Tạng Luật
Vinaya Pitaka
Tiểu Phẩm
Cullavagga
Tỳ kheo Indachanda Nguyệt Thiêndịch
----oOo----
V. Chương các Tiểu Sự (tiếp theo)
[126] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn sau khi ngự tại xứ Bhaggā được như ý đã lên đường đi đến thành Sāvatthi. Tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Sāvatthi. Ở đó, trong thành Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên (Jetavana), tu viện của ông Cấp Cô Độc (Anāthapindika). Lúc bấy giờ, Visākhā mẹ của Migāra mang theo một cái chum, một vật chà chân (bằng đất nung), và một cái chỗi đi đến gặp đức Thế Tôn; sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Visākhā mẹ của Migāra đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn thọ nhận cái chum, vật chà chân (bằng đất nung), và cái chỗi của con; việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.
Đức Thế Tôn đã không thọ lãnh vật chà chân (bằng đất nung). Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Visākhā mẹ của Migāra bằng bài Pháp thoại. Rồi Visākhā mẹ của Migāra sau khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
[127] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) cái chum và cái chỗi. Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng vật chà chân (bằng đất nung). Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ba vật chà chân: cát, sỏi, và đá bọt biển.
[128] Rồi Visākhā mẹ của Migāra mang theo một cái quạt và một cái chỗi quét bụi đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Visākhā mẹ của Migāra đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, xin đức Thế Tôn thọ nhận cái quạt và cái chỗi quét bụi của con; việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.
Đức Thế Tôn đã thọ lãnh cái quạt và cái chỗi quét bụi. Sau đó, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Visākhā mẹ của Migāra bằng bài Pháp thoại. …(như trên)… , hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
[129] Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) cái quạt và cái chỗi quét bụi.
[130] Vào lúc bấy giờ, một cái quạt đuổi muỗi đã phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) cái quạt đuổi muỗi.
Một cái quạt đuôi bò rừng đã phát sanh đến. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng quạt đuôi bò rừng. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ba loại quạt: làm bằng tre, làm bằng một loại rễ cây có mùi thơm (usīramayam-), làm bằng lông đuôi chim công.
[131] Vào lúc bấy giờ, một cái ô dù được phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) ô dù.
[132] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư mang ô dù đi lại đó đây. Lúc bấy giờ, có một cận sự nam đi dạo công viên cùng với nhiều tín đồ của ngoại đạo loã thể. Khi ấy, các tín đồ của ngoại đạo loã thể đã thấy từ đàng xa các tỷ-kheo nhóm Lục Sư mang ô dù đang đi lại; thấy rồi đã nói với vị cận sự nam ấy điều này:
- Này quý vị, các bậc khả kính kia của quý vị mang ô dù đang đi đến kìa, giống như một nhóm quan đại thần vậy.
- Này quý vị, các vị ấy không phải là tỷ-kheo, họ là du sĩ ngoại đạo.
- Là tỷ-kheo, không phải là tỷ-kheo. Những người ấy đã đánh cá với nhau.
Sau đó, khi đi lại gần vị cận sự nam ấy biết được rõ ràng nên mới phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các đại đức lại mang ô dù đi lại đó đây?
Các tỷ-kheo đã nghe được vị cận sự nam ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Rồi các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, nghe nói …(như trên)… có đúng không vậy?
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên che ô dù. Vị nào che thì phạm tội tác ác (dukkata).
[133] Vào lúc bấy giờ, có một tỷ-kheo bị bệnh. Tỷ-kheo ấy không có che ô dù không được thoải mái. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép tỷ-kheo bệnh được che ô dù.
[134] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo (biết rằng): "Tỷ-kheo bệnh được đức Thế Tôn cho phép che ô dù, còn chúng ta không có bệnh," rồi ngần ngại khi che ô dù ở trong tu viện hoặc ở vùng phụ cận tu viện. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép tỷ-kheo không có bệnh được che ô dù ở trong tu viện hoặc ở vùng phụ cận tu viện.
[135] Vào lúc bấy giờ, có một vị tỷ-kheo buộc bình bát bằng một sợi dây rồi treo ở cây gậy và rời khỏi cổng của một ngôi làng nọ vào lúc hoàng hôn. Dân chúng (nói với nhau rằng): "Này các vị, gã trộm kia đang đi đến, gươm của gã lấp lánh đó" rồi đã theo dõi, giữ lại, đến khi nhận biết rõ ràng, đã thả cho đi. Sau đó, tỷ-kheo ấy khi đi đến tu viện đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo.
- Này sư đệ, có phải sư đệ mang theo gậy và dây?
- Bạch đại đức, đúng vậy.
Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỷ-kheo lại mang theo gậy và dây?
Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Đúng vậy, bạch Thế Tôn.
…(như trên)… Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên mang theo gậy và dây. Vị nào mang theo thì phạm tội tác ác (dukkata).
[136] Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại đó đây. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy đến tỷ-kheo bệnh.
[137] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Vị tỷ-kheo bệnh cần đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy.
Nên cầu xin thêm lần thứ nhì. Nên cầu xin thêm lần thứ ba.
[138] Hội chúng cần được thông báo bởi tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo tên (như vầy) bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại. Vị ấy cầu xin hội chúng sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo tên (như vầy) bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại. Vị ấy cầu xin hội chúng sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy. Hội chúng ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đại đức nào thỏa thuận với việc ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy đến tỷ-kheo tên (như vầy), xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Hội chúng đã ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy đến tỷ-kheo tên (như vầy). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[139] Vào lúc bấy giờ, có một tỷ-kheo bị bệnh không có sợi dây không thể mang bình bát. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) sợi dây đến tỷ-kheo bệnh.
