Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bát Quan Trai Giới

01/07/201009:18(Xem: 9141)
Bát Quan Trai Giới

BÁT QUAN TRAIGIỚI
HT. ThíchThiện Hoa

(Trích từ PhậtHọc Phổ Thông)

A. MỞ ĐỀ

Đức Phật ThíchCa nói pháp gần 50 năm, có đến 84.000 pháp môn, vô lượng diệu nghĩa. Mặc dùgiáo pháp nhiều như thế, nhưng không ngoài ba môn chính là "giới, định,huệ".

Trong "giới, định,huệ", thì giới là phần quan trọng, là phần căn bản. Nhờ giới, tâm mớiđịnh, tâm có định, huệ mới phát sanh, huệ có phát sanh mới dứt trừ được vô minhphiền não; vô minh phiền não có dứt trừ mới minh tâm kiến tánh và thành Phật.Nhưng giới cũng có nhiều thứ: có thứ cao, thứ thấp, có thứ áp dụng cho hàngxuất gia, có thứ cho hàng tại gia. Trong hàng xuất gia, thì Sa di chỉ giữ 10giới, Tỳ kheo giữ 250 giới, Tỳ kheo ni đến 348 giới. Về phía tại gia thì có Tamquy, Ngũ Giới, Bát quan trai giới, Bồ Tát giới, Tam quy Ngũ Giới, thì chúng tađã học rồi; Bồ Tát giới thì khó khăn hơn, chúng ta sẽ học sau. Bây giờ đây, chúngtôi chỉ nói đến Bát quan trai giới.

B. CHÁNHĐỀ

I. ĐỊNHNGHĨA

Bát quan traigiới là một phép tu hành của người tại gia áp dụng trong một ngày một đêm (24giời).

Chữ "Quan"là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. Chữ "Trai", tiếng Phạn làPosadha, nghĩa là khi đã qua giờ ngọ (12 giờ trưa) không được ăn nữa. Vậy"Bát quan trai giới" là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong24 tiếng đồng hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi sau đây:

1. Không đượcsát sanh
2. Không được trộmcướp
3. Không được dâmdục
4. Không được nóidối
5. Không được uốngrượu
6. Không đượctrang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát.
7. Không được nằmngồi giường cao rộng đẹp đẽ
8. Không được ănquá giờ ngọ

II. GIẢI RÕTÁM ĐIỀU RĂN CẤM NÓI TRÊN

1. Khôngđược sát sanh

a) Ý nghĩavì sao không được sát sanh:

Chúng sanh mặcdù hình dáng có khác nhau, nhưng cùng có một điểm quan trọng giống nhau là thamsống, sợ chết, biết đau khổ vui mừng. Không cần phải dẫn chứng cho xa xôi, ngaytrong sự quan sát hằng ngày, chúng ta cũng nhận thấy: cá thấy người cá lội xa,chim thấy người chim bay cao, cũng như người thấy cọp người lẩn trốn, vì đều sợlâm nguy đến tính mạng cả. Khi bị bắt, chim, cá hay người đều vùng vẫy để trốn thoát.Và khi được thả ra, thoát chết, chao ôi! Còn gì sung sướng cho bằng! Nhận thấyđược sự tham sống sợ chết, nối vui mừng, đau xót của muôn loại như thế, màchúng ta còn đang tâm giết hại sanh mạng, thì thật là nhẫn tâm, tàn ác vôcùng.

Từ trước đếnnay, loài người đã giết hại rất nhiều, bằng đủ phương tiện, nào làm lưới để bắtcá dưới nước, dùng cung tên súng đạn để bắt cầm thú trên đất...và nhất là dùngđủ mưu mô kế hoạch để giết hại chém giết lẫn nhau. Về phía thiện, thì có nhiềungười cũng thiện vô cùng; nhưng về phía ác, thì cũng nhiều người ác vôcùng.

Chúng ta làPhật tử, nghĩa là những người theo đạo Từ bi. Chúng ta cần phải cố gắng đừngsát hại sinh vật và nhất là đừng sát hại người. Về sự sát hại người, trong Ngũ GiớiPhật đã tuyệt đối cấm chỉ, và chúng ta cũng đã phát nguyện giữ giới ấy. Nhưngvề sinh vật, vì một số Phật tử còn ăn mặn, nên chưa tuyệt đối giữ được giới sát.Vậy ít ra trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta hãy tuyệt đối giữ giới ấy.Chúng ta không giết người, không trù tính mưu mô giết người, đã đành ! Chúng tacũng nên động lòng trước sanh mạng của tất cả mọi loài hữu hình. Hơn nữa, nếuthấy ai có ý giết hại sinh vật, chúng ta phải khuyên lơn ngăn cản đừng chongười ta thi hành ác ý ấy.

Được như thế làta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽlớn lao vô cùng cho việc tu hành của chúng ta.

2. Khôngđược trộm cướp

Hai chữ trộmcướp ở đây có một ý nghĩa vô cùng. Những vật thuộc quyền sở hữu của người ta,từ vàng, bạc, châu báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim sợi chỉ,cọng rau, người ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp. Lường thăng tráo đấu,đo thiếu lấy thừa, đi làm trễ giờ, bóc lột công nhân, lấy của công, ăn hối lộ,được của người không trả lại, đều là trộm cướp.

