặc bởi cá nhân. Ngay cả vật đã phân chia rồi vẫn là không phân chia. Vị nào phân chia thì phạm trọng tội (thullaccaya).
[294] Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi ngự tại Kitāgiri theo như ý thích đã lên đường đi đến Ālavī. Lần lượt du hành ngài đã ngự đến Ālavī. Nơi ấy, ở Ālavī, đức Thế Tôn ngự ở trong điện thờ chính của Ālavī.
[295] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ở Ālavī đã giao các công trình mới có hình thức như sau: mỗi một việc bảo người chất lại thành đống họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc tô vữa bức tường họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc lắp đặt cánh cửa họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc khoan lỗ của chốt gài họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc làm cửa sổ họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc sơn màu trắng họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc sơn màu đen họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc sơn màu phấn đỏ họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc lợp mái che họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc lắp ráp họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc đặt thanh ngang ở cửa họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc sửa chữa các chỗ hư hỏng họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc làm các thứ linh tinh họ cũng giao công trình mới; họ giao công trình mới đến hai mươi năm; họ giao công trình mới đến ba mươi năm; họ giao công trình mới đến trọn đời; họ giao công trình mới là một trú xá được hoàn tất kéo dài thời gian đến khi (chết và đem) hỏa táng. Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy đã phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các tỷ-kheo nhóm Ālavaka lại giao các công trình mới có hình thức như sau: mỗi một việc bảo người chất lại thành đống họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc tô vữa bức tường họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc lắp đặt cánh cửa họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc khoan lỗ của chốt gài họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc làm cửa sổ họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc sơn màu trắng họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc sơn màu đen họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc sơn màu phấn đỏ họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc lợp mái che họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc lắp ráp họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc đặt thanh ngang ở cửa họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc sửa chữa các chỗ hư hỏng họ cũng giao công trình mới; mỗi một việc làm các thứ linh tinh họ cũng giao công trình mới; họ lại giao công trình mới đến hai mươi năm; họ lại giao công trình mới đến ba mươi năm; họ lại giao công trình mới đến trọn đời; họ lại giao công trình mới là một trú xá được hoàn tất kéo dài thời gian đến khi (chết và đem) hỏa táng? Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn…(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, nghe nói …(như trên)…, có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại và bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên giao công trình mới với mỗi một việc bảo người chất lại thành đống; không nên giao công trình mới với mỗi một việc tô vữa bức tường; không nên giao công trình mới với mỗi một việc lắp đặt cánh cửa; không nên giao công trình mới với mỗi một việc khoan lỗ của chốt gài; không nên giao công trình mới với mỗi một việc làm cửa sổ; không nên giao công trình mới với việc sơn màu trắng; không nên giao công trình mới với mỗi một việc sơn màu đen; không nên giao công trình mới với mỗi một việc sơn màu phấn đỏ; không nên giao công trình mới với mỗi một việc lợp mái che; không nên giao công trình mới với mỗi một việc lắp ráp; không nên giao công trình mới với mỗi một việc đặt thanh ngang ở cửa; không nên giao công trình mới với mỗi một việc sửa chữa các chỗ hư hỏng; không nên giao công trình mới với mỗi một việc làm các thứ linh tinh; không nên giao công trình mới đến hai mươi năm; không nên giao công trình mới đến ba mươi năm; không nên giao công trình mới đến trọn đời; không nên giao công trình mới là một trú xá được hoàn tất kéo dài thời gian đến khi (chết và đem) hoả táng. Vị nào giao thì phạm tội tác ác (dukkata).
Này các tỷ-kheo, ta cho phép giao công trình mới chưa khởi công hoặc chưa hoàn tất; giao công trình mới năm hoặc sáu năm liên quan công việc trong một trú xá nhỏ; giao công trình mới bảy hoặc tám năm liên quan đến công việc trong một nhà mái vòm; giao công trình mới mười hoặc mười hai năm liên quan đến công việc trong một trú xá rộng lớn.
[296] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo giao công trình mới là tất cả các trú xá. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên giao công trình mới là tất cả các trú xá. Vị nào giao thì phạm tội tác ác (dukkata).
[297] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo giao hai (công trình mới) đến một vị. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên giao hai (công trình mới) đến một vị. Vị nào giao thì phạm tội tác ác (dukkata).