[140] Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Vị tỷ-kheo bệnh cần đi đến gặp hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi bị bệnh không có sợi dây không thể mang bình bát. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự đồng ý về việc (sử dụng) sợi dây.
Nên cầu xin thêm lần thứ nhì. Nên cầu xin thêm lần thứ ba.
[141] Hội chúng cần được thông báo bởi tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo tên (như vầy) bị bệnh không có sợi dây không thể mang bình bát. Vị ấy cầu xin hội chúng sự đồng ý về việc (sử dụng) sợi dây. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) sợi dây đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo tên (như vầy) bị bệnh không có sợi dây không thể mang bình bát. Vị ấy cầu xin hội chúng sự đồng ý về việc (sử dụng) sợi dây. Hội chúng ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) sợi dây đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đại đức nào thỏa thuận với việc ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) sợi dây đến tỷ-kheo tên (như vầy), xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Hội chúng đã ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) sợi dây đến tỷ-kheo tên (như vầy). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[142] Vào lúc bấy giờ, có một tỷ-kheo bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại đó đây và không có sợi dây không thể mang bình bát. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy và dây đến tỷ-kheo bệnh.
Và này các tỷ-kheo, nên ban cho như vầy: Vị tỷ-kheo bệnh cần đi đến gặp hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỷ-kheo trưởng lão, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
- Bạch các ngài, tôi bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không có sợi dây không thể mang bình bát. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy và dây.
Nên cầu xin thêm lần thứ nhì. Nên cầu xin thêm lần thứ ba.
[143] Hội chúng cần được thông báo bởi tỷ-kheo có kinh nghiệm, đủ năng lực:
- Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo tên (như vầy) bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không có sợi dây không thể mang bình bát. Vị ấy cầu xin hội chúng sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy và dây. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy và dây đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỷ-kheo tên (như vầy) bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không có sợi dây không thể mang bình bát. Vị ấy cầu xin hội chúng sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy và dây. Hội chúng ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy và dây đến tỷ-kheo tên (như vầy). Đại đức nào thỏa thuận với việc ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy và dây đến tỷ-kheo tên (như vầy), xin im lặng; vị nào không thỏa thuận, có thể nói lên.
Hội chúng đã ban cho sự đồng ý về việc (sử dụng) gậy và dây đến tỷ-kheo tên (như vầy). Sự việc được hội chúng thỏa thuận nên im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
[144] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo có tật nhai lại thức ăn. Vị ấy nhai đi nhai lại (thức ăn) rồi nuốt xuống. Các tỷ-kheo phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vị tỷ-kheo này ăn vật thực lúc quá ngọ.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, vị tỷ-kheo này đã sanh vào giống trâu bò trước đây không lâu. Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc nhai lại đối với vị có tật nhai lại. Thêm nữa, này các tỷ-kheo, sau khi ợ lên ở cửa miệng (vật đã ăn vào) không nên nuốt xuống. Vị nào nuốt xuống thì nên được xử lý theo Pháp.
[145] Vào lúc bấy giờ, có một nhóm người dâng một bữa ăn đến hội chúng. Nhiều hột cơm đã bị rơi vãi trong phòng ăn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích-tử khi được dâng cơm lại không thọ lãnh một cách thận trọng, vì mỗi một hột cơm được tạo nên bởi trăm công sức?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này các tỷ-kheo, trong khi được dâng cúng ta cho phép tự thân nhặt lên và sử dụng vật (thức ăn) bị rơi xuống. Điều ấy là lý do gì? Này các tỷ-kheo, bởi vì vật (thức ăn) ấy được các thí chủ để lại.
[146] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo đi khất thực với các móng tay dài . Một người đàn bà thấy vậy đã nói với vị tỷ-kheo ấy điều này:
- Ngài ơi, đến đây và làm việc lứa đôi đi.
- Thôi đi, này bà chị, việc ấy không được đúng đắn.
- Ngài ơi, nếu ngài không làm, thì giờ đây tôi sẽ cào cấu khắp mình mẩy bằng các móng tay của tôi rồi làm ra vẻ giận dữ (la lên): "Tỷ-kheo này làm nhục tôi."
- Này bà chị, bà chị nên biết điều.
Rồi người đàn bà ấy đã cào cấu khắp mình mẩy bằng các móng tay của mình và làm ra vẻ giận dữ (la lên): "Tỷ-kheo này làm nhục tôi." Dân chúng chạy lại và bắt giữ vị tỷ-kheo ấy. Rồi dân chúng đã nhìn thấy da và máu nơi móng tay của người đàn bà ấy; thấy vậy, (biết được rằng): "Việc này do chính người đàn bà này gây ra, vị tỷ-kheo không phải là người làm;" và họ đã thả tỷ-kheo ấy. Sau đó, vị tỷ-kheo đã đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo.
- Này sư đệ, có phải sư đệ để móng tay dài không vậy?
- Bạch đại đức, đúng vậy.
Các tỷ-kheo ít ham muốn, …(như trên)… Các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị tỷ-kheo lại để móng tay dài?
Rồi các tỷ-kheo ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên để móng tay dài. Vị nào để dài thì phạm tội tác ác (dukkata).
[147] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo xé móng tay bằng móng tay, cắn móng tay bằng miệng, mài móng tay ở tường. Các ngón tay bị đau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép việc cắt móng tay.
Các vị cắt móng tay làm chảy máu. Các ngón tay bị đau. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép cắt móng tay đến sát phần thịt.