Người đời coitiền của hơn tánh mạng, trèo non, lặn suối, lo mưu này tính kế nọ để làm ratiền nuôi thân và gia đình, và để dành dụm phòng khi đau ốm, tai nạn. Nếu rủibị mất tiền của do mồ hôi nước mắt mà có, người ta vô cùng đau khổ, tuyệt vọngcó khi đến quyên sinh. Chúng ta cũng đã có nhiều khi đau buồn vì mất của, thìxét người khác cũng vậy. Chúng ta không muốn ai trộm cướp của mình, thì tấtnhiên mình cũng không nên trộm cướp của ai. Đó là lẽ công bằng rất giản dị.Huống chi chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người quyết tâm diệt trừ thamdục, để được giải thoát, thì lẽ nào ta lại lấy của phi nghĩa?

Trong cuộc đờitranh đấu hằng ngày để sống, có nhiều khi chúng ta không giữ được một cáchtuyệt đối giới cấm này, chẳng hạn, chúng ta làm ít mà cố đòi lương cho cao, bánhàng xấu với gía cao, mưu tính chước này kế nọ để được lợi nhiều một cách thiếuchính đáng...Có khi chúng ta nhận thấy như thế là bất chính, nhưng tự bào chữarằng vì sự sống của gia đình, thân thuộc mà phải làm như thế.

Nhưng trongngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy quyết không trộm cướp đã đành, màcũng không được để cho một ý nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Chúng ta khôngtrộm cướp, không nghĩ đến sự trộm cướp, mà thấy ai trộm cuớp hay nẩy ra ý trộmcướp thì chúng ta cũng khuyên can họ, ngăn ngừa không cho họ làm bậy. Khôngnhững không trộm cướp và ngăn ngừa sự trộm cướp mà thôi, chúng ta còn bố thí chonhững người nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc, tìm cách giúp đỡ những người thânthuộc, trong cảnh túng thiếu.

Giữ được giớinày một cách tuyệt đối, thì dù thời gian ngắn ngủi trong 24 giờ đồng hồ, chúngta cũng đã gieo được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành của chúng ta.

3. Khôngđược dâm dục

Dâm dục là cáinghiệp nhơn sanh tử luân hồi, nên người xuất gia phải đoạn hẳn. Phật dạy rằng:"Người muốn đoạn trừ sanh tử, chứng quả Niết bàn mà không trừ hẳn dâm dục,thì không khác kẻ nấu cát sạn mà muốn cho thành cơm, dù ra công đem nấu, trảiqua năm ngàn kiếp cũng không thành cơm được".

Vậy những Phậttử xuất gia, muốn thành Phật quả thì phải trừ dâm dục.

Còn những Phậttử tại gia, chưa có thể hoàn toàn đoạn trừ dâm dục được, thì Phật chỉ cấm tàdâm, nghĩa là ngoài vợ chồng, không được lan chạ; và giữa vợ chồng, cũng cầnphải giữ chánh lễ, biết tiết dục để cho thân tâm được trong sạch nhẹnhàng.

Nhưng đây lànói về ngày thường của Phật tử tại gia. Chứ đến ngày thọ Bát quan trai giới,thì tuyệt đối phải giữ giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục đã đành, màcũng không được nhớ nghĩ đến những điều dâm dục.

Nếu triệt đểgiữ đúng giới này, thì dù chỉ trong 24 giờ đồng hồ, lợi ích cũng rộng lớn vôcùng, vì chúng ta đã có dịp để gieo nhơn tịnh hạnh là một nhơn rất quý báutrong sự tu hành diệt dục.

4. Khôngđược nói dối

Nói dối là tâmnghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối có 4 cách, mà chúng ta đã có học rồi trongbài Ngũ Giới. Đó là: nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lờihung ác.

Chúng ta đãthấy, hằng ngày trong đời, tai hại của sự nói dối. Tai hại lớn nhất là làm mấtlòng tin cậy nhau. Trong một gia đình mà không tin nhau, thì gia đình sẽ tannát; trong một xã hội mà không tin nhau, thì xã hội sẽ điêu tàn.

Trong đời sốnghằng ngày chúng ta chưa có thể hoàn toàn giữ giới này được, thì trong ngày thọBát quan trai giới, chúng ta hãy triệt để thực hành giới cấm này. Chúng takhông nói sai, không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không nói lời hung ácđã đành; chúng ta lại còn khuyên răn những người chung quanh giữ đúng giớikhông nói láo ấy !
Nếu thực hànhtriệt để giới cấm này, thì dù chỉ trong một ngày đêm, chúng ta cũng đã gieođược một hột nhơn quý báu rất hiếm có trong đời này là: lòng chân thật.

5. Khôngđược uống rượu

Rượu làm saymê, tối tăm trí não người uống. Nó còn nguy hiểm hơn cả thuốc độc, vì thuốc độcuống vào chết ngay, song chỉ giết chết một đời người thôi; chớ rượu làm cho ngườicuồng tâm, mất trí, gây nên nhièu tội lỗi, chết đi sanh lại, luân hồi nhiềukiếp trong tối tăm si ám.

Bởi thế, trongKinh, Phật dạy: "Thà uống nước đồng sôi cho tan mất thân này, chứ khôngnên uống rượu".

Chúng ta làPhật tử , nghĩa là những người đang trau dồi Trí tuệ để được sáng suốt nhưPhật, chúng ta không được uống rượu. Chúng ta không uống rượu đã đành, mà cũng khôngkhuyên mời người uống rượu. Tự mình uống rượu tội còn nhẹ, chớ khuyên mời ngườikhác uống, tội lại nặng hơn.