[298] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo sau khi nhận lãnh công trình mới đã cư trú ở nơi khác. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, sau khi nhận lãnh công trình mới không nên cư trú ở nơi khác Vị nào cư trú thì phạm tội tác ác (dukkata).
[299] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo sau khi nhận lãnh công trình mới đã chiếm giữ vật thuộc về hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, sau khi nhận lãnh công trình mới không nên chiếm giữ vật thuộc về hội chúng. Vị nào chiếm giữ thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép nhận lãnh một chỗ nằm tốt nhất.
[300] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo cho phép công trình mới đến vị ngụ ở ngoài ranh giới. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên cho phép công trình mới đến vị ngụ ở ngoài ranh giới. Vị nào cho phép thì phạm tội tác ác (dukkata).
[301] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo sau khi nhận lãnh công trình mới đã chiếm giữ luôn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, sau khi nhận lãnh công trình mới không nên chiếm giữ luôn. Vị nào chiếm giữ thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép chiếm giữ trong ba tháng mùa mưa, mùa khác không được chiếm giữ.
[302] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo sau khi nhận lãnh công trình mới lại bỏ đi, lại hoàn tục, đã từ trần, được biết là sa-di, được biết đã xả bỏ điều học, được biết là người phạm tội cực nặng, được biết là người điên, được biết có tâm rối loạn, được biết bị thọ khổ, được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, được biết là vị bị thiến, được biết là vị sống chung với kẻ trộm cắp, được biết là đi theo ngoại đạo, được biết là thú vật, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A La Hán, được biết là kẻ làm ô uế tỷ-kheo ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm đức Phật chảy máu, được biết là kẻ lưỡng tính. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
[303] Ở đây, này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo sau khi nhận lãnh công trình mới lại bỏ đi (nên nghĩ rằng): "Không thể làm tổn hại đến hội chúng," rồi nên giao cho vị khác. Ở đây, này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo sau khi nhận lãnh công trình mới lại hoàn tục, đã từ trần, được biết là sa-di, được biết đã xả bỏ điều học, được biết là kẻ phạm tội cực nặng, được biết là người điên, được biết có tâm rối loạn, được biết bị thọ khổ, được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác, được biết là vị bị thiến, được biết là vị sống chung với kẻ trộm cắp, được biết là đi theo ngoại đạo, được biết là thú vật, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A La Hán, được biết là kẻ làm ô uế tỷ-kheo ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm đức Phật chảy máu, được biết là kẻ lưỡng tính (nên nghĩ rằng): "Không thể làm tổn hại đến hội chúng," rồi nên giao cho vị khác.
[304] Ở đây, này các tỷ-kheo, tỷ-kheo sau khi nhận lãnh công trình mới, trong khi chưa hoàn tất, lại bỏ đi (nên nghĩ rằng): "Không thể làm tổn hại đến hội chúng," rồi nên giao cho vị khác. Ở đây, này các tỷ-kheo, tỷ-kheo sau khi nhận lãnh công trình mới, trong khi chưa hoàn tất, lại hoàn tục, đã từ trần …(như trên)... được biết là kẻ lưỡng tính (nên nghĩ rằng): "Không thể làm tổn hại đến hội chúng," rồi nên giao cho vị khác.
[305] Ở đây, này các tỷ-kheo, tỷ-kheo sau khi nhận lãnh công trình mới, khi đã hoàn tất, lại bỏ đi; (công trình) ấy còn thuộc về vị ấy (trong mùa mưa năm ấy).
[306] Ở đây, này các tỷ-kheo, tỷ-kheo sau khi nhận lãnh công trình mới, khi đã hoàn tất, lại hoàn tục, đã chết đi, được biết là sa-di, được biết đã xả bỏ điều học, được biết là kẻ phạm tội cực nặng; hội chúng là chủ quản.
[307] Ở đây, này các tỷ-kheo, tỷ-kheo sau khi nhận lãnh công trình mới, khi đã hoàn tất, được biết là người điên, được biết có tâm rối loạn, được biết bị thọ khổ, được biết là vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, được biết là vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo trong việc không từ bỏ tà kiến ác; (công trình) ấy còn thuộc về vị ấy (trong mùa mưa năm ấy).