[148] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư bảo người trau chuốt hai mươi (ngón tay và chân). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên bảo (người khác) trau chuốt hai mươi (ngón tay và chân). Vị nào bảo (người khác) trau chuốt thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép lấy đất ra (từ các móng).
[149] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư để tóc dài. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo có khả năng cắt tóc cho nhau không?
- Thưa có khả năng, bạch Thế Tôn.
Rồi đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỷ-kheo lại …(như trên)… nói với các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) dao cạo, đá mài dao cạo, bao đựng dao cạo, miếng vải len, tất cả vật dụng liên quan đến dao cạo.
[150] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư tỉa râu, để râu dài ra, để chòm râu dưới cằm, để râu thành bốn góc, tạo dáng lông ngực, tạo hình lông bụng, làm đứng giống ngà voi, nhổ lông ở trên cơ thể. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên tỉa râu để râu dài ra, để chòm râu dưới cằm, để râu thành bốn góc, tạo dáng lông ngực, tạo hình lông bụng, làm đứng giống ngà voi, làm sạch lông ở trên cơ thể. Vị nào nhổ thì phạm tội tác ác (dukkata).
[151] Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo bị vết thương ở trên cơ thể. Thuốc không thể dính vào. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm sạch lông ở trên cơ thể vì lý do bệnh.
[152] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư cắt tóc bằng kéo. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên cắt tóc bằng kéo. Vị nào cắt thì phạm tội tác ác (dukkata).
[153] Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo bị vết thương ở trên đầu, không thể cạo đầu bằng dao cạo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép cắt tóc bằng kéo vì lý do bệnh.
[154] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo để lông mũi dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ thờ phụng quỷ thần vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên để lông mũi dài. Vị nào để thì phạm tội tác ác (dukkata).
[155] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo lấy lông mũi ra với mảnh sành hoặc bằng sáp ong. Hai lỗ mũi bị đau. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) cái nhíp (nhổ lông).
[156] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư nhổ tóc bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên nhổ tóc bạc. Vị nào nhổ thì phạm tội tác ác (dukkata).
[157]Vào lúc bấy giờ, có một tỷ-kheo có hai lỗ tai bị ráy tai che bít. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) đồ lấy ráy tai.
[158] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng các đồ lấy ráy tai loại đặc biệt: làm bằng bạc, làm bằng vàng. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng các đồ lấy ráy tai loại đặc biệt. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép loại làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng ống sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ sò.
[159] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đã tích trữ nhiều loại đồ vật làm bằng đồng thau và đồ vật làm bằng đồng đỏ. Dân chúng đi đến tu viện dạo quanh thấy vậy mới phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích tử lại tích trữ nhiều loại đồ vật làm bằng đồng thau và đồ vật làm bằng đồng đỏ giống như nhà buôn bán đồ đồng vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên tích trữ nhiều loại đồ vật làm bằng đồng thau và đồ vật làm bằng đồng đỏ. Vị nào tích trữ thì phạm tội tác ác (dukkata).
[160] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ngần ngại (sử dụng) thuốc cao, que bôi thuốc cao, đồ lấy ráy tai, vật để buộc lại. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) thuốc cao, que bôi thuốc cao, đồ lấy ráy tai, và vật để buộc lại.
[161] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư ngồi kê mông trên y hai lớp (saṅghāti). Các lớp vải của y hai lớp bị hư hỏng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên ngồi kê mông trên y hai lớp (saṅghāti). Vị nào ngồi thì phạm tội tác ác (dukkata).
[162] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo bị bệnh. Không có vải băng bó, vị ấy không được thoải mái. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) vải băng bó.
Khi ấy, các tỷ-kheo đã suy nghĩ rằng: "Làm thể nào để thực hiện vải băng bó đây?" Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) khung dệt, con thoi, sợi dệt, kim dệt, và các vật dụng của khung dệt.
[163] Vào lúc bấy giờ, có vị tỷ-kheo đi vào làng khất thực không buộc dây thắt lưng. Trên đường đi, y nội (antaravāsaka) của vị ấy bị tuột xuống. Dân chúng thấy được đã kêu ồ lên. Vị tỷ-kheo đã bị xấu hổ. Vị tỷ-kheo ấy đi đến tu viện và đã trình sự việc ấy đến các tỷ-kheo. Các vị tỷ-kheo đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đi vào làng không buộc dây thắt lưng. Vị nào đi vào thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép dây thắt lưng.
[164] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng các dây thắt lưng loại đặc biệt: loại do nhiều sợi bện lại, loại hình đầu rắn nước, loại có bện cái trống nhỏ, loại giống như dây xích. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)…Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng các dây thắt lưng loại đặc biệt: loại do nhiều sợi bện lại, loại hình đầu rắn nước, loại có bện cái trống nhỏ, loại giống như dây xích. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) hai loại dây thắt lưng: loại bằng vải, và loại hai đầu được thắt lại.
Các mép của dây thắt lưng bị sờn …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) loại có bện cái trống nhỏ, loại giống như dây xích.
Đầu chóp của dây thắt lưng bị sờn …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép khâu tròn (hai đầu chóp), thắt nút (hai đầu chóp).
Hai đầu chóp của dây thắt lưng đã khâu lại bị sờn …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) khóa thắt lưng.
[165] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng những loại khóa thắt lưng đặc biệt: làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng những loại khóa thắt lưng đặc biệt. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép những loại khóa thắt lưng làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng ống sậy, …(như trên)…, làm bằng vỏ sò, làm bằng sợi chỉ.