Song, trong lúcđau ốm, nếu lương y bảo phải có rượu hòa với thuốc uống mới lành bệnh, thìchúng ta cũng được tạm dùng, Khi đó rượu trở thành một vị thuốc, chứ không phảilà một vị làm cho trí não ta cuồng loạn nữa.

Đấy là nói vềngày thường, chứ trong ngày thọ "Bát quan trai giới", chúng ta phảitrừ tuyệt rượu, không được uống đã đành, mà còn khuyên răn người khác đừng uốngnữa.

6. Khôngđược trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và đi xem

Năm giác quan:tai, mắt, mũi, lưỡi, thân là năm cửa ngõ, có thể mở đường cho chúng ta đến cảnhgiới Niết Bàn, hay vào địa ngục. Nếu chúng ta biết mở năm cánh cửa ấy về nẻo thanhtịnh, nghe những lời hay lẽ phải, thấy những điều thiện, điều lành, ngửi nhữngmùi thơm tinh khiết, đạo vị, thì con đường đến Niết Bàn, giải thoát không xa.Trái lại, nếu chúng ta hướng những cánh cửa giác quan ấy vào cõi ô trọc, mởrộng chúng cho tội lỗi ùa vào, nào nghe tiếng du dương luyến ái của dục vọng,thấy cảnh trụy lạc, dâm ô, ngửi mùi vị say nồng, kích thích dục lạc, thì conđường địa ngục đã sẵn sàng mở rộng để đón chờ chúng ta.

Phật cấm Phậttử trang điểm, tô sơn trét phấn, xức ướp dầu thơm, múa hát lả lơi, quyến rũ,hay cấm đi xem những cảnh múa hát ấy, là vì muốn cho chúng ta khỏi đọa vào địa ngục.

Nhưng trong đờisống hằng ngày của người Phật tử tại gia, vì còn tiếp xúc với đời sống xã hội,nên phải ăn mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những buổi hòanhạc, hay múa hát, miễn là những thứ âm nhạc, những điệu múa hát ấy có tánhcách trong sạch, xây dựng và hướng thiện. Nhưng trong hiện tại, các thứ nghệthuật: kịch nhạc, ca, vũ, cải lương, chiếu bóng..phần nhiều có tánh cách trụy lạc,thoái hóa, chúng ta nên đề phòng, đừng quá dễ dãi mà sa vào vòng tội lỗi.

Trên đây là nóitrong ngày thường, chứ ngày thọ giới Bát quan trai, chúng ta nhất định khôngđược trang điểm, xức ướp dầu thơm, múa hát hay đi xem múa hát. Hơn nữa, chúngta phải cố gắng diệt trừ những âm hưởng, bóng dáng của những thứ nghệ thuậtkhông lành mạnh, trong đầu óc chúng ta.

Đưọc như thế,thì tuy thời gian chỉ ngắn ngủi có 24 giờ, ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùng quýbáu cho sự tu hành của chúng ta.

7. Khôngđược nằm ngồi giường cao đẹp, rộng lớn

Điều răn cấmnày cũng như điều răn cấm thứ sáu, có mục đích ngăn ngừa thân xác ta, không chobuông lung theo những cảm giác mơn trớn khoái lạc của giường cao nệm tốt, chănấm màn êm. Vì những cảm giác này có thể kích thích lòng ham muốn bất chính củaxác thân, tạo điều kiện cho chúng ta gây tội lỗi, nên Phật chế ra giới cấm này.Xưa Ngài Ngộ Đạt Quốc sư là một bực cao đức, được vua Ý Tôn và vua Hy Tôn hếtsức ưu đãi. Vua Ý Tôn cúng cho Ngài một bảo tọa bằng trầm hương rất quý báu. Từkhi được bảo tọa ấy, Ngộ Đạt Quốc Sư mống niêm danh lợi, thành ra thất đức, phảichịu nhiều tai vạ và đau khổ.

Vì hiểu rõ cáitai hại của giường cao chiếu rộng, chăn ấm nệm êm, nên xưa Ngài Hiếp Tôn Giả từkhi xuất gia, lưng không nằm chiếu; Ngài Cao Phong Diệu thiền sư lập nguyện: banăm không nằm giường chõng; đức Phật Thích Ca , trong khi xuất gia tìm đạo, đãgối cỏ nằm sương, từ năm này sang năm khác...

Noi gương ngườixưa, các vị xuất gia chỉ nằm trên một cái giường nhỏ hẹp, vừa ngủ, chứ khôngbao giờ dùng giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên tập dần đức tánh giản dịđạm bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày thường, thì ngày thọ giới Bát quantrai, cũng phải triệt để thi hành giới thứ bảy này.

8. Khôngđược ăn quá giờ ngọ

Trong luật Phậtdạy: "Chư thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạquỷ ăn tối, chư Tăng học theo Phật, phải ăn đúng giờ ngọ".

Ăn đúng giờngọ, được năm điều lợi sau đây:

Ít mống tâm saiquấy
Ít buồn ngủ
Dễ được nhấttâm
Ít hạ phong
Thân được yên ổnvà ít sanh bệnh.

Trừ một vàitrường hợp như khi đau ốm, luật cũng châm chước cho được ăn cơm cháo sau giờngọ, nhưng khi ăn phải sanh lòng hổ thẹn.