[308] Ở đây, này các tỷ-kheo, tỷ-kheo sau khi nhận lãnh công trình mới, khi đã hoàn tất, được biết là vị bị thiến, được biết là vị sống chung với kẻ trộm cắp, được biết là đi theo ngoại đạo, được biết là thú vật, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A La Hán, được biết là kẻ làm ô uế tỷ-kheo ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm đức Phật chảy máu, được biết là kẻ lưỡng tính; hội chúng là chủ quản.
[309] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo sử dụng sàng tọa là vật sử dụng trong trú xá của một vị nam cư sĩ nọ tại một địa điểm khác. Khi ấy, vị cư sĩ ấy đã phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các ngài đại đức lại sử dụng đồ đạc của địa điểm này tại địa điểm khác?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng đồ đạc của địa điểm này tại địa điểm khác. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata).
[310] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ngần ngại di chuyển (thảm lót) đến nhà hành lễ Bố Tát (Uposatha) và phòng hội họp nên đã ngồi xuống ở nền nhà. Các thân mình và y phục đều bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy đến đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép di chuyển (tạm thời) trong một thời gian.
[311] Vào lúc bấy giờ, một trú xá lớn của hội chúng bị sụp đổ. Các tỷ-kheo ngần ngại không di chuyển sàng tọa. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép di chuyển vì mục đích bảo quản.
[312] Vào lúc bấy giờ, một mền bằng len đắt giá là vật phụ thuộc của sàng tọa đã phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép trao đổi (vật khác) để thuận tiện hơn cho công việc.
[313] Vào lúc bấy giờ, một tấm vải dệt đắt giá là vật phụ thuộc của sàng tọa đã phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép trao đổi (vật khác) để thuận tiện hơn cho công việc.
[314] Vào lúc bấy giờ, một tấm da gấu đã phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm vật chùi chân.
[315] Vào lúc bấy giờ, một tấm vải thô (cakkalikaṃ) đã phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm vật chùi chân.
[316] Vào lúc bấy giờ, một tấm vải (colakaṃ) đã phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm vật chùi chân.
[317] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo có chân chưa rửa bước lên chỗ nằm ngồi. Chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên bước lên chỗ nằm ngồi với chân chưa rửa. Vị nào bước lên thì phạm tội tác ác (dukkata).
[318] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo có chân bị ướt bước lên chỗ nằm ngồi. Chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên bước lên chỗ nằm ngồi với chân bị ướt. Vị nào bước lên thì phạm tội tác ác (dukkata).
[319] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo mang dép bước lên chỗ nằm ngồi. Chỗ nằm ngồi bị dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên mang dép bước lên chỗ nằm ngồi. Vị nào bước lên thì phạm tội tác ác (dukkata).
[320] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhổ lên mặt nền đã được làm mới khiến màu bị lem luốc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên nhổ lên mặt nền đã được làm mới. Vị nào nhổ thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ống nhổ.
[321] Vào lúc bấy giờ, các chân giường và các chân ghế làm trầy mặt nền được làm mới. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép dùng vải bọc tròn lại.
[322] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo tựa vào tường đã được làm mới khiến màu bị lem luốc. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên tựa vào tường đã được làm mới. Vị nào tựa thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) một tấm bảng để dựa vào.
Tấm bảng để dựa vào làm trầy mặt nền ở bên dưới và bức tường ở phía trên. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép bọc lại ở phía dưới và phía trên với mảnh vải.
[323] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo có chân đã rửa sạch ái ngại khi nằm xuống. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép nằm xuống sau khi đã trải ra tấm thảm.
[324] Khi ấy, đức Thế Tôn sau khi ngự tại Ālavī theo như ý thích đã lên đường đi đến Rājagaha. Lần lượt du hành ngài đã ngự đến Rājagaha. Nơi ấy, ở Rājagaha, đức Thế Tôn ngự tại Trúc Lâm (Veluvana) nơi nuôi dưỡng những con sóc.