[166] Vào lúc bấy giờ, đại đức Ānanda đắp các y mỏng nhẹ đi vào làng khất thực. Các y của vị ấy đã bị một cơn gió xoáy tốc lên. Khi đi về tu viện đại đức Ānanda đã trình sự việc ấy đến các tỷ-kheo. Các tỷ-kheo đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) hột nút, cái nơ buộc.
[167] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư sử dụng những hột nút đặc biệt: làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên sử dụng những hột nút đặc biệt. Vị nào sử dụng thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng ống sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ sò, làm bằng sợi chỉ.
[168] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo cài hột nút, cài cái nơ buộc ở trên y ca-sa. Y ca-sa bị sờn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) hột nút hình dẹp, cái nơ buộc hình dẹp.
Các vị cài hột nút hình dẹp, cài cái nơ buộc hình dẹp ở góc chéo (của y ca-sa). Phần giữa bị mở ra. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép cài hột nút hình dẹp ở góc chéo (của y ca-sa), cài cái nơ buộc hình dẹp sau khi lùi vào bảy hoặc tám lóng tay.
[169] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư mặc vải lót bên trong của kẻ tại gia: loại quấn như vòi voi, loại vắt lên như đuôi cá, loại để hở bốn góc, loại vải có tua, loại vải thật dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên mặc vải lót bên trong của kẻ tại gia: loại quấn như vòi voi, loại vắt lên như đuôi cá, loại để hở bốn góc, loại vải có tua, loại vải thật dài. Vị nào mặc thì phạm tội tác ác (dukkata).
[170] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư khóac loại vải choàng bên ngoài của kẻ tại gia. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên khóac loại vải choàng bên ngoài của kẻ tại gia. Vị nào khóac thì phạm tội tác ác (dukkata).
[171] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư mặc váy (sam-velliyam-). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như phu mang vác của đức vua vậy?
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên mặc váy. Vị nào mặc thì phạm tội tác ác (dukkata).
[172]Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đeo túi quàng ở hai vai. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như phu mang vác của đức vua vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đeo túi quàng ở hai vai. Vị nào đeo thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép túi đeo một bên vai, túi hai người xách, vật đội trên đầu, vật mang ở vai, vật mang ở hông, vật được treo lên.
[173]Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo không nhai gỗ chà răng (dantakattham-). Miệng trở nên có mùi hôi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, đây là năm điều bất lợi trong việc không nhai gỗ chà răng: không có ích lợi cho mắt, miệng trở nên có mùi hôi, vị giác không tinh tế, mật và đờm che lấp thức ăn, vị ấy không hứng thú với thức ăn. Này các tỷ-kheo, đây là năm điều bất lợi trong việc không nhai gỗ chà răng.
Này các tỷ-kheo, đây là năm điều lợi ích trong việc nhai gỗ chà răng: có ích lợi cho mắt, miệng không có mùi hôi, vị giác được tinh tế, mật và đờm che không che lấp thức ăn, vị ấy hứng thú với thức ăn. Này các tỷ-kheo, đây là năm điều lợi ích trong việc nhai gỗ chà răng.
[174] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư nhai gỗ chà răng loại dài, các vị còn đánh các vị sa-di bằng chính những cây gỗ ấy. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên nhai gỗ chà răng loại dài. Vị nào nhai thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép gỗ chà răng dài tối đa tám ngón tay, không nên đánh sa-di bằng cây gỗ ấy. Vị nào đánh thì phạm tội tác ác (dukkata).
[175] Vào lúc bấy giờ, có tỷ-kheo trong khi nhai cây gỗ chà răng quá ngắn nên bị vướng ở cổ họng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, không nên nhai gỗ chà răng quá ngắn. Vị nào nhai thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép gỗ chà răng ngắn tối thiểu bốn ngón tay.
[176]Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư đốt đám lửa lớn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như thợ đốt lò vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên đốt đám lửa lớn. Vị nào đốt thì phạm tội tác ác (dukkata).
[177] Vào lúc bấy giờ, các tu viện có cỏ rậm rạp, khi đám lửa lớn phát cháy, các tu viện cũng bắt lửa. Các tỷ-kheo ngần ngại không tạo nên ngọn lửa nghịch chiều để bảo vệ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, khi đám lửa lớn phát cháy ta cho phép tạo nên ngọn lửa nghịch chiều để thực hiện sự bảo vệ.
[178] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư trèo lên cây, chuyền từ cây này sang cây khác. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như loài khỉ vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên trèo lên cây. Vị nào trèo lên thì phạm tội tác ác (dukkata).
[179] Vào lúc bấy giờ, trong xứ sở Kosala một tỷ-kheo nọ đang trên đường đi đến thành Sāvatthi đã bị voi rượt đuổi. Khi đó, tỷ-kheo ấy đã chạy đến gần một gốc cây nhưng ngần ngại đã không trèo lên cây. Con voi ấy đã đi sang hướng khác. Vị tỷ-kheo ấy khi đi đến thành Sāvatthi đã trình sự việc ấy đến các tỷ-kheo. Các vị tỷ-kheo đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép trèo lên cây với tầm cao của một con người khi có việc cần làm, và đến tầm cao cần thiết trong những lúc hiểm nguy.
[180]Vào lúc bấy giờ, hai tỷ-kheo tên Metthakokuttha là hai anh em xuất thân giòng dõi Bà La Môn và nói năng nhã nhặn với âm điệu ngọt ngào [Metthakokuttha được thấy ở Tam Tạng của Thái Lan, còn ở Tam Tạng được in bởi Pali Text Society là Yamelu và Tekula]. Họ đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, họ đã bạch với đức Thế Tôn điều này:
- Bạch ngài, hiện nay các tỷ-kheo có tên gọi khác nhau, giòng dõi khác nhau, giai cấp khác nhau, gia tộc khác nhau đã xuất gia. Các vị ấy đang làm hỏng lời dạy của đức Phật bằng tiếng địa phương của chính họ. Bạch ngài, ngài hãy để chúng con chuyển đổi lời dạy của đức Phật sang dạng có niêm luật (chandaso).