Vì những lợiích thiết thực nói trên, nên người xuất gia cần phải thực hành. Còn Phật tử tạigia, khi tu Bát quan trai giới cũng phải giữ đúng giới này.

C. KẾTLUẬN

1. Lợi íchcủa Bát quan trai giới rất lớn lao

Như chúng ta đãthấy ở các đoạn trên, Bát quan trai giới là một pháp tu vô cùng lợi ích choPhật tử tại gia. Trong thời gian tu hành ấy, thân, khẩu, ý của người thọ giớiđược hoàn toàn thạnh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ đồng hồ, nhưng 24 giờ ấy còn quýbáu hơn cả một đời của người không tu hành. Tuy lượng rất ít, mà phẩm lại nhiềuvô cùng. Nó chỉ là giọt nước, nhưng là một giọt nước trong sạch hoàn toàn, chonên nó còn quý hơn cả một ao nước đục bùn nhơ, nó chỉ là một viên ngọc nhỏ xíu,nhưng đó là viên ngọc Ma ni, nên nó còn quý hơn trăm ngàn châu báu khác.

Chúng ta hãyphân tích một cách rõ ràng những lợi ích mà chúng ta đã thâu hoạch được trong24 giờ ấy mà xem.

Nhờ giới thứNhất, tâm ta không có ác ý giết hại sanh vật, miệng ta không nhai nuốt nhữngmáu huyết tanh hôi, thân ta không nặng nề vì thịt cá. Đối với chung quanh, takhông làm cho người và súc vật đau khỏ, mất thân mạng.

Nhờ giới thứHai, tâm ta không động, ý ta không tham lam, thân ta không mang nặng những vậtphi nghĩa. Đối với người chung quanh, ta không làm họ đau khổ vì mất của cải màhọ đã nâng niu, quý trọng.

Nhờ giới thứBa, tâm ta được thanh tịnh, thân ta khỏi ô uế. Đối với người bạn trăm năm, cùngnhững người chung quanh, ta giữ đúng lề, làm cho họ kính trọng.

Nhờ giới thứTư, tâm ta không tà vạy, lưỡi ta không dối trá, điêu ngoa. Đối với người chungquanh, ta giữ được chữ tín, làm mọi người khỏi lo sợ, nghi ngờ vì ta.

Nhờ giới thứNăm, tâm ta được minh mẫn, miệng ta không nồng nặc hơi men, thân ta không loạnđộng. Đối với người chung quanh, ta không làm cho họ phải lo sợ, khổ sở vì conma men này hành hạ.

Nhờ giới thứSáu, tâm ta không buông lung theo dục lạc ta không dung chứa những hình ảnh,mùi vị, âm thanh tà tạp, dâm ô...Đối với người chung quanh, ta không làm cho họphải tập nhiễm những cảm giác không trong sạch, không thanh thoát.

Nhờ giới thứBảy, tâm ta không mống lên những niệm danh lợi, xa hoa; thân ta không bị dụclạc lôi cuốn. Đối với người chung quanh, ta dễ gần gũi, thân cận, vì không bịcái cao sang, phù phiếm bên ngoài ngăn cách.

Nhờ giới thứTám, tâm ta được định tỉnh, sáng suốt, thân ta nhẹ nhàng, ít bệnh tật; đối vớicác loài chung quanh, như người nghèo đói, ngạ quỷ, súc sinh, ta không gây rasự thèm khát, vì sự lục lạo ăn uống về đêm.

Bao nhiêu sựlợi ích cho mình và cho người mà chúng ta đã thâu thập được trong khoảng 24 giờđồng hồ, thử hỏi có một pháp tu hành của người tại gia nào quý báu hơn thếnữa?

2. Bởi vậyPhật tử nên thực hành Bát quan trai giới

Phật tử tại giamặc dù suốt ngày suốt tháng bận bịu về sinh kế làm ăn, mỗi tháng cũng nên sắpxếp việc nhà, vào chùa thọ Bát quan trai giới một vài lần. Nếu hoàn cảnh thuận lợi,có thể thọ được nhiều lần lại càng tốt.

Nếu không đủđiều kiện đến chùa, thì phương tiện của nhà tu cũng được, nhưng lợi ích khôngbằng đến chùa.

Vậy xin khuyêncác Phật tử tại gia, nên cố gắng thực hành y như lời Phật dạy, tu theo hạnhgiải thoát, rồi khuyên nhiều người thực hành theo, để cùng nhau tiến bước lênđường giải thoát, an vui.

________________________________________

NGHI THỨC THỌ BÁT QUAN TRAI GIỚI

Theo phép thọBát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giớithanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rấtnhiều.

Ngoài trườnghợp trên, nếu không có thuận tiện để cầu thầy truyền cho, thì phương tiện tựmình đối trước tượng Phật , theo phép như sau đây mà tự thọ.

Một điều cốtyếu, trước khi thọ giới, giới tủ phải sắp đặt chuyện nhà có người thay thế,không còn lo nghĩ việc gì ở thế gian cả, để cho tâm trí yên tịnh, như thế thì 24giờ thọ giới mới được nhiều lợi ích. Muốn được lợi ích nhiều, giới tủ nên vàochùa thọ Bát quan trai giới tốt hơn.