[325] Vào lúc bấy giờ, Rājagaha đang gặp khó khăn về vật thực. Dân chúng không thể dâng bữa trai phạn đến hội chúng nên muốn dâng bữa ăn đến các vị được chỉ định, đến vị được thỉnh mời, bữa ăn dâng theo thẻ, vào mỗi nữa tháng, vào mỗi kỳ Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép bữa trai phạn dâng đến hội chúng, bữa ăn dâng đến các vị được chỉ định, đến vị được thỉnh mời, bữa ăn dâng theo thẻ, vào mỗi nữa tháng, vào mỗi kỳ Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng.
[326] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư tự thân lấy các thức ăn thượng hạng và cho các tỷ-kheo các thức ăn tầm thường. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép chỉ định vị sắp xếp bữa ăn là vị tỷ-kheo có được năm điều: là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích; là vị không thể bị chi phối bởi sự sân hận; là vị không thể bị chi phối bởi sự si mê; là vị không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi; là vị biết việc cần được sắp xếp hay không sắp xếp.
[327] Và này các tỷ-kheo, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỷ-kheo cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị sắp xếp bữa ăn. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị sắp xếp bữa ăn. Đại đức nào thỏa thuận với việc chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị sắp xếp bữa ăn, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Vị tỷ-kheo tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị sắp xếp bữa ăn. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[328] Khi ấy, các vị tỷ-kheo là những vị sắp xếp bữa ăn đã khởi ý rằng: "Bữa ăn nên được sắp xếp như thế nào?" Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép sau khi buộc vào thẻ hoặc tấm phiếu, chọn ra rồi sắp xếp bữa ăn (salākāya vā patikāya vā upanibandhitvā omuñjitvā bhattam- uddesitunti).
[329] Vào lúc bấy giờ, hội chúng không có vị phân bố chỗ trú ngụ, …(như trên)… không có vị giữ kho đồ đạc, …(như trên)… không có vị tiếp nhận y, …(như trên)… không có vị phân chia y, …(như trên)… không có vị phân chia cháo, …(như trên)… không có vị phân chia trái cây, …(như trên)… không có vị phân chia thức ăn khô. Thức ăn khô không được phân chia nên bị hư. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép chỉ định vị phân chia thức ăn khô là vị tỷ-kheo có được năm điều: là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích; là vị không thể bị chi phối bởi sự sân hận; là vị không thể bị chi phối bởi sự si mê; là vị không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi; là vị biết vật được phân chia và không được phân chia.
[330] Và này các tỷ-kheo, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỷ-kheo cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị phân chia thức ăn khô. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị phân chia thức ăn khô. Đại đức nào thỏa thuận với việc chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị phân chia thức ăn khô, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Vị tỷ-kheo tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị phân chia thức ăn khô. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[331] Vào lúc bấy giờ, ở trong kho của hội chúng có vật phụ tùng linh tinh phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép chỉ định vị phân chia vật linh tinh là tỷ-kheo có được năm điều: là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích; là vị không thể bị chi phối bởi sự sân hận; là vị không thể bị chi phối bởi sự si mê; là vị không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi; là vị biết vật được phân chia và không được phân chia.
[332] Và này các tỷ-kheo, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỷ-kheo nên được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị phân chia vật linh tinh. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị phân chia vật linh tinh. Đại đức nào thỏa thuận với việc chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị phân chia vật linh tinh, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Vị tỷ-kheo tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị phân chia vật linh tinh. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[333] Vị tỷ-kheo là vị phân chia các vật linh tinh nên phân chia mỗi một cây kim, cây kéo, đôi dép, dây thắt lưng, dây quàng ở vai, đồ lọc nước, bình lọc nước, vải để may điều (kusi), vải để may điều loại một nửa (addhakusi), vải may đường viền, vải may đường viền loại một nửa, dầu gió (anuvāto), thuốc cao (paribhan-daṃ). Nếu hội chúng có bơ lỏng, dầu ăn, mật ong, đường mía thì nên phân chia tức thời để sử dụng. Nếu lợi lộc có thêm nữa thì nên phân chia tiếp tục.
[334] Vào lúc bấy giờ, hội chúng không có vị tiếp nhận y khoác ngoài, …(như trên)… vị tiếp nhận bình bát, …(như trên)… vị quản trị các người ở chùa, …(như trên)… vị quản trị các sa-di. Các sa-di không được quản trị nên không làm phận sự. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép chỉ định vị quản trị các sa-di là vị tỷ-kheo có được năm điều: là vị không thể bị chi phối bởi sự ưa thích; là vị không thể bị chi phối bởi sự sân hận; là vị không thể bị chi phối bởi sự si mê; là vị không thể bị chi phối bởi sự sợ hãi; là vị biết được điều cần quản trị và điều không cần quản trị.