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: …(như trên)…
- Này hai kẻ rồ dại kia, vì sao hai ngươi lại nói như vầy: "Bạch ngài, ngài hãy để chúng con chuyển đổi lời dạy của đức Phật sang dạng có niêm luật"? Này hai kẻ rồ dại kia, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, …(như trên)…
Sau khi khiển trách, ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, không nên hoán chuyển lời dạy của chư Phật sang dạng có niêm luật. Vị nào hoán chuyển thì phạm tội tác ác (dukkata). Này các tỷ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân.
[181]Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư học tập việc giải đoán điềm lành dữ. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
Các tỷ-kheo đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai …(như trên)… Sau đó, các vị tỷ-kheo ấy đã trình sự kiện ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, kẻ chuyên chú trong việc giải đoán điềm lành dữ có thể đạt được sự tiến triển, sự tăng trưởng, sự lớn mạnh trong Pháp và Luật này không?
- Bạch ngài, điều ấy không thể nào được.
- Hoặc kẻ chuyên chú trong Pháp và Luật này có thể học tập việc giải đoán điềm lành dữ?
- Bạch ngài, điều ấy không thể nào được.
- Này các tỷ-kheo, không nên học tập việc giải đoán điềm lành dữ. Vị nào học tập thì phạm tội tác ác (dukkata).
[182] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư dạy việc giải đoán điềm lành dữ. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên dạy việc giải đoán điềm lành dữ. Vị nào dạy thì phạm tội tác ác (dukkata).
[183] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư học tập kiến thức nhảm nhí. …(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên học tập kiến thức nhảm nhí. Vị nào học tập thì phạm tội tác ác (dukkata).
[184] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư dạy kiến thức nhảm nhí. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- …(như trên)… giống như kẻ tại gia hưởng dục vậy?
…(như trên)… Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên dạy kiến thức nhảm nhí. Vị nào dạy thì phạm tội tác ác (dukkata).
[185] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khi đang giảng Pháp đến một hội chúng đông đảo tụ quanh đã hắt hơi. Các tỷ-kheo đã nói lớn tiếng rằng: "Bạch ngài, mong rằng đức Thế Tôn sẽ tồn tại, mong rằng đấng Thiện Thệ sẽ tồn tại." Âm thanh ấy đã vang lên giữa buổi giảng Pháp. Khi ấy, đức Thế Tôn đã nói với các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, khi một ai hắt hơi được nói rằng: "Mong rằng người sẽ tồn tại," do duyên ấy người ấy có thể tồn tại hay có thể chết?
- Bạch ngài, điều ấy không thể nào được.
- Này các tỷ-kheo, khi một ai hắt hơi không nên nói rằng: "Mong rằng người sẽ tồn tại." vị nào nói thì phạm tội tác ác (dukkata).
[186] Vào lúc bấy giờ, khi các tỷ-kheo hắt hơi, dân chúng nói rằng:
- Bạch ngài, mong rằng ngài sẽ tồn tại.
Các tỷ-kheo ngần ngại không đáp lại. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao các sa-môn Thích tử không đáp lại khi được nói rằng: "Bạch ngài, mong rằng ngài sẽ tồn tại."
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, người tại gia mong điều tốt lành. Này các tỷ-kheo, khi được nói rằng: "Bạch ngài, mong rằng ngài sẽ tồn tại," ta cho phép đáp lại: "Mong rằng người sẽ sống lâu."
[187] Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đang ngồi giảng Pháp đến một hội chúng đông đảo vây quanh. Có vị tỷ-kheo vừa mới ăn tỏi xong. Vị ấy đã ngồi ở một chỗ riêng biệt (nghĩ rằng): "Chớ để các tỷ-kheo bị khuấy rối." Đức Thế Tôn đã thấy vị tỷ-kheo ấy ngồi ở một chỗ riêng biệt. Thấy vậy, ngài đã hỏi các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ấy ngồi ở một chỗ riêng biệt vậy?
- Bạch ngài, vị ấy vừa mới ăn tỏi (nghĩ rằng): "Chớ để các tỷ-kheo bị khuấy rối" nên đã ngồi ở một chỗ riêng biệt.
- Này các tỷ-kheo, một người sau khi ăn một vật cần phải ăn có nên tránh né bài giảng Pháp như thế này không?
- Bạch ngài, điều ấy không thể nào được.
- Này các tỷ-kheo, không nên ăn tỏi. Vị nào ăn thì phạm tội tác ác (dukkata).
[188] Vào lúc bấy giờ, đại đức Sāriputta bị bệnh đau bụng gió. Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna đã đi đến gặp đại đức Sāriputta, đến rồi đã hỏi đại đức Sāriputta rằng:
- Này đại đức Sāriputta, trước đây khi đại đức bị bệnh đau bụng gió, vật gì làm cho dễ chịu?
- Tỏi làm tôi dễ chịu.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ăn tỏi vì lý do bệnh.
[189] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo đã tiểu tiện đó đây trong tu viện. Tu viện trở nên dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép tiểu tiện ở khu vực riêng biệt.
Tu viện trở nên có mùi hôi thối. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) lu nước tiểu.
Các vị ngồi xuống một cách khó khăn khi tiểu tiện. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) máng chuyền nước tiểu.