Trước khi thọgiới, phải rửa tay,rửa mặt, súc miệng sạch sẽ, mặc áo tràng tề chỉnh, đến trướcbàn thờ Phật , thắp ba cây hương rồi quì xuống, đọc bài cúng hương:

BÀI CÚNGHƯƠNG

Nguyện thử diệuhương vân
Biến mãn thậpphương giới
Cúng dường nhứtthiết Phật
Tôn Pháp chư BồTát
Vô biên Thinh Vănchúng
Cập nhứt thiếtThánh Hiền
Duyên khởi quangminh đài
Xứng tánh tác Phậtsự
Phổ huân như chúngsanh
Giai phát Bồ đềtâm
Viễn ly chư vọngnghiệp
Viên thành Vôthượng đạo
(Xá 3 xá, tiếp đọcbài khẩn nguyện)

BÀI NGUYỆN

Tư thời Đệ tử(tên họ gì) pháp danh (pháp danh gì) kim nhựt qui đầu Tam Bảo, phát nguyện thọtrì Bát quan trai giới, nhứt nhựt nhứt dạ. Duy nguyện thập phương chư Phật ,chư Đại Bồ Tát, Hộ pháp thiện thần, từ bi gia hộ Đệ tử thân tâm thanh tịnh,Phật sự viên thành.

(Xá đứng dậycắm hương xướng lễ)

Nhứt tâmđảnh lễ,tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, TônPháp, Hiền Thánh Tăng, Thường trú Tam Bảo (1 lạy).

Nhứt tâmđảnh lễTa Bà Giáo chủ, Điều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật , Đương Lai Hạ Sanh Di LặcTôn Phật , Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp ChưTôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy).

Nhứt tâmđảnh lễLạc bang Giáo chủ, Đại từ, Đại Bi tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật , Đại bi QuánThế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bố Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh TịnhĐại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)

(Đứng dậy chắptay tụng bài Đại bi)

Nam mô Đại bihội thượng Phật Bồ Tát. (3 lần).

Thiên thủthiên nhãn vô ngại Đại bi tâm đà la ni.

Nam mô hắc rađác na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thước bà ra da, bồ đề tátđóa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da.

Án tát bàn raphạt duệ, số đát na đác tả. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiếtđế, thất Phật ra lăng đà bà.

Nam mô na racẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tất bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bàtát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, cara đế. di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê,rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà dađế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra mụcđế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm,Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị,tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì,địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ tabà ha. Tất đà dủ nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma rana ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê gia ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ,ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Nara cẩn trì bàn dà ra dạ ta bà ha. Ma bà lợi thắng kiết ra dạ ta bà ha.

Nam mô hắc rađát na, đa ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thướt bàn ra dạ ta bà ha.Án tát diện đô mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha.

Nam mô thậpphương thường trụ Tam Bảo (3 lần).

(Quì xuống chắptay đọc bài Sám hối )

BÀI SÁM HỐI

Đệ tử đã làmcác nghiệp ác,
Đều do vô thỉTham, Sân, Si,
Từ thân, miệng, ýmà sanh ra
Tất cả Đệ tử xinsám hối.

(Đọc 3 lần rồiđứng dậy)

Nam mô Cầu sámhối Bồ Tát Ma ha tát (3 lần, lạy 3 lạy)

(Lạy xong quìxuống chắp tay đọc bài phát nguyện thọ Bát quan trai giới)

BÀI PHÁTNGUYỆN THỌ GIỚI

MỘT LÀ GIỮGIỚI KHÔNG SÁT SANH
Đệ tử thề trọn mộtngày đêm nay, nguyện giữ giới không sát hại các loài sanh vật. Tự mình khôngsát hại, không bảo người sát hại, hoặc thấy người khác sát hại cũng không sanhtâm vui mừng. (1 xá)

HAI LÀNGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG TRỘM CƯỚP
Đệ tử thề trọn mộtngày đêm nay, nguyện giữ giới không trộm cướp của cải mọi người. Tự mình khôngtrộm cướp, không bảo người trộm cướp, hoặc thấy người khác trộm cướp, cũngkhông sanh tâm vui mừng. (1 xá)

BA LÀ NGUYỆNGIỮ GIỚI KHÔNG DÂM DỤC
Đệ tử thề trọn mộtngày đêm nay, nguyện giữ giới không phá phạm hạnh (không dâm dục). Tự mìnhkhông phá phạm hạnh, không bảo người phá phạm hạnh, hoặc thấy người khác pháphạm hạnh cũng không sanh tâm vui mừng.(1 xá)

BỐN LÀNGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG NÓI DỐI
Đệ tử thề trọn mộtngày đêm nay, nguyện giữ giới không nói dối. Tự mình không nói dối, không bảongười nói dối, hoặc thấy người khác nói dối, cũng không sanh tâm vui mừng. (1xá)

NĂM LÀNGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG UỐNG RƯỢU
Đệ tử thề trọn mộtngày đêm nay, nguyện giữ giới không uống rượu. Tự mình không uống rượu, khôngbảo người uống rượu, hoặc thấy người khác uống rượu, cũng không sanh tâm vuimừng. (1 xá)

SÁU LÀNGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG TRANG ĐIỂM VÀ CA HÁT
Đệ tử thề trọn mộtngày đêm nay, nguyện giữ giới không đeo bông, xoa hương, ca xướng, múa hát. Tựmình không trang điểm ca hát, không bảo người trang điểm ca hát, hoặc thấyngười khác trang điểm ca hát, cũng không sanh tâm vui mừng. (1 xá)