[335] Và này các tỷ-kheo, nên chỉ định như vầy: Trước hết, vị tỷ-kheo cần được yêu cầu; sau khi yêu cầu, hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị quản trị các sa-di. Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị quản trị các sa-di. Đại đức nào thỏa thuận với việc chỉ định vị tỷ-kheo tên (như vầy) là vị quản trị các sa-di, xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Vị tỷ-kheo tên (như vầy) đã được hội chúng chỉ định là vị quản trị các sa-di. Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Tụng Phẩm thứ ba.
Dứt Chương Sàng Tọa là chương thứ sáu.
Tóm lược chương này:
[336]
Khi trú xá chưa được
quy định bởi đức Phật
là một vị tối thượng,
các thinh văn đệ tử
của bậc Chiến Thắng ấy
bước ra từ chỗ ngụ
nơi này hoặc nơi khác.
Gia chủ đại phú hộ
đã thấy các vị ấy
nên mới nói điều này
với các vị tỷ-kheo:
"Nếu các ngài cư ngụ,
tôi có thể cho làm."
Họ hỏi ngài lãnh đạo.
Vị ấy đã cho phép
năm loại chỗ ngụ là:
trú xá, nhà một mái,
toà nhà dài, nhà lớn,
và hang động (là năm).
Đại phú hộ đã cho
xây dựng các trú xá.
Người cho dựng trú xá,
không cửa, không đóng được,
cửa, trụ cửa, rãnh xoay,
ở trên cái chốt xoay,
lỗ để luồn, dây thừng,
tay nắm, và chốt gài,
đinh khoá chốt, chốt phụ,
lỗ khóa, khoá bằng đồng,
bằng gỗ, và bằng sừng,
then cài, đinh khoá chốt,
mái che, vữa trong ngoài,
cửa sổ song, gắn lưới,
và lá sách, màn che
và thảm trải, bệ cứng
và giường bằng vạt tre,
giường ván khiêng tử thi,
ghế dài, chân đẽo cong,
chân rời, ghế vuông cao,
trường kỷ, ghế thanh ráp,
ghế lót vải, gác chân,
ghế nhiều chân, ghế mây,
và ghế lót rơm nữa.
Giường cao, và con rắn
các chân tám ngón tay,
chỉ sợi, đan tám góc,
mảnh vải, đệm bông gòn,
gối dài nữa thân người.
Đỉnh núi, và nhiều đệm,
vải và chỗ nằm ngồi.
Bọc lại rơi phía dưới,
xé ra rồi mang đi,
đấng Thiện Thệ cho phép,
chia đều bằng nắm tay.
Trong trú xá ngoại đạo,
màu trắng và màu đen,
vỏ trấu, và sét dẻo,
nhựa cây, chà bằng tay,
đất sét, bột mù tạt,
dầu sáp ong, nổi cục,
giẻ chùi, tường lồi lõm,
đất sét với phân trùn,
nhựa cây, hình gợi cảm.
Nền thấp, rồi nền móng
leo lên, họ bị té,
đám đông, tường một nữa,
lại ba, trú xá nhỏ,
và trụ áp chân tường,
thấm nước mưa, la lớn,
chốt tường, sào máng y,
mái hiên với màn che,
lan can và bụi cỏ,
cách thực hiện dưới đây.
Ngoài trời, bị hâm nóng,
giảng đường, và bên dưới,
vật chứa đồ, trú xá,
và cổng vào, phòng ở,
rồi nhà để đốt lửa,
tu viện và cổng vào,
làm theo cách dưới đây,
mái làm bằng vữa hồ
và ông Cấp Cô Độc,
có đức tin đi đến
khu rừng tên Sīta,
thấy Pháp rồi mời thỉnh
Đạo Sư cùng hội chúng.
Trên đường về kêu gọi,
nhóm người xây tu viện.
Công trình mới kiến tạo
ở thành Vesālī,
đi trước để chiếm chỗ.