Máng chuyền nước tiểu ở nơi trống trải. Các tỷ-kheo hổ thẹn không dám tiểu tiện. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép bao quanh lại bằng ba loại tường chắn: tường chắn bằng gạch, tường chắn bằng đá, tường chắn bằng gỗ.
Lu nước tiểu không được đậy lại nên bốc mùi hôi. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.
[190]Vào lúc bấy giờ,các tỷ-kheo đã đại tiện đó đây trong tu viện. Tu viện trở nên dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép đại tiện ở một khu vực riêng biệt.
Tu viện trở nên có mùi hôi thối. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) hố phân.
Thành hố phân bị sụp xuống. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (xây dựng) ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Hố phân có nền thấp nên bị ngập nước. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép làm nền cao.
Nền móng bị đổ xuống. …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.
Các vị bị khó khăn khi trèo lên …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép ba loại cầu thang: cầu thang gạch, cầu thang đá, cầu thang gỗ.
Các vị bị té khi bước lên (cầu thang). …(như trên) …
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) lan can để vịn.
Ngồi ở phía trong, các vị bị té khi đại tiện. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép xây bằng phẳng, làm một cái lỗ ở giữa rồi đại tiện.
Các vị ngồi xuống một cách khó khăn khi đại tiện. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) máng chuyền phân.
Các vị đã tiểu tiện ra ở bên ngoài. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) rãnh dẫn nước tiểu.
Gỗ chùi không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) gỗ chùi.
Thùng chứa đồ chùi không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) thùng chứa đồ chùi.
Hố phân không được đậy lại nên bốc mùi hôi. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.
[191] Các vị trong khi đại tiện ở ngoài trời đã bị mệt mỏi vì lạnh và nóng. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) nhà tiêu.
Nhà tiêu không có cửa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt phụ, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, dây thừng để luồn qua.
Rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong nhà tiêu. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và làm (các công việc sau): tô vữa ở trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
[192] Vào lúc bấy giờ, một tỷ-kheo nọ già yếu đại tiện xong trong khi đứng dậy đã bị té. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế tôn.
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) tay vịn.
[193] Nhà tiêu không có hàng rào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép rào quanh bằng ba loại hàng rào: hàng rào bằng gạch, hàng rào bằng đá, hàng rào bằng gỗ.
[194] Không có cổng ra vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) cổng ra vào.
Cổng ra vào không có cửa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (thực hiện) cửa, trụ cửa, rãnh xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt phụ, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, dây thừng để luồn qua.
Rác cỏ và bụi bặm rơi vào trong cổng ra vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép che kín mái và làm (các công việc sau): tô vữa ở trong và ở ngoài, việc sơn màu trắng, màu đen, màu đỏ, trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.
Căn phòng bị ẩm ướt. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép phủ cát lên.
Các vị không thành công. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép trải đá phiến.
Nước còn đọng lại. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (làm) rãnh thoát nước.
Lu nước rửa không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) lu nước rửa.
Gáo múc nước để rửa không có. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) gáo múc nước để rửa.
Các vị ngồi xuống một cách khó khăn khi rửa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) máng nước để rửa.
Máng nước để rửa ở nơi trống trải. Các tỷ-kheo hổ thẹn không dám rửa. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (xây dựng) ba loại tường chắn để bao quanh lại: tường chắn bằng gạch, tường chắn bằng đá, tường chắn bằng gỗ.
Lu nước rửa không được đậy lại nên cỏ rác và bụi bặm đồng thời đồ dơ bẩn rơi vào. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.
[195] Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo nhóm Lục Sư thực hiện những hành động xấu xa như sau: họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đội đầu, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa che ngực. Họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình tràng hoa kết một mặt, tràng hoa kết hai mặt, thảm hoa, vòng hoa, vòng hoa đội đầu, vòng hoa đeo tai, vòng hoa che ngực. Họ cùng với những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình ăn chung trong một đĩa, uống chung trong một cốc, ngồi chung trên một chiếu, nằm chung trên một giường, nằm chung trên một nệm, nằm chung trên một khăn trải, nằm chung trên một nệm có phủ khăn. Họ ăn sái giờ, họ uống rượu, họ đeo dây chuyền, xức nước hoa và phấn thơm, họ nhảy múa, họ ca hát, họ đàn địch, họ vui đùa. Họ lại còn nhảy múa, ca hát, đàn địch, vui đùa cùng với người nữ đang múa; …(như trên)… họ lại còn nhảy múa, ca hát, đàn địch, vui đùa cùng với người nữ đang giởn hớt. Họ còn tiêu khiển cờ tám quân, cờ mười quân, họ ném lên trên không trung, họ chơi lối sắp vòng tròn, họ chơi lối rút quân cờ, họ chơi ném xúc xắc, họ chơi đánh gậy, họ chơi trò vẽ bằng tay, họ chơi trò sấp ngữa, họ chơi trò thổi kèn bằng lá cây, họ chơi trò uốn dẻo, họ chơi trò nhào lộn, họ chơi trò dùng lá cọ giả làm cối xay gió, họ chơi trò ước lượng khoảng cách, họ chơi trò đua xe, họ thi bắn cung, họ chơi trò đố chữ, họ chơi trò đoán ý, họ chơi trò nhái điệu bộ, họ tập cỡi voi, họ tập cỡi ngựa, họ tập điều khiển xe, họ tập bắn cung, họ tập đao kiếm, họ chạy phía trước voi, họ chạy phía trước ngựa, họ chạy đi chạy lại phía trước xe; họ làm bộ giận dữ, họ siết tay nhau, họ vật lộn, họ dùng tay đánh nhau. Họ trải y ca-sa hai lớp ở giữa nhà rồi mời cô vũ nữ rằng: "Này cô em, hãy nhảy ở đây này;" họ còn vỗ tay tán thưởng; họ thực hiện những hành động xấu xa bằng nhiều cách.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. …(như trên)…
- Này các tỷ-kheo, không nên thực hiện những hành động xấu xa các loại. Vị nào thực hiện thì cần được hành xử theo Pháp.