BẢY LÀNGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG NẰM NGỒI GIƯỜNG CAO TỐT
Đệ tử thề trọn mộtngày đêm nay, nguyện giữ giới không nằm ngồi giường cao tốt. Tự mình không nằmngồi giường cao tốt, không bảo người nằm ngồi giường cao tốt, hoặc thấy ngườikhác nằm ngồi giường cao tốt, cũng không sanh tâm vui mừng. (1 xá)

TÁM LÀNGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG ĂN PHI THỜI
Đệ tử thề trọn mộtngày đêm nay, nguyện giữ giới không ăn phi thời. Tự mình không ăn phi thời,không bảo người ăn phi thời, hoặc thấy người khác ăn phi thời, cũng không sanh tâmvui mừng. (1 xá)

(Đứng dậy xướngba lần)

Ma ha Bátnhã Ba la Mật đa Tâm kinh

Quán Tự Tại BồTát, hành thâm Bát nhã Ba la Mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độnhứt thiết khổ ách.

Xá Lợi Tử, Sắcbất dị không , không bất dị sắc, sắc tức thị không , không tức thị sắc; thọ,tưởng, hành, thức diệc phục như thị.

Xá Lợi Tử! Thịchư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bấtgiảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt,thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thứcgiới; vô Vô minh diệc, vô Vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận;vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đỏa yBát nhã Ba la mật đa cố Tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố,viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Bala mật đa cố đắc A Nậu Đa la Tam miệu tam Bồ đề.

Cố tri bát nhãBa la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vôđẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư:

Cố thuyết Bátnhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: "Yết đế yết đế, Ba la yết đế,Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha".

VÃNG SANHTHẦN CHÚ

Nam mô A di đabà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệc dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bàtỳ, a di rị đa tỳ can lan đế, a di rị đa tỳ can lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉđa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)

TIÊU TAIKIẾT TƯỜNG THẦN CHÚ

Nẳng mồ tam mãnđa mẫu đà nẩm. A bát ra đề, hạ đa xá ta nản nẩm, đác điệc tha. Án khê khê, khêhế, khê hê, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ranhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấntra, phiến đề ca, thất rị duệ, ta bà ha. (3 lần)

HỒI HƯỚNG

Thọ giới côngđức thù thắng hạnh,
Vô biên thẳngphước giai hồi hướng,
Phổ nguyện phápgiới chư chúng sanh,
Tốc vãng Vô lượngquang Phật sát.
Nguyện tiêu tamchướng trừ phiền não,
Nguyện đắc trí huệchơn minh liễu,
Phổ nguyện tộichướng tất tiêu trừ,
Thế thế thườnghành Bồ Tát đạo.
Nguyện sanh Tâyphương Tịnh độ trung,
Cửu phẩm liên hoavi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phậtngộ vô sanh,
Bất thối Bồ Tát vibạn lữ.
Nguyện dĩ thử côngđức,
Phổ cập ư nhứtthiết,
Ngã đẳng giữ chúngsanh,
Giai cọng thànhPhật đạo.

Tự quy y Phật ,đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.( 1 lạy)
Tự quy y Pháp ,đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy y Tăng ,đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy).

________________________________________

NGHI THỨC THỌ TRAI

Ngồi tề chỉnh ,tay trái co ngón giữa, ngón áp, còn ba ngón dựng thẳng, để chén cơm lên; taymặt kiết ấn cam lồ (ngón cái bên tay phải đề lên ngón áp) để dựa ngang phíatrong miệng chén rồi xướng:

Cúng dườngThanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
Viên mãn báo thânLô Xá Na Phật.
Thiên bá ức hóathân Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đương lai hạ sanhDi Lặc Tôn Phật.
Thập phương tamthế nhứt thiết chư Phật.
Đại Trí Văn Thù SưLợi Bồ Tát.
Đại Hạnh Phổ HiềnBồ Tát.
Đại bi quán thế âmbồ tát.
Chư Tôn Bồ Tát Maha tát.
Ma ha Bát nhã bala mật.

Tam đức, lụcvị, cúng Phật cập Tăng pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường, nhược phạn thựcthời, đương nguyện chúng sanh thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn.
(Cúng dường rồi đểbát xuống)

XUẤT SANH:

Lấy cái chénnhỏ múc chút nước, để trong lòng bàn tay trái, gắp bảy hột cơm để trong chén;tay mặt kiết ấn cam lồ, đặt trên chén cách một tấc, mặc niệm:

Pháp luật bấttư nghì,
Từ bi vô chướngngại,
Thất liệp biếnthập phương,
Phổ trí châu sagiới,
Án, độ lợi ích tóaha. (7 lần)

Tay bắt ấn viếtbóng hai chữ "Án lam" rồi khảy móng tay trên chén ba lần, đưa thị giảđem ra trước, để trên một cái bàn nhỏ, đọc kệ chú:

Đại bàng kim síđiểu,
Khoáng đã quỉ thầnchúng,
La sát quỉ tử mẫu,
Cam lồ tất sungmãn.
Án, mục lực lăngtóa ha. (7 lần)

BƯNG CHÉNCƠM

Hai tay, mỗi tayco hai ngón sau, còn sáu ngón bưng chén cơm ngang trán, đọc thầm:

Chấp trì ứngkhí đương nguyện chúng sanh, thành tựu pháp thí thọ thiên nhơn cúng.
Án, chỉ rị, chỉ rịphạ nhựt ra hồng phấn tra. (3 lần)

TAM ĐỀ
(Ăn ba miếng đầutiên)

Miếng thứ nhất(niệm thầm):
Nguyện đoạnnhứt thiết ác.
Miếng thứ hai(niệm thầm)
Nguyện tu nhứtthiết thiện
Miếng thứ ba (niệmthầm)
Thệ độ nhứt thếchúng sanh

Trong khi ănphải tưởng năm pháp tướng này:

Nhứt kế công đathiểu, lượng bỉ lai xứ.
Nhị thổn kỷ đứchạnh toàn khuyết ứng cúng.
Tam phòng tâm lyquá, tham đẳng vi tông.
Tứ chánh sự lươngdược, vị liệu hình khô.
Ngũ vị thành đạonghiệp, phương thọ thử thực.