Ai là vị xứng đáng
được phần ăn hạng nhất?
Và chuyện Chim đa đa
ai không đáng đảnh lễ,
bị chiếm cứ, trong nhà,
ghế giường có lót nệm,
lên đường đi Xá Vệ.
Vị ấy cúng tu viện,
ồn ào giữa bữa ăn.
Và những người bị bệnh
giường tốt nhất, mưu mẹo,
Mười Bảy Sư, nơi đó.
"Do ai? Làm thế nào?"
vị chia theo trú xá,
phòng ở, và phần thừa,
không chia nếu không thích.
Ở bên ngoài ranh giới,
và chiếm luôn mọi lúc.
Ba thời chia chỗ ngụ.
Và Upanando.
Ngài khen, các vị đứng
và cùng ngồi chung chỗ.
Đồng đẳng cấp, làm gãy
nhóm ba và nhóm hai,
không đồng đẳng, ghế dài,
họ thỏa thích mái hiên,
Và bà nội của vua,
không xa, được chia ra,
ở Kitāgiri.
Ở vùng Ālavī,
chất đống, các bức tường,
các cửa, khoan lỗ chốt,
cửa sổ, sơn trắng, đen,
màu sơn đỏ, mái che,
và lắp ráp, thanh ngang,
hư hỏng, việc linh tinh,
hai mươi năm, ba mươi,
và trọn đời, hoàn tất,
chưa làm, bỏ dở dang,
Nơi nhỏ, năm, sáu năm,
nhà vòm bảy hoặc tám,
lớn thì mười, mười hai.
Toàn bộ cả trú xá
(giao) cho chỉ một người,
nơi khác, các vị sống,
(chiếm giữ) đồ hội chúng.
Ở ngoài ranh, mọi thời,
vị ấy đã bỏ đi,
chúng hoàn tục, chết đi,
và xuống lại sa-di,
xả giới, (tội) cực nặng,
bị điên, tâm rối loạn,
thọ khổ, không thấy tội,
không chịu bỏ tà kiến,
bị thiến, và trộm cắp
theo ngoại đạo, thú vật,
giết cha, mẹ, La Hán,
làm xấu (tỷ-kheo ni),
chia rẽ, máu chân Phật,
và có cả hai giống,
"Không tổn hại hội chúng,"
việc nên giao vị khác,
chưa xong, giao vị khác,
đã hoàn tất, bỏ đi,
vẫn còn thuộc vị ấy.
Nếu hoàn tục, chết đi,
và xuống lại sa-di,
xả giới, phạm tội nặng,
hội chúng là chủ quản.
Điên, loạn tâm, thọ khổ,
không thấyi, không làm thoát,
tà kiến, thuộc vị ấy.
Bị thiến, và trộm cướp,
theo ngoại đạo, thú vật,
giết người mẹ, người cha,
giết vị A La Hán,
và dâm (tỷ-kheo ni),
làm chảy máu chân Phật,
là những kẻ lưỡng tánh,
nếu vị ấy thú nhận,
thì hội chúng chủ quản.
Đem nơi khác, ái ngại,
bị sụp đổ, mền len,
vải dệt, tấm da gấu,
tấm vải thô, tấm vải,
và chân ướt bước lên,
mang giày dép, phun nhổ.
Các vị đã làm trầy,
và dựa vào bức tường,
có tấm dựa vẫn trầy,
rửa sạch, với tấm trải.
Thành Rājagaha
(dân chúng) không thể nào,
chừa thức ăn tầm thường,
vị sắp xếp bữa ăn,
"Vị sắp xếp cách nào?"
Chỉ định vị giữ kho,
vị thọ lãnh, phân chia,
vị chia cháo, trái cây,
vị chia đồ khô nữa,
việc chia vật linh tinh,
và thêm vị nhận lãnh
y áo khoác ngoài nữa.
Cũng vậy, vị nhận lãnh
bình bát, vị kiểm tra,
người phụ việc tu viện,
và các vị sa-di.
Đấng toàn tri toàn giác,
hiểu biết về thế gian,
là vị làm lãnh đạo
có sự quan tâm đến,
để suy tư, quán xét
lợi ích chỗ trú ngụ,
và lợi ích an lạc,
thiền định và minh sát.
----oOo----
Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)
Source:
Trình bày: Nhị Tường