[196] Vào lúc bấy giờ, khi đại đức Uruvela Kassapa xuất gia nhiều đồ vật bằng kim loại, đồ vật bằng gỗ, đồ vật bằng gốm sứ đã phát sanh đến hội chúng. Khi ấy, các tỷ-kheo đã khởi ý rằng: "Đồ vật nào bằng kim loại đã được đức Thế Tôn cho phép, đồ vật nào không được cho phép? Đồ vật nào bằng gỗ đã được đức Thế Tôn cho phép, đồ vật nào không được cho phép? Đồ vật nào bằng gốm sứ được đức Thế Tôn cho phép, đồ vật nào không được cho phép?" Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nhân lý do ấy, nhân sự kiện ấy sau khi thuyết Pháp thoại rồi đã nói với các tỷ-kheo rằng:
- Này các tỷ-kheo, ta cho phép tất cả đồ vật bằng kim loại ngoại trừ vũ khí; tất cả đồ vật bằng gỗ ngoại trừ ghế trường kỷ, phản gỗ, bát bằng gỗ, giày dép bằng gỗ; tất cả đồ vật bằng gốm sứ ngoại trừ đồ chà chân và loại lu lớn.
Dứt Chương các Tiểu Sự là chương thứ năm.
Tóm lược chương này:
[197]
Ở thân cây, trụ đá,
và ở trên tường nhà,
tấm phản, cây kỳ cọ,
chuổi hột, (cọ) lẫn nhau,
cây chà lưng, bệnh ghẻ,
và có vị già cả,
dùng tay như lệ thường.
Hoa tai, hoa dạng chuỗi,
không mang dây chuyền cổ,
ở hông, vòng, vòng thân,
vòng ở tay, đeo nhẫn,
tóc dài, (dùng) lược chải,
vật đầu rắn, bàn tay,
(thoa) sáp ong, dầu nước,
giương soi, và chậu nước,
(thoa) dầu, và chà xát,
thoa phấn, họ tô điểm
và vẽ màu ở thân,
và tô màu ở mặt,
rồi ở cả hai nơi,
bệnh ở nơi con mắt,
và ở nơi đỉnh núi,
sự kéo dài, âm điệu,
(áo khóac) ở bên ngoài.
Với các miếng xoài nhỏ,
con rắn, vị cắt đi,
và khúc gỗ đàn hương,
các chân bát đặc biệt,
bằng vàng, bị dày cộm,
bị lỏng chỏng, nhiều loại,
bị hư hỏng, mùi hôi,
phơi nắng, họ làm vỡ,
ở mép ghế, giường đúc,
cỏ, miếng vải, bục kê,
và ở trong giỏ mây,
túi bát, dây đeo vai,
như vậy dây bằng vải,
trên tường, và trên giường,
trên ghế, trên bắp vế,
trên cái dù, mở cửa.
Bầu đựng nước, cái hũ,
cái sọ từ thây người,
vật chứa các đồ thừa,
vị ấy xé, có cán,
bằng vàng, lông, lạt tre,
và cái ống đựng kim,
bột phấn, nghệ, bột đá,
mật, sáp ong, hộp nhỏ.
Không vuông, chỗ không phẳng,
trên mặt đất, bị thụng,
và không đạt kích thước,
dấu mực, chỉ làm dấu,
chân chưa rửa, đẫm nước,
dép, và đồ bọc ngón,
thùng chứa đồ, bao đựng
dây mang vai, đồ buộc.
Ở ngoài trời, nền thấp,
nền móng, gặp khó khăn,
vị bị té, rác cỏ,
tô vữa trong và ngoài,
màu trắng, và màu đen,
và chuẩn bị màu đỏ,
việc làm vòng, dây treo,
cây đinh răng cá kiếm,
vải trang hoàng, sào máng,
và sợi dây treo y,
vị lãnh đạo cho phép.
Họ bỏ bê ra đi,
khung y rời thành miếng,
bị bung ra, trên tường,
đi dùng bát mang theo,
túi đựng, chỉ buộc lại,
và buộc lại đôi dép,
và cái túi đựng dép,
và dây vải mang vai.
Nước uống chưa đúng luật,
trên đường, đồ lược nước,
miếng vải, theo thói thường,
có hai vị tỷ-kheo,
vị Ẩn Sĩ đã đến
thành phố Vesālī,
đồ lọc có hai lớp,
bể lọc nước, nơi ấy
ngài cho phép đồ lọc.
Các con muỗi, vật ngon,
nhiều bệnh, Jīvaka,
đường kinh hành, nhà tắm,
không bằng phẳng, nền thấp,
(cho) ba loại nền móng,
họ lại gặp khó khăn,
cầu thang, có lan can,
tay vịn, ở ngoài trời,
rác cỏ, tô hồ vữa
bên trong và bên ngoài,
màu trắng và màu đen,
và chuẩn bị màu đỏ,
việc làm vòng, dây treo,
cây đinh răng cá kiếm,
vải trang hoàng, sào máng,
và sợi dây treo y,
làm mặt đất cao hơn,
nền móng, vá cầu thang,
lan can, cửa ra vào,
trụ cửa, có rãnh xoay,
cái chốt xoay ở trên,
tay nắm, và chốt gài,
đinh khóa chốt, chốt phụ,
lỗ khóa, lỗ để luồn,
và thêm sợi dây thừng.