TƯỚC DƯƠNGCHI
(Ăn cơm xong xỉarăng đọc chú này)

Tước đương chíthời, đương nguyện chúng sanh thân tâm đều tịnh, phệ chư phiền não.
Án, a mộ dà di malệ, nhĩ phạ ca ra, tăng du (dad) ? nể, bát đầu na, câu ma ra, nhĩ phạ ca ratăng thâu đà da, đà ra đà ra, tố di ma lệ, tá phạ ha (3 lần)

ẨM THỦY KỆCHÚ
(Uống nước đọc chúnầy)

Phật quán nhứtbát thủy, bát vạn tứ thiên trùng, nhược bất trì thử chú, như thực chúng sanhnhục.
Án phạ tất ba ra,ma ni tá ha. (3 lần)

TRAI KỆCHÚ
(Ăn cơm uống nướcxong tụng chú nầy)

Nam mô tát đanẩm, tam miệu tam bồ đà, câu chi nẩm, đát điệt tha. Án chiếc lệ, chủ lệ chuẩnđề ta bà ha. (7 lần)

Sở vị bố thígiả, tất hoạch kỳ lợi ích, nhược vị lạc bố thí, hậu tất đắc an lạc.
Phạn thực dĩ ngật,đương nguyện chúng sanh, sở tác giai biện cụ chư Phật Pháp.

PHỤC NGUYỆN
Thân phi nhứt lũ,thường tư chức nữ chi lao; nhựt thực tam xang, mỗi niệm nông phu chi khổ. Phổnguyện hiện tiền tứ chúng phước huệ song tu, một hậu đắc Di Đà thọ ký; âm siêu dươngthới, pháp giới chúng sanh tề thành Phật đạo.

NAM MÔ A DI ĐÀPHẬT

________________________________________

NGHI THỨC XẢ BÁT QUAN TRAI GIỚI

Sau 24 giờ đồnghồ (đúng như giờ thọ giới), người thọ giới thỉnh Giới sư lên chùa ngồi một bên.Nười thọ giới lạy giới sư một lạy rồi ngồi xuống cháp tay lạy rằng:

"Đại đứcmột lòng nghĩ, con pháp danh là...đã nguyện thọ Bát quan trai giới, giữ trọnmột ngày đêm. Bạch Đại đức ! Nay con xin xả giới".

(Bạch xong, lạymột lạy lui ra)

Nếu không cógiới sư, tự mình làm lễ xả giới thì nên theo nghi thức sau nầy.

Đến trước TamBảo, thắp hương ngùi xuống khẩn nguyện:

Pháp vương Vôthượng tôn
Tam giới vô luânthất,
Thiên nhơn chi Đạosư,
Tứ sanh chi Từphụ,
Ư nhứt niệm quy y,
Năng diệt tam kỳnghiệp,
Xưng dương nhượctán thán,
Ước kiếp mạc năngtận

Tư thời đệ tử(tên họ gì) Pháp danh (pháp danh gì) ư nhứt nhựt nhứt dạ, phát nguyện thọ trìBát Quan trai giới, công huân dĩ mạn, nguyện lực châu toàn,. Nguyện thậpphương chư Phật, chư đại Bồ tát, chư đại thiên thần, từ bi gia hộ, đệ tử sanhsanh đắc phùng Phật pháp, đắc trị thiện duyên, cập thiết nhất chúng sanh đồngthành Phật đạo.
(1xá, đứng dậy)

Nam Mô Hộ giớitạng bồ tát Ma ha tát (xướng ba lần, lạy ba lạy)

(Đứng dậy tụngBát nhã)

Ma ha Bátnhã Ba la mật đa tâm kinh

Quán tự tại Bồtát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độnhất thiết khổ ách.

Xá Lợi Tử ! Sắcbất dị không, không bất dị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.

Xá Lợi Tử ! Thịchư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm,thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân,ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới;vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận vô Khổ,Tập, Diệt, Đạo; vô Trí diệt vô Đắc, dĩ vô sỡ đắc cố. Bồ Đề tát đỏa y Bát nhã Bala mật da cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điênđảo mộng tưởng, cứu cách Niất Bàn. Tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố,đắc a nậu Đa La tam miệu tam bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa thị đại thầnchú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẵng đẵng chú, năng trừ thiếtnhất khổ, chơn thiệt bất hư; cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú.
Tức thuyết chúviết: "Yết đế yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát baha"

VÃNG SANH THẦNCHÚ

Nam mô A di đabà dạ, đa tha đà tha dạ, đa diệc dạ tha, a di rị đô bà tì, a di rị đa tất tambà tì, a di rị đa rì ca lan đế, a di rị da tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na,chỉ đa ca lệ ta bà ha (3 lần)

TÁN PHẬT

A Di Đà Phậtthân kim sắc
Tướng hảo minhquang vô đẳng luân,
Bạch hào uyểnchuyển ngũ tu Di,
Cám mục trừng danhtứ đại hải,
Quang trung hóaPhật vô số ức,
Hóa Bồ tát chúngdiệc vô biên,
Tứ thập bát nguyệnchúng sanh,
Cửu phẩm hàm linhđăng bỉ ngạn.

Nam Mô TâyPhương Cực Lạc Thế giới Đại Từ Đại Bi, tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật.

Nam Mô A Di ĐàPhật (108 lần)
Nam Mô Quan Thế ÂmBồ Tát (10 lần)
Nam Mô Đại thế chíBồ tát (10 lần)
Nam Mô Thanh tịnhĐại Hải Chúng Bồ Tát (10 lần)

(Quỳ xuống chấptay đọc bài Phổ Hiển hạnh nguyện)

Đệ tử chúngđẳng, tùy thuận tu tập,
Phổ Hiền Bồ Tát,thập chuẩn đại nguyện:
Nhứt giả lễ kínhchư Phật,
Nhị gỉa xưng tánNhư Lai,
Tam giả quản tucúng dường,
Tứ giả sám hốinghiệp chướng
Ngũ giả tùy hỷ côngđức,
Lục giả thỉnhchuyển pháp luân,
Thất giả thỉnhPhật trụ thế,
Bát giả thường tùyPhật học,
Cửu giả hằng thuậnchúng sanh,
Thập giả phổ giaihồi hướng.

THẤT PHẬTDIỆT TỘI CHÔN NGÔN

Ly bà ly bà đế,cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tùy lê nể đế, ma ha da đế, chơnlăng càng đế ta bà ha. (3 lần)

Nguyện dĩ thửcông đức
Trang nghiêm PhậtTịnh Độ,
Thượng báo tứtrọng ân,
Hạ tế tam đồ khổ,
Nhược hữu kiến văngiả,
Tất phát Bồ đềtâm,
Tận thử nhất báothân,
Vãng sanh An Lạcsát.

(Đứng dậy xướnglạy)

Đệ tử đại vịnhứt thiết sư trưởng ân, chí tâm đảnh lễ, Nam Mô tận hư không, biến pháp giới,quá, hiện vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trúTam Bảo. (1 lạy)

Đệ tử đại vịnhất thiết Phụ mẫu ân, chí tâm đảnh lễ, Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn SưThíchCa MâuNi Phật, Long Hoa Giáo chủ Đương Lai Hạ sangh Di Lạc Tôn Phật, Đại tríVăn thù Sư Lơị Bồ tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)

Đệ tử đại vịtam đồ thọ khổ; cập pháp giới nhứt thiết chúng sanh, chí tâm đảnh lễ , Nam môTây phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đại BiQuán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát. (1 lạy).(xá 3 xá, lui)

________________________________________

KỶ LUẬT TU BÁT QUAN TRAI GIỚI TRONG 24GIỜ

1. Không đượcra ngoài phạm vi đại giới (trong vườn chùa, hoặc vườn nhà mình)
2. Không nên tiếpkhách và nói chuyện lớn tiếng.
3. Bớt nói chuyện,không ăn trầu và hút thuốc.
4. Oai nghi cử chỉphải giữ gìn cẩn thận.
5. Phải giữ đúnggiờ tu tập.
6. Không nên nghĩđến việc nhà hoặc việc thế tục.
7. Phải nhứt tâmniệm Phật.

Những ngày thọBát Quan Trai giới, tùy theo hoàn cảnh của mỗi người, trong mỗi tháng thọ 1ngày cho đến sáu ngày: mồng 8, 14, 23, 29, 30 (tháng thiếu thì 28 và 29). Nếungười mắc làm việc thì thọ ngày chủ nhựt cũng được. Nếu Phật tử mỗi lần phátnguyện tu trong 24 giờ, giữ trai giới cho thanh tịnh thì công đức ấy về sau sẽđược quả Niết Bàn.

________________________________________

CHƯƠNG TRÌNH TU BÁT QUAN TRAI GIỚI
TRONG MỘTNGÀY MỘT ĐÊM (24 GIỜ)

BUỔI MAI : 6giờ sáng Thọ giới
BUỔI MAI : 7 giờĂn điểm tâm
BUỔI MAI : 8 giờSám hối
BUỔI MAI : 9 giờXem Kinh
BUỔI MAI : 10 giờNiệm Phật
BUỔI MAI : 12 giờThọ Trai
BUỔI MAI : 12 giờ30 Kinh hành niệm Phật

BUỔI CHIỀU : 1giờ 30 Chỉ tịnh (nghỉ)
BUỔI CHIỀU : 3 giờTụng Kinh
BUỔI CHIỀU : 4 giờXem Kinh
BUỔI CHIỀU : 5 giờNiệm Phật
BUỔI CHIỀU : 6 giờDùng nước (sữa hoặc nước cháo)

BUỔI TỐI : 7giờ Tịnh độ
BUỔI TỐI : 8 giờHọc
BUỔI TỐI : 10 giờ15 Quán sổ túc
BUỔI TỐI : 10 giờ40 Nghỉ
BUỔI TỐI : 4 giờkhuya Tịnh Niệm (Niệm Phật )
BUỔI TỐI : 4 giờ30 Công phu
BUỔI TỐI : 6 giờLàm lễ xả giới

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567