Mô tròn, và ống khói,
ở giữa, và đất sét
đắp mặt, máng chứa đựng,
có mùi hôi, bị phỏng,
vại chứa nước, gáo múc,
không ra được mồ hôi,
và nền bị ẩm ướt,
lau sạch, làm rãnh thoát.
Ghế ngồi, vá làm cổng,
cát, đá phiến, rãnh thoát,
ở trần, trên nền nhà,
trời đang mưa, ở đó,
ba loại vải để choàng,
giếng nước, bị sụp đổ,
bị thấp, sợi dây rừng,
dây buộc thân, cần giọt,
trục quay, cái ròng rọc,
nhiều gàu múc bị bể,
làm bằng thiếc, gỗ, da,
nhà, cỏ, và nắp đậy,
máng chứa nước, hồ tắm,
hàng rào, bị ẩm ướt,
và bằng rãnh thoát nước,
bị lạnh, hồ trữ nước,
nước ôi và mái vòng.
Bốn tháng, và họ ngủ,
thảm len, không chú nguyện,
chạm trổ, giá đỡ bát,
họ ăn chung mộ (tô),
cùng nằm, chuyện Vaddha,
chuyện Bodhi, không bước.
Cái chum, vật chà chân,
cái chỗi, loại chà chân
cát, sỏi, và bọt biển,
cái quạt, chỗi quét bụi,
quạt muỗi, quạt đuôi bò.
Ô dù, và không có,
trong tu viện, ba sự
đồng tình về sợi dây,
tật nhai lại, cơm rơi,
móng tay dài, họ cắt,
các ngón tay bị đau,
chảy máu, và cắt sát
hai mươi, để tóc dài,
dao cạo, đá mài dao,
bao đựng, miếng vải len,
họ tỉa râu, để râu,
dưới cằm, thành bốn góc,
tạo dáng lông ngực, bụng,
giống ngà voi, nhổ lông,
bệnh hoạn, kéo, vết thương,
lông dài, và mảnh sành,
tóc bạc, bị bít kín,
loại đặc biệt, đồng thau,
với thuốc cao, ngồi chỏ
và miếng vải băng bó,
sợi dệt, kim, dây lưng,
do nhiều sợi bện lại,
có hình đầu rắn nước,
bện hình cái trống nhỏ,
như dây xích, bằng vải,
và hai đầu thắt lại,
chóp, khâu tròn, thắt nút,
đầu chóp vẫn bị sờn,
và đủ loại hột nút,
lại có loại hình dẹp,
từ mép được lùi vào.
Vải lót kẻ tại gia:
loại quấn như vòi voi,
vắt đuôi cá, bốn góc,
loại có tua, thật dài,
trùm vải choàng tục gia,
mặc váy, túi hai vai,
gỗ chà răng, gậy đánh,
ở cổ họng, bị vướng,
và thêm đám lửa lớn,
đốt ngọn lửa nghịch chiều,
(trèo) cây, bởi con voi,
ngôn ngữ của bản thân,
giải đoán điềm lành dữ,
họ học rồi dạy lại,
họ nói chuyện nhảm nhí.
Ngài hắt hơi, điều lành,
và ăn (tỏi), bệnh gió,
và dơ bẩn, mùi hôi,
khó khăn, máng nước tiểu,
họ thẹn, đậy, mùi hôi,
và họ tiêu đó đây,
mùi hôi, hố chứa phân,
chúng sụp xuống, nền cao,
và nền móng, cầu thang,
lan can, và bên trong,
khó khăn, và máng chuyền,
(tiểu) ra ngoài, khe rãnh,
và gỗ chùi, thùng chứa,
và không được đậy lại.
Nhà tiêu, cửa, trụ cửa,
rãnh xoay, và chốt xoay,
tay nắm, và chốt gài,
đinh khóa chốt, chốt phụ,
lỗ khóa, và lỗ xỏ,
sợi dây, vữa trong ngoài,
màu trắng và màu đen,
việc làm vòng, dây treo,
cây đinh răng cá kiếm,
năm sợi vải, sào máng,
và sợi dây treo y.
Già, yếu đuối, tay vịn,
và ở cổng ra vào,
cũng như thế, phủ cát,
trải lót bằng đá phiến,
đọng nước, rãnh thoát nước.
Lu nước, và gáo múc,
khổ, hổ thẹn, nắp đậy.
Họ làm việc xấu xa,
được phép đồ kim loại,
trừ ra các vũ khí.
Bậc Đại Sĩ cho phép
tất cả vật bằng gỗ,
trừ trường kỷ, phản gỗ,
bát gỗ, giày dép gỗ.
Đấng Như Lai loại ra
vật chà chân, lu lớn,
còn từ bi cho phép,
tất cả vật gốm sứ.
Việc chỉ dẫn điều nào,
nếu giống điều trước đây,
điều đã được tóm tắt
ở trong phần tóm lược,
điều ấy nên biết đến
từ điều đã được dạy.
Như vậy một trăm mười
sự việc thuộc Tạng Luật
ở trong phần Tiểu Sự
sự duy trì chánh Pháp,
trợ giúp các vị tốt,
vị nắm giữ Tạng Luật
được học tập khéo léo,
tâm định tĩnh tốt đẹp,
vị thông minh, giải rõ,
đa văn, đáng cúng dường.
Dứt Chương các Tiểu Sự.
----oOo----
Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)
Source:
Trình bày: Nhị Tường